Đề án Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển nhờ có chiến lược “hướng vào xuất khẩu chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới và có giá trị thặng dư cao ”. Đặc biệt ngành dệt may xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động, cung cấp hàng hoá trong nước, tạo điều kiện mở rộng thương mại Quốc Tế và là ngành có lợi nhuận cao. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường Quốc Tế. Tuy nhiên quá trình xuất khẩu này có nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra, thì ngoài sự trợ giúp của nhà nước, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện mình hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Các doanh nghiệp dệt, đặc biệt các doanh nghiệp tư nhân, vẫn luôn trong tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư dài hạn. Có một số doanh nghiệp đã phải khắc phục tình trạng nay bằng cánh dùng vốn lưu động để đầu tư đổi mới trang thiết bị, nhưng họ lại phải đứng trước một khó khăn là phải chịu lãi suất cao và thời gian trả nợ ngắn. Để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp phải tăng tỷ lệ khấu hao tính vào giá thành. Lãi suất vay vốn đầu tư và tỷ lệ khấu hao cao làm cho giá của mặt hàng dệt tăng, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt. c.Chính sách về tỷ giá Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường từ đầu những năm 90. Cho đến cuối năm 1997, tỷ giá đồng /đôla duy trì ở mức ổn định trong khoảng 11000 đồng/đô la và giao động không quá 5%.Trong năm 1997-1998 dự trữ ngoại tệ giảm, thâm hụt tài khoản vãng lai cao gây áp lực làm mất giá đồng tiền Việt Nam . Khủng hoảng tài chính khu vực cũnglàm tắng áp lực này. Chính phủ đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm làm dịu bớt dần áp lực làm mất giá đồng tiền Việt Nam và làm cho tỷ giá hối đoái phản ánh tốt hơn quan hệ cung cầu trên thị trường hối đoái. Một trong những biện pháp đó là điều chỉnh tỷ giá vào tháng 8 năm 1998. thì nhiều doanh nghiệp đã bị thiệt hại nghiêm trọng. Theo một nghiên cứu trong tạp chí dệt may (1998) cho thấy là do đồng tiền Việt Nam bị phá giá, nên nguồn vốn vay đầu tư bằng ngoại tệ trên thực tế phải chịu lãi suất là 16,4%/ năm. Vì vậy không một doanh nghiệp dệt nào thực hiện đầu tư bằng ngoại tệ là không bị thua lỗ. Mặt khác như trên đã trình bày, các doanh nghiệp dệt ohụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất . Tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam so với đồng đô la tăng làm cho nhập khẩu trở nên đắt hơn. Điều này gây tổn hại đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp dệt. Nguồn nguyên liệu cho ngành dệt Nguồn nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt là bông. Năng suất trồng bông Việt Nam thấp, Người nông dân đã chuyển nhiều diện tích trồng bông sang trồng các loại cây khác mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Mặt khác giá bông Việt Nam lại cao hơn giá bông nhập (thuế nhập khẩu bông vào Việt Nam bằng 0). Ví dụ giá bông nội địa năm 1997 cao hơn giá bông thế giới là 35% (xem Huyền Thanh, tạp chí dệt may,1998). Chất lượng bông nội địa lại xấu không đủ tiêu chuẩn đáp ứng sản xuất hàng xuất khẩu , cũng như tỷ lệ tiêu hao sợi nội địa cao hơn sợi nhập ngoại. Do vậy ngành dệt đã phải phụ thuộc rất nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Vấn đế khó khăn ở đây là giá sợi bông nhập không ổn định. Ví dụ trong năm 1995 giá bông tăng đột ngột từ 1,7 đô la/kg lên 2,6 đô la/kg, sau lại giảm xuống còn2,06 đô la /kg chỉ trong vòng sáu tháng đầu năm. Trong vài năm gần đây giá bông đã tăng lên khá nhiều so với nhứng năm trước. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các sản phẩm dệt, làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngành công doanh nghiệp dệt về chi phí sản xuất . e.Môi trường cạnh tranh Ngành dệt là ngành thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, vươn lên tiến tới xuất khẩu . Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này, Nhà nước phải thi hành chính sách bảo hộ thông qua các biện pháp như thuế. Với mục tiêu này, thuế nhập khẩu đối với ngành dệt rất khác nhau. Thuế suất cao đối với các sản phẩm may mặc đã được sản xuất trong nước(40-50 %) và thuế xuất thấp đối với nguyên liệu và thiết bị nhập khẩu cần cho sản xuất để xuất khẩu (0%). Mặc dù được bảo hộ hàng rào thuế quan như vậy, ngành dệt cungz phải chịu sự cạnh tranh rất lớn với hàng nhập ngoại, đặc biệt là hàng nhập lậu. Chúng ta có thể nhìn thấy vải ngoại như vải Trung Quốc, Thái Lan…bán ở khắp nơi với giá rẻ. Vải nhập lậu từ nước ngoài là mối đe doạ lớn nhất cho dệt vải Việt Nam . Do vậy việc phát triển của ngành dệt phụ thuộc nhiều vào hoạt động kiểm soát nhập lậu ở biên giới. Đến năm 2006 khi Việt Nam hoàn thành việc thực hiện CFPT/AFTA, thuế xuất nhập khẩu bảo hộ cho các doanh ngiệp dệt sẻ bị cắt giảm xuóng còn 0-5% chứ không phải là 40-50% thì đến năm 2003 mới bắt đầu thực hiên giảm thuế và sẻ giảm xuống còn 5% vào năm 2006. Còn một số mặt hàng có mức thuế nhập khẩu thấp hơn là 20% thì nhà nước đã tiến hàng giảm thuế dần dần từ năm 1998 và đến năm 2006 giảm xuống còn 5%. Do vậy từ năm 2006 trở đi các nhà sản xuất dệt Việt Nam lại càng phải chịu thách thức lớn trong cạnh tranh với các nước AESEAN là những nước sản xuất được hàng dệt có chất lượng tốt hơn, mẩu mã phong phú hơn. Từ nay cho đến năm 2006 các doanh nghiệp dệt phải khẳng định mình để có thể tiếp tục tồn tại, chiếm lĩng thị trường trong nước và sau đó tiếp tục phấn đấu vươn lên xuất khẩu . Do vậy các doanh nghiệp dệt phải quyết tâm cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. nếu không, dệt Việt Nam sẻ bị thất bại, thị trường trong nước se bị chiếm lĩnh bởi đối thủ nước ngoài. 2.3 Chính sách của nhà nước đối với ngành dệt Chính sách tài chính và đầu tư Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp của ngành dệt với lãi suất ưu đãi và sự bảo hộ của chính phủ. Trên thực tế chỉ các doanh nghiệp quốc doanh được hưởng sự ưu đãi này. Ví dụ, nếu như doanh nghiệp nào được hưởng chính sách ưu tiên đầu tư của nhà nước, doanh nghiệp đó cjỉ phải chịu lãi suất là 0,3%/ tháng, thấp hơn nhiều so với vốn vay thông thường khác là 0,7%/ tháng (theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt do viện kinh tế tiến hành năm 1998-1999). Tuy nhiên sự hổ trợ này của nhà nước rất không đáng kể. Kết quả điều tra kể trên cho thấy là chỉ có 6 trong số 24 doanh nghiệp dệt quốc doanh được hưởng chính sách này. Và trong số đó thì có 3 doanh nghiệp được hổ trợ 80-100% vốn đầu tư, còn 3 doanh nghiệp chỉ được hổ trợ không quá 50% vốn đầu tư. Nguồn vốn cho vay đầu tư lớn nhất chỉ khoảng 50 triệu đồng. Doanh nghiệp dệt tư nhân rất khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn tài chính cho cả vốn đầu tư và vốn lưu động. Thứ nhất, các doang nghiệp dệt tư nhân thường là mới được thành lập, có quy mô nhỏ. Các ngân hàng nhà nước rất ngại cho doanh nghiệp tư nhân vay vì các doanh nghiệp này không có sự bảo lãnh và không có độ tin cậy(kinh doanh tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa gây được lòng ting trong dân chúng). Thứ hai, các doanh nghiệp tư nhân thường không đáp ứng được yêu cầu thế chấp theo thủ tuc cho vay của ngân hàng. Rõ ràng là khu vực dệt tư nhân phát triển mà không có sự giúp dỡ từ khu vực tài chính chính thức. Chi phí vay vốn để hoạt động từ các nguồn tài chính không chính thức cao hơn khá nhiều là từ các nguồn tài chính chính thức. Điều này làm tổn hại đến khu vực dệt tư nhân nói riêng và đến khả năng cạnh tranh của ngành nói chung. Tóm lại, chính sách tài chính có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân phải phụ thuộc vào thị trường tài chính không chính thức với mức lãi suất cao hơn nhiều. Do vậy nha nước cần phải có chính sách tài chính không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong ngành. b. Chính sách thương mại Cơ cấu thuế nhập khẩu hiện nay đối với các mặt hàng dệt được thể hiện ở mức thuếu suất cao đối với các sản phẩm sản xuất được trong nước và thấp đối với nguyên vật liệu, trang thiết bị phải nhập. Thuế nhập khẩu có cấu trúc như sau: 0% : Bông, sợi tổng hợp, chỉ, thuốc nhuộm, máy móc; 10 – 20 % : Sợi bông, tổng hợp thành phẩm; 40% : Sợi đan; 50% : Vải. Thuế suất trung bình giản đơn của các sản phẩm dệt là 26,7%, thuế suất trung bình theo tỷ trọng nhập khẩu là 31%; tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu tương ứng là 47,5% và 58,1%. Đối với toàn bộ nền kinh tế thì những con số tương ứng là: 19,0% ; 18,3%; 47,6% và 47,1% (theo tính toán của dự án “thương mại và khả năng cạnh tranh” do IDRC – Cannada tài trợ và thực hiện bởi viện kinh tế học). Như vậy nhìn chung mức độ bảo hộ của nhà nước đối với ngành là không cao so với các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Một chính sách khác có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành là chính sách phân bổ quota xuất khẩu. Quota xuất khẩu hàng dệt – may của Việt Nam là do EU, Na Uy, Canada quy định thông qua các hiệp đinh song phương với mục đích giúp các nước đang phát triển đẩy manh xuất khẩu.Việt Nam đã có sự tăng trướng khá về quota trong những năm qua. Xuất khẩu hàng dệt may vào thi trượng quota chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Do vậy cơ chế phân bổ quota cho các doanh nghiệp có tác động tích cực đến sự tăng trưởng của ngành. Nhà nước đã thường xuyên cải tiến cơ chế này nhằm bảo đảm sử dụng triệt để quota. Cơ chế phân bổ quota hiện hành được quy định trong thông tư liên bộ số 20/1998/TTLT/BTM/BKHDT/BCN ngày 10/12/1998. Hiện nay bộ thương mại đang áp dụng thí điểm đấu thầu phân bổ quota. Có một số điểm không hợp lý trong chính sách thương mại đối với ngành dệt cần phải cải tiến: Thứ nhất, mục tiêu bảo hộ ngành thể hiện trong cơ cấu thuế nhập khẩu trở nên không có ý nghĩa do tình trạng buôn lậu diễn ra phổ biến. Điều đó chứng tỏ cơ cấu thuế nhập hàng dệt là không hợp lý, không có tác dụng bảo hộ các nhà sản xuất dệt như mục tiêu đề ra. Thứ hai, có sự khác biệt rất lớn về thuế suất cho các sản phẩm giống nhau với mục đích sử dụng khác nhau, gây ra sự tuỳ tiện cho các bộ hải quan. Thứ ba, quy chế phân bổ quota vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng và thể hiện sự ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước hơn là các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài. Thứ tư, thủ tục xuất nhập khẩu rất phức tạp và mất thời gian. Đây là một hạn chế lớn trong nghành dệt vốn đã tham gia nhiều vào hoạt động này. Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam Những thuận lợi Thứ nhất, hàng dệt và may mặc của Việt Nam khá tốt và rẻ hơn so với dùng hàng nước ngoài. Ưu điển này nằm trong bản chất này và thế so sánh giữa tiền lương nhân công Việt Nam với tiền lương nhân công nước ngoài. Về bản chất ngành dệt may chỉ đòi hỏi đầu tư ít, kỹ thuật ít thay đổi, những máy may sin co củ từ 20-30 năm về trước vẩn hoạt động tốt và làm ra các sản phẩm tốt. Ngành dệt và may mặc cần rất nhiều nhân công và mổi nhân công dệt chỉ coi được một số máy dệt hạn chế, các công nhân may mặc cũng chỉ may được một số rất ít sản phẩm mổi ngày. Giá nhân công rẻ là khâu quyết định trong ngành dệt và hàng may mặc. Ở các nước công nghiệp phát triển, giá nhân công trên 10 USD/1giờ và ở các nước công nghiệp giá nhân công cũng 3-5 USD/1giờ. So với giá nhân công trong ngành dệt và may mặc ở Việt Nam khoảng 500000-1500.000đ/1tháng – tính theo tỷ giá 15.000đ/1USD thì tiền lương nhân công làm hàng may mặc Việt Nam chỉ 33-100 USD/tháng ! Thứ hai, số cầu hàng may mặc có tính co dãn: số cầu không bao giờ tiến đến mức bảo hoà vì mức sống càng được cải thiện thì còn người càng muốn mặc đẹp và đúng thời trang hơn. Giá các kiểu áo quần được trưng bày ở Mỹ, Anh, Pháp, Nhật lên đến chục USD mỗi bộ. Từ điểm thứ hai này, lượng hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng giá gấp bội lần, mà không vấp phải tác dụng King như trong ngành nông sản: gạo hay cà fê, cây ăn trái. 3.2 Những khó khăn a). Các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau kéo giá gia công của nước ngoài vốn đã thấp xuống một mức thấp hơn. b). Do nhận gia công với nước ngoài với giá thấp, nên quan hệ tiền lương với nhân công vẫn chưa được thoả đáng. c). Ngoài quan hệ tiền luqoqng, các doanh nghiệp còn quan hệ giá gia công đối với từng nhóm công nhân làm việc tại nhà. Quan hệ này được tiến hành như sau: công nhân lãnh hàng đem về nhà gia công và doanh nghiệp thanh toán tiền gia công sau khi kiểm tra chất lượng. Quan hệ trên thường có lợi cho doanh nghiệp hơn là việc thuê nhân công hàng tháng vì những người gia công phải có mặt, một số máy và do có thể ở nhà làm việc trong nom con cái, nên những người gia công thường bằng lòng với mức thù lao thấp. Do doanh nghiệp không có phí đầu tư mặt bằng, máy móc, nên với chế độ gia công tại nhà, doanh nghiệp có thể tăng gia sản xuất gấp bội lần, khi được đơn đặt hàng của nước ngoài. Để có quota xuất khẩu, doanh nghiệp thường nhận gia công thấp và tính lại tiền công gia công cho các nhóm nhân công tại nhà với mức thù lao rất thấp nên hình thức “gia công tại nhà” chưa được phổ biến rộng rải. d). Trở lại vấn đề đầu tiên, các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau và chấp nhận một giá gia công thường thấp, giá này chưa đến việc ép công nhân làm nhiều giờ với mức lương thấp và việc trả thù lao cho các nhóm thợ lãnh hàng đem về nhà làm với mức thù lao chưa thoả đáng có nguyên nhân vì các nước kém mở mang cạnh tranh rất găi gắt với nhau để giành thị trường hàng may mặc của các nước kém phát triển . trong việc này lá bài,lá bài “ hạ giá gia công” được các nước kém mở mang cộng với các doanh nghiệp trong chính các nước này đồng áp dụng và đưa đến thiệt hại quan trọng cho chính các nước kém mở mang. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải ngồi lại với nhau, thoả thuận một giá gia công tối thiểu, để doanh nghiệp đạt được mức lời vừa phải và công nhân cũng được số tiền lương vừa phải. Tất nhiên, nhà nước có và trò trọng tài và xữ lý những doanh nghiệp xé rào chịu giá gia công quá thấp và như vậy làm thiệt hại chung cho ngành may mặc trong xứ. e). Hàng may mặc hiểu theo nghĩa rộng rất đa dạng. Việt Nam muốn có thị trường rộng phải có những kiểu hàng thích hợp cho tất các lứa tuổi, tất cả khổ người từ những đàn ông , đàn bà trẻ em đến những người già, từ các người công nhân áo xanh đủ loại đến các thuỷ thủ, các tài xế gác, đến các sinh viên, nữ sinh hay các em bé. Ngoài quần áo may sẵn, còn mùng mền, chăn gối…điều đáng lưu ý là hiện nay các doanh nghiệp may mặc Việt Nam mới sản xuất chỉ một số ít kiểu hàng. 4. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 4.1 Kim nghạch xuất khẩu Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế , có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vươn lên đứng vị trí thứ hai trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991 tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5%, tức khoảng 160 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng, từ 7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998 . Đến nay, hàng dệt may đứng thứ nhất trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu (xem bảng 3) Bảng 3: Giá tri xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Đơn vị: triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỷ trọng/ tổng số 1992 211 2581 8,1% 1993 350 2985 11,7% 1994 550 4054 13,6% 1995 750 5200 14,4% 1996 1150 7255 15,2% 1997 1349 8759 15,4% 1998 1351 9361 14,4% 1999 1682 11532 14,6% 2000 1892 14455 13.08% 2001 2000 15100 13,25% 4.2 Thị trường xuất khẩu Hiện nay, phần lớn hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường có hạn ngạch như EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada….,trong đó Eu là thị trường trọng điểm. Với 360 triệu dân có mức tiêu dùng vải cao hàng đầu thế giới, (17kg/người/năm), đây là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư khai thác. Tuy vậy, đòi hỏi lớn không thể đáp ứng ngay là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm dệt may của người dân EU rất cao. Trong tổng số 63 tỷ USD quần áo nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ có khoảng 9,0 tỷ USD quần áo tiêu dùng bìng thường, số còn lại (khoảng 87%) là sử dụng theo mốt. Vì vậy, giá tri hàm lượng chất xám trong trong sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành nên nó. Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa hai loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch khá cao. Đây là một thiệt thòi không nhỏ do ngành tạo mốt Việt Nam còn non trẻ. Trong thời gian tới, nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU-Việt Nam giai đoạn 1998-2000 ký ngày 17/11/1997, ngành may mặc của nước ta có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ sang thị trường EU. Theo hiệp định này, từ năm 1998, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn (17% so với trước kia là 12%). Hơn nữa, Việt Nam còn được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế ưu đãi phổ cập của EU. Như vậy, một số mặt hàng của Việt Nam sẽ được hướng thuế quan nhập khẩu 0%, làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nước ta nói chung, trong đó có hàng dệt may . Các nhà xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến nay thường phải thông qua nước thứ 3 như Đài Loan và Đức…để vào thị trường nước ngoài. Bên cạnh thị trường xuất khẩu có hạn ngạch. Việt Nam đã thâm nhập một số thị trường không hạn ngạch khổng lồ như Nhật Bản, Mỹ, Singapo và Đông Âu…để tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu, trong đó thị trường lớn nhất là Nhật Bản, không chỉ có lượng dân cư đông đúc hơn 125 triệu người mà Nhật Bản còn là thị trường tiêu thụ hàng may mặc rất cao (27kg/người/năm). Năm 1997 Việt Nam đứng hàng thứ 7 trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Tuy vậy, Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động, và một số loại sơ mi, quần âu đơn giản. Trong năm 1998 vừa qua, do chịu ảnh hưởng trực tiếp của của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sức mua của thị trường Nhật Bản giảm mạnh khiến cho kim ngạch xuất khẩu hang dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản giảm 150 triệu USD. Theo dự đoán, sự giảm sút này sẽ tiếp tục trong năm 1999. Mỹ là thị trường nhập khẩu hang dệt may không hạn ngạch có tiềm năng lớn thứ hai của Việt Nam. Chỉ bằng hai phần ba dân số EU nhưng mức tiêu thụ vải (27kg/người/năm) của người Mỹ lại gấp 1,5 lần EU. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may của Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ đang phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ.Trong những năm tới, Mỹ vẫn được coi là thị trường có tiềm năng lớn của Việt Nam , đặc biệt khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết và Mỹ tiến hành bình đẳng hoá thương mại với Việt Nam . Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam được khái quát trong biểu đồ. BẮC MỸ THỊ TRƯỜNG KHÁC 4.3 Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may So với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rrất hạn chế. Đây là ngành yêu càu lượng máy móc thiết bị hiện đại, đồng bộ và tốn kém. Do vậy, ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn phải nhập ngoại, như vậy, kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Hiện có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài. Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít doanh nghiệp may mạc nước ta lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo Veston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, áo sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện, Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt kỹ thuật và tay nghề tức là tự mình làm mất đi một thị trường rất có tiềm năng cho ngành dệt may nước nhà. 5. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 5.1 Những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam thâm nhập thị trường EU a). Thuận lợi • EU là thị trường lớn, ổn định và phát triển.Việt Nam thâm nhập thị trường này sẽ không gặp sự chao đảo như thị trường Nhật Bản năm 1997-2000. Thâm nhập vào thị trường EU sẽ tạo cho Việt Nam thế ổn định xuất nhập khẩu. • EU đang quan tâm và hướng hoạt động sang châu Á, thể hiện qua các hội nghị ASEM từ năm 1996. Việt Nam hiện đang đánh giá là nước đang đi lên, nằm trong khu vực được quan tâm, lại là thành viên của ASEAN. Năm 2001, Việt Nam được đánh giá là nước ổn định nhất khu vực. • Hàng hoá của châu Á (trong đó có Việt Nam ), có chủng loại rất cần cho EU, nhất là hàng công nghiệp nhẹ (giầy da, may mặc), hàng nông sản, thuỷ sản, đồ gỗ . EU có thể nhập khẩu trực tiếp hoặc hợp tác gia công những mặt hàng này. • Là khu vực đang đi vào nhất thể hoá, làm đối trọng với Mỹ và Nhật Bản, EU rất cần phát triển khu vực thị trường châu Á. Cơ chế thị trường hiện nay của Việt Nam phù hợp với yêu cầu của EU. • Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hoá , cần thị trường xuất khẩu, trong khi đó EU có thể tiêu thụ khối lượng lớn hàng của Việt Nam. EU lại có công nghệ cao, có thể hỗ trợ vốn đầu tư công nghệ. Hàng Việt Nam phải qua thử thách vào EU để trưởng thành. b) Khó khăn • Việt Nam chưa là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên mức thuế bị thiệt, giảm khả năng cạnh tranh. EU đòi hỏi chất lượng cao, ta phải vượt mạnh lên mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính này, nhất là EU lại dùng “hàng rào kỹ thuật”. Nếu ta vi phạm về chất lượng hay “hàng rào kỹ thuật” thì hàng của ta sẽ bị mất uy tính, bị đẩy ra khỏi thị trường EU, khó quay trở lại, nếu muốn quay trở lại sẽ gặp khó khăn gấp bội. • Châu Âu là trung tâm thời trang thế giới,mẫu mã của ta chưa đáp ứng được thị hiếu đó. Ta phải chi phí không ít để cạnh tranh. Nếu mẫu mã, thời trang kém thì hàng của ta dù chất liệu tốt cũng sẽ bị bầy bán chủ yếu ở quầy giá hạ, gây ấn tượng xấu cho người tiêu dùng , khó vươn lên được. • Hàng Việt Nam phải cạnh tranh với hàng hoá của nhiều nước châu Á, nhất là Trung Quốc (đã là thành viên của WTO). Họ có nhiều mặt hàng cùng chủng loại với ta như: giầy dép, hàng may mặc, nên là lực cản có trọng lượng lớn cho hàng của ta vào thị trường EU. Các nứoc châu Á khác như: Patkistan, Bangladet và các nứoc ASEAN đều có cơ cấu hàng xuất khẩu gần như ta. Tuy không như Trung Quốc, nhưng đây cũng là những nước cạnh tranh đáng chú ý. • Hàng có chất độc, hang thực phẩm có chất lượng kém khó vào được EU. Qua nhiều năm phấn đấu , nay Việt Nam mới bắt đầu vào được thị trường EU, nếu để sai sót một vài lần sẽ khó có điều kiện phát triển. 