Trong điều kiện hội nhập sâu rộng hiện nay, chính phủ Việt Nam cần tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. chính phủ có thể giúp tạo lập một môi trường kinh doanh tốt để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện cần thiết để phát triển. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thương hiệu, chính phủ Việt nam cần thực hiện những biện pháp sau:
Tăng cường quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và thương hiệu nói riêng. Thương hiệu của hàng việt nam xuất khẩu cần trước hết được tôn trọng và bảo vệ chặt chẽ tại việt nam, mọi hành vi xâm phạm cần được xử lý nghiêm minh để một mặt giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp trong nước, mặt khác tạo tâm lý an tâm và kích thích các doanh nghiệp phát triển thương hiệu tại nước ngoài. Các cơ quan chức năng nên kiến nghị Chính phủ để xem xét và nâng mức phạt vi phạm thương hiệu cao hơn nữa (Với các hành vi nhái thương hiệu có thể dùng mức phạt tối thiểu đến 100 triệu đồng) và cử lý hình sự nếu vi phạm nghiêm trọng. Cục sở hữu trí tuệ cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.
Để giúp đỡ các doanh nghiệp trong đăng kí thương hiệu tại nước ngoài (như hướng dẫn, cung cấp thông tin, xử lý vi phạm ).
Phát triển hệ thống đào tạo về thương hiệu. Chính phủ có thể cung cấp sự hỗ trợ bằng việc phát triển nhiều hơn nữa các cơ sở giáo dục để đào tạo những nhà thiết kế và chỉ đạo nghệ thuật. Chỉ tính riêng tại Mỹ hàng năm có khoản 10.000 nhà thiết kế đồ hoạ và giám đốc nghệ thuật tốt nghiệp từ các trường đào tạo chính quy. Bên cạnh những kỹ năng sáng tạo mà họ được đào tạo trong trường lớp, các nhà thiết kế này có điển thuận lợi là được sinh ra và lớn lên trong môi trường mà hàng ngỳa có hàng ngàn hình ảnh tiếp thị bao quanh. Trung Quốc hiện nay cũng đang trong quá trình mở rộng một số trường đào tạo các ngành nghề có liên quan tới thiết kế từ 400 lên 1000 trường. Trong tương quan so sánh, ở Việt Nam hiện nay chỉ có một số trường Đại học có chuyên khoa về thiết kế truyền thông marketing. Theo ước tính hàng năm số sinh viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo thiết kế đồ hoạ chình quy tại Việt Nam không đến 200. Trình độ thẩm mỹ và khả năng sáng tạo của nhiều cử nhân này khá cao và nhìn chung môi trường marketing tại Việt Nam qua hơn 10 năm qua phát triển cũng đang dần cải thiện và rèn luyện thêm những kỹ năng này. Tuy nhiên hiện Việt Nam đang thiếu trầm trọng những người có khả năng gắn kết một cách hiệu quả những kỹ năng nghệ thuật của mình với những nhu cầu marketing thực tế trên thị trường.
61 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1755 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư vào tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu về sở hữu trí tuệ nói chung còn ít. Rất ít doanh nghiệp có phòng, ban, bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ còn thể hiện ở chính sách đầu tư của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư rất lớn cho lĩnh vực tài sản vật chất như nhà xưởng máy móc, thiết bị… nhưng hầu như không đầu tư gì cho lĩnh vực tài sản trí tuệ, không đầu tư cho viêc tạo ra, đăng ký xác lập quyền khai thác sử dụng và phát triển tài sản trí tuệ của mình.
Ông Trần Quang Huy, Chuyên viên kỹ thuật Công ty cổ phần Xi măng Bắc Giang cho biết:” Không chỉ riêng công ty này, mà đa số các công ty thuộc tỉnh Bắc Giang đều chưa quan tâm đến vấn đề sở hữu trí tuệ. Nguyên nhân chính là do công ty chỉ hoạt động kinh doanh trong địa bàn tỉnh, sản lượng làm ra được tiêu thụ hết chứ không để tồn kho nên chưa quan tâm đến vấn đề này.
Hiện nay, công ty có ý định mở rộng sản xuất và thị trường tiêu thụ, nên bắt đầu quan tâm tới vấn đề sở hữu trí tuệ”
Cũng vấn đề này, ông Trần Duy Chiến, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế nói: “Đa số doanh nghiệp trong tỉnh đều là những doanh nghiệp nhỏ và vừa nên quy mô sản xuất , vốn đầu tư, hiểu biết về văn hoá doanh nghiệp… còn hạn chế. Từ đó, dẫn đến sự thiếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ, mặc dù sở đã có nhiều hoạt động tuyên truyền, đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp đối với vấn đề này.
Đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa: Nhãn hiệu có vị trí đặc biệt quan trọng và trở thành “linh hồn” của mỗi doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Hiện nay, cùng với bằng sáng chế, bằng kiểu dáng công nghiệp và tên gọi xuất xứ, nhãn hiệu là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ nhiều nhất ở Việt Nam. Mỗi năm, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được không dưới 17.000 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá từ các doanh nghiệp trong nước và hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, trong số hơn 110.000 nhãn hiệu được đăng ký và bảo hộ ở Việt Nam thì chủ yếu là của doanh nghiệp nước ngoài (chiếm tới 75%) và còn lại là của doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù trong những năm qua, lượng đơn đăng ký từ doanh nghiệp trong nước đã tăng lên đáng kể nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ với việc bảo hộ nhãn của mình.
Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhãn hiệu bị nhái, bị đánh cắp, tranh chấp. Thực tế ở Việt Nam mỗi năm đã có tới trên 3.000 vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, hàng trăm vụ làm hàng giả và vi phạm nhãn hiệu bị xử tại toà hình sự.
Đặc biệt, số vụ vi phạm sở hữu công nghiệp mỗi năm một tăng mạnh. Nếu như năm 2000, mới chỉ có 176 vụ vi phạm thì đến năm 2002 đã tăng lên 395 vụ và năm 2004 là 404 vụ.
Theo ông Lê Văn Kiều, Chánh thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ, hàng năm, thanh tra Bộ đã kết hợp cùng công an kinh tế phát hiện, xử lý hàng trăm vụ vi phạm kiểu dáng, nhãn mác, nhãn hiệu hàng hoá. Không phủ nhận đã có nhiều doanh nghiệp xây dựng, quan tâm đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình nhưng cũng vẫn còn không ít đơn vị không đầu tư tạo dựng thương hiệu mà ăn cắp, nhái nhãn mác hàng hoá... để làm hàng giả, hàng kém chất lượng.
Tại Việt Nam, đã có một số nhãn hiệu được định giá trong quá trình chuyển nhượng và góp vốn kinh doanh như: “P/S” (được định giá 5 triệu USD năm 1996), “Dạ Lan” (được định giá 2,5 triệu USD vào năm 1997). Mặc dù mức này còn khiêm tốn so với các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nhưng nó là khá cao ở Việt Nam và là minh chứng cho giá trị của nhãn hiệu các doanh nghiệp cần phải gìn giữ, bảo vệ.
II. Đánh giá tình hình đầu tư tài sản vô hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp
1. Đánh giá tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Chế độ đãi ngộ công nhân viên còn chưa thoả đáng. Mặc dù hiện nay, các doanh nghiệp đang ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nhưng trên thực tế, họ vẫn chưa có những biện pháp nhằm nâng cao tinh thần ý thức trách nhiệm của người lao động, tạo ra sự gắn kết người lao động đối với tổ chức, doanh nghiệp của mình. Chúng ta có thể đơn cử một ví dụ điển hình là chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động- vốn là điều bắt buộc thì hiện nay vẫn chưa được các doanh nghiệp thực hiện một cách nghiêm túc. Theo số liệu thu thập được, thì đến năm 2005 mới chỉ có 20,8% số doanh nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, còn thấp hơn tỷ lệ năm 2004 là 23,1%; trong đó doanh nghiệp nhà nước là 99,0%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 10,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 81,0%. Nếu so với số doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên (là doanh nghiệp bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động) thì cũng chỉ đạt 40,0% (năm 2004 là 45,6%). Trong đó; doanh nghiệp nhà nước thực hiện 100%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 23,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 87,3%, Như vậy vẫn còn 60,0% số doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc nhưng chưa thực hiện Luật Lao động quy định về bảo hiểm xã hội cho người lao động. Ðiều đáng lưu ý hơn là tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động so với tổng quỹ lương vốn đã thấp, song lại có xu hướng thấp dần, năm 2004 là 8,68%; năm 2005 còn 7,37% (kể cả bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và bảo hiểm xã hội).
Bên cạnh đó, chế độ tiền lương tiền thưởng cho người lao động vẫn còn rất nhiều bất cập. Trong khi tiền lương hiện nay được điều chỉnh với xu hướng tăng lên một cách chậm chạp thì giá cả lại ngày càng leo thang, trong đó lương thực thực phẩm – vốn là mặt hàng thiết yếu của người lao động thì lại là mặt hàng có tỉ lệ tăng giá cao nhất hiện nay. Chính điều đó đã gây ra rất nhiều khó khăn cho đời sống của người lao động.
Những vấn đề bất cập liên quan đến hoạt động đào tạo và đào tạo lại trong doanh nghiệp. Mặc dù nhu cầu đào tạo nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam hiện nay là rất lớn nhưng do không xác định được nhu cầu đào tạo, phương pháp và nội dung đào tạo nên mức độ đầu tư cho đào tạo nhân lực của nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa mang lại hiệu quả thỏa đáng.
Một thực trạng đáng buồn là chất lượng đào tạo ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều bất cập. Theo kết quả khảo sát trong 2 năm (2004-2006) trên gần 5.500 người tham gia theo hình thức trả lời theo phiếu điều tra được Bộ GD-ĐT công bố ngày 4/1/2008 cho thấy, trên 50% số SV tốt nghiệp phải đào tạo lại với lý do chủ yếu là do chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. 36,3% số doanh nghiệp đã trả lời SV phải được đào tạo lại các kỹ năng, 28,3% phải đào tạo lại chuyên môn và 33,6% phải đào tạo lại cả kỹ năng và chuyên môn. Với mục đích đào tạo nhân lực cho xã hội, việc làm của SV tốt nghiệp là một chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động đào tạo của các trường ĐH tuy nhiên đa số các trường hiện nay chưa có bộ phận theo dõi về vấn đề này.
Hay như trong một cuộc khảo sát do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI phối hợp với hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội tổ chức trên 679 nhà doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực về vấn đề đào tạo nhân lực và đào tạo quản lý thì phần lớn các doanh nghiệp đều khẳng định, đào tạo nhân lực có thể góp phần đáng kể vào việc giải quyết khó khăn mang tính chiến lược. 84,4% số doanh nghiệp cho rằng, dịch vụ đào tạo quản lý là rất cần thiết và sẵn sàng tham gia các khóa đào tạo. Thế nhưng, số doanh nghiệp đã tham gia đào tạo chỉ chiếm 40,9% và chỉ có 44,9% doanh nghiệp tham gia hai khóa đào tạo trở lên. Điều này phần nào cho thấy, chất lượng đào tạo các trung tâm chưa thuyết phục và tạo được ấn tượng với các doanh nghiệp.
Phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo tay nghề cho người lao động (chiếm 85,06%), chứ không phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung. Điều này dẫn đến chi phí đào tạo cho lao động cao, nhưng trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật của lao động thấp. Trong một khảo sát về lĩnh vực này, tỷ lệ đào tạo giữa Đại học, Trung cấp, Công nhân kỹ thuật là 110,8310,6. Một vấn đề thuộc chiến lược giai đoạn - đào tạo quốc gia được đặt ra là sớm khắc phục mô hình "hình tháp lộn ngược" này để lao động Việt Nam được đào tạo lành nghề, có năng suất cao chứ không phải chỉ vì "giá rẻ", thực sự trở thành một lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Thiếu nhân sự quản lý cấp cao và công nhân kĩ thuật có tay nghề. Có thể khẳng định rằng nhân lực quản lí cấp cao và công nhân kĩ thuật có tay nghề cao chính là 2 bài toán hết sức nan giải đối với bất cứ một doanh nghiệp nào trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay.
Lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay chỉ đảm bảo về mặt số lượng, còn về chất lượng thì đang có rất nhiều hạn chế. Trình độ văn hoá của người lao động thấp, thể hiện : tỉ lệ người lao động chưa biết chữ chiếm 4,04%, chưa tốt nghiệp tiểu học 13,09%, tốt nghiệp tiểu học 29,08%, tốt nghiệp trung học cơ sở 32,57%, tốt nghiệp trung học phổ thông 21,23%( 2003). Trình độ chuyên môn, kỹ thuật non yếu, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp: tỷ lệ chưa qua đào tạo 74,67%, công nhân kỹ thuật không có bằng 10,59%, công nhân kỹ thuật có bằng và chứng chỉ 3,54%, sơ cấp 0,97%, trung học chuyên nghiệp 4,73%, cao đẳng và đại học trở lên 5,5%
Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, trình độ dân trí của lao động Việt Nam cao, có truyền thống lao động cần cù, ham học hỏi, khéo tay, nhanh trí... nhưng trên thực tế năng suất lao động của chúng ta lại chỉ ở mức trung bình và thấp (trên 60%), chủ yếu lại là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Do đó nếu so sánh lao động Việt Nam với lao động các nước trong khu vực thì có thể nói đây là điểm yếu của Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu xét chi phí lao động thì chi phí lao động của Việt Nam cao hơn nhiều so với Inđônêxia, nếu xét tới lao động có trình độ kỹ thuật và có năng suất cao thì lao động Việt Nam lại không thể so sánh với Thái Lan, Malaixia, Singapo.
