Khi thực hiện hợp tác đầu tư nước ngoài, chúng ta cũng khó tránh khỏi những vấp váp, sai lầm đặc biệt khi mới bắt đầu. cái giá lơn ”mượn sức người” có thể rất lớn, nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại Việt Nam có thể hạn được nhưng mặt tiêu cực của FDI và đi đến thành công nếu chúng ta biệt xử lý vấn đề một cách đúng đắn.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến đất nước Việt Nam thành một nước CNH vào năm 2020, thì việc thu hút và sử dụng vốn FDI có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng ta coi đó là công việc vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài.
Những thành tựu không nhỏ và nhanh chóng đạt được trong thời gian 10 năm qua còn cho thấy rằng Việt Nam có nhiều điều kiện khách quan cơ bản thuận lợi để xử lý tốt nhiệm vụ đã nêu, đặc biệt là công tác thu hút nguồn vốn FDI.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập cũng được thông qua năm 1867. Để triển khai các nguyên tắc của các bộ luật trên, Malaysia lập ra 5 cơ quan cấp Chính phủ: Uỷ ban các vấn đề vốn, Cơ quan đăng ký cho các công ty, Cơ quan tiếp quản và phối hợp nhằm hướng dẫn đầu tư và bảo về quyền lợi của bên đối tác có vốn pháp định ít, Uỷ ban đầu tư nước ngoài và Sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur.
Chính phủ Malaysia rất coi trọng vai trò tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán trong việc bảo đảm thị trường vốn và thu hút FDI. Đầu năm 1993 này, Hội đồng bảo đảm giao dịch được thành lập cũng nhằm để phát triển hơn nữa thị trường vốn. Malaysia đã thành công trong tạo ra thế tổng hợp của hàng loạt chính sách và biện pháp để thu hút FDI bao gồm tài chính, thương mại, tổ chức đầu tư, xây dựng hạ tầng cơ sở, ổn định chính trị, giáo dục và đào tạo...
Một biện pháp hữu hiệu được Chính phủ thi hành là sửa đổi luật thuế thu nhập năm 1967. Từ 1986, các ngành công nghiệp, nông nghiệp và du lịch được hưởng nhiều khuyến khích về thuế như ngày nghỉ thuế, trợ cấp thuế đầu tư ... Nhà nước hủi bỏ 2% thuế phát triển và giảm 35% thuế hợp tác liên doanh cho các công ty, giảm gấp đôi mức thuế cho lĩnh vực đào tạo nhất là các chương trình nghiên cứu phát triển: giảm 50 đến 100% thuế quan cho việc nhập nguyên liệu và máy móc không có trên thị trường nội địa. Các ngành mới thành lập hoặc ít vốn không phải nộp thuế. Hàng loạt khuyến khích thuế khác được áp dụng cho việc nhận tín dụng, xây dựng, quản lý và bảo đảm nhiều khoản trợ cấp khác. Các nhà đầu tư tự do vay vốn nội địa và nước ngoài. Các nhà đầu tư tự do chuyển vốn và lợi nhuận về nước.
Việc thuê nhân công cũng được khuyến khích gắn với đào tạo. Các công ty có vốn FDI có quyền đào tạo người bản xứ và thuê họ 10 năm. Nhà nước cố gắng giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết và tạo ra không khí hợp tác lành mạnh, tin cậy lẫn nhau.
Để thu hút vốn đầu tư, Nhà nước chủ động xây dựng hạ tầng cơ sở. Hạ tầng cơ sở của Malaysia rất phát triển. Chính phủ khuyến khích sở hữu đối với người ngoại quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu 100% cổ phần nếu xuất khẩu được 80% sản phẩm của họ hoặc họ thực hiện các dự án mà người địa phương không có khả năng bỏ vốn. Nhà nước bảo đảm bằng luật pháp các hình thức sở hữu của người nước ngoài
1.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của Thái Lan
Suốt 30 năm qua Thái Lan đã đạt được những thành tựu nổi bật về kinh tế. Các mục tiêu đặt ra cho từng giai đoạn đều đạt và vượt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức 7,1% đến 10,5%. Thành tựu được đáng khích lệ và nhờ vào hàng loạt yếu tố trong cũng như ngoài nước trong đó có vai trò của FDI. Để triển khai và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan có nhiều biện pháp hữu hiệu. Các chính sách của chính phủ được thể chế hoá trong luật khuyến khích đầu tư năm 1962 và đã được bổ sung năm 1977 và năm 1991. Tuy nhiên mọi hoạt động đầu tư đều do Uỷ Ban đầu tư quản lý. Sau đây chúng ta xem xét một cách ngắn gọn nhất các khuyến khích FDI được ghi trong luật khuyến khích đầu tư.
a. Bảo đảm của chính phủ:
Không quốc hữu hoá, cạnh tranh của các xí nghiệp mới thành lập của Nhà nước; sự độc của nhà nước đối với việc bán các sản phẩm cùng loại nhưng do các nhà sản xuất được nhận khuyến khích chế tạo ra; cho phép kiểm tra xuất khẩu và miễn thuế nhập khẩu cho các cơ quan Chính phủ và các xí nghiệp Nhà nước.
b. Các biện pháp bảo hộ:
Cấm nhập các mặt hàng có tính cạnh tranh mạnh; cho phép chủ tịch Uỷ Ban đầu tư có quyền quyết định các hoạt động trợ giúp hoặc các biện pháp giảm thuế lợi tức cho các dự án khuyến khích.
c. Cho phép kiều dân Thái:
Tiến hành các hoạt động nghiên cứu khảo sát đầu tư và các nhà kỹ thuật ngoại quốc làm trong các dự án được khuyến khích; được sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động được khuyến khích; nhận hoặc chuyển ngoại tệ nước ngoài.
d. Khuyến khích thuế:
Thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%. Giảm thu nhập thuế của bên đối tác nước ngoài trong thời hạn từ 3 đến 8 năm; và nhiều hình thức khuyến khích khác.
e. Các khuyến khích thêm cho xí nghiệp xuất khẩu:
Giảm thuế cho việc nhập khẩu các mặt hàng tái xuất, giảm thuế xuất khẩu...