5.2. Thực trạng quan hệ thương mại của Việt Nam với EU. Quan hệ Việt Nam với EU được hình thành trước hết với từng nước ngay từ khi miền Nam được giải phóng. Trong giai đoạn 1975-1979, viện trợ kinh tế của EU giành cho Việt Nam lên tới 109 triệu USD, trong đó viện trợ trực tiếp là 68 triệu USD. Song từ tháng 7 năm 1979, do vấn đề Campuchia nên EU đã viện trợ cho Việt Nam, kể cả khoản viện trợ 36 triệu USD đã được phê chuẩn. Từ cuối năm 1984, EU bắt đầu nối lại viện trợ nhân đạo cho Việt Nam. Đặc biệt ngày 22/10/1990, hội nghị ngoại trưởng EU đã thoả thuận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ở cấp đại sứ. Đây là sự kiện hết sức quan trọng, đánh dấu một bước chuyển biến mới trong quan hệ EU-Việt Nam. Sau khi lập quan hệ chính thức các nước thành viên EU càng tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác, đầu tư thương mại và viện trợ cho Việt Nam. Cũng từ đó sự hợp tác của EU với Việt Nam không ngừng được mở rộng trên cả quy mô lẫn hình thức. Tháng 6-1992, Pháp và Việt Nam đã kí hiệp định khuyến khích và bảo đảm đầu tư. Đây là lần đầu tiên Việt Nam và một nước thành viên EU kí một hiệp định như vậy ở cấp thủ tương chính phủ. Trong chuyến đi thăm chính thức Việt Nam của cộng hoà Pháp Mitterant tháng 2/1993, phía Pháp đã quyết định tăng gấp đôi viện trợ trong năm 1993 (so với năm 1992) cho Việt Nam. Tiếp theo việc mỡ rộng quan hệ giữa Pháp với Việt Nam, nhiều nước thành viên EU cũng đã đẩy mạnh quan hệ với nước ta. Năm 2001 nhiều nước mở rộng nhập khẩu hàng Việt Nam . Hầu hết các nước EU đều có quan hệ xuất nhập khẩu với Việt Nam . Đức là một nước dẫn đầu chiếm 28,5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU năm 2001. Pháp (20,7%), Anh (12,7%), Itilia (9,6%). Năm 1998, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU đạt trên 1 tỷ USD; năm 1999 đạt 4,5 tỷ USD; năm 2000 dã vượt hơn 5 tỷ USD. Tuy xuất nhập khẩu của Việt Nam –EU có sự tăng trưởng đều đặn, nhưng đến nay chỉ chiếm khoảng 0,12% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của EU và chiếm 14% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó từ 1998 Việt Nam luôn xuất siêu cho EU. Thực tế quan hệ thương mại Việt Nam –EU chưa tương xướng với tiềm năng của cả hai bên. Từ năm 1995, quan hệ thương mại Việt Nam –EU phát triển nhanh, nhất là khi cơ chế thị trường , chính sách đổi mới tạo thuận lợi cho cả hai bên. Trong hiệp định ký kết hợp tác năm 1995, hai bên dành cho nhau quy chế đãi ngộ tối huệ quốc, mở cửa cho các bên vào thị trường , quy ước hàng xuất xứ từ Việt Nam được hưởng quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU là giầy dép, hàng may mặc, cà fê, hải sản, gạo, cao su, than đá, hạt điều, rau quả. Các mặt hàng này chiếm từ 72-76% xuất khẩu của Việt Nam vào EU, trong đó lớn nhất là giầy dép chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu , may mặc (25%), cà fê, hải sản. Ngoài ra còn có hàng thủ công mỹ nghệ, nhất là đồ gổ, hàng gốm sứ. Vấn đề và cơ hội trong xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam vào EU Lợi thế so sánh của hàng dệt may Việt Nam và EU Thứ nhất, Việt Nam năm ở khu vực vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt động giai dịch thương mại quốc tế nói chung và buôn bán hàng dệt may nói riêng. Có hơn 1300 km bờ biển và nhiều cảng nước sâu, nằm trong tổng thể qui hoạt đường bộ, đường sắt xuyên Á của ADB giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí vận chuyển hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh. Thứ hai, nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm mưa nhiều là lợi thế để phát triển nghề trồng bông, đay. Nhờ vậy ngành dệt may nước ta có ưu thế lớn về nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào rẻ và ổn định nên giá thành giảm nâng cao khả năng cạnh tranh. Thứ ba, Việt nam có nguồn lao động rồi dào, cần mẫn, sáng tạo phù hợp với ngành dệt may, giá nhân công rẻ nên thu hút được nhiều hợp đồng gia công may mặc cũng như tiếp nhận sự chuyển dịch ngành dệt may từ các nước phát triển và NICs. Dặc biệt theo hiệp định mới Việt Nam còn được tự do chuyển đổi quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi và dễ dàng hơn đồng thời EU cũng dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc(MFN) nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU được hưởng thuế quan với mức 0% theo chế độ ưu đãi phổ cập(GST). Thứ tư, ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn, yêu cầu về công nghệ không quá hiện đại và có tỷ lệ hàng xuất khẩu lớn được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp mới này như miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, quy định mức thuế 0% để được hoàn thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng thực hiện cho vay ưư đãi đối với một số doanh nghiệp dệt may Việt Nam để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh b. Những khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi trên việc xuất khẩu dệt may vào EU còn một số tồn đọng. Hàng dệt may xuất khẩu sang EU chủ yếu theo phương thức gia công nên các Doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào đơn đặt hàng của nước ngoài hoặc xuất khẩu thông qua nước thứ ba, hơn nữa do bị khống chế về hạn ngạch nên kim ngạch xuất nhập khẩu trong ba năm gần đây cũng chỉ dao động ở mức 600 triệu USD/năm. Việc EU tiến tới bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước WTO vào cuối năm 2004 là một bất lợi đối với hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam do nước ta vẫn còn chịu chế độ hạn ngạch chưa gia nhập WTO. Đối với thị trường phi hạn ngạch như Nhật, Châu Úc, Châu Mỹ, Đông Âu… hàng dệt may Việt Nam khó cạch tranh được với hàng Trung Quốc tại các thị trường truyền thống này.. 5.4 Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU Thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn ngạch chủ yếu của Việt Nam là các nước thuộc khối EU, EU được coi là thị trường xuất khẩu trọng điểm của nước ta và đang được khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại và trong đó chỉ khoảng 10-15% là tiêu dùng còn lại 85-90% là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước EU như: Đức, Pháp…nhưng do thay đỏi về chính trị thế giới nên quan hệ buôn bán đã bị hạn chế. Từ năm 1991, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã có những bước tiến mới, đặc biệt phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 23% trong thời kỳ 1993 – 1997. Theo hiệp định mới, Việt Nam còn được tự do chuyển đổi quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi và dễ dàng hơn, đồng thời EU cũng dành cho phía Việt Nam quy chế tối huệ quốc(MFN), nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU được hưởng thuế quan với mức 0% theo chế độ ưư đãi phổ cập (GSP). Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ làm, các mã hàng nóng như áo Jacket 2 hoặc 3 lớp, áo váy, sơ mi. đặc biệt, đối với mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997, Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu chiếc, tăng gần 5 triệu chiếc (hay 72%) so với năm 1993, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU, các nước EU nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Đức(40 – 42%), Pháp (13 – 15%), Hà Lan (10 – 13%)…ngoài ra Việt Nam còn mở rộng quan hệ buôn bán với các nước EU khác - Phần Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch … tỷ trọng nhập khẩu của các nước này đang tăng lên. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40% năng lực của mình tại thị trường EU, 70 % kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào EU được thực hiện thông qua các nhà trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn quốc và Đức. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản xuất, đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bi kỹ thuật cao,công nhân lành nghề và có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của ta chưa đáp ứng được.Trong tương lai, thị trường tiếp tục mở rộng nếu ta không đầu tư để lấp các lỗ hổng về kỹ thuật thì sẽ mầt đi một tiềm năng to lớn về thị trường cho ngành dệt may của nước ta. Cùng với vấn đề đề đặt ra làm sao chúng ta có thể tiếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU, giảm sự phụ thuộc và không thông qua các nhà đặt hàng trung gian. • Riêng về hàng dệt: Từ năm 1993, EU dành cho Việt Nam điều kiện xuất khẩu hàng dệt hàng năm và từng đợt điều chỉnh tăng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng từ 1991 đến nay. Trị giá xuất khẩu trong các năm 1991 đến 2001 tăng lên 21 lần. Tăng trưởng liên tục hàng năm: năm thấp nhât(1993) cũng tăng 5,2 %, các năm cao đạt 77,6%(1994 và 1997), 87,6%(1995). • Hàng may mặc: EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về hàng may mặc (40% xuất khẩu may mặc của Việt Nam ). Từ trước đến nay hàng này được EU cấp hạn ngạch, tăng số lượng hàng năm. tốc độ tăng trưởng trên 38%/năm. EU và Việt Nam đã ký hiệp định xuất khẩu may mặc của Việt Nam thời kỳ 1998 – 2000 , tăng 31% so với 1992 – 1997. Việt Nam sử dụng cả hạn ngạch của EU cấp cho Singapo, Indonesia, Philipin. Giai đoạn 2001 –2002, EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất sang EU. Tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam giữ mức 15 – 16 % kim ngach xuất khẩu. Năm 1999 xuất khẩu hàng này đạt 700 triệu USD. Các nước nhập khẩu lớn là Đức, Pháp, Hà Lan, Anh. Nhiều nước đặt gia công may mặc cho Việt Nam (Đức, Pháp…). Cùng với những ưu đãi ngày càng nhiều của EU dành cho Việt Nam trong hiệp định buôn bán hàng dệt may sửa đổi, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU tăng nhanh (xem bảng 4) Bảng 4: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU so với kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả nước Năm Kim ngạch xuất khẩu vào EU Kim ngạch xuất khẩu cả nước Tỷ trọng(%) 1993 250 350 71,43 1994 298 550 54,18 1995 350 750 46,64 1996 420 1100 38,18 1997 450 1130 34,62 1998 602 1450 41,52 1999 620 1747 35,49 2000 700 1892 36,99 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại. Bảng 5: Tổng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu đi EU năm 2002 TT Chủng loại hạng ngạch Cat Đ/vị Tổng hạn ngạch 2002 Ghi chú 1 Áo T- Shirt 4 Chiếc 9.877.000 Nhạy cảm 2 Áo len, áo nỉ 5 Chiếc 3.275.000 Rất nhạy cảm 3 Quần âu, quần short 6 Chiếc 4.774.000 Rất nhạy cảm 4 Áo sơ mi nữ 7 Chiếc 2.771.000 Nhạy cảm 5 Sơ mi nam 8 Chiếc 13.102.000 Nhạy cảm 6 Khăn bông 9 Tấn 910 7 Găng tay 10 Đôi 5.572.000 8 Bit tất 12 Đôi 2.884.000 9 Quần lot nhỏ 13 Chiếc 8.534.000 10 Áo khoác nam 14 Chiếc 451.000 11 Áo khoác nữ 15 Chiếc 497.000 Nhạy cảm 12 Bộ pyjama 18 Tấn 892 13 Ga trải giường 20 Tấn 235 14 Áo Jacket 21 Chiếc 19.845.000 15 Áo dài nữ 26 Chiếc 1.220.000 16 Quần dệt kim 28 Chiếc 3.579.000 Nhạy cảm 17 Bộ quần áo nữ 29 Bộ 371.000 18 Áo lót nhỏ 31 Chiếc 4.031.000 Nhạy cảm Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp . Để hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Eu đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu về chất lượng, giá thành và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Tương ứng với mỗi yêu cầu trên ta có thể xây dựng một số giải pháp cụ thể: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm Đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hiện đại đồng bộ, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay có 60% doanh nghiệp dệt may đã và đang sử dụng máy Juki. Để sản xuất phát triển các công ty cần phải bổ sung thêm máy móc, thiết bị hiện đại được chế tạo ở các nước có nền công nghiệp may mặc phát triển như Đức, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông…cho tất cả các bộ phận may của xí nghiệp từ khâu pha cắt, may đến nhặt chỉ đóng gói để tạo nên năng suất lao động tốt hơn, đảm bảo tiến độ và thời gian. Ngày nay, để sản phẩm có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường EU buộc các doanh nghiệp phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng để đạt hiệu quả cần phải có sự lựa chọn và định hướng phù hợp với điều kiện của từng xí nghiệp và trình độ của công nhân. Vì thế việc áp dụng một mô hìng sản xuất chuyên môn hoá cao như các nước phát triển là điều không dễ dàng mà cần lựa chọn máy móc, công nghệ phù hợp với công nhân là điều quan trọng nhất. Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ, chất lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, chủ động trong sản xuất. Bất kỳ công ty nào dù có vốn, có trang thiết bị hiện đại mà nguồn lực không đảm bảo yêu cầu quản lý, kinh doanh, lao động sáng tạo thì không thể phát triển được. Do vậy các công ty dệt may Việt Nam cần phải chăm lo đến nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đòi hỏi phải được đào tạo một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy mới có vcơ hội tạo được những sản phẩm mới, đáp ứng sự thay đổi thị hiếu, sở thích, kiểu mốt của khách hàng. Đối tượng được đào tạo và đào tạo lại là mọi thành phần của công ty, từ cấp quản trị tới những công nhân trực tiếp sản xuất của công ty. Việc đào tạo này đòi hỏi phải có chương trình, phương pháp đào tạo thích hợp, có hiệu quả, tránh đào tạo mang tính chất hình thức, vừa tốn kém vừa ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nâng cao khả năng nắm bắt thông tin thị trường. Đào tạo người cán bộ toàn diện về mọi mặt để có khả năng xét đoán tính chất và quyết định công việc, tránh tình trạng bỏ lỡ thời cơ. Nhưng đồng thời lại phải đào tạo đặc biệt đến chuyên môn nhằm hiểu rõ hơn để ra quyết định cho cấp dưới thực hiện đúng tiến độ, đủ khâu sản xuất và bảo đảm về mặt kỹ thuật, bên cạnh đó có thể kiểm tra rà soát một cách dễ dàng. Ngoài ra đội ngũ cán bộ cần có sự đoàn kết gắn bó với công nhân trực tiếp sản xuất để cùng phát huy tốt khả năng phát triển của công ty. Việc nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp cần chú trọng. Thật vậy trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, do xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của hàng dệt may thế giới và do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “nội lực” để xuất khẩu trực tiếp. Vì vậy các doanh nghiệp cần học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ, đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. 1.2. Giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm