Như vậy, trong hơn 10 năm qua, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội theo xu hướng hội nhập mở cửa. Khu vực kinh tế này đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển, góp phần phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu.v.v.
Với tinh thần xây dựng đất nước vững mạnh, thì việc xác định đúng đắn vai trò và có chính sách phù hợp thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, là một ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là con đường đi tắt đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu mà Đảng nêu ra. Vì vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhiều giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng với sự thay đổi của môi trường vĩ mô - vi mô, tình hình trên thế giới diễn ra nhanh chóng và phức tạp, những giải pháp đó một phần đã không còn phát huy hiệu lực. Do đó, việc đưa ra các biện pháp chiến lược tối ưu thu hút nguồn vốn trong giai đoạn 2001 - 2005 bền vững và ổn định, sẽ có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2002.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu 3
I. đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
1.1. Đầu tư 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư 5
1.1.2. Đặc trưng cơ bản đầu tư 5
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
1.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
1.2.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
1.3. Một số lý thuyết về đầu tư thương mại quốc tế 10
2. Chính sách Nhà nước với vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 11
2.1. Tính tất yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 11
2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong Luật đầu tư nước ngoài 12
II: vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 14
1. Tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay 14
1.1. Thời kỳ 1988 - 1990 15
1.2. Thời kỳ 1991 - 1996 16
1.3. Thời kỳ 1997 đến nay 17
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam 18
3. Những tồn tại và hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 21
3.1. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý 21
3.2. Nguồn thu hút vốn hẹp 26
3.3. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa hoàn thiện 27
III. một số đề xuất và kiến nghị 29
kết luận 30
lời mở đầu
Từ sau Đại hội VI năm 1986, nền kinh tế nước ta đã thực hiện một công cuộc chuyển đổi rất lớn, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ đó đến nay, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể như: tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm gần 7% (từ năm 1990 đến nay), đời sống nhân dân ngày càng cải thiện, là nước đứng thứ hai trong các nước xuất khẩu gạo trên thế giới.
Hơn nữa, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hoà, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức ASEAN, tham gia diễn đàn APEC, tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Như trong Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: "Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài". Với tư tưởng chỉ đạo đó, việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn là vấn đề hàng đầu được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên. Do nhận thức được vị trí vai trò nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên nền kinh tế vốn đã trì trệ như ở Việt Nam hiện nay, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khơi dậy lại thị trường trong nước, cung cấp về vốn, tiếp thu khoa học công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý.v.v...
Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài từ năm 1998, thực hiện nhiều giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn này.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ năm 1997, cho đên nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có phần chững lại và bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong chính sách thu hút nguồn vốn đã không còn phù hợp nữa. Chính vì lý do đó và nhận thức được tầm quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cho nên em đã chọn đề tài: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam". Để vừa xem xét tổng quan tình hình thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hơn 10 năm qua, đồng thời qua đó tìm ra giải pháp cơ bản để cải thiện hơn nữa trong kiến tạo nguồn vốn. Điều đó nhằm tạo đà cho phát triển kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tiến tới năm 2020 Việt Nam cơ bản là một nước công nghiệp.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên trong bài viết này, em chỉ xin đề cập tới những đạt được và chưa đạt được cùng với giải pháp trong vấn đề thu hút nguồn vốn FDI bao quát trên diện rộng cả nước, chứ em không đi sâu vào từng lĩnh vực từng khu vực cụ thể.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu tài liệu để thực hiện đề án này.
Kết cấu đề án ngoài phần Lời mở đầu và phần Kết luận còn bao gồm:
I: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
II: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam
Với trình độ hiểu biết còn hạn chế, cho nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo để bổ xung cho bài viết được hoàn thiện hơn và sẽ làm tốt hơn trong quá trình nghiên cứu tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn!
I. đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1. Đầu tư.
1.1.1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, trí tuệ.v.v...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ đầu tư trong tương lai.
Như vậy, theo khái niệm trên, đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư là một bộ phận của sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng.
Vốn đầu tư bao gồm có các dạng sau:
- Tiền tệ các loại
- Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên
- Hàng hoá hữu hình: sức lao động, cán bộ, thông tin, biểu tượng uy tín hàng hoá.v.v..
- Các phương tiện khác: cổ phiếu, đá quý.v.v....
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư.
Đầu tư có hai đặc trưng cơ bản sau: tính sinh lợi và thời gian kéo dài.
- Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể thể coi là đầu tư, nếu việc sử dụng tiền vốn không nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu.
