Sau gần 20 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế là yếu tố cơ bản đưa toàn bộ nền kinh tế phát triển theo hướng CNH- HĐH. Trên bảng xếp hạng của thế giới, Việt Nam đã dần cải thiện được vị trí của mình, đứng thứ 60 trên 102 nước (năm2003). Nói đến những thành tựu này không thể không nói tới vai trò quyết đinh của đầu tư. Đầu tư chính là nhân tố hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia. Với cơ cấu đầu tư hợp lý đã tạo ra cơ cấu kinh tế tích cực, đáp ứng việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển.
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm nghiệp &thuỷ sản
26.24
25.06
24.16
23.66
23.76
23.28
22.43
21.81
20.98
Công nghiệp & xây dựng
29.93
31.35
32.63
33.43
34.35
35.41
36.58
37.39
38.47
Dịch vụ
43.83
43.59
43.21
42.91
41.89
41.31
40.99
40.80
40.55
( Nguồn: Niêm giám thống kê 2002 )
Tỷ trọng nông lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP từ 26,24 % năm 1995 đã giảm xuống 23,28 % năm 2000 và tiếp tục giảm xuống 20,98 % năm 2003. Trong đó nông nghiệp từ 22,4 % năm 1995 giảm xuống còn 19,9 % năm 2000 và 17,7 % năm 2003, sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất và hiệu quả cao.
Tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 29,93 % năm 1995 tăng lên 35,41 % năm 2000, tiếp tục tăng tới 38,47 % năm 2003. Trong đó, các ngành công nghiệp khai thác từ 4,8 % năm 1995 tăng lên 9,5 % GDP vào năm 2000 , công nghiệp chế tác từ 15 % tăng lên 18,7 % GDP, công nghiệp điện, hơi đốt, nước chiếm khoảng 2,9 % GDP.
Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP từ 43,83 % năm 1995 giảm xuống còn 41,37 % năm 2000 và xuống 40,55 % năm 2003. Trong cơ cấu ngành dịch vụ năm 2003, thương nghiệp chiếm 16,3 % GDP, khách sạn nhà hàng chiếm 3,2 %, vận tải, bưu điện, du lịch chiếm 3,85 %, kinh doanh bất động sản chiếm 4,1 % và giáo dục đào tạo chiếm3,37 % GDP…
Như vậy với cơ cấu đầu tư ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ đã dẫn đến sự thay đổi tương đối trong cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ trọng các ngành công nghiệp ngày càng tăng cùng với sự giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp đã thể hiện sự chuyển dịch theo hướng tích cực trong cơ cấu các ngành . Đây là sự chuyển dịch cần thiết, tất yếu đáp ứng cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Như vậy chính đầu tư đã tạo ra sự thay đổi có ý nghĩa trong cơ cấu ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện mục tiêu đã đề ra “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
III. Một số hạn chế trong hoạt động đầu tư cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
1. Những tồn tại
Trong những năm qua, đầu tư là nhân tố hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế theo ngành. Tuy nhiên để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước thì tác động của đầu tư tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chưa đủ mạnh và còn bộc lộ nhiêù điểm hạn chế như:
* Nguồn vốn huy động chưa đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế
- Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP thấp, bình quân trong 7 năm 1996- 2002, tiết kiệm nội địa mới chỉ đạt 21,5 % GDP, thấp hơn nhiều so với các nước ở vào thời kỳ đang phát triển như Việt Nam. Tiềm lực trong nhân dân còn lớn nhưng huy động cho đầu tư không được nhiều ( hàng năm mới chỉ huy động được khoảng 60 % nguồn vốn trong khu vực dân cư ), đã thế việc bố trí vốn lại thiếu tập trung, không đồng bộ, lại bị dàn trải bởi nhiều nhu cầu bức bách khác.
- Khả năng huy động các nguồn vốn bên ngoài còn thấp. Mặc dù đã có nhiều biện pháp nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài song vài năm gần đây nguồn vốn này vẫn có xu hướng giảm sút
* Cơ cấu đầu tư theo ngành chưa thực sự hợp lý, chưa tạo ra được cơ cấu kinh tế có khả năng khai thác các thế mạnh trong từng ngành.
- Mặc dù đầu tư cho nông nghiệp nông thôn đã tăng đáng kể song vốn đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư cho thuỷ lợi và xây dựng hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn chưa được chú ý đúng mức. Trong 10 năm qua, từ 1991- 2000 đầu tư cho thuỷ lợi chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 2- 3 % trong tổng vốn đầu tư phát triển trong khi công tác thuỷ lợi đóng vai trò quan trọng trong việc tăng nhanh sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Đầu tư cho công nghiệp tương xứng với nhu cầu phát triển của ngành. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm chưa được đầu tư đúng mức, nhất là ngành điện. Đây là ngành đóng vai trò cốt lõi của quá trình CNH- HĐH nhưng tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ngành này ngày càng giảm, do đó chưa đảm bảo sản xuất và phân phối điện cho sản xuất và sinh hoạt. Các ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất xây dựng… cũng chưa được đầu tư đúng mức xứng đáng với tiềm năng vốn có của các ngành này. Không chỉ thế, việc bảo hộ đối với một số ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu như: sắt, thép, xi măng … đã gây ra tình trạng cung vượt quá cầu, sản phẩm không có sức cạnh tranh dẫn đến tồn kho, ứ đọng.
- Ngành dịch vụ tuy chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển nhưng việc phân bổ vốn đầu tư cho các ngành dịch vụ cũng chưa hợp lý. Chẳng hạn, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… là ngành có tiềm năng lớn, lại là xu hướng phát triển của thời đại nhưng chưa được đầu tư thích đáng. Ngành giao thông là một bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật, là huyết mạch của nền kinh tế nhưng đầu tư phát triển ngành này còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành. Giáo dục đào tao, nghiên cứu khoa học cũng chưa được chú ý đúng mức dù chúng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.
* Công tác quản lý đầu tư còn yếu kém.
- Chất lượng của công tác quy hoạch tổng thể chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hình thành cơ cấu kinh tế, hoạch định các kế hoạch phát triển và các chương trình đầu tư.
- Công tác quy hoạch của một số địa phương và ngành chưa phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chưa khai thác tốt các nguồn xã hội tại chỗ cho đầu tư phát triển
* Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, còn dàn trải, lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, chưa phát huy được lợi thế cạnh trạnh của đất nước trên trường quốc tế.
2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của những tồn tại trên, về khách quan là yêu cầu vốn lớn nhưng khả năng huy động còn hạn chế, lại phải phân tán cho nhiều mục đích khác nhau nên đầu tư còn nhỏ lẻ, ít tập trung và thiếu đồng bộ.
Sản xuất chưa phát triển mạnh dẫn tới khả năng tích luỹ của nền kinh tế còn thấp, thị trường nội địa chưa hoàn chỉnh và kém phát triển nên các doanh nghiệp có ít cơ hội để đầu tư. Ngay cả dân cư cũng chỉ tập trung đầu tư để xây dựng nhà cửa, của hàng, cửa hiệu…mà ít đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô lớn.
Môi trường đầu tư còn bấp bênh, nhiều rủi ro. Các chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư thường xuyên thay đổi khiến cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại trong việc bỏ vốn ra thực hiện đầu tư.
Chính sách tài chính tiền tệ chưa thực sự đóng vai trò thúc đẩy hoạt động đầu tư. Đặc biệt chính sách lãi suất chưa thu hút được nguồn tiền gửi, đồng thời thúc đẩy hoạt động đầu tư.
Công tác quy hoạch, kế hoạch hoạt động đầu tư còn yếu, thiếu đồng bộ nên đã làm cản trở quá trình tập trung đầu tư theo trọng điểm.
Công tác quản lý vốn đầu tư, từ quá trình cấp phát vốn đầu tư đến giám sát quá trình thực hiện đầu tư vừa rườm rà, phức tạp, vừa lỏng lẻo đã tạo ra nhiều kẽ hở làm giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Ngoài ra, nhận thức của các doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách còn hạn chế nên chưa nâng cao trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.
Phần III
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đối với sự nghiệp tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH- HĐH ở Việt Nam
I. Mục tiêu CNH- HĐH ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010
Trên cơ sở xem xét bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, một số mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2010 đã được đưa ra. Cụ thể là:
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ…
Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30 % GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16- 17 %, công nghiệp 40- 41 %, dịch vụ 42- 43 %. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.
Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI). Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1 %. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao trình độ học vấn. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rết trong môI trường xã hội an toàn, lành mạnh.
Năng lực nội sinh về khoa học công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cân trình độ thế giới và tư phát triển một số lĩnh vực.
Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển kinh doanh có hiệu quả. Các loại hình kinh tế khác đều được phát triển mạnh và lâu dài…
II. Định hướng phát triển các ngành theo hướng CNH- HĐH
Để đảm bảo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành đáp ứng được sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, chính sách và cơ chế đầu tư trong thời gian tới phải tác động tích cực đến các ngành theo quan điểm định hướng sau:
1.1 Đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn
Đẩy nhanh CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn
Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá, Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng và quy hoạch các khu dân cư.
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôI gia súc, gia cầm, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôI trong nông nghiệp. Đồng thời phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở giữ gìn môI trường biển và sông nước, bảo đảm cho sự táI tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, tạo liên kết nông nghiệp- công nghiêp- dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước. Có chính sách ưu đãI để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản. lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm 4.0- 4.5 %. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16- 17 %.
1.2 Đối với ngành công nghiệp và xây dựng
- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy được hiệu quả.
Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử…
Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở.
- Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và có năng lực đấu thầu công trình xây dựng ở nước ngoài. ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu lực quy hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và thẩm mỹ kiến trúc. Tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch, kiến trúc và xây dựng.
Nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình quân trong 10 năm tới khoảng 10- 10.5 %/ năm. Đến năm 2010 công nghiệp và xây dựng chiếm 40- 41 % GDP và sử dụng 23- 24% lao động.
1.3 Đối với ngành dịch vụ
Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách ngày càng hiện đại, an toàn, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu vực và thế giới.
Phát triển nhanh và hiện đại hoá dịch vụ bưu chính viễn thông
Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhon, mở rộng dịch vụ tài chính, tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán…từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực. Đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống để đáp ứng nhu cầu đa dạng trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7- 8 %/ năm và đến 2010 chiếm 42- 43 % GDP, 26- 27% tổng số lao động.
III. Định hướng đầu tư phát triển theo ngành
Từ việc xem xét định hướng phát triển các ngành kinh tế đã được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 ở trên, có thể xác định được phương hướng đầu tư vào các ngành trong giai đoạn tới. Đầu tư phát triển các ngành này phải nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu phát triển các ngành nói riêng và mục tiêu phát triển của cả nền kinh tế nói chung.