2. Đánh giá tình hình đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Thiếu vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Có thể nói rằng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều đang gặp những vướng mắc trong quá trình huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ. 90% các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, 86,2% số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng (tương đương 32 triệu USD) chưa phải là lớn nhưng cũng chỉ chiếm gần 0,4% (cả nước có 260 doanh nghiệp ở thời điểm 01/01/2003). Thực trạng đó, ngoài nguyên nhân do tiềm lực của các nhà đầu tư chưa mạnh, nhưng có nguyên nhân quan trọng là thị trường vốn chưa hoàn chỉnh, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Qua số liệu về cơ cấu vốn đầu tư tăng thêm của năm 2004 cho thấy vốn vay tín dụng chỉ chiếm 38% trong tổng vốn đầu tư tăng thêm trong năm, vốn tự có trên 49%, vốn từ ngân sách nhà nước 4% và các nguồn huy động khác gần 9%. Trong 38% vốn tín dụng thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 56,4%, trong số đố 63,4% là vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước, như vậy nguồn vốn tín dụng đã thấp, nhưng quá nửa dành cho doanh nghiệp nhà nước, còn lại ưu thế thuộc về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu khó khăn nhiều hơn khi tiếp cận với nguồn vốn tín dụng và luôn phải kinh doanh trong tình trạng thiếu vốn.
Trong tổng số vốn hiện có của các doanh nghiệp, vốn đầu tư vào tài sản cố định khoảng gần 60%. Vốn dùng cho đầu tư mở rộng sản xuất chủ yếu là doanh nghiệp phải tự huy động bằng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Quy mô vốn tự có của các doanh nghiệp đều rất nhỏ, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao, đặc biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển quy mô hoạt động và đổi mới, nâng cao chất lượng thiết bị công nghệ.
Công nghệ còn lạc hậu, không đồng bộ, chỉ yếu nhập ngoại. Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ, 80 - 90% công nghệ chúng ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập trong đó 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao.
Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại năng lực yếu nhất” của các doanh nghiệp Việt Nam.
Một thực tế khác là các máy móc nhập ngoại hiện nay đều là những dây chuyền công nghệ đã khấu hao hết ở các nước sở tại nhưng do không nghiên cứu, đánh giá công nghệ kĩ càng trước khi nhập nên các doanh nghiệp đến khi mua về và bước đầu đưa vào sản xuất, phải cạnh tranh trên thị trường thì mới nhận ra rằng công nghệ vừa mua quá lạc hậu so với thế giới. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhiên hiện nay nó cũng đang xảy ra phổ biến ở các doanh nghiệp tư nhân vì thiếu thông tin. Một số trường hợp công nghệ lúc mua là loại tiên tiến nhất, nhưng do xác định công suất quá lớn so với khả năng nguyên liệu lúc bấy giờ, cho nên 10 - 15 năm sau vẫn chưa thu hồi được vốn, không có tiền đổi mới công nghệ nên lại trở thành lạc hậu.
Các DN chưa đầu tư hợp lí cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D). Nhận thức về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ đối với sự tồn tại và tăng trưởng của doanh nghiệp hiện nay còn non kém, tư duy về công nghệ còn lỗi thời nên việc đầu tư đổi mới công nghệ còn chưa được chú trọng. Theo một cuộc khảo sát 100 doanh nghiệp ở Hà Nội và Tp.HCM thì mức đầu tư cho đổi mới thiết bị - công nghệ của các doanh nghiệp này chỉ chiếm trung bình 3% doanh thu của cả năm, đa số đang sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước.
Có thể nói rằng, ý thức về tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị đối với sự sống còn của doanh nghiệp hiện nay còn chưa cao. Sau hơn 4 năm Luật doanh nghiệp ra đời và hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập nhưng mức đầu tư cho thiết bị mới vẫn gần như không thay đổi.
Theo kết quả điều tra mới đây của 2 tổ chức Swiss Contact (Thụy Sĩ) và GTZ (Đức) tiến hành trên 1.200 doanh nghiệp tại Việt Nam, chỉ có khoảng 0,1% doanh nghiệp có sử dụng tư vấn khi đầu tư mua sắm công nghệ.
Trình độ của đa số công nhân kỹ thuật trong các doanh nghiệp hiện mới chỉ hạn chế ở năng lực tiếp thu và vận hành những công nghệ sẵn có một cách thụ động. Hiện nay trong đầu tư các doanh nghiệp chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công nghệ hàm chứa cả 4 yếu tố là: thiết bị, con người, thông tin và thiết chế. 4 yếu tố này có đồng bộ thì mới phát huy được tác dụng của công nghệ. Vì không thấy được các yếu tố phần mềm của công nghệ (thông tin, con người, thiết chế) cho nên các doanh nghiệp rất coi nhẹ chuyển giao công nghệ. Hiện tại có tới 95% chuyển giao là do các công ty mẹ ở nước ngoài chuyển cho các công ty con đầu tư ở Việt Nam. Số tiền chi phí chuyển giao công nghệ từ các công ty Việt Nam trả cho công ty nước ngoài là rất ít.
Quyền sở hữu trí tuệ chưa được thực thi nghiêm túc. Việc quyền sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng ở Việt Nam cũng đã trở thành một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp khi họ muốn bỏ vốn vào đầu tư nghiên cứu và triển khai công nghệ. Sở dĩ như vậy vì một công ty khi bỏ hàng tỷ đồng để nghiên cứu sản xuất một loại sản phẩm mới hay cải tiến, nâng cấp một loại sản phẩm cũ đã có trên thị trường thì khi sản phẩm này ra đời, lại có nguy cơ bị các doanh nghiệp khác làm giả, làm nhái, hay sử dụng bí quyết công nghệ mà doanh nghiệp đã dày công nghiên cứu mà không tốn bất cứ một chi phí nào.
Chính điều này đã triệt tiêu động lực cho các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu công nghệ. Theo thống kê của Cục SHTT Việt Nam, số lượng doanh nghiệp Việt Nam nộp đơn xác lập các quyền SHTT chiếm tỷ lệ thấp so với doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ, cho đến hết năm 2005, đơn đăng ký sáng chế chỉ là 9,24%, giải pháp hữu ích là 60,13%, kiểu dáng công nghiệp là 84,32%, nhãn hiệu hàng hoá là 58,12%...Và số lượng văn bằng được cấp, sáng chế chỉ là 4,5%, giải pháp hữu ích là 60%, kiểu dáng là 86%, nhãn hiệu hàng hoá là 53%...
3. Đánh giá tình hình đầu tư vào hoạt động marketing.
Các doanh nghiệp VN chưa quan tâm tới việc xây dựng thương hiệu trên thị trường nước ngoài. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất về top 200 doanh nghiệp Việt Nam của UNDP thì phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam được hỏi đều cho rằng tạo dựng thương hiệu ở nước ngoài là việc làm tốn kém và khó khăn. Hầu hết các doanh nghiệp việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế thông qua các tập đoàn phân phối toàn cầu dưới thương hiệu của họ. Những tập đoàn này không sẵn sàng chấp nhận việc các doanh nghiệp Việt Nam tạo dựng thương hiệu độc lập. Theo số liệu của Văn phòng sở hữu trí tuệ quốc tế WIPO thì kể từ khi nhãn hiệu đầu tiên của Việt Nam được đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid (năm 1986) đến tháng 10/2007, mới có 156 nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký và nộp đơn theo hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế theo Madrid, trong khi đó, số lượng nhãn hiệu từ các nước chỉ định đăng ký tại Việt Nam là 59.014. Nhìn vào con số này có thể nhận thấy số lượng nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký quốc tế còn rất hạn chế so với số lượng nhãn hiệu từ các nước chỉ định vào Việt Nam.
Doanh nghiệp vẫn thờ ơ với bảo hộ thương hiệu. Hàng xuất khẩu của việt nam có mặt tại gần 200 thị trường, trong 5 năm từ 2001- 2005 mang lại 110,8 tỉ USD , năm 2006 mang về gần 40 tỷ USD nhưng mới khoảng 1000 thương hiệu được đăng ký ở nước ngoài. Tình trạng hàng xuất khẩu việt nam sang thị trường nước ngoài bị mất tên và thương hiệu đang là một thực tế diễn ra.
Năm 1998, thương hiệu nước mắm Phú quốc bị công ty Kimseng tại California đăng kí. Tháng 11/2000 đến lượt cà phê Trung Nguyên bị công ty Rice Field Corp nhanh tay ghi danh tại Hoa Kì, rồi họ chào bán cho chính Trung Nguyên với giá nhiều triệu USD. cuối năm 2002, thương hiệu Petro Viet Nam đã bị doanh nghiệp Nguyễn Lai đăng ký tại Mỹ. thuốc lá Vinataba bị chiếm dụng thương hiệu tại 12 thị trường. Gạo Nàng Hương, soài cát Phú Lộc, Phồng tôm Sa Đéc…cũng đã bị mất thương hiệu ở nhiều nước.
Điển hình nhất có lẽ là trường hợp võng xếp Duy Lợi, doanh nghiệp đã mất quyền xuất khẩu khi chỉ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và kiểu dáng công nghiệp trong nước mà không đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài nên đã bị đối tác đăng ký bảo hộ dưới dạng sáng chế. Hàng dệt may, giày dép, kim ngạch xuất khẩu thuộc top đầu, nhưng chủ yếu gia công nước ngoài, nên phải mang thương hiệu của các tập đoàn công ty lớn. Một số nông lâm sản vững vàng vị thế cao trên trường thế giới, song đa phần xuất khẩu qua trung gian nên gần như phải mang thương hiệu nước ngoài hoặc thuần tuý chỉ là thương hiệu nhà phân phối.
Sức cạnh tranh của thương hiệu Việt Nam còn yếu. Với sự góp mặt của nhiều thương hiệu lớn trên thế giới thì cuộc chiến giữa các thương hiệu nội và ngoại (Daso với Tide và Omo; Tribeco với Coca-Cola và Pepsi; Bia Hà Nội với Heineken… ) đang được đánh giá là không cân sức.
Theo kết quả nghiên cứu của công ty GFK, các sản phẩm thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 6% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn; 48% là các sản phẩm có thương hiệu Nhật Bản và 35% các thương hiệu Hàn Quốc. Đối với sản phẩm điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%; các thương hiệu Nhật chiếm 53%; các thương hiệu Hàn Quốc là 35%.
Theo kết quả nghiên cứu của tập đoàn đa quốc gia Millward Brown và công ty nghiên cứu thị trường Custumer Insights vừa công bố năm 2007, trong 10 thương hiệu thành công nhất ở Việt Nam, chỉ có Kinh Đô là thương hiệu Việt Nam duy nhất lọt vào danh sách này. Kết quả này được nghiên cứu trên 4000 người tiêu dùng ở Hà Nội và TPHCM 10 thương hiệu để lại ấn tượng cho số đông người tiêu dùng cho người Việt Nam gồm có: Nokia, Dutch Lady, Panadol, Coca- Cola, Prudeltial, Cool Air, Kinh Đô, Alpenliebe, Doublemint và Sony.
III. Những vấn đề tồn tại trong đầu tư vào tài sản vô hình doanh nghiệp
Nếu như trước kia, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ quan tâm chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị tức tài sản hữu hình thì ngày nay, họ đã chú trọng hơn tới các hoạt động marketing quảng bá thương hiệu, đầu tư đào tạo nhân lực cũng như thay đổi công nghệ phù hợp với nhu cầu sản phẩm của người tiêu dùng. Hoạt dộng đầu tư vào tài sản vô hình ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp hiện nay.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ cụ thể để chứng minh được những tác động tích cực của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình tới tài sản hữu hình thông qua hình thức “nhượng quyền thương mại” đang ngày càng được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam. Nhượng quyền thương mại đã thể hiện được mối quan hệ tích cực giữa việc đầu tư vào tài sản vô hình đối với tài sản hữu hình trong hoạt động của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy vì nó sẽ đem lại một khoản doanh thu lớn cho doanh nghiệp nhượng quyền bao gồm phí chuyển nhượng quyền kinh doanh, hay phần trăm doanh thu hàng năm của doanh nghiệp nhận quyền. Chính khoản doanh thu này sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhượng quyền có vốn đầu tư trở lại tài sản hữu hình, thông qua việc cải tiến máy móc kĩ thuật, quy trình sản xuất, xây dựng nhà xưởng… từ đó ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình. Thông qua franchising, danh tiếng và uy tín của bên chuyển nhượng cũng như đối tượng chuyển nhượng tăng mạnh. Khi hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp ngày càng được biết đến một cách rộng rãi trên thị trường thông qua các chuỗi cửa hàng đã được nhượng quyền thì sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng vững chắc đối với người tiêu dùng. Do đó, doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được nâng cao từ đó doanh nghiệp có thể có vốn để đầu tư trở lại tài sản hữu hình.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đang ngày càng được các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng và nó đã có những tác động tích cực, tạo tiền đề ngược trở lại đối với hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình.
Tuy vậy, mặc dù hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đã được chú trọng nhưng vẫn ở mức độ hạn chế. Điều này được thể hiện ở một số mặt như sau:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình chưa có vị thế xứng đáng trong cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp. Một thực trạng đáng lo ngại là các doanh nghiệp không quyết liệt xây dựng tài sản vô hình cho mình. Khi có ít nhiều tài sản vô hình không biết giữ gìn, vun vén đến lúc bán doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá lại không tính toán được giá trị của tài sản vô hình.
Có thể thấy rằng tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu đóng một vai trò rất quan trọng. Theo thống kê của Interbrand về tỷ lệ giá trị tài sản trong tổng tài sản doanh nghiệp cho thấy thương hiệu chiếm ít nhất 1/3 giá trị cổ phiếu, có những trường hợp rất cao như McDonald’s (71%), Disney (68%), Coca-Cola và Nokia (51%). Theo số liệu của Chính phủ Hà Lan, năm 1992, các tài sản vô hình chiếm đến 35% tổng vốn đầu tư của Nhà nước cũng như của tư nhân ở nước này. Ở Thụy Điển, tỷ lệ đó là 20%. Cũng trong năm 1992, tại Mỹ, vốn đầu tư cho các tài sản vô hình đã vượt vốn đầu tư cho các tài sản hữu hình. Một cuộc khảo sát được tiến hành năm 2003 lấy mẫu từ 284 DN của Nhật Bản cũng cho thấy, các tài sản trí tuệ chiếm tới 45,2% giá trị DN. Còn tại Việt Nam, Khi tập đòan Vina Capital mua 30% cổ phần (tương đương 3 triệu USD) của công ty Phở 24 của Việt Nam, họ đã định giá thương hiệu Phở 24 giá 7 triệu USD, tương đương 70% tổng giá trị hiện nay của chuỗi nhà hàng này.