Để thực thi các khuyến khích trên và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan đã dùng biện pháp tài trính và tiền tệ là chủ yếu và nhất quán. Thái Lan đã tạo ra một môi trường tài chính hấp dẫn đặc biệt có khả năng hỗ trợ mạnh mẽ các luồng đầu tư từ bên ngoài. Chính phủ Thái Lan cho rằng tiền tệ và tài chính là một công cụ hữu hiệu nhất.
Thứ nhất, phải ổn định tiền tệ, chống lạm phát đảm bảo cho sự phát triển và cán cân thanh toán. Điều đó vừa bảo đảm cho sự phát triển kinh tế vừa làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn ra. Chính phủ Thái Lan đã sử dụng bốn chính sách cơ bản để bảo đảm giá trị đồng Bạt: đồng Bạt có giá trị chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Giá trị đồng Bạt được kiểm soát rất chặt chẽ, có tính ổn định cao. Thiếu hụt nhân sách hàng năm của Chính phủ được luật pháp quy định; cuối cùng là luôn có sự điều chỉnh việc vay mượn của bộ phật kinh tế công cộng trách nhiệm quá dựa vào ngoại tệ và giảm mức nợ của dịch vụ.
Chính phủ Thái Lan tạo ra dự trữ ngoại tệ ở mức 22 tỷ đô la Mỹ bảo đảm chi trả đủ cho nhu cầu đầu tư thương mại trong vòng 6 tháng trong trường hợp bất trắc xảy ra. Ngoài ra Thái Lan còn một hệ thống tiền tệ nội địa tự do nhưng có mối liên kết chặt chẽ. Hệ thống ngân hàng tiền tệ rất nhạy bén với tính chất thị trường của nền kinh tế.
Thứ hai, đó là chính sách thuế. Chính phủ Thái Lan đã có chính sách thuế rất ưu đãi và mềm dẻo và nhanh chóng tham gia vào khu mậu dịch của ASEAN và tổ chức thuế quan đã điều chỉnh tốt thuận lợi của người đầu tư.
Dĩ nhiên Chính phủ Thái Lan thực hiện nhiều biện pháp trên nhiều lĩnh vực khá nữa nhằm thu hút FDI nhưng biện pháp tiền tệ và tài chính là quan trọng và hữu hiệu nhất. Nếu xét tổng thể thì nền kinh tế Thái Lan có sáu yếu tố đã đạt được tạo ra có tác dụng thu hút FDI mạnh mẽ nhất.
- Tính ổn định của nền kinh tế có vai trò quan trọng nhất.
- Với dân số 56 triệu, giá công nhân còn thấp và đang di chuyển mạnh sang bộ phận kinh tế công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư.
- Chính sách đối nội, đối ngoại ổn định kể cả khi chính phủ cầm quyền thay đổi đặc biệt là chính sách tư nhân hoá và ủng hộ kinh tế tư nhân và gần đây là việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Campuchia và Lào.
- Sự thay đổi nhanh chóng về chính trị và kinh tế trên bán đảo Đông Dương tạo ra cho Thái Lan một cơ hội mới và một vị trí đặc biệt như cửa ngõ khu vực.
- Xã hội Thái Lan mang đặc tính bình yên chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng phật giáo đã có sức hút mạnh các nhà đầu tư Nhật, Đài Loan, HK.
- Các công ty hoạt động ở Thái Lan luôn được hỗ trợ ở các địa phương và các ngành công nghiệp khác.
2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước NICs châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singarpore và Hồng Kông
Vào những năm 1950 - 1960 nền kinh tế của các nước NICs châu á rất lạc hậu, phát triển mất cân đối. GNP bình quân đầu người thấp 90 - 150USD/người/năm. Cả 4 nước trên đều nghèo về tài nguyên, đất hẹp, người đông, khí hậu kém thuận lợi. Lợi thế hầu như chỉ dựa vào biển và nguồn lao động rẻ tiền. Đến nay cả 4 nước NICs châu á đều trở thành các nước công nghiệp mới (Newly Industrial Countries) với tốc độ phát triển kinh tế cao. Một trong những nguyên nhân thành công là do mỗi nước tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mình mà có chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế thích hợp.
2.1. Những tác động tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước NICs châu á đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, đồng thời thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp hoá (CNH) về hướng xuất khẩu được thực hiện trên cơ sở thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài làm chuyển biến cơ cấu công nghiệp từ sự tồn tại phổ biến các ngành công nghiệp kỹ thuật thấp, thu hút nhiều lao động sang sự phổ biến của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn. Thập kỷ 60, ở
NICs châu á chưa xuất hiện CNH dầu, đóng tàu, công nghiệp chế tạo, công nghệ sinh học, điện tử cao cấp, laze, chế tạo ô tô... mà chủ yếu là các ngành dệt da và các sản phẩm da, quần áo may sẵn, lắp ráp đồ điện, dày dép, tóc giả... Hiện nay các ngành sử dụng nhiều lao động một bộ phận được di chuyển sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn NICs, phần còn lại nước sở tại được nâng cấp bằng cách áp dụng công nghệ mới để chế tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn về cả chất lượng và chủng loại.. Một tỷ lệ lớn những công nghệ mới này vẫn trông cậy trực tiếp vào FDI. FDI vẫn được các nước chủ nhà khuyến khích đi vào các ngành kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn mà các công ty địa phương không thể đảm nhiệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Một thực tế hiển nhiên là các nước áp dụng CNH hướng về xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các quốc gia thi hành chiến lược CNH thay thế nhập khẩu. Điều dễ hiểu là chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua chế độ thuế quan và quota đã gây tâm lý ỷ lại và đẫn đến tình trạng kém hiệu quả kinh tế của các hãng công nghiệp, khả năng cạnh tranh của hãng thấp. Ngược lại, dưới tác động của chiến lược khuyến khích xuất khẩu, các hãng đều bình đẳng trong khuôn khổ chế độ pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, họ phải đương đầu với thách thức cạnh tranh trên quy mô thế giới, vì vậy vấn đề hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Một điều tra cho thấy chỉ số hiệu quả của hàng thay thế nhập khẩu trong công nghiệp điện tử Đài Loan là 60,4%, trong khi chỉ số phi hiệu quả hàng xuất khẩu (0,3292) thấp hơn chỉ số này ở các hãng thay thế nhấp khẩu (0,5042). Nhờ vậy mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế với đầu ra tiềm năng thu hẹp lại mà về nguyên tắc, số chênh lệch này càng nhỏ, hiệu quả càng cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Những kỹ năng quản lý và các bí quyết kỹ thuật vào các nước sở tại. Trên thực tế, đây là vấn đề gây nên tranh cãi rất nhiều trong các nước đang phát triên. Vì rằng, khi nhìn vào nền kinh tế Thái Lan, người ta nhận thấy các công nghệ của Thái gần như sao chép công nghệ phương Tây, mức độ chuyển giao công nghệ của các hãng nước ngoài cho người địa phương (Thái) rất thấp và tiến hành chậm chạp (dường như có ý trì hoãn).
Ngoài những tác động tích cực nổi bật trên, FDI còn tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước sở tại và cải thiện thu nhập. FDI ở Hồng Kông đem lại gần 100.000 việc làm năm 1993. Các hãng công nghiệp có vốn FDI ở Singapore thu hút tới gần 50% số lượng công nhân, Điều đáng kể hơn nữa là nếu số lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài, nếu tỏ ra có triển vọng, họ tiếp tục được đào tạo hoặc nâng cao nghiệp vụ nhờ vào những thu xếp của công ty khi cần thiết.
2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua
I. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 371,8 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế. Qua hơn 10 năm từ 1988 – 1998, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng lên 2488 dự án nâng tổng số vốn đầu tư lên 35520,4 triệu USD
Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp
giấy phép 1988 – 1998
Năm
Số dự án
Tổng số vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn pháp định
(triệu USD)
1988
37
371,8
288,4
1989
68
528,2
311,5
1990
108
839,0
407,5
1991
151
1322,3
663,6
1992
197
2165,0
1418,0
1993
269
2900,0
1468,5
1994
343
3765,6
1729,9
1995
370
6530,8
2986,6
1996
325
8497,3
2940,8
1997
345
4649,1
2334,4
1998
275
3897,0
1805,6
Tổng số
2488
35520,4
10260,3
Tính đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được 2937 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 29 dự án hết hạn (289 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư từ 01/01/2000 đến 31/05/2000
(Phân chia theo ngành)
Đ.vị tính: USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Công nghiệp
88
176.255.702
92.607.174
2
GDĐT-y tế-VHTT
6
56.450.000
20.610.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Dịch vụ
11
14.261.428
3.915.714
5
Tài chính, Nghân hàng
1
10.000.000
5.000.000
6
KS, VP, DL Lữ hành
1
7.800.000
7.681.632
7
GTVT và XD
1
4.994.500
2.520.000
8
Nông, Lâm nghiệp
3
2.550.583
1.857.976
9
Ngư nghiệp
1
500.000
600.000
Tổng số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
(Phân theo địa phương)
Đ.vị tính: USD
STT
Địa điểm thực hiện
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Bình Dương
39
106.115.621
48.127.093
2
TP.Hồ Chí Minh
30
84.448.000
44.031.000
3
Hà Nội
13
20.820.000
11.889.000
4
Đồng Nai
6
19.580.000
13.590.000
5
Khánh Hoà
2
8.550.000
8.131.632
6
Quang Nam
2
5.065.928
2.555.714
7
Bình Phước
1
5.000.000
3.300.000
8
Nghệ An
1
4.511.626
3.961.626
9
Cần Thơ
1
2.700.000
1.120.000
10
Vĩnh Phúc
2
2.650.000
2.150.000
11
Bà Rịa-Vũng Tàu
2
2.545.455
2.545.455
12
Hải Phòng
1
1.500.000
1.200.000
13
Long An
1
1.500.000
1.000.000
14
Tây Ninh
2
1.325.000
418.000
15
Yên Bái
1
1.240.583
847.976
16
Đà Nẵng
1
1.000.000
365.000
17
Lao Cai
1
1.000.000
1.000.000
18
Thái Bình
1
900.000
700.000
19
Thanh Hoá
1
600.000
450.000
20
Lâm Đồng
1
560.000
560.000
21
Hoà Bình
1
500.000
150.000
22
Quảng Ninh
1
500.000
500.000
23
Thái Nguyên
1
200.000
100.000
Tổng số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
2. Cơ cấu đầu tư
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
2.1. Cơ cấu ngành nghề:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1988-1999
Năm
Chỉ tiêu
1988-1990
1991-1995
1996-1999
CN và XD
41,47 %
52,74 %
49,66 %
N-L-N Nghiệp
21,64 %
4,13 %
2,14 %
Dịch vụ
36,899 %
43,13 %
48,2 %
Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng hướng mục tiêu ban đầu: tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và số vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án, số vốn là 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, trong đó nhỏ nhất là ngành thuỷ sản, chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô đầu tư trung bình là 12 triệu USD/dự án trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất, hơn 25 triệu USD/dự án tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng, các dự án xây dựng hạ tầng, KCN, KCX...
2.2. Cơ cấu lãnh thổ:
Phân tích trên cơ sở thống kê số liệu cho thấy cơ cấu FDI theo vùng lãnh thỗ không những không thực hiện được ý muốn chủ quan của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ và tộc độ phát triển giữa các vùng mà trái lại còn bị doãng xa hơn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi giao thông thuỷ bộ, hàng không, sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo lực hấp dẫn FDI mạnh nhất: chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN trong cả nước có xu hướng tăng, từ 48,5% (năm 96) lên 66,6% năm 99, đặc biệt giá trị xuất khẩu chiếm tới 84%. Tp.HCM hiện vẫn đứng đầu trong vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (gồm Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án (chiếm 20,5% vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực hiện 3,8 tỷ USD (chiếm 25%). Tỷ lệ giải ngân trong vùng là 35%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (42%), nếu không tính đến 2 dự án đầu tư xây dựng đô thị mới (2,3 tỷ USD) thì tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên, từ năm 96 đóng góp của khu vực FDI ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước có xu hướng giảm cả về tỷ trọng (từ 33% xuống 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ USD xuống 814,7 triệu USD).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi), tuy đứng thứ ba về thu hút FDI nhưng so với hai vùng trên lại quá thấp, chỉ chiếm 3% về số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu không tính đến dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD), thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút FDI còn ít hơn nhiều so với vùng ĐBSCL (113 dự án và 1 tỷ USD vốn đăng ký).