- Đối với ngành nông nghiệp:
Mặc dù chuyển đổi cơ cấu đầu tư với mục đích CNH, song trong giai đoạn sắp tới vẫn phải chú trọng đầu tư đúng mức cho nông nghiệp và khu vực nông thôn. Bởi lẽ ở nước ta nông nghiệp là cơ sở cho phát triển công nghiệp. Hơn thế nữa, do điều kiện địa lý và tự nhiên nên đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và quý giá cần phải được quan tâm khai thác sử dụng đúng mức. Tuy nhiên đầu tư vào nông nghiệp trong giai đoạn tới có nhiều điểm đổi khác, tập trung vào các lĩnh vực sau:
Nhà nước cần hỗ trợ vốn, kỹ thuật để xây dựng, hoàn thiện và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn. Chú trọng đầu tư phát triển hệ thống đường giao thông, các công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước, hệ thống tưới tiêu…Ngoài ra phải đặc biệt chú trọng đến đầu tư cho nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp
Đầu tư mở rộng diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm. Chú trọng đầu tư phát triển kinh tế biển, kinh tế rừng, khai thác hiệu quả những tiềm năng của nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn có hiệu quả thông qua đầu tư phát triển các ngành nghề truyền thống, hình thành công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, gắn sản xuất nông lâm ngư nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế trạng trại ở những vùng có khả năng về đất đai. Đầu tư phát triển hệ thống dịch vụ nông nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- Đối với ngành công nghiệp:
Cần tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn có hiệu quả cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế như ngành dầu khí, xây dựng, sản xuất sắt thép, công nghiệp dệt may…nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước và xuất khẩu
Chú trọng đầu tư cho ngành chế biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển: đầu tư nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu và năng lực chế biến sản phẩm cây công nghiệp như điều, tiêu, quế, chè, cà phê…, khai thác thế mạnh về hải sản thông qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành thuỷ sản như cảng cá, nhà máy đông lạnh, cơ sở chế biến, dịch vụ…
Đầu tư nhiều hơn vào phát triển ngành năng lượng, đặc biệt là ngành điện. Điện là nhân tố cốt lõi của quá trình CNH- HĐH, do vậy cần phải ưu tiên, huy động mọi khả năng để đầu tư phát triển ngành
Đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu thông qua công nghệ sản xuất tiên tiến của nước ngoài.
Để đảm bảo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đáp ứng sự nghiệp CNH- HĐH đất nước thì cần phải có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển công nghiệp.
- Đối với ngành dịch vụ
Đầu tư phát triển ngành dịch vụ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo khả năng phát triển của ngành trong thời gian tới, nâng cao tỷ trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế . Do vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung đầu tư phát triển một số ngành dịch vụ mũi nhọn sau:
Đầu tư phát triển ngành giao thông vận tải vì đây là bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật, là hệ thống huyết mạch của giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội của đất nước. Ngoài tập trung đầu tư phát triển hệ thống giao thông của thành phố và các khu kinh tế cũng cần chú trọng đến hệ thống giao thông nông thôn.
Chú trọng đầu tư phát triển hệ thống ngân hàng, các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, du lịch, tư vấn…đặc biệt là đầu tư nâng cao năng lực của dịch vụ tư vấn đầu tư và xây dựng trong nước để có khả năng đảm bảo cho các dự án lớn, có trình độ công nghệ phức tạp, một mặt nâng cao năng lực và tính chủ động trong công tác tư vấn, mặt khác tiết kiệm được một khoản tiền do thuê tư vấn nước ngoài.
Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo để xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam đủ năng lực đưa nền kinh tế Việt Nam hướng tới nền “kinh tế tri thức”
Đầu tư phát triển khoa học công nghệ và môi trường. Trước hết cần tập trung cho yêu cầu chuyển giao, lựa chọn công nghệ tiên tiến, sau đó xây dựng và phát triển công nghệ cao, hướng vào phát triển công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường cho các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng đông dân cư.
IV. một số giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đối với sự nghiệp tăng trưởng và chuyển dịch co cấu ngành kinh tế theo hướng CNH- HĐH ở việt nam giai đoạn 2001- 2010
1. Huy động vốn đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.1 Thu hút nguồn vốn trong nước
Để thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH- HĐH, nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định cả trong thời gian trước mắt lẫn lâu dài, không những đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn là một giải pháp quan trọng để kìm chế lạm phát. Muốn vậy phải có chính sách triệt để tiết kiệm, khuyến khích tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư của nhân dân và các doanh nghiệp, cũng như tiết kiệm chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước.
Để tăng quy mô huy động vốn đầu tư trong nước, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp sau:
- Tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng phải trở thành quốc sách. Bởi lẽ tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư, không có tiết kiệm thì không có đầu tư và phát triển. Khi tiết kiệm trở thành ý thức của mỗi người dân, mọi cấp, mọi ngành thì nó sẽ chuyển hoá thành một khối lượng vật chất giành cho đầu tư.
- Phải tạo ra một hệ thống cơ chế chính sách đa dạng để khuyến khích và thúc đẩy tiết kiệm trong nước trên cơ sở tăng tích luỹ từ ngân sách, tạo điều kiện tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và khuyến khích tiết kiệm của dân cư
* Cải cách hệ thống thuế theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá, giảm thuế một số mặt hàng cần khuyến khích và thuế đánh vào lợi nhuận củadoanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Giảm bớt mức thuế suất tối đa đánh vào thu nhập cá nhân nhằm khuyến khích người dân tích cực làm giàu cho mình và cho xã hội.
* Đổi mới chính sách chi tiêu ngân sách, cân đối ngân sách và phân cấp quản lý ngân sách cho phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển.
* Có chính sách tài chính phù hợp để cho ra đời thị trường vốn, nâng cao khả năng của thị trường chứng khoán ở Việt Nam để nhanh chóng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Thị trường này hoạt động có hiệu quả sẽ huy động được nhiều nguồn vốn trong nước, góp phần phát huy nội lực nền kinh tế.
* Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm khơi dậy và thúc đẩy tiết kiệm trong nước, cụ thể là thực hiện chính sách lãi suất thực thấp để khuyến khích đầu tư nhưng vẫn đủ hấp dẫn để gửi tiền tiết kiệm.
Tóm lại, để thu hút vốn trong nước cho tăng trưởng cần phải thực thi các biện pháp tiết kiệm, đồng thời sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế vĩ mô, trong đó các biện pháp tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng.
1.2 Thu hút nguồn vốn nước ngoài
Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì không thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chính là nguồn vốn bổ sung quan trọng. Vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đơn thuần giải quyết vấn đề về nguồn vốn mà còn bao gồm cả lợi ích về chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, đồng thời mở mang thị trường quốc tế:
- Vốn ODA với các điều kiện ưu đãi có tác dụng tích cực cho đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội
- Vốn FDI có tác dụng quan trọng làm giảm gánh nặng nợ về vốn cho đầu tư phát triển, tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các nước phát triển, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận.