Vai trò của thương hiệu quan trọng như vậy nhưng theo ông Lê Phụng Hào- phó tổng giám đốc công ty Kinh Đô, nhận thức cũng như khả năng xây dựng của doanh nghiệp còn yếu, yếu nhất là khả năng hoạch định chiến lược và quản trị. Thực trạng này cũng bắt nguồn từ phía quản lý nhà nước và luật pháp do cũng chưa có những hướng dẫn, quy định cụ thể về việc xét thương hiệu là một tài sản cố định vô hình cũng như việc quản lí, sử dụng và trích khấu hao đối với loại tài sản này. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 – Tài sản cố định vô hình, ban hành kèm theo quyết định số 149/2001/QĐ – BTC ngày 31/12/2001 của Bộ Tài chính quy định về tiêu chuẩn ghi nhận tài sản thì thương hiệu mặc dù là tài sản vô hình được tạo từ nội bộ DN nhưng không được ghi nhận là tài sản. Và cơ chế tài chính của Nhà nước hiện nay cũng chưa quy định về giá trị quyền sử dụng thương hiệu. Theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định cũng chưa quy định thương hiệu là tài sản cố định vô hình nên cũng chưa có cơ cở hướng dẫn hạch toán. Chính vì vậy, nên ngày 30/9/2006 Tổng Cục Thuế đã có công văn số 3539/TCT-PCCS không cho Công ty TNHH Kinh Đô được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng thương hiệu, Tổng Công ty Bưu chính viễn thông (Công ty Điện toán và truyền số liệu) cũng không được góp vốn thành lập công ty cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng thương hiệu. Điều này là một thiệt thòi lớn cho các doanh nghiệp và cũng đã gây nản lòng các nhà đầu tư trong việc xây dựng thương hiệu.
Thứ hai, việc định giá tài sản vô hình ở các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước lớn như Vietcombank hay Bảo Minh đều gặp khó khăn trong cổ phần hoá vì không định giá được tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong các ngành dịch vụ như Bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn – ngành mà yếu tố thương hiệu phụ thuộc vào uy tín, sự cam kết và lòng tin của khách hàng. Mặc dù Bộ tài chính đã đưa ra hai phương án để định giá tài sản vô hình nhưng các doanh nghiệp vẫn lúng túng khi việc sử dụng hai phương pháp này lại đưa ra các kết quả khác nhau và không phản ánh được chính xác giá trị thật sự của tài sản vô hình. Do đó đã xảy ra nhiều vụ việc bất cập liên quan đến định giá thương hiệu trên thị trường Việt Nam. Vào đầu thập niên 90, một công ty nước ngoài đã mua thương hiệu kem đánh răng P/S của Việt Nam với giá trên 5 triệu USD, một số tiền khổng lồ thời bấy giờ. Nếu biết rằng kem đánh răng chi phối đên 70% thị trường Việt Nam lúc bấy giờ thì giá đó không đắt chút nào. Tuy nhiên, khi xác định giá trị doanh nghiệp thời điểm năm 2004, Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX cũng đã thuê hai công ty kiểm toán có uy tín xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá. Trong tổng giá trị tài sản gần 3700 tỷ đồng thì lợi thế kinh doanh tạm tính được là 3.18 tỷ, giá trị thương hiệu là 3.5 tỷ đồng. Theo ông Trần Việt Hùng – phó cục trưởng cục sở hữu trí tuệ, con số đó chưa thể hiện được đúng giá trị thương hiệu của một tổng công ty lớn, hoạt động lâu năm về xây dựng cả trong và ngoài nước như VINACONEX. Cái giá này chỉ tương đương với 200 ngàn USD, không bằng 1/10 số tiền 2.5 triệu USD mà Colgate ( Hoa Kỳ ) bỏ ra để mua thương hiệu kem đánh răng Dạ Lan ở thành phố Hồ Chí Minh cách đây hơn 10 năm. Sở dĩ có hiện tượng bất cập này là do chúng ta còn thiếu các hướng dẫn xung quanh vấn đề định giá thương hiệu, việc tính toán đưa ra các giá trị thương hiệu và các tài sản sở hữu trí tuệ khác vào Cổ phần hoá. Như vậy, tầm quan trọng của việc đầu tư xây dựng thương hiệu vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Và chính việc khó khăn trong định giá thương hiệu này đã làm thất thoát tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, do không “ quên” hay định giá quá thấp giá trị tài sản vô hình.
Thứ ba, trong quá trình cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp không xét tới giá trị tài sản vô hình, làm hạ thấp giá trị cổ phiếu xuống dưới giá trị thực sự của nó, gây ra hiện tượng thất thoát vốn nhà nước và tạo cơ hội làm giàu bất chính cho một số cá nhân. Khảo sát nhiều bảng thống kê tài sản của doanh nghiệp đưa vào cổ phần hoá ta có thể nhận thấy các tài sản hữu hình như: nhà xưởng, máy móc, xe cộ…được định giá rất rõ ràng và cụ thể, nhưng tuyệt nhiên không có một mục nào liệt kê các giá trị quyền sở hữu trí tụê về: nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, các sáng chế…Và chúng ta có thể mất những tài sản rất lớn khi bỏ quên các giá trị tài sản trí tuệ như thế.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình trong thời gian qua mặc dù đã được các doanh nghiệp chú trọng hơn song nó vẫn chưa có vị thế xứng đáng trong cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp. Điều đó không chỉ xuất phát từ nhận thức của các doanh nghiệp mà còn từ phía cơ quan quản lí Nhà nước và hệ thống pháp luật chưa có những quy định, hướng dẫn cụ thể về việc đầu tư vào tài sản vô hình. Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải có những biện pháp thiết thực nhằm giải quyết những vấn đề này.
CHƯƠNG IIIGIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào nguồn nhân lực
Trước thực trạng và xu hướng phát triển nền kinh tế nước ta, nhà nước và các doanh nghiệp cần có những giải pháp, phương hướng đầu tư để sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý và có hiệu quả nhất.
1. Những giải pháp về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, chú trọng hoạt động đào tạo và đào tạo lại trong doanh nghiệp. Đào tạo và đào tạo lại cần được hiểu là sự đầu tư hợp lý chứ không phải là việc làm tốn chi phí của doanh nghiệp. Yếu tố con người trong doanh nghiệp là yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong thương trường. Để có một đội ngũ cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp thì phải đào tạo liên tục để họ kịp thời cập nhập được thông tin và xu hướng công việc. Còn đối với nhân viên mới được tuyển dụng, họ chưa ngay tức thời đáp ứng được yêu cầu của công việc vì chưa thể hoà nhập với môi trường làm việc mới, và không tránh khỏi lúng túng khi tham gia vào các công đoạn sản xuất kinh doanh vốn được vận hành rất bài bản từ trước. Do đó cần đào tạo lại cho họ các thao tác kỹ thuật trong công việc và giảm bớt áp lực làm việc
Thứ hai, đó là cơ chế đãi ngộ đối với nhân viên.
Cơ chế đãi ngộ bao gồm: lương, thưởng, các chế độ phúc lợi hữu hình cũng như vô hình, mang tính vật chất hay phi vật chất, liên quan đến thể chất hoặc tinh thần của người lao động do doanh nghiệp cung cấp. Như vậy cơ chế đãi ngộ của doanh nghiệp bao gồm các hình thức cơ bản sau : lợi ích vật chất trực tiếp, lợi ích vật chất gián tiếp và sự hài lòng về mặt tâm lý
Việc thực hiện các chế độ đãi ngộ cần đảm bảo nguyên tắc công bằng, hợp lý và minh bạch
Thứ ba, phân tích công việc phù hợp cho các vị trí trong công ty, đúng người đúng việc, lập kế hoạch công việc và đánh giá hiệu qủa công việc của nhân viên một cách chính xác và khách quan nhất.