Miền núi, trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên là 2 trong số 6 vùng kinh tế có sức hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu là điều kiện cơ sở hạ tầng quá yếu kém, thiếu nguồn nhân lực có trình độ, khả năng đầu tư sinh lợi thấp, hoàn vốn chậm... nên các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều đắn đo, e ngại, trong khi chính sách khuyến khích của Nhà nước lại chưa rõ ràng và hấp dẫn.
3. Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
3.1. Hình thức đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi bốn lần năm 1990, 1992, 1996 và 2000. Các văn bản hướng dẫn thi hành có tới hơn 150 bản, quan trọng nhất là Nghị định 12/CP, 36/CP. Công văn số 1894/KTTH ngày 17/4/1997 và các văn bản khác quy định các tổ chứ, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
- Doanh nghiệp liên doanh;
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh;
ngoài ra còn có hình thức ký hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Nhìn chung hình thức đầu tư được chính phủ khuyến khích nhất là hình thức Liên doanh. chiếm 49,1% dự án và hơn 66,1% vốn đầu tư.. Tuy nhiên từ năm 1998 trở lại đây, trong hoạt động FDI hình thức liên doanh không còn được các nhà đầu tư ưa chuộng nữa, số các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng. Một số liên doanh đang hoạt động cũng muốn chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hiện nay hình thức BOT cũng đang có hiệu quả đầu tư cao, được nhận nhiều sự khuyến khích của chính phủ. Mặc dù chỉ chiếm 7% song hứa hẹn có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực có sở hạ tầng vốn là một trong những yếu tố còn lạc hậu dẫn đến suy giảm FDI trong những năm qua.
3.2. Đối tác đầu tư:
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Tính đến năm 1998, 10 nước đầu tư vào Việt Nam bao gồm: Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông, Malaysia, Pháp, Thái Lan và Mỹ.
Đầu tư vào Việt Nam theo chủ đầu tư
từ ngày 01/01/2000 đến 28/09/2000
Đơn vị tính: 1000 USD
STT
Nước
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Taiwan
76
145819
69507
2
British Virgin Island
11
85690
35988
3
Japan
15
55215
27834
4
Australia
2
53500
28600
5
Republic of Korea
22
46417
36516
6
France
5
26292
2543
7
United State
6
19270
13535
8
Singapore
9
13455
8663
9
China
10
10782
8322
10
Holand
2
10450
3135
11
Bermuda
1
10000
5000
12
Thailand
3
6600
5550
13
Britain
2
5160
2050
14
Belgium
1
4995
2520
15
Malaysia
7
3615
2063
16
Canada
2
2900
1620
17
Hong Kong
6
2374
1024
18
Israel
1
2200
2200
19
Bahamas
1
1000
500
20
Germany
2
700
380
21
Federation of Russia
1
509
0
22
Swizerland
1
150
50
23
Sweden
1
147
147
24
Denmark
1
100
100
Tổng số
188
507339
257846
II. Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1. Những thành tựu
Qua hơn mười năm thực hiện Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam (1989 – 1999), chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: số lượng vốn FDI ngày càng tăng, tốc độ trung bình hàng năm tăng 50%, quy mô các dự án FDI ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước lớn như Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Những kết quả trên đã phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và chính sách thu hút, sử dụng vốn FDI của Việt Nam là đúng và phù hợp. Sự gia tăng nhanh dòng vốn FDI có tác dụng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế trên tất cả các phương diện: ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà và thế cho những bước tiến lớn hơn của giai đoạn tiếp theo.
1.1. FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 10 năm qua cho thấy những đóng góp của khu vực FDI trong GDP và xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư nước ngoài đang tạo ra những tiền đề cho việc tăng nguồn thu ngân sách, làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
FDI đóng góp phần quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP của các năm từ 1991 – 1997 bình quân là 8,5%/năm, tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách từ 128 triệu USD năm 1994 lên 315 triệu USD năm 1997, chiếm gần 7% tổng thu ngân sách hàng năm (không kể nguồn thu từ dầu khí).
Trước năm 1990, xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ đạt dưới 2 tỷ USD, cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, thu hút vốn FDI thì hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng
Tình hình xuất, nhập khẩu của khu vực có vốn FDI tại Việt Nam
Năm
Xuất khẩu (triệu USD)
Nhập khẩu (triệu USD)
XK của khu vực FDI
Tổng xuất khẩu
Tỷ trọng (%)
NK của khu vực FDI
Tổng nhập khẩu
Tỷ trọng (%)
1994
352
4.054,3
8,7
600
5.825,8
10,3
1995
440
5.448,9
8,1
1.468
8.155,4
18,0
1996
786
7.255,0
10,8
2.042
11.144,0
18,3
1997
1.790
8.900,0
19,8
2.890
11.200,0
24,8
1998
1.982
9.360,7
21,1
2.668
10.642,2
25,1
1999
2.577
11.523,0
22,4
3.398
11.600,0
29,3
Trong 7 tháng đầu năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI đạt 3,586 triệu USD, tăng 55,6% so với cùng kỳ năm 1999, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
FDI thực sự là một nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển ở Việt Nam.
1.2. FDI góp phần đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ trong nước.
Trước đây, các máy móc thiết bị công nghệ của Việt Nam phần lớn đều do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ viện trợ. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã thì nguồn viện trợ này không còn nữa. Với sự xuất hiện của FDI, mặc dù quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa được như mong muốn song hầu hết những công nghệ này đều hiện đại hơn những gì mà Việt Nam hiện nay đang có. Nhờ đó đã tiết kiệm được chi phí triển khai, năng lực sản xuất trong nước được nâng cao, tạo ra các sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ nhanh chóng về công nghệ và thương mại, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiêu biẻu là sự phát triển đáng kích lệ của ngành bưu chính viễn thông, du lịch và khách sạn, ngành tài chính tiền tệ, ngân hàng. Nếu không có sự tham gia của bên nước ngoài, Việt Nam khó có thể thực hiện các dự án thăm dò và khai thác đàu khí, xây dựng trạm vệ tinh viễn thông. Thông qua chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI, Việt Nam tận dụng được các ưu thế về giáo dục và lao động, cho phép bố trí, sắp xếp lại lực lượng lao động, bố trí lại cơ cấu kinh tế. Các doanh nghiệp trong nước phải phấn đấu vươn lên cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ở trong nước và cả ở nước ngoài.