Trong những năm qua, Việt Nam tuy chưa phải là trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng cũng nằm trong tiêu điểm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Do vậy, để thu hút được nguồn vốn này cho quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành cần phải chú ý các giải pháp sau đây:
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội phải đi trước một bước để định hướng cho đầu tư phát triển các ngành trọng điểm. Trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA, FDI gắn với quy hoạch phát triển chung, tuân thủ chiến lược và cụ thể hoá chiến lược phát triển dài hạn và các kế hoạch ngắn hạn cần đạt được
- Xây dựng cơ chế chính sách phù hợp cho từng đối tác:
* Tính toán kỹ các phương án vay, trả nợ đối với vốn ODA. Vốn ODA cần tập trung vào một số mục tiêu trọng điểm liên quan đến xây dựng, cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong từng địa bàn trọng điểm, các chương trình ưu tiên phát triển vùng cao, vùng sâu, vùng xa và các vùng đặc biệt khó khăn.
* Vốn FDI tuy không hạn chế song cần có chính sách để khuyến khích huy động và sử dụng hướng mạnh vào đầu tư trong các ngành trọng điểm, chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, các ngành dịch vụ nhằm tạo sư chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế theo ngành.
- Cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, tạo lập môi trường kinh tế có sức hút mạnh mẽ các dòng vốn nước ngoài.
Để thu hút được các dòng vốn đầu tư nước ngoài cần chứng minh rằng nền kinh tế nội địa là nơi an toàn cho sự vận động của vốn và là nơi có khả năng sinh lời cao. Muốn vậy cần:
* Tạo lập môi trường kinh tế ổn định và thuận lợi
* Tạo ra và duy trì triển vọng tăng trưởng lâu bền
* Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ, bổ sung hoàn chỉnh luật đầu tư nước ngoài và các văn bản có liên quan.
2. Kế hoạch hoá và bố trí cơ cấu đầu tư
2.1 Nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, chú trọng kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội sau năm 2000
Với cơ cấu đầu tư còn nhiều hạn chế nên nền kinh tế nói chung vẫn chưa phát huy được sức mạnh và lợi thế của các ngành kinh tế. Nhiều ngành chưa thực sự gắn sản xuất với tiêu thụ dẫn đến giảm hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, việc rà soát lại và xây dựng quy hoạch đầu tư tổng thể với cơ cấu hợp lý, tận dụng lợi thế từng ngành đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết.
Quy hoạch đầu tư tổng thể phải gắn với quy hoạch, kế hoạch về sản phẩm và thị trường của từng ngành. Các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phải được xây dựng trên cơ sở:
- Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu thị trường và các dự báo thay đổi của thị trường. Đồng thời quán triệt đầy đủ các tư tưởng và quan điểm phát triển kinh tế nước ta trong giai đoạn trước mắt (2001-2010) và trong lâu dài. Căn cứ vào kết quả thực hiện kế hoạch 1991- 2000 và các yêu cầu của bối cảnh thực tiễn, dự báo tương lai để xây dựng và điều chỉnh các mục tiêu, chính sách và giải pháp thực thi cho giai đoạn sau năm 2000.
- Đánh giá đầy đủ: nguồn lực thực hiện, cơ hội và thách thức khi thực hiện quy hoạch tổng thể. Tiến hành xây dựng và điều chỉnh các chính sách và quy hoạch đầu tư phát triển cho từng ngành, vùng phù hợp với trật tự và thứ tự ưu tiên trong chiến lược và quy hoạch tổng thể. Yếu tố quan trọng để đưa các chiến lược và kế hoạch vào thực hiện trong thực tế là phải đảm bảo theo hướng: chú trọng khai thác nội lực và lợi thế của quốc gia và của từng ngành, từng vùng: tạo mô trường kinh tế pháp lý thông thoáng, đồng bộ nhằm khuyến khích đầu tư, ưu tiên các ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn.
- Dự báo tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thay đổi về thể chế, chính sách, gắn phát triển kinh tế với phát triển khoa học công nghệ. Các chính sách đúng đắn trong đầu tư phát triển và trong nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy cải biến cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành theo hướng tích cực.
- Phải gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện. Các giải pháp thực hiện không chỉ cứng nhắc theo các mệnh lệnh hành chính mà nên bằng các công cụ , đòn bẩy kinh tế.
- Để đảm bảo hiệu quả và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế luôn luôn thay đổi trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, cơ cấu đầu tư phải liên tục được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời nhằm tạo ra sự nhịp nhàng khi thực hiện đầu tư.
- Cần phải công khai các quy hoạch đã được duyệt, tiến hành tuyên truyền, phổ biến đến tất cả các tổ chức, cá nhân và thường xuyên tiến hành kiểm tra việc thực hiện quy hoạch nhằm hạn chế việc sử dụng đất tuỳ tiện, lấn chiếm bất hợp pháp, gây khó khăn cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng sau này.
- Trong dài hạn, nên xây dựng những chương trình quy hoạch đầu tư có quy mô lớn, tập trung vào những ngành mũi nhọn như các ngành công nghiệp then chốt và các ngành công nghiệp có tác động lớn đối với nền kinh tế quốc dân, có tính chất thúc đẩy quá trình CNH- HĐH đất nước, hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp- công nghiệp- lâm nghiệp và dịch vụ hợp lý
2.2 Đổi mới công tác kế hoạch hoá hoạt động đầu tư
So với thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và giai đoạn 1986- 1990, công tác lập kế hoạch đầu tư đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nhược điểm gây thất thoát, lãng phí nhiều nguồn vốn, hiệu quả đầu tư thấp, mục tiêu đặt ra còn khó thực hiện. Do đó trong thời gian tới cần hoàn thiện công tác điều hành kế hoạch đầu tư hàng năm theo hướng:
- Cần có các kế hoạch đầu tư phát triển trung hạn 5 năm, hoặc 3 năm nhằm xác định bước đi, biện pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành làm cơ sở cho công tác lập kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm.