Thứ tư, xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Xây dựng môi trường làm việc bình đẳng, lành mạnh, học hỏi lẫn nhau và phối hợp làm việc một cách có hiệu quả nhất
2. Những giải pháp về phía nhà nước
Thứ nhất, đổi mới chương trình và cơ cấu đào tạo trên cơ sở phân tích nhu cầu của thị trường.
Loại bỏ kiểu đào tạo theo thị hiếu và tâm lý xã hội như hiện nay. Đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu trực tiếp của thị trường do đó phải dự báo được xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế để có căn cứ xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực. Thực hiện đào tạo theo đơn đặt hàng từ phía các nhà sử dụng, gắn trách nhiệm của nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo và sử dụng lao động. Hoàn thiện quy hoạch, tính toán lại năng lực sản xuất hiện tại và tiềm năng của mỗi loại ngành nghề làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động. Lấy thị trường làm căn cứ, gắn với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước để đưa ra quy hoạch phân bố, sử dụng và đào tạo nguồn lao động và đặc điểm cho từng loại ngành nghề
Thứ hai, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho công tác đào tạo và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên. Khuyến khích các trung tâm dạy nghề và các cơ sở sản xuất kinh doanh mời các chuyên gia, các nghệ nhân trong và ngoài nước vào giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm.
Hỗ trợ về vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở. Khuyến khích cho vay vốn đổi mới máy móc phục vụ cho công tác giáng dạy, trích ngân sách đầu tư, bổ sung tay nghề cho chủ thợ
Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy. Đa dạng hoá loại hình đào tạo, phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với đa cấp trình độ, chuyển từ dạy nghể trình độ thấp sang trình độ cao theo 3 cấp ( sơ cấp, trung cấp và cao đẳng ), có liên thông giữa các cấp. Đào tạo lý thuyết kết hợp với ứng dụng thực hành, thưc tế
Thứ ba, quan tâm chăm sóc sức khoẻ, chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho người dân
Giảm tốc độ gia tăng dân số, hạ thấp tỷ lệ sinh nhằm giảm áp lực về việc làm trong tương lai.( Tuyên truyền, vận động người dân thưc hiện kế hoạch hoá gia đình đặc biệt là người dân vùng sâu, vùng xa; Đáp ứng đầy đủ, nhanh chóng, an toàn và thuận tiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản ). Tăng cường và đa dạng hoá nguồn vốn cho bảo vệ môi trường sống trước các nguy cơ ô nhiễm do tăng trưởng kinh tế mang lại
Thứ tư, cải cách hệ thống tiền lương, tiền công cho phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và điều kiện sống của người lao động trong cơ chế thị trường. Tiền lương cơ bản phải đảm bảo đủ cho người lao động về chi phí nhà ở, đi lại, ăn mặc, học tập, chữa bệnh, các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần khác, chăm sóc con cái…Đảm bảo tính hợp lý và công bằng
Thứ năm, phát triển đồng bộ hệ thống giao dịch trên thị trường lao động. Có 3 hướng chính :
Quy hoạch và phát triển hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm ở các đia phương và cả nước; tập trung đầu tư hiện đại hoá 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đạt tiêu chuẩn khu vực, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện giao dịch lành mạnh , hiệu quả và chuyên nghiệp; tổ chức tốt công tác tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động
Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động ( thông tin, quảng cáo, hội chợ việc làm…) tạo điều kiện giao dịch giữa người lao động và người sử dụng lao động. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng, trước hết là các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, bố trí các trạm quan sát thông tin thị trường lao động trên địa bàn cả nước để thu thập và phổ biến thông tin thị trường lao động đầy đủ , kịp thời tới người lao động và người sủ dụng lao động
Thứ sáu, tạo hành lang pháp lý, bảo đảm bình đẳng hài hoà lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và lợi ích chung. Hoàn thiện đồng bộ, kịp thời hệ thống pháp luật về thị trường lao động, các văn bản pháp quy như trình sửa đổi , bổ sung Luật tiền lương tối thiểu; Luật dạy nghề; Luật bảo hiểm xã hội; Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, sửa đổi bổ sung Bộ Luật lao động; phê chuẩn các công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế về việc làm và thị trường lao động; các thông lệ và cam kết quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Điều chỉnh pháp luật và chính sách về quan hệ lao động cho phù hợp với bối cảnh mới, hoàn thiện thiết chế về quan hệ lao động ba bên và hai bên phát huy hiệu quả trong việc xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, tăng cường năng lực đối thoại xã hội của các tổ chức đại diện cho các bên tham gia quan hệ lao động, nhất là ở cấp doanh nghiệp.
Điều chỉnh chính sách tiền lương trong hội nhập kinh tế. Điều chỉnh tiền lương phù hợp với nguyên tắc thị trường và không phân biệt đối xử, cụ thể là thực hiện đồng bộ 2nhiệm vụ sau: hoàn thiện cơ sở pháp luật và chính sách tiền lương cho phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường ( mức lương là kết quả thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động nhưng do sức lao động không phải là hàng hoá thông thường nên nó phải được thoả thuận thông qua thương lượng và thoả ước lao động tập thể ), và thứ nữa là, hoàn thiện cơ sở pháp luật, thể chế, năng lực cho việc tiến hành thương lượng và thoả ước lao động tập thể (phải xác định rõ vai trò của Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động).
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào hoạt động nghiên cứu triển khai công nghệ
1. Những giải pháp về phía doanh nghiệp.
Nói đến doanh nghiệp thì có nhiều loại doanh nghiệp: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ... Thực tế qua khảo sát cho thấy nhiều doanh nghiệp lớn đã bước đầu chú trọng đến vai trò của công nghệ thông tin trong công tác sản xuất kinh doanh, công tác quản lý cũng như trong bán hàng. Còn các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do chưa thực sự thấy được lợi ích lớn lao của công nghệ thông tin, chưa làm quen được với hình thức kinh doanh trong môi trường thương mại điện tử, chưa có am hiểu về công nghệ thông tin với một tầm nhìn chiến lược nên chưa có sự quan tâm cần thiết. Các vấn đề khác có liên quan đến doanh nghiệp là họ thiếu kiến thức và thời gian để tiếp thu kiến thức, thiếu kỹ năng quản lý, sợ tăng trưởng và ưa những triển vọng ngắn hạn, ít hướng ra bên ngoài mà điều đó có nghĩa là họ không nhận thấy những tín hiệu của môi trường, cho đến khi nhận ra thì đã quá muộn; khả năng tài chính yếu nên đầu tư thấp và không có phương tiện đào tạo công nhân ở tại công ty. Hơn nữa, tại Việt Nam, môi trường công nghệ thông tin chưa thuận lợi để các doanh nghiệp có thể áp dụng, hạ tầng kỹ thuật cho phát triển công nghệ thông tin còn hạn chế.