1.3. Nhờ hoạt động FDI, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới quan trọng :
Nền kinh tế của Việt Nam đã bị tàn phá nặng nề qua nhiều năm đất nước chiến tranh. Các ngành kinh tế mới khôi phục còn rất non trẻ so với trình độ chung của thế giới. Việt Nam chưa có điều kiện để phát triển các ngành như dầu khí, lắp ráp ôtô, xe máy, điện tử viễn thông, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sợi và kéo sợi.... nếu không có sự hỗ trợ từ nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại công ăn việc làm cho nhiều lao động Việt Nam, nâng cao trình độ và mang lại thu nhập cho người lao động.
Việt Nam với ưu thế có lực lượng lao động dồi dào, người lao động cần cù, chăm chỉ, giá lao động lại rẻ mạt nhưng lại bất lợi ở chỗ trình độ người lao động nhìn chung còn thấp. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khai thác những lợi thế và khắc phục những bất lợi về lao động cho Việt Nam. Năm 1990, các doanh nghiệp FDI đã thu hút được 5000 lao động trực tiếp làm việc trong các công đoạn sản xuất. Năm 1994 đã tạo ra 65.000 chỗ làm việc thường xuyên và hết năm 1999 đã thu hút được trên 270.000 lao động Việt Nam. Điều đáng mừng là đội ngũ lao động Việt Nam qua làm việc ở các liên doanh đã được rèn luyện ngày một trưởng thành, tiếp thu được những tiến bộ thế giới cả về trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý mà nếu chỉ công tác trong nước, không có sự cọ sát, tiếp cận với các đối tác nước ngoài thì không bao giờ có thể tiếp cận được. Thu nhập của người lao động cũng được cải thiện đáng kể, nâng cao đời sống.
2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều điểm hạn chế.
2.1. Việc thẩm định các dự án FDI còn nhiều hạn chế:
Thông qua việc thẩm định dự án đầu tư quốc tế, các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được mức độ phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung. Kết quả của việc thẩm định dự án FDI là căn cứ để các cấp có thẩm quyền ra quyết định cấp giấy phép đầu tư. Thực tế Việt Nam hiện nay hoạt động thẩm định này vẫn gặp rất nhiều vướng mắc. Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam thiếu vốn và công nghệ trang bị cho người thẩm định, bản thân người thẩm định lại chưa được qua đào tạo. Có trường hợp người thẩm định móc ngoặc với người cung cấp để nâng cao giá trị thiết bị, công nghệ làm lợi bất hợp pháp cho phía nước ngoài gây thua thiệt cho phía Việt Nam. Hậu quả của những sai sót trong quá trình thẩm định này là các công nghệ, thiết bị được nhập khẩu vào Việt Nam không được như mong muốn. Nhiều trường hợp là những công nghệ đã cũ, lạc hậu nên sản phẩm sản xuất ra bị giảm khả năng cạnh tranh.
2.2. Quá trình triển khai các dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua diễn ra tương đối chậm chạp.
Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp. Thủ tục đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Đối với Việt Nam, thủ tục đầu tư đã và đang là vấn đề trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư. Theo các nhà đầu tư Đài Loan đánh giá, thủ tục đầu tư Việt Nam “quá rườm rà, gây lãng phí thời gian” mà đối với bất kỳ nhà đầu tư nào bao giờ “thời gian cũng là vàng bạc”. Còn trong con mắt các nhà đầu tư Nhật, dù thủ tục hành chính của Việt Nam đã được cải tiến trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa được đánh giá cao. Họ cho rằng nhiều quy định chưa hợp lý khiến công việc kinh doanh của họ gặp khó khăn.
Sự chậm trễ trong việc triển khai các dự án còn do nguyên nhân các bên liên doanh không thực hiện đúng tiến độ góp vốn. Điều này có thể do một trong các bên liên doanh không đủ năng lực tài chính như đã khai báo, các công ty nước ngoài và Việt Nam khi đã trên bờ vực phá sản tìm kiếm liên doanh như là một cứu cánh vì vậy sự đổ vữ của liên doanh là điều dễ lý giải. Thậm chí có trường hợp đối tác bị phá sản trước khi dự án được cấp giấy phép đầu tư.
Một nguyên nhân nữa là do hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam tuy đã được cải thiện nhưng còn yếu kém gây khó khăn cho việc triển khai các dự án FDI. Sự quá tải và lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc cung cấp điện, nước là những đặc điểm nổi bật của cơ sở hạ tầng Việt Nam cụ thể:
Giao thông vận tải: Hệ thống này cả về đường sắt, đường không, đường bộ đều lạc hậu, không đồng bộ. So với yêu cầu của nền kinh tế thì sự phát triển của giao thông vận tải còn chậm chạp, và là trở nhại lớn đối với khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhất là các vùng sâu, xa.
Dịch vụ thông tin liên lạc: Việt Nam tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong những năm gần đây. Tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh tế hiện thời nhất thu hút vốn FDI. Hơn nữa phí bưu chính viễn thông hiện nay còn đang ở mức quá cao so với khu vực và trên thế giới, đồng thời khu vực FDI hiện còn phải chịu mức giá cao hơn khu vực trong nước. Điều này gây bất bình đối với các nhà đầu tư và làm cho chi phí hoạt động tăng cao gây khó khăn rất nhiều cho các dự án FDI.
Hệ thống thoát nước và hệ thống cung cấp điện: Đã được xây dựng từ lâu tuy ngành chủ quan đã cố gắng cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hoạt động FDI.