- Kế hoạch đầu tư của các bộ, ngành, địa phương phải thể hiện đầy đủ tất cả các nguồn vốn. Đối với vốn ngân sách đầu tư phải được kế hoạch hoá toàn diện (kể cả các khoản vốn để lại cho các bộ, ngành tự đầu tư). Tiếp tục thực hiện cơ chế phân cấp gắn với trách nhiệm và chế tài kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. Tăng cường vai trò trách nhiệm của các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trong việc huy động và sử dụng đúng mục tiêu, có hiệu quả các nguồn đầu tư phát triển.
- Khi duyệt các kế hoạch đầu tư, cấp có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm đảm bảo nguồn vốn cho dự án triển khai thi công đúng tiến độ, tránh hiện tượng phê duyệt tràn lan, gây sức ép cho ngân sách nhà nước. Đồng thời cần chú ý chỉ đưa vào kế hoạch các dự án đã đầy đủ thủ tục quy định và bố trí đủ vốn cho các công trình được ghi vốn theo tiến độ đã phê duyệt.
2.3 Bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư
Mục tiêu chính của chính sách CNH trong giai đoạn tới là phải làm thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế xã hội. CNH ở Việt Nam phải là sự kết hợp của 3 quá trình được tiến hành song song và gắn bó chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, cơ cấu đầu tư trong giai đoạn này cũng nhằm mục tiêu thực hiện 3 quá trình đó:
- Chuyển từ nền kinh tế vẫn mang nặng tính hành chính với tâm lý của cơ chế xin- cho sang cơ chế thị trường năng động theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Chuyển từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu sang một xã hội công nghiệp văn minh, hiện đại.
- Đi tắt, đón đầu, đầu tư xây dựng và phát triển một số yếu tố để tiến tới nền kinh tế tri thức
Như vậy, cơ cấu đầu tư trong giai đoạn tới phải đạt mục tiêu công nghiệp hoá để chuyển dịch sâu sắc và toàn diện cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hậu công nghiệp. Cơ cấu đầu tư phải đảm bảo nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong cơ cấu đầu tư cần phải nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư cho những lĩnh vực then chốt, có tính đột phá của từng ngành, nhằm tạo đà cho ngành đó phát triển.
- Đối với nông nghiệp, cần chú trọng đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Do nước ta có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, suất đầu tư thấp nên việc xuất khẩu các mặt hàng này sẽ có lợi thế hơn các sản phẩm xuất khẩu của các nước khác trong khu vực. Hơn nữa do từ trước tới nay, chúng ta phần lớn chỉ xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô , chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng tạo ra còn thấp.
Tập trung xây dựng hệ thống đê điều, hệ thống tưới tiêu phục vụ nông nghiệp. Coi trọng công tác xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp nhằm tạo ra nhiều giống cây trồng vật nuôI có năng suất cao, đồng thời các trung tâm này cũng có nhiệm vụ đưa ra những hướng dẫn cho người nông dân trong việc chăm sóc cây trồng vật nuôi có hiệu quả.
- Đối với ngành công nghiệp, bên cạnh việc gia tăng vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp thì vốn này phải được phân bổ hợp lý để tập trung phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn sau:
Ưu tiên cho đầu tư phát triển các ngành công nghệ điện tử và kỹ thuật số. Bởi lẽ đây là ngành có điều kiện khai thác lợi thế của việc đầu tư phát triển con người, là ngành sẽ giúp Việt Nam có thể thực hiện việc “đi tắt, đón đầu “ đối với nền kinh tế thế giới. Không những thế, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội những năm sau này cũng sẽ đòi hỏi các ngành này phảI thực sự phát triển ở một trình độ nhất định.
Tiếp tục đầu tư phát triển những ngành mang lại giá trị xuất khẩu cao như dệt may, da giầy, vật liệu xây dựng…. Phát triển các ngành này vừa mang lại nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách, vừa đảm bảo giải quyết được số lượng việc làm lớn cho người lao động.
Đầu tư cho việc xây dựng mạng lưới điện quốc gia, đưa điện đến tất cả các vùng nông thôn để vừa đảm bảo sinh hoạt cho người dân, vừa đảm bảo điện cho sản xuất. Có như vậy thì mới thực hiện được cơ khí hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Đối với ngành dịch vụ, do đây là ngành có xu hướng phát triển mạnh để đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu đa dạng của con người và sản xuất, nên cần phảI được đầu tư hợp lý. Trong ngành dịch vụ cũng cần phảI xác định một số ngành dịch vụ quan trọng hàng đầu, có lợi thế so sánh và có nhu cầu phát triển bức thiết.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, vốn, lao động trong nền kinh tế, các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, giao thông, bưu chính viễn thông cần phảI được đầu tư mạnh mẽ hơn nữa. Các hoạt động dịch vụ chăm sóc con người cũng phải được quan tâm đầu tư bởi lẽ con người là vốn quý hàng đầu của sự phát triển.
- Bên cạnh việc bố trí đầu tư hợp lý vào các ngành kinh tế, cần phải chú trọng đầu tư phát triển con người. Ngày nay, các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, môi trường pháp lý thông thoáng… chỉ mang tính chất trước mắt, tạm thời. Do vậy để đảm bảo phát triển bền vững và lâu dài thì cần phải đầu tư cho con người. Chỉ những con người với đầy đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc mới là yếu tố quan trọng quyết đinh sức mạnh cạnh tranh của một quốc gia. Vì vậy đầu tư cho con người vừa được xem là điều kiện tiên quyết, vừa là mục đích cuối cùng của mọi sự phát triển
3. Giải pháp hoàn thiện công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư
3.1 Đổi mới nhận thức về dự án đầu tư
Để nâng cao hiệu quả công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, trước hết phải có cái nhìn đúng đắn về dự án đầu tư. Phải coi dự án đầu tư là một sản phẩm hàng hoá mà giá trị lớn nhất mà nó mang lại là nâng cao hiệu quả đầu tư. Do vậy quá trình lập, thẩm định được coi là quá trình hình thành và phát triển dự án, biến dự án thành một công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả đầu tư . Từ đó mới thấy được tầm quan trọng của công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án, xoá bỏ được tư tưởng coi công tác lập và thẩm định các dự án đầu tư chỉ là một thủ tục mang tính hành chính nhằm huy động vốn hoặc xin phép đầu tư.