Như vậy đầu tư khác với:
+ Việc mua sắm, cất trữ, để dành
+ Việc mua sắm nhằm mục đích tiêu dùng vì trong việc này tiền của không sinh lời.
+ Việc chi tiêu vì lý do nhân đạo và tình cảm.
- Đặc trưng thứ hai của đầu tư là kéo dài thời gian, thường từ hai năm đến 70 năm hoặc có hạn thường trong vòng một năm không gọi là đầu tư. Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh. Kinh doanh thường được coi là một giai đoạn đầu tư. Như vậy, đầu tư và kinh doanh thống nhất tính sinh lời nhưng khác nhau ở thời gian thực hiện.
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất. FDI là sự đầu tư của các Công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
1.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước.
- Quyền quản lý xây dựng phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài quản lý và điều hành.
- Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại hoàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp khác.
- Nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có thể được bổ xung, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư nước ngoài.
- Việc các chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào trong nước để biến sinh lợi, thì qua đó bên phía chủ nhà tiếp nhận vốn có cơ hội tiếp thu công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý hiện đại ở nước ngoài. Đây là một đặc điểm chú trọng cho các nước đang phát triển trong quá trình phát triển và hội nhập nền kinh tế trên thế giới.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà các chủ đầu tư được tự mình ra quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao, không có ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
1.2.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tuỳ từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên được áp dụng khác nhau.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế, hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T), xây dựng - chueyẻn giao (B.T), xây dựng - chuyển giao - vận hành (B.T.O).
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn dtttt nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn với các nước trên thế giới, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể như sau:
1.2.4.1. Hệ thống luật
Hệ thống luật là một trong những nhân tố sẽ kìm hãm hay thúc đẩy gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, trong hệ thống luật đầu tư, nước sở tại sữ nêu rõ quan điểm của mình trên lĩnh vực đầu tư về hình thức đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan như thế nào.v.v... Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài còn xem xét những luật liên quan như luật thuế, luật cho thuê đất đai.v.v... Những nội dung của hệ thống luật càng đồng bộ, chặt chẽ tiên tiến, cởi mở phù hợp với thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn thu hút nguồn vốn FDI càng cao.
1.2.4.2. ổn định về chính trị.
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro, vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. những bất ổn về kinh tế - chính trị không chỉ làm cho dùng vốn FDI bị chững lại và thu hẹp, mà còn làm cho quá trình huy động ngồn vốn trong nước bị giảm mạnh.
Ngoài ra các cuộc xung đột nội chiến hay sự hoài nghi thiếu thiện cảm và gây khó dễ của giới lãnh đạo, nhân dân đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là nhân tố tác động tâm lý tiêu cực của các chủ đầu tư nước ngoài.
Bởi vậy, ổn định chính trị không chỉ trong thời gian ngắn mà còn là cần giữ vững lâu dài, để cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động.
1.2.4.3. Sự phát triển cơ sở hạ tầng.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng bao gồm: cầu, cảng, đường xá, hệ thống điện nước dồi dào phương tiện nghe nhìn hiện đại.v.v.. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ cho hoạt động FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI. Khi đó càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt mua bán đất đai mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình.
Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cập nhật và đáng tin cậy, để cho các nhà đầu tư tiếp xúc lựa chọn bên đối tác và sẽ ảnh hưởng hoạt động kinh doanh.
1.2.4.4. Chính sách tiền tệ.
Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hoạt động xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoại. Việc nguồn vốn FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước coa hơn mức lãi suấ quốc tế thì sức hút với dòng vón chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư là cao làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Ngoài ra, một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn, một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó bảo đảm hơn, mức độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm.
1.2.4.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia.
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian, chi phí và đã làm mất cơ hội đầu tư.
Đồng thời, với nhân tố này còn gắn liền với trình độ khả năng tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc thẩm định dự án, kiểm tra và xử lý việc phát sinh trong hoạt động đầu tư. Do vậy, Bộ máy hành chính phải thật gọn nhẹ với những thủ tục, hành chính có tính chất đơn giản, công khai và nhất quán. Điều đó sẽ làm tăng tính hoạt động của đầu tư một cách không thông suốt và chính xác.
1.2.4.6. Đặc điểm thị trường nước nhận vốn.
Đây có thể nới là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng quy mô đầu tư.v.v.... đặc biệt là sự hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý.v.v... cũng có ý nghĩa nhất định.
Bởi vậy, lợi thể về thị trường sẽ có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3. Một số lý thuyết về đầu tư - thương mại quốc tế.