2.3. Về vấn đề thu hút lao động và đào tạo tay nghề :
Các nhà đầu tư thường gặp khó khăn trong việc tìm được lao động đúng yêu cầu mong muốn. Lý do vì Việt Nam thiếu các lao động lành nghề. Các kỹ sư giỏi có thể đảm đương công việc một cách hiệu quả còn thiếu. Kỹ sư mới ra trường lại nặng về lý thuyết, không theo kịp với công nghệ tiên tiến. Hơn thế, lao động sau khi được cử đi đào tạo tay nghề hoặc là quay trở lại tiếp tục làm việc ở công ty hoặc bị công ty khác mua mất hoặc ở lại nước học nghề kiếm việc khác. Bên cạnh đó, quyền lợi của người lao động nhiều khi không được bảo vệ vì sự thiếu kinh nghiệm của các cán bộ Việt Nam trong khi đối tác lại là rất am hiểu và từng trải gây thua thiệt cho phía Việt Nam. Ngoài ra, sự phối hợp giữa Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư với các bộ ngành liên quan và các tỉnh chưa chặt chẽ, chưa hợp lý nên chưa giải quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của các địa phương và lợi ích chung của đất nước.
2.4. Thiếu sự quản lý về môi trường:
Những công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị không đồng bộ được chuyển giao qua hoạt động FDI là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Vấn đề xử lý các chất thải chưa được quan tâm đúng mức đã và đang huỷ hoại môi trường sinh tái và ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động.
Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút FDI tại Việt Nam
I. Những phương hướng và triển vọng thu hút FDI trong thời gian tới
1. Bối cảnh thu hút FDI
Đầu tư FDI chịu ảnh hưởng trực tiếp của diễn biến kinh tế-xã hội của các nước trong khu vực và trên thế gới. Trong năm 2000 tình hình kinh tế châu á đã phục hồi và triển vọng kinh tế khu vực là sáng sủa. Theo báo cáo về đầu tư thế giới năm 2000 vừa được Hội nghị Liên hiệp quốc về mậu dịch phát triển (UNCTAD) công bố, dòng FDI đổ vào các quốc gia Châu á đang phát triển đã tăng từ mức 97 tỷ USD năm 1998 lên 106 tỷ USD năm 1999.
Các chính sách, biện pháp của Chính phủ Việt Nam ban hành năm 1998 và 1999 nhằm cải thiện môi trường đầu tư sẽ từng bước có những tác động tích cực tháo gỡ khó khăn của các nhà đầu tư. Đặc biệt chủ trương đa dạng hoá hình thức đầu tư, cũng như mở rộng các lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài có khả năng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên năm nay Việt Nam cũng đứng trước những thách thức lớn là phải khắc phục điểm yếu về môi trường đầu tư như thủ tục hành chính phức tạp, các loại chí phí cao hơn so với dự kiến cũng sẽ vẫn làm cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại.
2. Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2001 – 2005
Thứ nhất, để thu hút ĐTNN có hiệu quả thật sự, bảo đảm quản lý thuận lợi, khai thác cơ sở hạ tầng hiện có, trước mắt vẫn cần tập trung thu hút đầu tư vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Có thể phải chấp nhận phương án "phát triển mất cân đối" trong thời gian đầu tư để tạo sự cân đối sau nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời gian ngắn hạn. Ba vùng kinh tế trọng điểm làm "đầu tàu" cho cả nền kinh tế, nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác thông qua các thị trường hàng hoá, lao động, nguyên liệu...từ đó thúc đẩy và "kéo" các vùng này cùng phát triển.
Thứ hai, khuyến khích mạnh mẽ đầu tư vào lĩnh vực chế biến khoáng sản, nông-lâm sản, gắn với vùng nguyên liệu, trồng rừng và trồng cây công nghiệp lâu năm, nhằm khai thác tiềm năng, khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ.
Thứ ba, thu hút hơn nữa đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có và coi khu công nghiệp là hạt nhân trong các chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai, với kết cấu hạ tầng có chất lượng cao, gắn với các khu dân cư, khu thương mại và các loại hình dịch vụ khác.
II. Một số kiến nghị đối với Nhà Nước và các cơ quan liên quan
1. Đổi mới bộ máy quản lý, cải cách thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính là vấn đề được các nhà đầu tư phàn nàn nhiều nhất khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam hiện nay. Hệ thống quản lý của Việt Nam còn nhiều chồng chéo, có quá nhiều khâu, nhiều thủ tục trong quá trình cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư. Đổi mới bộ máy quản lý, cải cách thủ tục hành chính được coi là một giải pháp mở đường cho hoạt động FDI. Chỉ có tinh giảm bộ máy hành chính, phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn mới giảm bớt được ách tắc, nâng cao được hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước nói chung và đối với hoạt động FDI nói riêng.
Cụ thể Việt Nam cần đơn giản hoá quá trình xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư theo định hướng tiến đến quy trình “một cửa”, “một đầu mối” và rút ngắn thời hạn xét duyệt. Trước kia, một dự án phải trải qua 12 đến 16 cửa xet duyệt. Thực trạng như vậy gây rất nhiều phiền phức cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lần đầu tiên tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Đến nay tuy chính phủ đã uỷ quyền cho các địa phương xét duyệt và cấp giấy phép cho các dự án FDI một cách thông thoáng hơn nhưng vẫn cần quy định cụ thể các mức vốn với từng loại hinhg dự án.
Cần rà soát lại các quy định rườm rà bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các kẽ hở cho tiêu cực đặc biệt là trong ngành xây dựng, xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, cư trú và bảo vệ môi trường. Các cấp hành chính khi ra văn bản hướng dẫn cần thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Cải thiện cơ sở hạ tầng
Việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng là công việc không dễ thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Vì vậy, một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của mình, mặt khác cung cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nước thông qua nguồn vốn ODA. Cần tập trung nỗ lực để xây dựng các dự án khả thi có hiệu quả kinh tế để có thể rải ngân vốn ODA đạt yêu cầu đề ra. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung dứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế.
3. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư
Nhìn chung, cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều đánh giá cao chính sách cũng như hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Đặc biệt vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, khoá X Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam cũng đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với một số nội dung chính sau đây:
Một là, luật sửa đổi một số quy định hiện hành để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghệp có vốn FDI theo hướng: cho phép doanh nghiệp có vốn FDI được mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại và bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng; cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và được mở tài khoản ở nước ngoài; xác định rõ hơn trách nhiệm trong đền bù, giải phóng mặt bằng để triển khai nhanh dự án; áp dụng biện pháp bảo lãnh, bảo đảm đầu tư đối với các dơ án quan trọng và cho phép áp dụng luật nước ngoài phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hai là, luật đã mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI để xích gần hơn với quy định của luật Doanh nghiệp theo hướng: thu hẹp nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh; cho phép nhà đầu tư chủ động lựa chọn hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp, chủ động lập các quỹ doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn; quy định rõ cơ chế liên quan đến giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp.
Ba là, để nâng cao hiệu lực pháp lý của các chính sách đã ban hành, Luật đã bổ sung quy định về miễn giảm thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất; giảm thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; cho phép các dự án dầu tư nước ngoài được chuyển lỗ trong 5 năm; áp dụng các biện pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi luật pháp Việt Nam thay đổi gây thiệt hại lợi ích của họ.
Bốn là, Luật bổ sung các quy định cải tiến thủ tục đầu tư, nâng hiệu lực quản lý nhà nước đối với Đầu Tư Nước Ngoài theo hướng áp dụng từ bước chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư và giảm thời gian xét duyệt dự án; quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra và quyền khiếu nại của doanh nghiệp; áp dụng chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp có vốn FDI. Việc bổ sung và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút vốn FDI; xích gần hơn các Luật trong nước như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo lợi ích phía Việt Nam vừa đảo bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Một lợi thế được các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chú ý tới là nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ nhưng nhìn chung trình độ lao động của Việt Nam còn ở mức thấp. Do vậy chính phủ cần có các kế hoạch, chương trình cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, góp phần nâng cao lợi thế của Việt Nam, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể:
- Rà soát, sàng lọc nâng cao chất lượng cán bộ trong các liên doanh đảm bảo lợi ích của Việt Nam, hiệu quả của dự án. Kiên quyết thay thế những trường hợp không đủ năng lực và phẩm chất. Chấm dứt tình trạng hễ có đất góp thì mặc nhiên được cử người của mình vào Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc, không cần chuyên môn, hoặc cử người để “giải quyết chế độ”.
- Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ về luật pháp chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với cán bộ quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp trong khu vực FDI. Tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ được học hỏi thường xuyên các kỹ thuật công nghệ tiên tiến nhất của thế giới từ đó trên cơ sở tình hình thực tế Việt Nam mà có các áp dụng phù hợp. Thành lập các trung tâm dạy nghề đào tạo công nhân theo các chuyên ngành. Học phải đi đôi với hành trên các thiết bị máy móc tiên tiến, cập nhật thường xuyên với các kiến thức mới.
- Xây dựng cơ chế quản lý, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm việc trong các liên doanh FDI. Đẩy mạnh việc thành lập tổ chức công đoàn ở các xí nghiệp này đồng thời củng cố hoạt động để cho công đoàn phát huy được đúng vai trò chức năng của nó.
5. Một số kiến nghị khác
Chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có như: Công bố công khai quy hoạch phát triển các sản phẩm công nghiệp cần hạn chế công suất hoặc ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư; Thực hiện cơ chế đăng ký tăng vốn nếu chủ đầu tư hoàn thành việc thực hiện vốn đầu tư ban đầu đã cam kết; Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn FDI xuất khẩu bằng biện pháp kinh tế và ưu đãi tài chính (giảm thuế, thưởng xuất khẩu, sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu...) nhằm thay thế các biện pháp hành chính hiện nay. Trước mắt, cần điều chỉnh danh mục sản phẩm phải xuất khẩu ít nhất 80% theo hướng chỉ áp dụng với một số ít sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu và cần thiết phải bảo hộ. Đồng thời, xử lý linh hoạt tỷ lệ xuất khẩu như không bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện đúng tỷ lệ quy định ngay từ năm đầu, mà có thể cho phép sâu 3-5 năm.
Xử lý linh hoạt hơn nữa các quy định về hình thức đầu tư theo hướng: khuyến khích hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận thấp. Mở rộng việc cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với một số lĩnh vực đòi hỏi phải liên doanh (quy định tại Nghị định 10/1998/CP) như kinh doanh xây dựng, hạ tầng khu công nghiệp, sản xuất xi măng, xây dựng khu thể thao, khu vui chơi giải trí, trồng rừng hoặc trồng cây công nghiệp lâu năm, các dự án dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật... Cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành 100% vốn nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, các đối tác liên doanh mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ, hoặc trong trường hợp liên doanh hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn để đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Song việc chuyển đổi phải bảo đảm điều kiện giữ được việc làm cho người lao động, bên Việt Nam bảo toàn được vốn hoặc chịu rủi ro ở mức thấp nhất.
IV. một số biện pháp từ phía các doanh nghiệp
Nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả của việc sở dụng vốn FDi, tháo gỡ những khó khăn, bế tắc trong các doanh nghiệp có vốn FDI thì bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp này cũng cần có những biện pháp để tự tháo gỡ khó khăn cho mình. Xin kiến nghị ở đây một số biện pháp như sau:
1. Cải tiến và tiếp nhận công nghệ hiện đại để tăng khả năng cạnh tranh
Một xã hội càng văn minh, thì vai trò của công nghệ càng trở nên quan trọng, đòi hỏi con người phải không ngừng hiện đại chúng để phục vụ ngày càng tốt hơn ngày càng cao của mình, mà làm được việc đó là một điều không dễ. Với một nước đi sau như Việt Nam, vấn đề đặt lên hàng đầu là để có được công nghệ phù hợp, Việt Nam phải tiếp nhận công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ đối với nước ngoài; đồng thời phải chuyển đổi, cải tiến công nghệ đó cho phù hợp riêng có của Viẹt Nam.
Mua công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ là rất khó khăn và rất phức tạp. Nhưng không phải vì thế mà doanh nghiệp không đổi mới mà cứ sử dụng cộng nghệ đã lạc hậu của mình. Nếu vậy doanh nghiệp sẽ dần đi đến bờ vực của sự phá sản do không đáp ứng được nhưng đòi hỏi khách quan của thị trường. Để khắc phục những nhượng điểm trên doanh nghiệp buộc phải sử dụng các biện pháp sau:
- Nghiên cứu kỹ nội dung kỹ thuật và thị trường và sản phẩm mà công nghệ có sản xuất ra.
