Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua, Thực trạng và giải pháp

Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái, nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức, nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi. Ở Việt Nam chúng ta, một đất nước còn nặng về nông nghiệp, những thành tựu của 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đã góp phần làm thay đổi nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IX đã đặt giải pháp về công tác quy hoạch ở vị trí đầu tiên trong hệ thống giải pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 2001- 2010. Nghị quyết khẳng định: “Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và thị trường; Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung(cây con, sản phẩm, ngành nghề ); quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn; gắn kết chặt chẽ với an ninh - quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc". Trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông lâm nghiệp còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh của Việt Nam và ngày càng có xu hướng giảm sút. Mặt khác, so với hoạt động FDI trong các lĩnh vực khác, hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Do vậy, em xin được chọn đề tài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua. Thực trạng và giải pháp làm đề án môn học cho mình. Ngoài lời mở đầu & kết luận nội dung bài đề án môn học gồm 3 phần: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua, Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu, cơ chế chính sách ưu đãi về đầu tư như: Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Lâm Đồng Thanh Hóa, Nghệ An, một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Trong đó, Bình Dương là tỉnh đứng đầu, tiếp theo là Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Lâm Đồng. Bảng 2: FDI vào nghành nông nghiệp phân theo địa phương. TT Địa phương Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) Tỷ lệ vốn điều lệ (%) 1 Bình Dương 265 1109622258 450439627 20.31 2 Đồng Nai 103 1058744864 468793875 21.14 3 TPHCM 85 268579865 101309892 4.57 4 Tây Ninh 25 222527500 149407680 6.74 5 Lâm Đồng 77 172100716 105429882 4.75 6 Long An 19 150201700 56433936 2.54 7 Vũng Tàu 24 108443720 48023720 2.17 8 Nghệ An 6 105838640 50638000 2.28 9 Thanh Hóa 9 87079000 33290000 1.50 10 Ninh Bình 5 63329672 26322529 1.19 11 Các tỉnh khác 348 1336397754 727966035 32.82 Tổng số 952 4682865689 2218055176 100.000 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3. Phân bổ FDI theo cơ cấu vùng, miền Cơ cấu vốn FDI còn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng FDI còn quá thấp và tỷ trọng vốn FDI đăng ký liên tục giảm. Hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp tập trung vào những tỉnh có lợi thế về vùng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu như miền Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%), Bắc Trung Bộ (5%), Tây Nguyên (4%) và đồng bằng sông Cửu Long (13%). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số ưu đãi của Chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng. Hình 1: Phân bố FDI theo các vùng kinh tế. 4- Cơ cấu đầu tư FDI trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư  Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút FDI vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Đến hết 2010, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2009). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD. Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..)  chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh( Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.             Các dự án FDI trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. Bảng 3: Cơ cấu vốn FDI đến năm 2010 trong nông – lâm – ngư Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký  (USD) Vốn thực hiện (USD) Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. 5. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư và nguồn gốc đầu tư Hiện nay có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, trong đó các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan chiếm hơn 60% tổng vốn đăng ký, riêng Đài Loan là 25%. Bảng 4: FDI theo hình thức đầu tư đến năm 2010 STT Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đăng ký 1 100% vốn nước ngoài 722 2.310.202.009 2 Liên doanh 206 1.786.008.511 3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 2 161.052.371 4 BOT 1 55.274.451 5 Công ty cổ phần 2 152.483.936 Tổng số 933 4.465.021.278 Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong đó, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vẫn chiếm vị trí cao khoảng 77,4% số dự án và 51, 74% vốn đăng ký, kế đó là hình thức liên doanh 22,1% số dự án và 40% vốn đăng ký. Các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Mỹ thường thực hiện đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó, các nhà đầu tư đến từ Pháp, Hồng Kông, Ma-lay-xi-a chủ yếu lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh. 6. Các chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam 6.1 Chính sách đất đai Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam Đặc điểm đặc thù ở Vịêt Nam đó là: đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai. Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật đầu tư tại Vịêt Nam. Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào: + Mức quy định khởi điểm của từng vùng. + Địa điểm của khu đất. + Kết cấu hạ tầng của khu đất. + Hệ số ngành nghề. Theo quyết định số 1477 – TC/TCĐN ngày 31-12-1994 của bộ tài chính ban hành bản quy định về quyền cho thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài. - Khung giá cho thuê đất được quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7 USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị, - Riêng đất nông nghiệp sử dụng đối với vùng không phải là đô thị giá thuê được qui định cụ thể như sau: + Những vùng đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng từ 30-50 USD/ha/năm + Các vùng đất khác từ 150 – 170 USD/ha/năm . - Đối với mặt sông hồ, vịnh, mặt biển giá thuê có 2 mức: + Mặt nước sông, hồ, vịnh từ 75-525 USD/ha/năm. + Mặt biển từ 150- 600 USD/km2/năm. Trong trường hợp sử dụng không cố định thì áp dụng mức giá từ 1500 USD đến 7500 USD. Mức giá thuê đất, mặt nước, mặt biển nêu trên là mức giá áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê không bao gồm chi phí đền bù, giải toả. Mặc dù trong các văn bản nói trên đã cố gắng phân loại để xác định mức giá tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở nhưng vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý. Trong thực tế khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuờng có những vướng mắc sau: + Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng lại có quá lớn so với giá trị của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì bên nước ngoài khó chấp nhận. + Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài, các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức giá cho thuê thấp để được bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định dự án, họ lại được yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất thì gặp khó khăn, mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục bên nước ngoài. + Một số dự án nhầm lẫn giữa việc góp vốn bằng giá trị nhà xưởng với việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Một số dự án chỉ tính tiền thuê đất của diện tích xây dựng nhưng không tính các diện tích khác như đường nội bộ, diện tích trồng cây xanh…Đây là cách hiểu sai chế độ qui định. Để tiếp tục tăng mức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài, chính sách sử dụng đất cho các dự án đầu tư nước ngoài đã được cải thiện. Luật đầu tư tại Việt Nam hiện đã sửa đổi chính sách đất đai theo hướng khuyến khích và rõ ràng hơn: Giá tiền thuê đất; mặt khác, mặt biến đổi với từng dự án được giữ ổn định tối thiểu là 5 năm, khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức qui định lần trước. Trong trường hợp doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh đã trả tiền thuê đất cho cả đời dự án, nếu giá tiền thuê có tăng trong thời hạn đó thì tiền thuê đã trả không bị điều chỉnh lại. Do Việt Nam còn thiếu qui hoạch chi tiết để phục vụ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho việc tạo ra các địa điểm ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhất là tại khu vực nông nghiệp vẫn còn những vướng mắc nhất định: + Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải tỏa thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hợp lý. + Việc giao đất, nhất là các dự án có đền bù và giải toả kéo dài trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số năm thậm chí có dự án kéo dài tới 5 năm. Thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật của các qui định về đất đai còn thấp. Luật đất đai mặc dù đã sửa đổi song thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết. + Thiếu qui hoạch chi tiết cho việc thu hút FDI. Một số địa phương tự ý sử lý vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 6.2. Chính sách lao động Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động. Số lao động của Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng hạn chế lớn về thể lực, kinh nghiệm và tay nghề dù phần lớn lao động lao động trong lĩnh vực nông nghiệp xuất thân từ nông thôn. Đồng thời tính kỷ luật của người lao động chưa cao. Sự hiểu biết về pháp luật của người lao động còn hạn chế. + Phần đông thiếu sự hiểu biết về các qui định của pháp luật lao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hợp đồng còn mang tính hình thức, bị thiệt thòi, bị áp đặt dẫn đến mâu thuẫn phát sinh tranh chấp. + Một số người lao động đòi hỏi vượt quá qui định pháp luật và do sự hạn chế về ngoại ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau dẫn đến mâu thuẫn. Tuy nhiên chính sách lao động còn những hạn chế. Mặc dù đã giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lao động nhất định, song mục tiêu nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế. 6.3. Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm Trước năm 1996, chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn chủ yếu là thay thế nhập khẩu. Do đó, chính sách về thị trường chủ yếu là thị trường trong nước. Theo Luật đầu tư tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào: - Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu. - Sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, đầu tư theo chiều sâu, khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có. - Sử dụng nhiều lao động, nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam. - Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. - Dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu khác. Luật sửa đổi, bổ xung gần đây đã khuyến khích đầu tư với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là hàng xuất khẩu. Vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã có định hướng xuất khẩu. Năm 2010, xuất khẩu của khu vực nông thôn chiếm 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Thành tựu này có được cũng có một phần đóng góp không nhỏ của FDI trong lĩnh vực mở rộng thị trường cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc thúc đẩy xuất khẩu chỉ mới dừng lại ở tình trạng sản phẩm thô lượng được qua chế biến không nhiều, do đó mà giá cả bên Việt Nam, tình hình lợi nhuận thu được từ xuất khẩu theo ý kiến chủ quan của em thì chưa đạt hiệu quả cao. Đây là yếu tố gây thua thiệt cho bên Việt Nam – một vấn đề đang đặt ra gay gắt hiện nay. Ngoài ra, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá do sản xuất nông nghiệp tạo ra vẫn còn kém, nhiều loại sản xuất ra nhưng lại không biết bán cho ai, trong khi sản phẩm của nông nghiệp lại có tính chất bảo quản không được lâu. Đó chính là vấn đề mà hiện nay Nhà nước và các nhà FDI muốn đầu tư vào nông nghiệp quan tâm và đang tìm hướng giải quyết. 6.4. Chính sách công nghệ Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế nói chung. Điều này được khẳng định trong Luật Đầu tư tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu. Qua xem xét trên thực tế thì nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực chăn nuôi, lâm nghiệp. Tuy nhiên, công nghệ tiên tiến nhập vào chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cả về số lượng, lẫn qui mô,chưa cân đối với các ngành kinh tế, nhất là ở một số ngành then chốt có tác dụng tạo môi trường cho nông nghiệp đi lên như: công nghiệp chế biến. Nhìn chung trong các liên doanh với nước ngoài hàm lượng công nghệ thể hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp, mức độ hiện đại và tinh vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số ít dây chuyền công nghệ nhập vào tương đối hiện đại, còn lại phần lớn ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực, thậm chí có cả công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, gây ô nhiễm môi trường sau đó phải xử lý… III. Những thành tựu và hạn chế của FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong những năm qua 1. Những thành tựu - Một là, các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực này, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. - Hai là, hoạt động của các dự án FDI trong lĩnh vực này đã bước đầu thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ mới. - Ba là, FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho dân cư các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo cải thiện đời sống kinh tế -xã hội của nhiều vùng nông thôn. FDI trong nông nghiệp đã có tác động nhất định đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập nhẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua nguyên, vật liệu... tại Việt Nam. Nguồn thu NSNN từ khu vực FDI, cùng với đóng góp của khu vực này vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đã tạo điều kiện để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… 2. Những hạn chế 2.1. Hạn chế Khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi lưu lượng và cấu trúc dòng vốn FDI toàn cầu. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới 2009 của Liên hiệp quốc, dòng FDI sẽ giảm từ 1.700 tỷ USD trong năm 2008 xuống còn 1.200 tỷ USD trong năm 2009, sau đó có thể tăng lên 1.400 tỷ USD trong năm 2010 và 1.800 tỷ USD trong năm 2011. Về cơ cấu, do dòng vốn FDI đổ vào các nước phát triển giảm mạnh trong năm 2008, tỷ trọng FDI vào các nước đang phát triển đã chiếm tới 43% tổng lượng FDI toàn cầu. Trong sự thay đổi này, một xu thế quan trọng đối với các nước đang phát triển là dòng FDI chảy vào khu vực nông - lâm - ngư nghiệp (gọi chung là khu vực nông nghiệp) trong mấy năm trở lại đây đang tăng lên. Nếu như trong những năm 1990, lượng vốn FDI trong nông nghiệp của toàn thế giới chưa tới 1 tỷ USD/năm, thì trong giai đoạn 2008 -2010, con số này đã lên tới 3 tỷ USD/năm. Không những thế, các tập đoàn đa quốc gia ngày nay không chỉ tham gia vào các hoạt động ở hạ nguồn (như chế biến và siêu thị), mà còn mở rộng lên thượng nguồn, tham gia cả hoạt động sản xuất và ký hợp đồng tiêu thụ với nông dân, làm cho quy mô của FDI trong khu vực nông nghiệp ngày càng lớn. Trong khi FDI vào khu vực nông nghiệp của cả thế giới đang ngày một tăng, thì ở Việt Nam lại đang xảy ra điều ngược lại. Nếu như lượng giải ngân FDI trung bình trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp của Việt Nam trong 20 năm, từ 1990 đến 2010 là khoảng 100 triệu USD/năm, thì con số này giảm xuống còn 62 triệu trong giai đoạn 2005-2007 và chỉ còn 51 triệu trong giai đoạn 2008 - 2010. Tỷ trọng của FDI trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp cũng giảm một cách tương ứng. Bảng 5: Cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam năm 2010. Số dự án Vốn đăng ký (triệu USD) Tổng số 1208 23107,3 Nông nghiệp và lâm nghiệp 28 128,5 Thủy sản 1 6,0 Công nghiệp khai thác mỏ 6 397,0 Công nghiệp chế biến 388 3942,8 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 32 183,9 Xây dựng 124 652,0 Thương nghiệp, sủa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 152 261,1 Khách sạn và nhà hàng 45 9156,8 Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 131 299,8 Tài chính tín dụng 2 100,0  Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tu vấn 254 7808,4 Giáo dục và đào tạo 12 30,4 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 11 15.0 Hoạt động văn hóa và thể thao 13 107.4 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 9 18.2 Năm 2002, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm khoảng 8% trong tổng cơ cấu đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Tuy nhiên đến năm 2010, lĩnh vực này chỉ còn 0,6%. Trong khi đó, các lĩnh vực dịch vụ, bất động sản lại chiếm đến 77%; công nghiệp, xây dựng chiếm 22,4%. Năm 2010, vốn đăng ký FDI vào nước ta tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và xây dựng với 1179 dự án, tổng số vốn đăng ký 22972,8 tỷ USD. Khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2009 tạo ra 200.000 việc làm mới. Tuy nhiên, trong cơ cấu vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng có xu hướng giảm, nhất là trong 3 năm gần đây. Trong khi đó FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 2,4% tổng số dự án FDI của cả nước với 29 dự án. Vốn đầu tư cho lĩnh vực này cũng rất thấp và dàn trải, chiếm khoảng 0,6% tổng vốn đầu tư FDI. Đây là một trong những điểm yếu của chúng ta trong việc thu hút vốn FDI, mặc dù Nhà nước luôn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nhưng