Lý thuyết thương mại quốc tế của Hecksher - Ohlin cho rằng: một nước sẽ chuyên hoá vào sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất của nó sử dụng nhiều nhân tố sản xuất tương đối rẻ và sẵn có của nước đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó sử dụng nhân tố sản xuất tương đối đắt và kham hiếm của nước đó. Khi nguồn lực sản xuất (lao động, vốn, kỹ thuật) của một nước thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất và xuất nhập khẩu của nước đó. Sự di chuyển nguồn lực giữa các nước là một trong nước nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi của các nguồn lực sản xuất sẵn có của các nước. Khi đó, một hình di chuyển vốn cũng làm tăng khối lượng của nhân tố vốn. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến x và sau đó đến thương mại quốc tế có thể diễn ra theo hai hướng: tác động thay thế và tác động bổ sung.
- Tác động thay thế: mô hình kiểu Hecksher -Ohlin -Samuelson) một nước có hàng rào thương mại mang tính hạn chế cao đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ làm tăng thu nhập đối với vốn nguồn lực tương đối khan hiếm của nước ngày.
Theo tác động Rybczynski, sản xuất của hàng hoá sử dụng nhiều vốn (trước đây được nhập khẩu nếu có thuế) sẽ tăng và sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao động (trước đây được xuất khẩu) sẽ giảm. Như vậy, theo hướng này, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm giảm khối lượng xuất nhập khẩu.
- Tác động bổ xung: tác động này diễn ra trong mô hình kiểu Riardo khi các nước có công nghệ khác nhau. Ví dụ: giả sử hai nước có năng suất lao động như nhau nhưng một nước có năng suất vốn cao hơn. Nước có năng suất vốn cao hơn sẽ xuất khẩu hàng hoá nhiều vốn. Khi vốn di động trên phạm vi quốc tế nó sẽ tìm đến nơi nào đó có mức thu nhapạ cao nhất và vì vậy sẽ chảy vào nước có năng suất vốn cao hơn. Theo tác động Rybcznski, dòng vốn này sẽ làm tăng sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều vốn (hàng xuất khẩu nước đó) và giảm sản xuất hàng sử dụng nhiều lao động (hàng nhập khẩu của nước đó). Vì vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng quy mô buôn bán giữa các nước.
2. Chính sách Nhà nước với vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế của mình. Những quốc gia này đã có sự đầu tư rất lớn vào sản xuất và khai thác các dạng tài nguyên thiên nhiên. khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến mức cao nhu cầu đầu tư ít, chi phí cao thì khi đó các quốc gia có nhu cầu đầu tư vào các quốc gia khác trên thế giới nhằm tận dụng những lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị trường... của những nước đó. Mặt khác, các quốc gia có những lợi thế đó thì nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế rất bức xúc. Vì vậy, họ đã có những chính sách để thu hút những nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào.
Đối với Việt Nam, xuất phát triển là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả. Ngoài ra, nước ta vừa ra khỏi chuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nên nhiều tàn dư mà ta chưa khắc phục được. Trước những khó khăn thách thức đó, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều mục tiêu quan trọng trong giai đoạn 2001 – 2010 nhằm nâng cao đời sống người dân, xây dựng cơ sỏ hạ tầng phát triển nền kinh tế vững mạnh. Trong chiến lược 10 năm đầu thế kỷ 21, Đảng ta vẫn kiên định đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tạo lập nền tảng cho việc hình thành một nước công nghiệp trong giai đoạn sau. Sự lựa chọn chiến lược này là một tất yếu được rút ra từ quá trình phát triển và đổi mới hơn 10 năm qua, từ một tầm nhìn về triển vọng phát triển đất nước gắn với xu thế thời đại. Trong đó, vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển đất nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Điều đó được biểu hiện rõ bằng gia tăng nguồn vốn, kỹ thuật – công nghệ, đóng góp vào ngân sáh Nhà nước đáng kể. Trong những năm tới, việc thu hút nguồn vốn FDI vẫn được Nhà nước quan tâm là một xu thế tất yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong luật đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ chính sách đổi mới nền kinh tế mở cửa và hội nhập với nước ngoài, ngày 19/12/1987 lầu đầu tiên Quốc hội nước ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài cho phép các tổ chức cá nhân là người nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam. Qua 4 lần sửa đổi bổ xung vào các năm 1990, 1992, 1996 và tháng 4 năm 2000, môi trường đầu tư đã cải thiện thông thoáng hơn, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh . Theo luật đầu tư nước ngoài Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo dưới hình thức sau đây:
Công ty liên doanh: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập với sự tham gia của một bên là một hay nhiều pháp nhân trong nước và bên kia là một hay nhiều thành viên nước ngoài. Vốn hoạt động do hai bên đóng góp, thời gian hoạt động từ 30 đến 50 năm.