- Chủ động tìm các nguồn cung cấp công nghệ: Nắm được các thông tin liên quan đến công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ.
- Đánh giá được mức độ tiên tiến của công nghệ.
- Đánh giá việc đáp ứng các yêu cầu của chuyển giao công nghệ, công nghệ vào nước Việt Nam.
- Đánh giá được mức độ phù hợp của công nghệ dự kiến tiếp nhận, tìm hiểu và đánh giá công nghệ, so sánh các phương án về công nghệ để lựa chọn được công nghệ phù hợp nhất.
2. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và cạnh tranh lại càng găy gắt hơn khi trên thị trường trong nước xuất hiện ngày càng nhiều các nhà kinh doanh nước ngoài nhiều hơn ( nhà đầu tư nước ngoài ) bên cạnh những tác động tích cực mà chúng ta đều đã biết, cạnh tranh cũng gây ra nhiều tác động tích cực, nó đặt nhà sản xuất kinh doanh trong nước phải vươn lên để tồn tại nếu không muốn phá sản. Để đảm bảo có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp còn phải thiết lập và tăng cường quan hệ liên kết với các doanh nghiệp hữa quan. Như vậy, liên kết ra đời từ cạnh tranh và nó cũng tạo điều kiện để tăng cường khả năng cạnh tranh của mỗi chủ thể trên thị trường. Liên kết kinh tế là biện pháp quan trọng góp phàn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhờ liên kết, năng lực thừa của doanh nghiệp được tận dụng đầy đủ hơn, Năng lực thiếu được khắc phục bằng sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trong nước khác, vốn đầu tư được tiết kiệm hơn.
3. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật lao động
Các doanh nghiệp FDI cũng cần phải chú trọng hơn nữa tới việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật lao động như vấn đề hợp đồng lao động, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên... Việc tuân thủ đúng các quy định này không chỉ là vấn đề bắt buộc mà còn tác dụng rất tốt để khuyến khích động viên người lao động để họ có thể làm việc hết mình, với một năng xuất và chất lượng cao hơn.
4. Xem xét lại chiến lược kinh doanh
Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng cần xem xét lại chiến lược kinh doanh của họ. Ví dụ như một số doanh nghiệp đã có những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường và kết cục là dẫn đến thua lỗ nặng nề. Điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu tới doanh nghiệp và đặc biệt là nếu nó là một liên doanh thì đối tác Việt Nam trong liên doanh sẽ không gánh nổi sự thua lỗ do vốn góp của Việt Nam rất hạn chế. Vấn đề chí phí quảng cáo và tính hiệu quả của nó cũng cần được lưu tâm. tình hình quảng cáo trong thời gian qua đã cho thấy, một số doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất mỹ phẩm, đã quảng cáo một cách quá mức và do đó giá thành sản phẩm bị đội lên cao. Một số mặt hàng do các doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc lắp ráp tại Việt Nam cũng đã bị đặt giá quá cao so với thu nhập của người Việt Nam và làm cho việc tiêu thụ gặp nhiều khó khăn (như mặt hàng ô tô, xe máy, máy giặt...).
Kết luận
Cùng với sự phát triển của quá trình lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế, FDI trở thành một hoạt kinh tế đối ngoại ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành vào cuối năm 1987 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ), trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đây là một trong những nhiệm vụ chién lượcc trọng yếu nhất. ở một góc độ nào đó có thể thấy rằng mức thực hiện tăng trưởng nhanh, Lâu bền mà Việt Nam đang theo đuổi, tại điểm xuất phát thấp, hiện tại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên.
Sau ngày thống nhất đất nước, trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế Viết Nam mới nhận thức được vai trò to lớn của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, lớn nhất là trở ngại về nhận thức, tháng 4/1977 Việt Nam đã cho ra đời một bản điều lệ về dầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng phải sau đó 10 năm, tháng 12/1987 Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành và đã mở ra một trang mới cho hoạt động đầu tq nước ngoài tại Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong suốt 10 năm qua.
Thực tế trong 10 năm đổi mới, tính từ mốc Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) chứng tỏ tính chính xác của đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chọn. Tại thời điểm mất ổn định và khủng hoảng trẩm trọng của nền kinh tế, viậc kịp thời thay đôi tư duy, đổi mới phương hướng phát triển đã không chỉ đưa đất nước Việt Nam khỏi khủng hoảng mà còn tạo đà và thế vững chắp cho sự nghiệp tăng trưởng lâu bền.
Khi thực hiện hợp tác đầu tư nước ngoài, chúng ta cũng khó tránh khỏi những vấp váp, sai lầm đặc biệt khi mới bắt đầu. cái giá lơn ”mượn sức người” có thể rất lớn, nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại Việt Nam có thể hạn được nhưng mặt tiêu cực của FDI và đi đến thành công nếu chúng ta biệt xử lý vấn đề một cách đúng đắn.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến đất nước Việt Nam thành một nước CNH vào năm 2020, thì việc thu hút và sử dụng vốn FDI có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng ta coi đó là công việc vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài.
Những thành tựu không nhỏ và nhanh chóng đạt được trong thời gian 10 năm qua còn cho thấy rằng Việt Nam có nhiều điều kiện khách quan cơ bản thuận lợi để xử lý tốt nhiệm vụ đã nêu, đặc biệt là công tác thu hút nguồn vốn FDI.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh Tế Quốc Tế - Đại học Kinh Tế Quốc Dân
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
3. Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Đại học Kinh Tế Quốc Dân
4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cơ sở pháp lý, hiện trạng, cơ hội, triển vọng
Nguyễn Anh Tuấn - Phan Ngọc Thắng - Hoàng Văn Huấn
5. Các số liệu của Tổng cục Thống Kê.
6. Tạp chí Luật số 100 năm 2000
7. Báo Việt Nam Economic Times 2/ 2000
8. Kinh tế và Dự báo số tháng 9/1998
9. Niên giám thống kê năm 1990.
10. Nghiên cứu kinh tế số 96/2000
11. Các thông tin trên mạng Internet
Mục lục
trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35007.doc