Để khuyến khích phổ biến và áp dụng bất kỳ một đổi mới nào, điều đòi hỏi trước tiên là phải nâng cao nhận thức của doanh nghiệp.
Khía cạnh chiến lược: Giúp các doanh nghiệp hoạch định chiến lược kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu nhất định ở một giai đoạn cụ thể: nâng cao hiệu suất, nâng cao hiệu quả, cải thiện mối quan hệ giữa sản phẩm và thị trường; đổi mới quan hệ giữa sản phẩm và thị trường hoặc định hướng đi. Kế hoạch công nghệ thông tin: Kế hoạch này đưa ra một tầm nhìn chiến lược cho việc sử dụng công nghệ thông tin. Mức độ hoà hợp giữa kế hoạch công nghệ thông tin và kế hoạch kinh doanh có thể chia thành các giai đoạn khác nhau.
Khía cạnh tổ chức: Việc thực thi công nghệ thông tin đưa lại những thay đổi tổ chức, cả trong nội bộ lẫn bên ngoài. Điều này có những tác động đối với các mối quan hệ giữa các quy trình kinh doanh, kèm theo đó là những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
2. Những giải pháp về phía nhà nước.
Những biện pháp hỗ trợ vốn của Nhà nước cho DN đầu tư nghiên cứu KHCN. Do nguồn vốn hạn chế, các doanh ngiệp thường gặp khó khăn lớn để triển khai công tác nghiên cứu hoặc thực hiện ý đồ đổi mới sản phẩm hoặc quy trình công nghệ. Bởi vậy, nhà nước cần phải có những biện pháp và chính sách để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong giai đoạn này.
- Tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước:
Ngoài việc tăng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển và đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, để tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp, nhà nước cần tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
- Nâng cao hiệu quả nguồn vốn vay từ ngân hàng và khuyến khích các ngân hàng cho vay đổi mới công nghệ doanh nghiệp.
Nguồn vốn cho đầu tư phát triển dài hạn và đổi mới công nghệ của các ngân hàng còn lớn, song các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vạy tối đa đối với 1 khách hàng, 1 dự án. Chính vì vậy để doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn của ngân hàng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, về phía Ngân hàng Nhà nước cần xem xét nâng mức giới hạn cho vay này. Đồng thời, cần có chính sách thu hút nguồn vốn để nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
- Khuyến khích liên doanh, hợp tác giữa các doanh nghiệp với các tổ chức nghiên cứu triển khai.
Đổi mới công nghệ bằng hình thức liên doanh, hợp tác với các tổ chức nghiên cứu triển khai trong nước là hướng đi cần được đẩy mạnh và khuyến khích thực hiện. Vì hoạt động liên doanh, hợp tác gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia. Các bên tham gia có thể tiếp thu và học tập các kinh nghiệm từ đối tác liên doanh, hợp tác. Liên doanh, hợp tác ở đây bao hàm cả liên doanh giữa các đơn vị sản xuất với các đơn vị nghiên cứu triển khai và giữa các đơn vị sản xuất với nhau.
Trong tình hình thực tế hiện nay, khi các tổ chức, đơn vị nghiên cứu triển khai thiếu vốn để nghiên cứu ứng dụng các công nghệ hiện đại vào sản xuất, các doanh nghiệp không đủ vốn để mua những máy móc thiết bị của nước ngoài thì việc liên doanh, liên kết giữa 2 tổ chức này cần được phát triển. Phát triển hình thức nghiên cứu triển khai không chỉ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm vốn khi đổi mới công nghệ mà còn giúp phát triển nền khoa học nước nhà.
Việc liên doanh, liên kết trong nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, nó khai thác được những lợi thế của các bên tham gia, tạo nền tảng cho việc xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh.
Nâng cao hiệu quả đánh giá công nghệ. Trong thời đại ngày nay, hiểu biết về công nghệ đóng một vai trò ngày càng quan trọng không những đối với các hoạt động sản xuất và kinh doanh mà còn đối với các hoạt động của từng cá nhân cũng như của toàn xã hội. Công nghệ là cơ sở của mọi hoạt động sản xuất vật chất. Công nghệ cũng rất cần thiết đối với các quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền thông tin. Trong việc áp dụng các công nghệ mới, hiểu biết sâu sắc về công nghệ sẽ giúp chúng ta hạn chế được những sai sót khi đưa ra những quyết định quan trọng.
Vì vậy, việc đánh giá công nghệ gắn liền với các biện pháp quản lý công nghệ, với những phương pháp tiếp cận trên quan điểm hệ thống nhằm dự báo một cách toàn diện những hệ quả diễn ra khi áp dụng một công nghệ cụ thể.
Khi ứng dụng một công nghệ, doanh nghiệp cần thường xuyên quan tâm đến khả năng nâng cấp công nghệ đó. Nói cách khác, không những cần chú ý đến việc giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay mà doanh nghiệp còn phải xây dựng cơ sở cho quá trình phát triển của công nghệ trong tương lai. Vấn đề này thuộc phạm vi dự báo công nghệ mà doanh nghiệp cần nghiên cứu đồng thời với việc đánh giá công nghệ.
Nhà nước hỗ trợ cho các DN về hình thức hỗ trợ tư vấn: Để giúp cho các doanh nghiệp tránh được sai lầm khi chọn lựa công nghệ cũng như giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng thiếu các chuyên viên kỹ thuật về công nghệ thì nhà nước cần phải tuyển chọn và hình thành mạng lưới các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Với đội ngũ này các DNV&N có thể nhận được các lời khuyên cụ thể, cả về công nghệ và kinh doanh đề giải quyết những khó khăn của cơ sở. Phần chi phí trả công cho các chuyên gia tư vấn kỹ thuật sẽ được lấy từ Quỹ hỗ trợ tư vấn dành riêng cho các DNV&N. Đội ngũ chuyên gia tư vấn phải được tuyển chọn khá chặt chẽ theo các ngành nghề chuyên môn nhất định phù hợp với cơ cấu ngành nghề được sắp xếp vào loại ưu tiên hỗ trợ trong từng giai đoạn của mỗi doanh nghiệp khác nhau.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào hoạt động marketing
1. Những giải pháp về phía doanh nghiệp.
Việc Việt Nam gia nhập WTO là một cơ hội vô cùng lớn cho các doanh nghiệp, các thương hiệu Việt Nam hấp thụ tinh hoa thế giới để phục vụ mục tiêu phát triển nhưng đồng thời cũng chứa ẩn nhiều thách thức. Có thể nói rằng cạnh tranh trên thị trường thương hiệu là vấn đề sống còn và là phương thức duy nhất để các nước kém phát triển như Việt Nam thu hep khoảng cách và bắt kịp với các nước phát triển.
Lựa chọn mô hình thương hiệu hợp lý và hình thành chiến lược tổng thể cho xây dựng và phát triển thương hiệu. Trước hết các doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình một mô hình thương hiệu hợp lý, phù hợp với chủng loại hàng hoá kinh doanh và điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp về tài chính, nhân lực và thị trường. Từ đó xây dựng chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển thương hiệu. Với từng doanh nghiệp cụ thể sẽ cần những chiến lược cụ thể phù hợp khác nhau tuỳ theo lĩnh vực hoạt động cũng như bối cảnh cạnh tranh với các đối thủ. Tuy nhiên:
-Với các doanh nghiệp có khả năng và quy mô tài chính lớn hoặc các Tông công ty, chiến lược thương hiệu cần tập trung vào khai thác lợi thế về quy mô doanh nghiêp, khả năng chiếm lĩnh thị trường , tích cực tham gia các sự kiện và tận dụng triệt để các phương tiện truyền thông để quang bá hình ảnh.