Công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh , thời gian hoạt động từ 50 đến 70 năm.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai bên hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi nghĩa vụ rõ ràng và không thành lập một pháp nhân mới.
Xây dựng, khai thác, chuyển giao (BOT): là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó có nhà đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và các lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào.
Nhìn chung, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá là có độ hấp dẫn cao, phù hợp với thônglệ quốc tế. Hiện nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang được tiếp tục điều chỉnh bổ xung cho phù hợp với thực tiễn điều kiện ở Việt Nam.
II: vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
1. Tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 1998 đến nay.
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định trong nhiều năm.
Một trong những nguyên nhân thành tựu đó là chủ trương mới của Đảng về hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó có hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Qua hơn mười năm, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (12/1987), nước ta đã thu hút nguồn vốn FDI qua các năm như sau:
Biểu 1: Tổng vốn đăng ký FDI từ năm 1988 đến năm 2000
Vốn đăng ký (Triệu USD
Năm
Đơn vị tính: Triệu USD
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân 0 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7.
Số dự án
Biểu 2: Số dự án FDI được cấp giấy phép 1989 - 2000
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân 0 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7
Từ số liệu trên, quá trình thu hút vốn đầu tư Fdi vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ:
1.1. Thời kỳ 1988 - 1990.
Đây được coi là thời kỳ khởi động cho quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm 1988, năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy phép đầu tư cho 37 dự án, với tống số vốn đăng ký là 366 triệu USD. Kết quả đó tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta khi vừa bước sang nền kinh tế thị trường.
Nó đánh dấu sự thành công ban đầu của công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, thực hiện và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Cho đến năm 1990, sau 30 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy phép cho 213 dự án với số vốn đăng ký 1582 triệu USD, quy mô trung bình của mỗi dự án là 7 triệu USD, dự án. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong thời kỳ này là thăm dò dầu khí 32,2% khách sạn 20,6%, tổng vốn đăng ký. Ta nhận thấy rõ, việc gia tăng vốn đầu tư chậm là vì đây là một lĩnh vực còn mới mẻ, chúng ta vừa học, vừa làm, kinh nghiệm chưa nhiều.
Tuy nhiên, những kết quả đó đã chứng minh triển vọng lạc quan của hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ này.
1.2. Thời kỳ 1991 - 1996.
Trong thời kỳ này, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng trưởng một cách nhanh chóng và có sự thay đổi lớn về chất. Tính từ năm 1991 đến 1996, chúng ta đã cấp 1768 số dự án với vốn đăng ký 25309 triệu USD trong đó nổi bật nhất về số dự án là năm 1995 đã cấo 412 dự án nhưng năm 1996 là năm có số vốn đăng ký là 8640 triệu USD chiếm 34,13% tổng vốn đăng ký trong kỳ này.
Đồng thời quy mô mỗi dự án tăng lên qua các năm.
Biểu 3: Quy mô dự án từ năm 1991 - 1996
Đơn vị tính: Triệu USD/dự án
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Quy mô bình quân dự án
8,7
10,4
9,7
11,0
16,1
23,5
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí kinh tế kinh tế số 128/2001 - trang 7
Biểu 4: Mức vốn thực hiện từ năm 1991 - 1996
Đơn vị tính: Triệu USD/dự án
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Vốn thực hiện
213
394
1099
1946
2671
2646
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí kinh tế kinh tế số 128/2001 - trang 7
Thời kỳ này, các dự án đầu tư nước ngoài được phân bố rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành ngành công nghiệp mới xuất hiện như: công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ô tô.v.v....
1.3. Thời kỳ 1997 đến nay.
Thời kỳ này, tốc độc thu hút vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu chững lại và giảm dần.
Qua biểu 2 cho thấy, năm 1998 cấp được ít nhất trong kỳ này là 275 dự án năm 1999 là năm có số vốn đăng ký là ít nhất trong kỳ là 1566 triệu USD.
Đồng thời mức thực hiện vốn và quy mô dự án giảm rõ rệt qua từng năm.
Biểu 5: Mức vốn thực hiện và quy mô mỗi dự án từ 1997 - 2000
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
1997
1998
1999
2000
Mức vốn thực hiện
3250
19000
1519
2228
Quy mô mỗi dự án
13,6
13,1
5,1
5,7
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7.