do hạn chế trong các giải pháp xúc tiến thương mại, chưa quan tâm đầy đủ trong việc giao đất, giải phóng mặt bằng cũng như quản lý hợp đồng đầu tư với nông dân... nên các nhà đầu tư nước ngoài rất thờ ơ. Bên cạnh đó, còn có sự phân bố không đồng đều trong nông nghiệp. Các dự án FDI chỉ tập trung vào một số ngành như: chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, thủy sản. Trong đó, đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ chiếm khoảng 78% tổng vốn FDI vào nông nghiệp. Cả nước có 453 dự án FDI đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ đã được cấp phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,7 tỷ USD, trong có 421 dự án đang có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,38 tỷ USD, nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 359 triệu USD. Và Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cho thấy, trong tổng số vốn đăng ký đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam năm 2010 khoảng hơn 11,5 tỷ USD thì đầu tư vào nhóm nông, lâm, thủy sản chỉ có 1,2%, với 20 dự án. Qua đó cũng có thể thấy vai trò của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đang tiếp tục suy giảm. Điều đáng lo ngại không chỉ ở chỗ dòng FDI vào nông - lâm - ngư nghiệp ở Việt Nam đi ngược lại thế giới, và do vậy khó tận dụng được cơ hội thị trường và lợi thế của Việt Nam, mà còn là sự không tương thích giữa tầm quan trọng của khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta. Trong khi nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới hơn 50% lực lượng lao động, đóng góp khoảng 20% cho GDP và chiếm tới 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của đất nước và khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thì tỷ trọng đầu tư cho khu vực này lại giảm gần một nửa, từ 13,8% vào năm 2008 xuống chỉ còn 7,1% vào năm 2010, chủ yếu do sự suy giảm của đầu tư nhà nước. Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này còn thiếu tính đa dạng. Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là rất ít so với các lĩnh vực khác. Trong khi FDI vào nghành công nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất với 45% tổng đầu tư FDI vào Việt Nam với 17.855 triệu USD năm 2007 với 1445 dự án, hay bất động sản là 26%, xây dựng 6%... thì ngành nông nghiêp chỉ thu hút 282.47 triệu USD chiếm 2% tổng vốn đầu tư FDI vào nước ta năm 2007 và chỉ còn 0.6% năm 2010. Rõ ràng 2% (năm 2007) và 0.6% (năm 2010) là một con số quá nhỏ chưa phát huy đầy đủ tiềm năng với một đất nước có tới gần 2/3 lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và với một nền nông nghiệp lâu đời đang đóng góp hơn 20% GDP cho quốc gia hằng năm. 2.2. Những trở ngại dẫn đến hạn chế động lực FDI vào nông nghiệp Hoạt động nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro. Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng. 2.2.1. Hoạt động kinh doanh nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro Địa bàn diễn ra kinh doanh nông nghiệp thường rộng lớn, cơ sở hạ tầng kém phát triển, tác động bất thường của điều kiện thời tiết, khí hậu khó lường. Sản phẩm nông sản mang tính thời vụ cao, dễ hư hỏng, dễ bị ảnh hưởng xấu của của dịch bệnh và sự suy thoái về chất lượng. Các doanh nghiệp FDI nông nghiệp thường tốn kém nhiều vốn vào đào tạo chuyên môn cho lao động và đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật của sản xuất nông nghiệp như thủy lợi nội đồng, đường liên thôn bản, hệ thống dẫn nước trong sản xuất nông nghiệp và các công trình phúc lợi cho công nhân tại các cơ sở chế biến nông sản, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong khi các doanh nghiệp FDI trong công nghiệp, thương mại không phải chịu những khoản đầu tư này. Tình trạng ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản đang đòi hỏi các nhà đầu tư phải tăng thêm vốn đầu tư vào xử lý chất thải và chống ô nhiễm, làm tăng thêm chi phí sản xuất. Các dự án trồng rừng và cây công nghiệp gặp nhiều khó khăn về quỹ đất giành cho họ không đủ về quy mô và mức độ tập trung để sản xuất theo yêu cầu hàng hóa lớn. Tình trạng tranh chấp về đất đai trong sản xuất nguyên liệu giữa các loại cây trồng diễn ra ngày càng phổ biến đang làm nản lòng các nhà đầu tư FDI không tự bảo vệ được vùng nguyên liệu. Những địa phương có nhiều diện tích đất trồng rừng như các tỉnh Tây Bắc thì địa hình chia cắt, giao thông khó khăn, khó tìm mặt bằng để đầu tư nhà máy chế biến và các hạng mục hạ tầng khác nên không hấp dẫn nhà đầu tư…Các dự án đầu tư FDI vào nuôi trồng thủy sản đang phải đối mặt với những thách thức về môi trường nước không bảo đảm bền vững cho hoạt động kinh doanh. 2.2.2. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ, phân tán, thiếu tính liên kết, phối hợp và không chuyên nghiệp, chưa tạo ra sức thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI Nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ với số lượng nông dân rất đông đảo cùng sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ, manh mún và chưa quen với phương thức sản xuất hàng hóa, đa số nghèo và tâm lý phức tạp. Các vùng sản xuất chưa được chuyên môn hóa với kết cấu hạ tầng đồng bộ; cơ cấu sản xuất chưa ổn định, thiếu tầm nhìn dài hạn. Các chủ thể sản xuất nông nghiệp chủ yếu là các hộ gia đình với phương thức sản xuất truyền thống, kỹ thuật giản đơn, chưa được đào tạo về chuyên môn quản lý, kỹ thuật. Họ tự quyết định đầu tư mua sắm vật tư sản xuất như giống cây, con, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, trả công lao động, cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi…trong điều kiện thiếu các dịch vụ cung ứng chuyên nghiệp đã tạo ra chất lượng các đầu vào thấp, làm cho sản xuất của nông dân không thể nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Phương thức sản xuất như vậy đã không hấp dẫn các nhà đầu tư FDI trong làm ăn với nông dân ta. Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp vốn là khách quan, ảnh hưởng không thuận đến động lực đầu tư. Trong điều kiện sản xuất nhỏ, phân tán và thiếu gắn kết giữa các hộ nông dân thì ảnh hưởng không thuận này lại càng tăng lên. Thêm vào đó hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng chưa phát triển đủ mạnh và toàn tâm phục vụ nông nghiệp, chưa tạo đủ vốn tín dụng cho người sản xuất nông nghiệp đã làm tăng gánh nặng về vốn tiền mặt ngắn hạn lên các doanh nghiệp nói chung và nhà đầu tư FDI nói riêng trong việc thu mua sản phẩm của nông dân, dẫn đến làm suy giảm động lực của họ trong đầu tư vào nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chưa hình thành được các chuỗi giá trị bền vững từ cung ứng đầu vào, canh tác trên đồng ruộng, thu hoạch, đến bảo quản, chế biến và tiêu thụ, tình trạng chia cắt, tranh chấp đã tạo ra thị trường nông sản nguyên liệu không lành mạnh, mang tính phổ biến làm nản lòng các doanh nghiệp và nhà đầu tư FDI. 2.2.3. Nhà nước chưa có chiến lược, định hướng rõ ràng, phù hợp để thu hút FDI vào nông nghiệp Cơ chế, chính sách về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu nông sản cho các dự án FDI đã cấp phép không được thực thi trong thực tế. Các dự án mía đường gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư, phát triển và duy trì các vùng mía mà nhà nước đã quy hoạch cho họ. Các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật không thể thực hiện đúng quy định sử dụng nguyên liệu trong nước với các lý do khác nhau. Số lượng và chất lượng nguyên liệu ở Việt Nam không phù hợp với dây chuyền công nghệ của nhà đầu tư, việc phát triển vùng nguyên liệu khó khăn do điều kiện hạ tầng kém, thời tiết phức tạp… Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 1-2006, nhưng các vùng thủy sản vẫn chưa được hình thành trong cả nước đã gây trở ngại cho thu hút FDI vào lĩnh vực này. Nhiều vùng sản xuất nguyên liệu nông sản chưa có quy hoạch, hoặc đã có nhưng không được thực thi nghiêm túc để tạo vùng sản xuất tập trung có uy tín, có thương hiệu với hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và đầy đủ theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa lớn cho toàn vùng. Mặt khác, do chưa có quy hoạch, hoặc quy hoạch lỏng lẻo, thiếu chế tài hữu hiệu quản lý các vùng sản xuất tập trung nên đã tạo ra sự phát triển tự do, cạnh tranh tùy tiện và cả độc quyền vô nguyên tắc đã làm cho thị trường nguyên liệu nông sản trong vùng trở nên hỗn loạn, lúc tăng, lúc giảm và tình trạng này lại được một bộ phận các nhà quản lý cả ở trung ương và địa phương xem là “đúng theo quy luật của cơ chế thị trường” đã dẫn đến kết cục là không tạo được vùng nguyên liệu phát triển ổn định, có sự kiểm soát của nhà nước về nguồn gốc, chất lượng nông sản. Vùng nguyên liệu nông sản không hấp dẫn FDI. Các danh mục dự án quốc gia gọi vốn do Chính phủ ban hành thường ít chú trọng những thông tin cụ thể về lĩnh vực nông nghiệp. Thông tin về từng dự án trong danh mục dự án quốc gia gọi vấn còn rất sơ lược, thiếu chuẩn xác, chưa chỉ rõ các vùng đầu tư ở đâu và điều kiện thế nào, và đặc biệt mang nặng mong muốn chủ quan của cơ quan chủ quản và các doanh nghiệp Việt Nam, chưa tính đến động lực và lợi ích thực tế của nhà đầu tư FDI nên không thu hút được quan tâm của nhà đầu tư FDI. 2.2.4. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với các nhà đầu tư FDI trong nông nghiệp thiếu rõ ràng và minh bạch Các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục đầu tư và tổ chức hoạt động của các dự án FDI trong nông nghiệp chưa tính hết những đặc thù như: chứa đựng nhiều rủi ro trong kinh doanh; khả năng tiên lượng về thị trường khó khăn; các mối quan hệ giữa các tác nhân trong triển khai dự án phức tạp hơn so với dự án FDI trong công nghiệp, xây dựng và thương mại… Các quy định của luật pháp về đầu tư FDI hiện nay ít phù hợp với ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan địa phương trong thẩm định, cấp phép dự án chưa nghiêm túc và rõ ràng, làm nhà đầu tư mất nhiều thời gian, chi phí giao dịch, nhất là các dự án nhạy cảm về môi trường sinh thái… Các quy định về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư FDI trong nông nghiệp còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu chỉ rõ các điều kiện và tiêu chí áp dụng, vì vậy chỉ nằm trên giấy, không vận hành vào thực tiễn. Các biểu hiện cụ thể như: - Chính sách đất đai, mặt nước chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án FDI trong nông nghiệp. Hầu hết các dự án FDI trong lĩnh vực này cần vùng nguyên liệu tập trung, đều gặp phải sự trắc trở, thậm chí là bế tắc trong tiếp cận đất đai . Nhiều dự án trồng rừng, trồng mía công nghiệp gặp khó khăn do chỉ được giao một phần nhỏ diện tích đất trồng rừng so với quy định tại giấy phép đầu tư. Các dự án trồng và chế biến rau quả gặp cản trở trong thuê đất và quan hệ với nông dân về đất đai. Các dự án thủy sản gặp khó khăn trong giao mặt nước cho nuôi trồng thủy sản ở các vùng biển do trở ngại về môi trường sinh thái trong điều kiện năng lực quản lý của Việt Nam còn hạn chế. - Chính sách tín dụng chưa hỗ trợ cho các dự án FDI; các hoạt động tín dụng tại chỗ chưa hậu thuẫn cho triển khai các dự án FDI, cho rằng chủ đầu tư không cần nguồn tín dụng này… 2.2.5. Tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản ở Việt Nam còn nhiều vấn đề mâu thuẫn, phức tạp khó xử lý Tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về nguyên liệu cho chế biến nông sản diễn ra phổ biến, liên tục và ngày càng nan giải. Tình trạng nông dân không gắn hoạt động sản xuất nông sản nguyên liệu của họ với hoạt động thu mua, chế biến của các doanh nghiệp đang đẩy tới tình trạng tranh chấp trong mua – bán nguyên liệu vừa đẩy giá nguyên liệu lúc lên cao, lúc xuống thấp diễn ra phổ biến gây bất lợi cho cả người nông dân sản xuất, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và cả lĩnh vực nông nghiệp nói chung. Phần lớn nông sản (tới 90%) được tiêu thụ ở dạng tươi sống và chế biến thô, giá trị gia tăng thấp và không có thương hiệu, nguồn gốc Việt Nam. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Định hướng phát triển nông nghiệp 1. Mục tiêu Thu hút và sử dụng có hiệu quả ĐTNN là giải pháp quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Định hướng thu hút ĐTNN trong ngành NN và phát triển nông thôn. Bảo đảm phù hợp với qui hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, qui hoạch vùng nguyên liệu. Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Sử dụng có hiệu quả nguyên liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân. Có tính khả thi cao, nhất là về địa điểm thực hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm nguồn cung cấp nguyên liệu. Kết hợp các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế với nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành. Các ngành hàng/sản phẩm cần thu hút FDI : - Ngành trồng trọt và chế biến nông sản. - Ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi. - Ngành trồng rừng - chế biến gỗ. 2. Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2007- 2011 và kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2011 và những năm tiếp theo 2.1. Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp Phấn đấu đạt chỉ tiêu tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm 4 - 4,5%. Hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phát triển mạnh các loại sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng và có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục chuyển một phần diện tích trồng lúa và các cây trồng có năng suất thấp, thị trường khó khăn sang nuôi trồng thủy sản với các cây trồng khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Quy hoạch xây dựng các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo, gỗ gia dụng... áp dụng phương thức quản lý rừng bền vững tạo lâm phần ổn định lâu dài. Đẩy nhanh tiến độ trồng rừng kinh tế hiệu quả cao. Tiếp tục triển khai việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng hiện có. Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH) ngành muối, nhân rộng mô hình sản xuất muối sạch, tạo ra năng suất, chất lượng cao, tiến tới không nhập khẩu muối nguyên liệu công nghiệp. Có kế hoạch về các biện pháp phòng, chống thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng... 2.2. Về phát triển công nghiệp nông thôn Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có thế mạnh cạnh tranh quốc tế như: gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều, và một số loại rau quả, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12%/năm. Đối với chế biến lâm sản, tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ở các cơ sở hiện có, khuyến khích xây dựng mới một số máy chế biến lâm sản có giá trị tăng cao. Tạo điều kiện với hỗ trợ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển cơ sở chế biến lâm đặc sản, nhựa thông, cánh kiến, quế hồi. Có chính sách hỗ trợ tích cực để phát triển các làng nghề, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và tham gia dịch vụ chế biến, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch... Thực hiện xã hội hóa dịch vụ ở nông thôn, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. 2.3. Về phát triển nông thôn Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp đặc biệt hỗ trợ cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, các chương trình 135, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; lồng ghép các chương trình trên từng địa bàn để đạt hiệu quả cao hơn. Tiếp tục huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tięn các công trình có hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân.... 2.4. Về khoa học công nghệ và đào tạo Xây dựng hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả năng tiếp thu, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý khoa học, gắn khoa học với sản xuất. Trong 5 năm tới việc nghiên cứu khoa học nông nghiệp cần tập trung vào chọn tạo các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao phù hợp với các vùng; các biện pháp thâm canh cây trồng, nuôi dưỡng gia súc, công nghệ sau thu hoạch, những vấn đề kinh tế, quản lý trong cơ chế thị trường. Tăng cường hệ thống khuyến nông, lấy đây làm động lực để đẩy mạnh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ mới. Mỗi Viện, Trường phải xây dựng điểm trình diễn công nghệ mới, công nghệ cao. Với các trường hướng vào nội dung phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đa dạng hóa đối tượng đào tạo, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn; nghiệp vụ quản lý cho cán bộ HTX, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Tăng cường công tác thú y, bảo vệ thực vật, hệ thống quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc thú y và phân bón. 2.5. Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế Chú trọng mở rộng thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn, miền núi, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước. Tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chắp nối bạn hàng và đối tác kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi với khuyến khích thương mại tư nhân cùng HTX tạo thành mạng lưới đại lý tiêu thụ chủ yếu và là đối tác cơ bản ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trong việc tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng trên địa bàn nông thôn. Tập trung triển khai các cam kết với ASEAN trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là an ninh lương thực, xúc tiến thương mại, thú y, bảo vệ thực vật, lâm nghiệp, thực hiện các cam kết với WTO về nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, thú y với các nước nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Hỗ trợ với hướng dẫn các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu nông lâm sản, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng với quản lý chất lượng nông sản hàng hóa, hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký với bảo vệ thương hiệu hàng hóa. Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường để đáp ứng yêu cầu định hướng đầu tư với phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, nông dân. 2.6. Định hướng đầu tư xây dựng cơ bản với quản lý đầu tư Trong 5 năm tới, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách với các nguồn khác vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2007 - 2011 phải được tiếp tục điều chỉnh theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Hướng đầu tư vẫn tiếp tục ưu tiên cho các chương trình, dự án chọn tạo, nhân giống cây tồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp; nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo, Chương trình 135, Chương trình nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, těm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường công tác thông tin thị trường. Về thủy lợi, ưu tiên bố trí vốn đầu tư để tu bổ các hệ thống đê, các công trình có thể sớm hoàn thành và đi vào sử dụng sẽ có hiệu quả cao. Tiếp tục chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng nguồn vốn Nhà nước, bảo đảm kỷ cương trong công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi Ngành ở tất cả các cấp, các đơn vị, kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư. II. Giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam 1.  Thứ nhất: hỗ trợ, ưu đãi các dự án FDI trong nông nghiệp Các dự án FDI trong nông nghiệp mặc dù được xem thuộc diện khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư và Nhà nước đã áp dụng biện pháp ưu đãi đầu tư với các hình thức: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, tiền thuê đất và các hình thức ưu đãi khác. Trong những năm tới cần tiếp tục những hình thức ưu đãi và hỗ trợ này, tuy nhiên để thực hiện những cam kết WTO của Việt Nam về chính sách hỗ trợ nông nghiệp thì việc xem xét để chỉnh sửa các quy định về ưu đãi và hỗ trợ các nhà đầu tư FDI trong nông nghiệp cho phù hợp với cam kết là cần thiết. Cụ thể là: - Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ hiện hành đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí về khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước; - Tăng cường các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây. Bao gồm: các biện pháp cho nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nông sản phục vụ công nghiệp chế biến; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản; áp dụng hạn ngạch thuế quan thay thế cho biện pháp cấm và áp dụng hạn ngạch về khối lượng nhập khẩu đối với một số mặt hàng như đường, sữa đồng thời đánh thuế nhập khẩu theo mùa; áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối nhập khẩu nguyên thô phục vụ chế biến như đường thô(3), sữa bột… - Tiếp tục áp dụng biện pháp ưu đãi thuế thu nhập đối với các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Có chính sách trợ cấp cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn thất vì thiên tai, bị rủi ro về biến động giá thị trường nông sản. Trong điều kiện hạn chế về tài chính, cần tiếp tục nghiên cứu giải pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nhằm tăng năng lực phòng chống thiên tai, hạn chế rủi ro dịch bệnh, biến động giá nông sản… Chú trọng biện pháp lập và sử dụng quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các trường hợp này. 2. Thứ hai: hỗ trợ vốn tín dụng cho dự án FDI Hiện nay nguồn vốn tín dụng cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu từ các nguồn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng người nghèo, các chương trình, dự án mục tiêu quốc gia và nguồn của một số ngân hàng cổ phần hoạt động ở nông thôn, điển hình là ngân hàng Liênvietbank…nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nông dân và doanh nghiệp. Do vậy, cần phát triển mở rộng phần cung của thị trường vốn tín dụng tại các vùng nông nghiệp nói chung và vùng có các dự án FDI nói riêng theo những hướng sau: - Xem xét để xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn tín dụng của các ngân hàng có nguồn vốn nhà nước. Theo đó, các dự án FDI trong nông nghiệp cũng là đối tượng được hưởng cả 3 chế độ tín dụng từ Ngân hàng phát triển gồm: vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, cần tạo điều kiện về thủ tục để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thuận lợi nguồn tín dụng ưu đãi này; - Hướng dẫn kênh hỗ trợ vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp từ Ngân hàng phát triển để tạo nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp FDI đang triển khai một số dự án đầu tư tạo giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu… - Áp dụng cơ chế bảo lãnh, thế chấp để doanh nghiệp FDI có dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được tiếp cận thuận lợi; - Xem xét phân bổ một phần vốn ODA vào đầu tư hạ tầng nơi triển khai các dự án FDI về mía đường, cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng… 3. Thứ ba: về đất đai, mặt nước tạo thuận lợi cho dự án FDI Cần mạnh dạn thực hiện các chính sách sau: - Chính quyền địa phương chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu nông sản cho nhà đầu tư gắn với các hình thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ nông dân sang nhà đầu tư trên cơ sở thỏa thuận giữa nhà đầu tư với doanh nghiệp theo quy định của Luật đất đai hiện hành về các hình thức cho thuê hoặc góp vốn bằng đất để cùng kinh doanh nông nghiệp; - Ngân sách hoặc các nguồn vay ODA của Việt Nam thực hiện đầu tư giải phóng mặt bằng tại các vùng dự án triển khai; - Mở rộng và đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong việc chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư, đi đôi với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định theo quy hoạch của nhà đầu tư. Đơn giản hóa thủ tục trong việc xác nhận hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận chuyển giao quyền sử dụng từ nông dân sang nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư có tài sản hợp pháp về đất để thế chấp khi cần vay vốn tại các tổ chức tín dụng để đầu tư theo nhu cầu của dự án; - Từng địa phương tiến hành quy hoạch lại việc sử dụng các loại đất của các dự án FDI trong nông nghiệp và xác định kế hoạch sử dụng đất lâu dài cho từng dự án FDI trong nông nghiệp trên địa bàn và chính thức hóa vào hồ sơ rà soát quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương. 4. Thứ tư: hỗ trợ nhà đầu tư FDI phát triển vùng nguyên liệu Việc xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao và nằm trong sự kiểm soát của nhà nước là yêu cầu rất bức xúc của các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho từng dự án FDI trong nông nghiệp hiện nay. Vì vậy, cần khuyến khích các nhà đầu tư cùng với Chính phủ Việt Nam đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu trong nước để đáp ứng đúng yêu cầu kinh doanh của nhà đầu tư và đảm bảo lợi ích của nông dân đã chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư FDI. Chính sách cùng đầu tư phát triển vùng nguyên liệu nông sản nên theo định hướng sau: - Ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn dưới hình thức cho nhà đầu tư FDI vay để xây dựng các hạng kết cấu hạ tầng cứng và mềm cần thiết và sử dụng lâu dài vùng nguyên liệu; - Ngân sách nhà nước và các tổ chức dụng triển khai các hình thức tín dụng ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp vào cây trồng để tạo vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu kinh doanh có hiệu quả. - Chính quyền tỉnh và các huyện có vùng nguyên liệu của dự án FDI có trách nhiệm bảo vệ và duy trì các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho dự án FDI để đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu tập trung cho nhà đầu tư; - Xác định quyền và trách nhiệm cho nhà đầu tư trong việc đưa ra các biện pháp bảo vệ vùng nguyên liệu của họ. Nhà nước nghiên cứu đưa ra các quy định phù hợp về cả quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư với vùng nguyên liệu, đủ đảm bảo giúp nhà đầu tư duy trì và phát triển các vùng nguyên liệu, đồng thời có chính sách hỗ trợ nhà đầu tư xây dựng hạ tầng của vùng nguyên liệu theo quy hoạch. Đồng thời nhà nước cùng nhà đầu tư chăm lo xây dựng các cơ sở văn hóa giáo dục, cơ sở hạ tầng của nông thôn của các cộng đồng dân cư vùng nguyên liệu nhằm gắn lợi ích của họ với vùng nguyên liệu. 5. Thứ năm: phát triển nguồn nhân lực Để khắc phục những yếu kém và nâng cao tính hấp dẫn của nguồn nhân lực trong các dự án FDI trong nông nghiệp, Nhà nước cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động làm việc cho các dự án này. Chính quyền tỉnh hỗ trợ các nhà đầu tư tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn đội ngũ lao động trực tiếp và lao động gián tiếp cả về kiến thức ngoại ngữ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và kiến thức về thị trường cho người lao động tại chỗ, trong đó có lao động làm việc cho FDI. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư FDI tiếp cận người dân, gia đình những người làm việc cho FDI để tạo sự hiểu biết, chia sẻ và hiểu biết lẫn nhau, qua đó phát triển nguồn nhân lực địa phương nói chung và nguồn nhân lực làm việc cho FDI. KẾT LUẬN Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu có nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học. Công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ta luôn coi trọng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đại được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu nói trên phải thực hiện tổng hợp các biện pháp trong đó việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng hàng đầu, và đây cũng là vấn đề mới mẻ đối với nước ta, nó vừa được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh công khai quyết liệt trên thị trường đầu tư giữa các nước trên thế giới và khu vực. Những chính sách và biện pháp huy động vốn đầu tư nước ngoài, quan trọng là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt là đầu tư vào nghành nông nghiệp được coi là nền tảng của kinh tế Việt Nam. Nhà nước cần phải đưa ra những chính sách phù hơp với điều kiện hiện tại của đất nước nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư FDI vào Việt Nam nói chung, và tăng cường khả năng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Có như vậy mới góp phần thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra. Trong quá trình làm bài đã giúp em học hỏi được nhiều điều bổ ích và hiểu rõ hơn về những hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Mặc dù em đã cố gắng trong việc sưu tầm và tìm tài liệu nhưng lượng kiến thức và thời gian còn hạn hẹp, nên bài viết còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi sai sót. Một lần nữa em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để bài đề án môn học của em được hoàn thiện hơn. Quy Nhơn, ngày 30/12/2011 Sinh viên thực hiện Phan Thị Minh Hiền DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH. [1]. ThS Lê bảo, 2002, Kinh tế đầu tư (tập I, II), Đà Nẵng. [2]. PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, 2008, Lập dự án đầu tư, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. [3]. Một số trang báo điện tử khác. Trang web của bộ kế hoạch đầu tư: mpi.gov.vn/ Bộ NN và PTNT: www.agroviet.gov.vn/ Tổng cục thống kê : www. gso.gov.vn/ [4]. Các webside như: báo lao động, Google.com.vn, Tailieu.com.vn …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 26.doc
Tài liệu liên quan