- Với các doanh nghiệp nhỏ, hạn chế nhiều về tài chính và nhân lực thì chiến lược về thương hiệu cần tập trung khai thác thị trường ngách. Nên khai thác các phương tiện quảng bá với chi phí thấp như quảng bá trên báo, tạp chí hoặc internet…
Tiến hành đăng kí ngay cả nhãn hiệu trong nước và quốc tế. Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, trong số những người cùng nộp đơn cho một nhãn hiệu , quyền bảo hộ được dành cho người nộp đơn sớm nhất. Có nghĩa là chỉ có đơn đăng kí được nộp sớm nhất tại cục sở hữu trí tuệ là được bảo hộ còn các đơn nộp sau của các chủ thể khác cho cùng một nhãn hiệu sẽ bị từ chối được bảo hộ. Vì vậy để giữ cho nhãn hiệu hàng hoá của mình không bị đánh cắp cần đăng kí nhãn hiệu càng sớm càng tốt.
Ngày 1/7/2006, Chính phủ Việt Nam đã kí kết nghị định thư Madrid liên quan đến việc đăng kí nhãn hiệu nước ngoài. Theo đó nhãn hiệu chỉ cần nộp đơn tại Việt Nam vẫn có thể nộp đơn đăng kí theo Nghị định thư Madrid và chỉ định các quốc gia nước ngoài để đăng kí nhẵn hiệu. Đây chúnh là một cơ hội rộng mở và ưu việt tạo sự thuận lợi trong việcbảo hộ thương hiệu ở nước ngoài. Việc đăng kí thương hiệu của các công ty, chủ sở hữu ở Việt Nam trên thị trường nước ngoài bắt đầu được thuận tiện và ít tốn kém hơn. Trước đây chi phí đăng kí thương hiệu ở Mỹ là tứ 1500 USD và 2500USD ở Nhật; còn với thoả thuận Madird, một lần đăng kí với mức 1500 USD , thương hiệu coi như được đăng kí đủ ở 54 nước tham gia thoả thuận, trong đó có EU, Anh, Mỹ,Nhật, Singapore, Hàn Quốc… tức là những thị trường lớn của hàng Việt Nam. Thời gian chờ hoàn tất đăng kí thường từ 1 đến 2 năm, giảm được nột nửa so với việc đăng kí ở từng nước.
Doanh nghiệp có thể thông qua Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam để được giúp đỡ dăng kí thương hiệu hoặc nhãn hiệu theo nhóm hoặc theo Công ước Madrid. Doanh nghiệp không nhất thiết phải áp dụng cùng lúc 3 cách đăng kí mà nên linh hoạt sử dụng nhằm tạo hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời bảo đảm mục tiêu bảo hộ quyền sử hữu trí tuệ
2. Những giải pháp về phía Nhà nước.
Trong điều kiện hội nhập sâu rộng hiện nay, chính phủ Việt Nam cần tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. chính phủ có thể giúp tạo lập một môi trường kinh doanh tốt để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện cần thiết để phát triển. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thương hiệu, chính phủ Việt nam cần thực hiện những biện pháp sau:
Tăng cường quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và thương hiệu nói riêng. Thương hiệu của hàng việt nam xuất khẩu cần trước hết được tôn trọng và bảo vệ chặt chẽ tại việt nam, mọi hành vi xâm phạm cần được xử lý nghiêm minh để một mặt giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp trong nước, mặt khác tạo tâm lý an tâm và kích thích các doanh nghiệp phát triển thương hiệu tại nước ngoài. Các cơ quan chức năng nên kiến nghị Chính phủ để xem xét và nâng mức phạt vi phạm thương hiệu cao hơn nữa (Với các hành vi nhái thương hiệu có thể dùng mức phạt tối thiểu đến 100 triệu đồng) và cử lý hình sự nếu vi phạm nghiêm trọng. Cục sở hữu trí tuệ cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.
Để giúp đỡ các doanh nghiệp trong đăng kí thương hiệu tại nước ngoài (như hướng dẫn, cung cấp thông tin, xử lý vi phạm…).
Phát triển hệ thống đào tạo về thương hiệu. Chính phủ có thể cung cấp sự hỗ trợ bằng việc phát triển nhiều hơn nữa các cơ sở giáo dục để đào tạo những nhà thiết kế và chỉ đạo nghệ thuật. Chỉ tính riêng tại Mỹ hàng năm có khoản 10.000 nhà thiết kế đồ hoạ và giám đốc nghệ thuật tốt nghiệp từ các trường đào tạo chính quy. Bên cạnh những kỹ năng sáng tạo mà họ được đào tạo trong trường lớp, các nhà thiết kế này có điển thuận lợi là được sinh ra và lớn lên trong môi trường mà hàng ngỳa có hàng ngàn hình ảnh tiếp thị bao quanh. Trung Quốc hiện nay cũng đang trong quá trình mở rộng một số trường đào tạo các ngành nghề có liên quan tới thiết kế từ 400 lên 1000 trường. Trong tương quan so sánh, ở Việt Nam hiện nay chỉ có một số trường Đại học có chuyên khoa về thiết kế truyền thông marketing. Theo ước tính hàng năm số sinh viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo thiết kế đồ hoạ chình quy tại Việt Nam không đến 200. Trình độ thẩm mỹ và khả năng sáng tạo của nhiều cử nhân này khá cao và nhìn chung môi trường marketing tại Việt Nam qua hơn 10 năm qua phát triển cũng đang dần cải thiện và rèn luyện thêm những kỹ năng này. Tuy nhiên hiện Việt Nam đang thiếu trầm trọng những người có khả năng gắn kết một cách hiệu quả những kỹ năng nghệ thuật của mình với những nhu cầu marketing thực tế trên thị trường.
KẾT LUẬN
Nếu như trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta chỉ chú trọng đầu tư vào tài sản hưu hình thì nay, khi nền kinh tế mở cửa, đối mặt với sựu cạnh tranh ngày càng gay gắt khốc liệt thì các doanh nghiệp phải nhận thức rõ vai trò của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình. Qua những nghiên cứu trên đây, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của việc đầu tư vào tài sản vô hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Nhận thức rõ được vai trò của tài sản vô hình, các doanh nghiệp cần xác định được cho mình cơ cấu đầu tư hợp lí vào tài sản vô hình.
Do trình độ hiểu biết còn có hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong được sự thông cảm, góp ý chân thành của thầy cô.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS.TS Từ Quang Phương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2007.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 19/11/2005
Tạp chí lao động và xã hội, số 292
Trang web của Ngân hàng thế giới: www.worldbank.com.vn
Trang web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
Trang web của Bộ Kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn
Trang web của báo Đầu tư: www.vir.com.vn
Trang web của báo Tiền phong: www.tienphong.vn
Trang web của tạp chí Tia sáng: www.tiasang.com.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22459.doc