Giải thích cho sự giảm sút này trong thời kỳ 1997 - 2000 là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ giữa năm 1997 đã lan nhanh và rộng khắp. Phần lớn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực, nên khi xảy ra khủng hoảng các nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài chính. Do đó họ giảm việc đầu tư ra nước ngoài dẫn đễn lượng vốn vào Việt Nam giảm. Nhưng sang năm 2000, tình hình có khả quan hơn, số vốn và số dự án tăng lên: số dự án tăng 11%, số vốn đăng ký tăng 26%, có được kết quả phục hồi này, một phần là nhờ vào tác động tích cực của các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian gần đây.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoìa ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể được biểu thị bảng dưới đây:
Biểu 6: Vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 - 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Vốn FDI (tỷ đồng)
22.000
22.700
30.300
24.300
18.900
20.800
34.500
Tổng vốn toàn xã hội
(tỷ đồng)
68.048
79.367
96.870
97.336
103.900
124.000
143.840
Tỷ trọng FDI trong tổng vốn toàn xã hội (%)
32,3
28,6
31,3
24,9
18,2
16,8
24
Nguồn: Nguyễn Trọng Hà - Đánh giá tác động của FDI đến ngoại thương Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển - số 62 tháng 8/2002 - trang 28
Tính chung trong tháng 7 từ năm 1995 - 2001 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp khoảng 25% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Mặc dù có sự suy giảm trong năm 1999 và năm 2000, thế nhưng trong năm 2001, Fdi đã phục hồi nhanh chóng và có lượng vốn Fdi vào Việt Nam lớn nhất từ trước đến nay số dự án được cấp là 172 triệu dự án với tổng vốn đăng ký là 300 triệu USD.
Ngoài ra, tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm.
Biểu 7: Tỷ lệ đóng góp GDP của các thành phần kinh tế có vốn FDI
Tỷ lệ
Đơn vị tính: %
Năm
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế - Số 128/2001 - trang 7.
Như vậy, việc gia tăng nguồn vốn FDI có trong GDP đã thúc đẩy tốc độ tăng trưởng qua các năm, làm ổn định nền kinh tế, điều đó càng khẳng định vai trò FDI trong nền kinh tế quốc dân.
Cho đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương hợp tác thông qua thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của nước ta thực sự đã đi vào cuộc sống. Nguồn vốn FDI góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động.
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và Đầu tư, số lao động làm việc trong khu vực này liên tục tăng qua các năm.
Biểu 8: Số lao động làm việc trong khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1996 - 2000
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Số lao động
220.000
250.000
270.000
296.000
327.000
Nguồn: Lê Hồng Yến - Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Tạp chí kinh tế và phát triển số 59 tháng 5/2002 - trang 30.
Để đánh giá chính xác hơn về vai trò của nguồn vốn FDI trong tạo việc làm người ta đưa ra chỉ tiêu lao động gián tiếp, những người không trực tiếp hưởng lương từ các chủ đầu tư nước ngoài, nhưng làm việc trong các đơn vị hình thành do các tác động của vốn FDI là khoảng 1 trieuẹ lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng, các ngành sản xuất dịch vụ phụ trợ có liên quan). Như vậy số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Đây là kết quả nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiền lương mà chủ đầu tư nước ngoài trả cho lao động Việt Nam cao hơn so với các khu vực khác, điều này phù hợp với năng suất lao động cao do lực lượng lao động này tạo ra. Theo quyết định số 708 ngày 15/6/1999 của bộ lao động - thương binh và xã hội, mức lương tối thiểu bằng đồng Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chia làm ba mức.
Căn cứ theo khu vực: 626.000đ/tháng, 556.000đ/tháng, 487.000đ/tháng. Cũng qua đó theo kết quả khảo sát thì mức thu nhập trung bình của công nhân làm việc trong các doanh nghiệp FDI vào khoảng 70 - 100USD/tháng (tương đương là 980.000đ - 1.500.000đồng), bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Riêng đối với cán bộ quản lý thì nằm trong khoảng 200 - 300USD. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam có trình độ cao làm việc cho các dự án FDI.
Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng hàng hoá và sản phẩm lớn cho xuấ khẩu từ đó góp phần tăng nhanh kim ngạch xuấ khẩu nước ta.
Biểu 9: Kim ngạch xuấ khẩu của các doanh nghiệp FDI từ năm 1995 - 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Kim ngạch xuấ khẩu từ FDI (triệu USD)
336
788
1890
1982
2547
3320
3573
Kim ngạch xuấ khẩu
(triệu USD)
5448,9
6255,9
9185
9361
11523
14308
15100
Tỷ trọng FDI trong tổng số
6,2
10,9
19,5
21,2
22,1
23,2
23,7
Nguồn: Nguyễn Trọng Hà - Đánh giá tác động của FDI đến ngoại thương Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển - Số 62 tháng 8/2002
Như vậy, các doanh nghiệp có vốn FDI xuấ khẩu chủ yếu là hàng dệt may và dầu thô, trong ngành này, có khá nhiều doanh nghiệp đạt tỷ lệ xuấ khẩu từ 80% trở lên. Các ngành khác, tỷlệ xuất khẩu thấp hơn, chẳng hạn, ngành thuỷ sản đạt 49%, công nghiệp nặng 34%, giao thông vận tải bưu điện 1%.
Tóm lại FDI làm tăng xuất khẩu ở những sử dụng các nguồn lực mà Việt Nam có lợi thế như tài nguyên thiên nhiên (như dầu thô 2001 xuất khẩu được hơn 3 tỷ USD) và nguồn lao động rẻ (dệt may, giày da).
3. Những tồn tại và hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh những tác động tích cực lên nền kinh tế Việt Nam đã trình bày ở trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ nhiều hạn chế.
3.1. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
Xét theo cơ cấu đầu tư theo ngành vào Việt Nam, chúng ta đã có được kết quả đáng khích lệ. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng các ngành đều tăng hàng năm mặc dù có sự mất cân đối trong các cơ cấu đầu tư.
Biểu 10: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành
tính đến ngày 31/10/2002
Đơn vị tính: 1000USD
Ngành
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Công nghiệp nặng
581
6.210.350
2.535.239
Công nghiệp nhẹ
859
4.029.200
2.013.763
Xây dựng
274
3.574.021
1.337.647
Xây dựng khu đô thị
3
3.344.237
924.452
GTVT - bưu điện
136
3.204.428
2.276.918
Khách sạn - Du lịch
199
3.096.000
2.185.534
Công nghiệp dầu khí
63
3.086.443
2.283.113
Văn phòng cho thuê
105
3.000.225
1.072.107
Công nghiệp thực phẩm
194
2.151.306
946.005
Nông - lâm nghiệp
272
1.029.213
497.489
Dịch vụ khác
172
845.021
473.825
Văn hoá - y tế - giáo dục
93
526.259
243.535
Thuỷ sản
95
343.819
185.141
Xây dựng KCN - KCX
5
302.078
102.460
Tài chính - Ngân hàng
35
243.322
215.752
Các ngành khác
4
27.359
11.540
Tổng cộng:
3.216
37.138.311
17.444.520
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế - số 128/2001 - trang 12.
Qua các số liệu trên, ta có thể thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện năng, nuôi trồng và chế biến cây công nghiệp.v.v...
Dựa vào bảng trên, tỷ lệ đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm phần lớn dự án và số vốn đăng ký đầu tư. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành công nghiệp liên tục tăng: năm 1996 là 21,7%, năm 1998 là 23,3%, năm 2000 là 20%.
Tuy nhiên, vấn đề đầu tư cơ cấu theo ngành còn khá nhiều bất hợp lý.
- Đầu tư mới chỉ hướng vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn nên các ngành nông lâm - thuỷ sản đầu tư còn quá nhỏ. Những ngành trong nước có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý như ngành may mặc, tẩy rửa, hàng điện tử dân dụng, sắt thép, xi măng.v.v... còn đầu tư vào những ngành công nghệ cao chưa nhiều vì mục tiêu hàng đầu của nhà đầu tư là lợi nhuận, họ chỉ mong đầu tư vào những ngành những lĩnh vực bỏ vốn ít mà thu lợi cao. Đồng thời do nước ta bắt đầu xuất phát điểm rất thấp cho nên cơ sở hạ tầng kém và duy chúng ta chỉ có một số ít tài nguyên thiên nhiên, hơn nữa trình độ tay nghề và kỹ năng người lao động không cao. Vì lý do đó mà nhà đầu tư không dám đầu tư vào Việt Nam những ngành công nghệ cao chứa nhiều chất xám.
- Mặt khác, trong việc thẩm định lựa chọn dự án, chúng ta đã không có một chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp trên quy mô một vùng rộng lớn, vì vậy cứ hễ nơi nào chưa phát triển ngành này là cứ cấp giấy phép đầu tư, không xem xét đến tình hình đặc điểm vùng đó như thế nào. Dẫn đến đầu tư một cách tràn lan và sẽ khó khăn giải quyết những vấn đề phát sinh như: thị trường tiêu thụ ở đâu, đào tạo nguồn lao động theo hướng nào...