3.2 Đầu tư cho công tác lập và thẩm định dự án đầu tư
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của dự án đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, cần phải tăng cường đầu tư cho công tác lập và thẩm định dự án. Trong đó cần chú ý đầu tư phát triển con người, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở dữ liệu, … phục vụ cho các công tác này. Đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lập, thẩm định dự án là nhân tố quan trọng hàng đầu, bởi lẽ chất lượng dự án phụ thuộc nhiều vào trình độ người lập và thẩm định dự án. Nếu trình độ của cán bộ lập và thẩm định dự án kém sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho việc thực hiện dự án sau này, gây lãng phí nguồn lực của xã hội.Trang thiết bị và các phương tiện hoạt động hiện đại sẽ giúp nâng cao tính chính xác, giảm thời gian lập và thẩm định dự án. Do đó dự án sẽ mau chóng được đưa vào thực hiện, mau chóng phát huy được tác dụng và tận dụng được cơ hội kinh doanh trên thị trường.
3.3 Đưa ra các quy định cụ thể về việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án
* Đối với việc lập dự án
Cần xác định một cách khách quan, có căn cứ khoa học và thực tiễn sự cần thiết phải đầu tư, từ đó mới đi đến quyết định lập dự án, tránh việc lập dự án tràn lan, không phù hợp với tình hình thực tế của từng ngành, từng vùng.
Việc lập dự án của ngành cần phải được thực hiện căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành trên cơ sở xem xét chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Có như vậy mới có thể phân bố vốn đầu tư vào các ngành trọng điểm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của ngành trong nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đã định sẵn.
Xây dựng và ban hành chỉ tiêu suất vốn đầu tư nhằm xác định chính xác tổng mức vốn đầu tư, làm cơ sở quản lý chi phí trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Tăng cường các thông tin về thị trường, dự báo kinh tế xã hội, các chủ chương đường lối của Đảng và nhà nước để cung cấp cơ sở dữ liệu cho nhà lập dự án.
* Đối với việc thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là khâu quan trọng, quyết định xem dự án có được chấp nhận hay không. Do vậy khâu thẩm định dự án phảI được thực hiện một cách khách quan, công bằng và chính xác.
Để thực hiện được như vậy, trước hết phải đào tạo được đội ngũ cán bộ thẩm định có chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, khách quan và công bằng. Đồng thời cần phải quy định cụ thể phương pháp thẩm định và các tiêu chí làm cơ sở cho việc thẩm định dự án đầu tư, các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật, tài chính, xây dựng… cho từng ngành.
Thực tế cho thấy, do chất lượng của dự án chưa đạt yêu cầu nên trong quá trình thực hiện, nhiều dự án phải điều chỉnh, bổ sung, mất rất nhiều thời gian theo quy định hiện hành. Để giảm bớt thủ tục, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ dự án nằm trong khâu thẩm định, khi thay đổi nội dung nào của dự án, chỉ cần lập, sửa đổi, bổ sung rồi thẩm định lại nội dung thay đổi đó.
* Đối với công tác phê duỵệt dự án đầu tư
Nên quy định người có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt dự án đầu tư thay cho việc ra quyết định đầu tư. Theo quy định hiện nay, sau khi dự án được thẩm định sẽ được người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên quyết định đầu tư mới chỉ bao gồm những nội dung cơ bản so với toàn bộ nội dung dự án đầu tư. Để nâng cao tác dụng của dự án đầu tư, nên quy định người có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt dự án thay cho việc ra quyết định đầu tư như hiện nay. Dự án đầu tư sau khi được duyệt sẽ là căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện đầu tư và để kiểm tra, đánh giá quá trình đầu tư
3.4 Quy định cụ thể trách nhiệm của các cá nhân đảm nhận việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư
Người lập dự án đầu tư khi nhận nhiệm vụ lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo khả thi hoặc báo cáo đầu tư phải có trách nhiệm giải trình kịp thời và đầy đủ những nội dung liên quan đến dự án theo yêu cầu của người thẩm định dự án.
Người thẩm định dự án đầu tư phảI chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung mà mình thẩm định. Cần phảI quy định những chế tài nghiêm khắc đối với những cán bộ thẩm định thực hiện sai nguyên tắc bên cạnh việc xử phạt hành chính- bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
Người phê duyệt dự án đầu tư, với tư cách là cấp trên của chủ đầu tư và người thẩm định phải chiu trách nhiệm đối với những nội dung chưa được thẩm định. Người phê duyệt dự án cũng phải đảm bảo phê duyệt nhanh chóng đối với các dự án đã được thẩm định là khả thi, tránh việc dồn tắc dự án ở khâu phê duyệt
Chủ đầu tư phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án và chấp hành các quy định trong qua trình lập dự án, thực hiện dự án đầu tư.
4. Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động đầu tư.
4.1 Tăng cường công tác quản lý dự án
Phải tuân thủ trình tự đầu tư từ công tác quy hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ, quy hoạch chi tiết về xây dựng đô thị, xây dựng nông thôn, xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất…), kế hoạch đến công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành kết quả sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng trình tự đầu tư sẽ cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong suốt quá trình đầu tư, tránh phải làm lại nhiều lần do bỏ qua một công đoạn nào đó.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư của cấp có thẩm quyền. Cần sớm ban hành nghị định về công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư để nâng cao trách nhiệm của các cá nhân có liên quan
Thực hiện tốt việc đầu tư dứt điểm, có trọng điểm. Mọi dự án đầu tư dù thực hiện bằng nguồn vốn nào cũng phải cân đối đủ vốn để hoàn thành đúng tiến độ, tránh tình trạng hoàn thành được một phần thì hết vốn phải ngừng trệ để xin vốn tiếp. Đồng thời phải xác định đâu là các dự án được ưu tiên để đầu tư đúng trọng tâm, trọng điểm.
Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý dự án đầu tư. Cán bộ đang đảm nhận công việc nào, chuyên môn nào sẽ được đào tạo lại theo công việc đó, chuyên môn đó. Những cán bộ có các chuyên môn khác nhưng có liên quan đến hoạt động đầu tư, khi chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý dự án đầu tư phải qua đào tạo lại về chuyên ngành quản lý dự án. Có như vậy mới có được một đội ngũ cán bộ thực sư đủ năng lực để nâng cao hiệu quả quản lý dự án đầu tư.
4.2 Thực hiện quản lý thống nhất một đầu mối đối với tất cả các dự án đầu tư
Hiện nay việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau như Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư, Bộ, Sở tài chính, UBND các cấp….Các cơ quan này do phối hợp chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ nên chưa có kế hoạch đầu tư tổng thể, thống nhất. Kế hoạch bố trí vốn bị phân tán, không lồng ghép được các nguồn vốn của trung ương với địa phương nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Đồng thời, sự thiếu đồng bộ, chạt chẽ trong việc quản lý và tổ chức thực hiện kế hoạch đầu tư đã tạo nên tình trạng thiếu vốn giả tạo, chồng chéo trong việc bố trí các dự án, gây lãng phí vốn đầu tư. Trong khi đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phảI có sự bố trí hợp lý các dự án trong từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, để ngăn chặn tình trạng phân bổ vốn dàn trảI, đầu tư manh mún không hiệu quả cần phải xây dựng đầu mối thống nhất quản lý các hoạt động đầu tư phát triển, đặc biệt là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của xã hội.
4.3 Nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư
* Định hướng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước
Đối với vốn nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển theo hướng CNH- HĐH. Về lý thuyết, vốn ngân sách nên đầu tư vào các ngành có hệ số ICOR thấp, bởi vì khả năng vốn ngân sách còn hạn chế. Chọn những ngành có ICOR thấp thì hiệu quả cạnh tranh sẽ cao hơn bởi các ngành này có thể thu hút nhiều lao động. Không chỉ thế, vốn ngân sách nhà nước nên dành tỷ trọng thoả đáng trong các lĩnh vực mà các chủ thể kinh tế khác không được phép làm hay không muốn làm. Cụ thể vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nên tập trung vào một số lĩnh vự sau đây:
- Đầu tư phát triển các ngành chế biến nông lâm thuỷ sản để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu, hạn chế dần xuất khẩu sản phẩm thô.
- Đầu tư vào công nghiệp điện tử vì đây là một ngành công nghiệp mới, tiềm năng và là ngành kinh tế “nóng” trên thế giới. Chúng ta cần chú trọng đầu tư phát triển ngành này để biến nó thành ngành công nghiệp mũi nhọn.
- Đầu tư vào một sô ngành cơ khí chế tạo. Trong thời gian qua, một số sản phẩm cơ khí chế tạo của Việt Nam như dây điện, dây cáp điện, xe đạp và phụ tùng xe đạp…có kim ngạch xuất khẩu khá cao. Do vậy trong thời gian tới nên chú trọng đầu tư phát triển những ngành này
- Đầu tư phát triển các ngành thông tin và dịch vụ. Đây là những lĩnh vực hấp dẫn, có hiệu quả kinh tế cao, góp phần quan trọng trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Hoàn thiện cơ chế cấp phát vốn
Đối với việc cấp phát vốn đầu tư phát triển nên sử dụng rộng rãi cơ chế cấp phát vốn theo sản phẩm hoàn thành. Bởi lẽ cơ chế này tạo ra sự ràng buộc giữa công tác cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan quản lý tài chính với kết quả của sản phẩm xây dựng. Từ đó thúc đẩy các đơn vị thi công xây lắp đẩy mạnh tiến độ thi công, nhanh chóng hoàn thành các công trình và hạng mục công trình để đưa vào sử dụng.
áp dụng cơ chế cấp phát vốn theo sản phẩm hoàn thành sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển các ngành kinh tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung do các sản phẩm xây dựng của dự án sẽ sớm phát huy tác dụng làm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.
4.4 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình đầu tư
* Đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát quá trình đầu tư
Chủ đầu tư phải thường xuyên báo cáo về tình hình đầu tư tại đơn vị mình, các đơn vị chủ quản đầu tư cũng phải thường xuyên tổng hợp tình hình thực hiện đầu tư tại Bộ, ngành, địa phương mình để thông báo lên cho các cơ quan giám sát.
Các cán bộ kiểm tra giám sát ngoài việc tổng hợp thông tin cần phải cử người trực tiếp xuống cơ sở để xác nhận chính xác tình hình thực hiện đầu tư tại các đơn vị, tránh tình trạng báo cáo không đúng với thực tế.
Ngoài ra, để phục vụ tốt cho công tác kiểm tra, giám sát, cần phải thực hiện minh bạch, công khai các thông tin về tình hình phân bổ, sử dụng vốn đầu tư ở các cấp, các ngành, các địa phương, về kế hoạch, dự toán, quyết toán vốn đầu tư của từng công trình, dự án. Công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về kế hoạch đầu tư và vốn đầu tư trong từng năm hoặc từng thời kỳ, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư cho các ngành, các địa phương, điều kiện để được phân bổ vốn, lãi suất, mức vốn vay…
* Xây dựng quy trình kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư
Cần phải thực hiện việc kiểm tra, giám sát trong toàn bộ quá trình đầu tư từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến vận hành kết quả kết quả sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phải xây dựng một quy trình kiểm tra giám sát liên tục và chặt chẽ. Theo đó sẽ tránh được tình trạng khi vận hành kết quả đầu tư phải khắc phục hậu quả của những sai sót từ những khâu trước đó, đồng thời giảm được việc thất thoát vốn đầu tư trong qua trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Kết luận
Sau gần 20 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế là yếu tố cơ bản đưa toàn bộ nền kinh tế phát triển theo hướng CNH- HĐH. Trên bảng xếp hạng của thế giới, Việt Nam đã dần cải thiện được vị trí của mình, đứng thứ 60 trên 102 nước (năm2003). Nói đến những thành tựu này không thể không nói tới vai trò quyết đinh của đầu tư. Đầu tư chính là nhân tố hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia. Với cơ cấu đầu tư hợp lý đã tạo ra cơ cấu kinh tế tích cực, đáp ứng việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển.