Ví dụ: như trong ngành khách sạn - du lịch hiện nay, tỷ lệ sử dụng phòng ở các khách sạn là quá nhỏ mà chỉ ở những vùng có lợi thế về biển thì mới có tỷ lệ sử dụng phòng lớn, nhưng những nơi đó thì không nhiều. Điều đó gây lãng phí cho đầu tư trong xã hội.
Biểu 11: Số dự án và vốn phân theo vùng kinh tế đến tháng 2 - 2002
Đơn vị tính: triệu USD
Vùng kinh tế
Chỉ tiêu
Vùng núi phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
1. Đăng ký
- Số dự án
60
628
95
60
1.686
158
- Vốn đầu tư
331
11.819
2.643
937
21.264
1.171
2. Còn hiệu lực
- Số dự án
42
499
74
50
1.400
114
- Vốn đầu tư
264
10.888
984
989
17.305
1.006
3. Vốn thực hiện
156
3.999
426
119
7.313
714
Biểu 12: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành và vùng kinh tế đến T12 - 2002
Đơn vị tính: %
Vùng kinh tế
Ngành
Vùng núi phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
Công nghiệp nặng
12,2
24,2
4,6
0
8
0
Công nghiệp nhẹ
63,8
0
0
9,9
19,4
13,6
Công nghiệp thực phẩm
9,3
23,3
10,9
Nông - lâm nghiệp
6,5
16,5
54,6
10,2
Xây dựng
5
9,4
22,8
57,6
Khách sạn - du lịch
19,7
17,3
35,4
GTVT và Bưu điện
13,5
Xây dựng văn phòng
9,4
15,4
Vốn đầu tư còn hiệu lực bình quân cho 1 tỉnh (triệu USD)
22
1.912,95
495,88
299,38
4326,28
3,82
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 trang 12.
Qua 2 bảng trên, ta thấy rõ ràng mất cân đối đầu tư giữa các vùng kinh tế về số dự án, vốn và các ngành.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chủ yếu là vùng kinh tế trọng điểm, tập trung vao hai vùng lớn là Nam Bộ và Bắc Bộ. Cả hai vùng này chiếm 86,11% số dự án đăng ký, riêng Nam Bộ chiếm 62,74% số dự án đăng ký cả nước. Bởi lẽ hai vùng này có số dự án lớn là do cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ giáo dục đào tạo ở mức cao hơn so các vùng khác. Rõ ràng, hệ thống cơ sở hạ tầng mang tính quyết định trong nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
Ví dụ: Như ở vùng Tây Nguyên, đó là vùng kinh tế có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng cũng chỉ chiém 2,2% số dự án đăng ký. Quả là một con số ít ỏi, do vùng Tây Nguyên phần lớn là đồi núi, đường xá hệ thống điện nước có nhiều khó khăn trong vấn đề cung cấp. Ngoài ra, mọi người ở vùng này thường quen công tác trên mảnh ruộng đất của họ vẫn mang tính truyền thống, nếu có sự thay đổi cũng chỉ là một con số ít trong nhiều người dân ở đây.
- Mặt khác, chúng ta cũng còn thấy được sự bất cập giữa ngành đầu tư với vùng kinh tế, có những vùng kinh tế không phù hợp với một số ngành thì lại chiếm tỷ trọng lớn của ngành trong vùng. Ví dụ như vùng đồng bằng sông Cửu Long, thì lợi thế của ngành này chủ yếu là ngành nông nghiệp. Thế nhưng vùng đã quá chú trọng đến ngành xây dựng chiếm gần 60% tổng vốn đầu tư. Điều đó cho chúng ta thấy rõ rằng, khả năng phát huy lợi thế của vùng nói riêng, và cả nước nói chung là kém hiệu quả, năng suất không cao mà còn làm cho khả năng cạnh tranh hàng hàng hoá kém trên thị trường. Việc hạn chế này là do, trình độ cán bộ trong công tác thẩm định dự án là không cao, không thấy rõ được đặc điểm hoạt động của dự án so với tình hình cụ thể địa phương mình.
Hơn nữa, không có sự phối hợp các bộ ngành, cơ quan nghiên cứu trong việc quyết định lựa chọn dự án.
3.2. Nguồn thu hút vốn hẹp.
Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được 65 quốc gia đưa vốn vào đầu tư. Nếu căn cứ vào số đăng ký cũng như vốn pháp định theo thứ tự giảm dần, thì có thể xếp 10 quốc gia sau đây thuộc nhóm đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế.
Biểu 13: Số dự án và vốn phân theo quốc gia cho đến ngày 31/10/2002
Đơn vị tính: 1000 USD
Quốc gia
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Singapore
251
5.331.304
1.820.679
Đài Loan
646
4.889.125
2.199.799
Nhật Bản
332
3.551.815
1.863.846
Hồng Kông
325
3.257.953
1.471.364
Hàn Quốc
298
3.138.304
1.287.439
Pháp
157
2.176.807
1.254.026
IsLands
94
1.779.596
718.135
Nga
62
1.319.661
912
Mỹ
121
1.341.442
629.853
Anh
41
1.133.716
768.228
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế - Số 128/2001 - trang 12.
Nhìn vào bảng ta thấy, phần lớn những nước có số vốn đăng ký vốn pháp định và số dự án lớn nhất đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ các nước trong khu vực ASEAN và các nước Đông á. Điều này cho ta thấy rõ tính vững vàng nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam không cao. Lấy ví dụ cụ thể, qua cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ trong khu vực năm 1997, hầu hết các Công ty lớn Châu á ở Việt Nam đã rút lui một phần vốn của mình do gặp khó khăn tài chính. Hàng loạt các dự án đã phải giảm tiến độ thực hiện hoặc xin tam dừng triển khai lên tới 3 tỷ USD trong đó, lĩnh vực chủ yếu là khách sạn nhà hàng, văn phòng.
Ngoài ra, việc đối tác chủ yếu là từ khu vực Châu á cũng gây ra những bất lợi trong việc tiếp thu khoa học công nghệ. Toàn bộ các trang thiết bị dây chuyền chuyển sang cho Việt Nam là cũ lạc hậu so với nước mang đi đầu tư. Thế mà các đối tác như: Singpore, Đài Loan, Hàn Quốc, tuy rằng đây là những nước không phải là nền công nghệ kém nhưng khả năng trình độ khoa học chưa thể sánh bằng Tây Âu và Nhật Bản. Do đó, nếu chúng ta không thận trọng trong việc lựa chọn dự án gắn với công nghệ, dễ dàng chúng ta trở thành "bãi thải công nghệ".
3.3. Luật đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện.
Luật đầu tư nước ngoài đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1987, liên tục bổ xung và sửa đổi một số điều vào năm 1990, 1992, sửa đổi căn bản vào năm 1996 để cho phù hợp với yêu cầu phát triển và cởi mở của nền kinh tế, nâng cao hơn nữa tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, những nội dung mới sửa đổi năm 1996 đã bộc lộ một số nhược điểm trong những năm vừa qua. Cụ thể các vấn đề chủ yếu sau:
- Hình thức đầu tư
- Nguyên tắc nhất trí trong liên doanh
- Việc tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
- Thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng
- Thủ tục hành chính
- Việc đền bù giải phóng mặt bằng
- Cân đối ngoại tệ, mở tài khoản Ngân hàng.v.v....
Các quy định về các vấn đề trên đang bị các nhà đầu tư nước ngoài cũng như bên đối tác Việt Nam của họ, các chuyên gia nghiên cứu vấn đề đầu tư nước ngoài và cả các cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cho là vẫn còn có sự gò bó vướng mắc. Trong khi đó, Việt Nam đang phải đương đầu với sự cạnh tranh.
Rõ ràng, nhiều nước láng giềng của ta và các nước khác trên thế giới đã và đang có những biện pháp mau lẹ và khá hiệu quả, nhằm nâng cao tính cạnh tranh môi trường đầu tư của họ, trên thực tế họ đã thành công.
III: Một số đề xuất và kiến nghị
Kết luận
Như vậy, trong hơn 10 năm qua, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội theo xu hướng hội nhập mở cửa. Khu vực kinh tế này đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển, góp phần phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu.v.v...
Với tinh thần xây dựng đất nước vững mạnh, thì việc xác định đúng đắn vai trò và có chính sách phù hợp thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, là một ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là con đường đi tắt đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu mà Đảng nêu ra. Vì vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhiều giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng với sự thay đổi của môi trường vĩ mô - vi mô, tình hình trên thế giới diễn ra nhanh chóng và phức tạp, những giải pháp đó một phần đã không còn phát huy hiệu lực. Do đó, việc đưa ra các biện pháp chiến lược tối ưu thu hút nguồn vốn trong giai đoạn 2001 - 2005 bền vững và ổn định, sẽ có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33651.doc