Chính vì vậy, việc nâng cao thúc đẩy hoạt động đầu tư trong thời gian tới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đầu tư phải là nhân tố ưu tiên hàng đầu. Đầu tư vừa tạo nên “ cú huých ban đầu” đưa nền kinh tế ra khỏi cơ chế cũ, vừa là “chiếc chìa khoá vàng” đưa nền kinh tế đất nước bước vào hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Kinh tế đầu tư- NXB Thống kê
- Giáo trình Thống kê đầu tư và xây dựng cơ bản- NXB Thống kê
- Giáo trình Kinh tế phát triển- NXB Thống kê
- Giáo trình kinh tế đầu tư nâng cao
- Robert Gordon, Kinh tế học vĩ mô- NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội
- Rhys Jenkin, Một số vấn đề về chiến lược CNH và lý thuyết phát triển- NXB Thế Giới
- J. M. Keynes, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ- NXB Giáo dục.
- Simon Kuznets, Các thuyết trình tại lễ trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1969- 1980
- R. Solow, Các thuyết trình tại lế trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1981- 1990
-Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX
- Chương trình đầu tư công cộng thời kỳ 2001-2005- NXB Thống Kê
- Niêm giám thống kê 2002
- Tạp chí kinh tế và dự báo số 3/2000, 8/2000, 3/2001, 2/ 2002, 8/2003
- Tạp chí kinh tế và phát triển T12/ 2001, T3/ 2002, T2/2003, T7/ 2003
- Tạp chí phát triển kinh tế T11/ 2002, T3/2003, T10/ 2003
- Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 5/ 2001
- Báo Đầu tư xuân 2004
- Thời báo kinh tế Việt Nam số 10- 15, số tổng kết 2003- 2004
- Bài viết “ Đổi mới cơ cấu đầu tư, thực hiện mục tiêu CNH- HĐH đất nước”- TS Phạm Văn Hùng
- Tổng quan kinh tế- xã hội Việt Nam 2003- PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc
- Trang Web:
http:///www.cpvn.gov.com
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Đầu tư với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các quốc gia 2
I. Đầu tư và cơ cấu đầu tư 2
1. Khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển 2
1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển 2
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển 2
1.2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước 2
1.2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ 5
2. Cơ cấu đầu tư 5
2.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu đầu tư 5
2.1.1. Khái niệm 5
2.1.2. Phân loại 5
2.2. Chuẩn dịch cơ cấu đầu tư 6
II. Đầu tư đối với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 7
1. Đầu tư với sự tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng các ngành nói riêng 7
1.1. Khái niệm và các yếu tố chủ yếu của tăng trưởng và phát triển kinh tế 7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Các yếu tố chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế 8
1.2. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế 9
1.2.1. Mô hình Harrod - Domar 9
1.2.2. Mô hình Solow 11
2. Đầu tư với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 14
2.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành 14
2.1.1. Cơ cấu kinh tế 14
2.1.2. Cơ cấu kinh tế theo ngành 14
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và các nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 15
2.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 15
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 15
2.3. Đầu tư tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 17
III. Đầu tư với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các quốc gia 19
1. Khái niệm và bản chất của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 19
1.1. Khái nhiệm về công nghiệp hoá 19
1.2. Thực chất của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 20
2. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 20
Phần II: Thực trạng đầu tư với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở Việt Nam 23
I. Thực trạng đầu tư và cơ cấu đầu tư theo ngành ở Việt Nam trong thời gian qua 23
1. Tổng quan về tình hình đầu tư ở Việt Nam trong thời gian qua 23
2. Thực trạng đầu tư và cơ cấu đầu tư theo ngành 31
II. Tác động của đầu tư với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 35
1. Tăng trưởng chung của nền kinh tế và tăng trưởng của các ngành 35
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 39
III. Một số hạn chế trong hoạt động đầu tư cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 40
1. Những tồn tại 40
2. Nguyên nhân 42
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đối với sự nghiệp tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam 44
I. Mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 44
II. Định hướng phát triển các ngành theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá 45
1.1. Đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn 45
1.2. Đối với ngành công nghiệp và xây dựng 46
1.3. Đối với ngành dịch vụ 47
III. Định hướng đầu tư phát triển theo ngành 47
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đối với sự nghiệp tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 50
1. Huy động vốn đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế 50
1.1. Thu hút nguồn vốn trong nước 50
1.2. Thu hút nguồn vốn nước ngoài 51
2. Kế hoạch hoá và bố trí cơ cấu đầu tư 52
2.1. Nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, chú trọng kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội sau năm 2000 52
2.2. Đổi mới công tác kế hoạch hoá hoạt động đầu tư 54
2.3. Bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư 55
3. Giải pháp hoàn thiện công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư 57
3.1. Đổi mới nhận thức về dự án đầu tư 57
3.2. Đầu tư cho công tác lập và thẩm định dự án đầu tư 58
3.3. Đưa ra các quy định cụ thể về việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án 58
3.4. Quy định cụ thể trách nhiệm của các cá nhân đảm nhận việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư 59
4. Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động đầu tư 60
4.1. Tăng cường công tác quản lý dự án 60
4.2. Thực hiện quản lý thống nhất một đầu mối đối với tất cả các dự án đầu tư 61
4.3. Nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư 61
4.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình đầu tư 62
Kết luận 64
Tài liệu tham khảo 65
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35669.doc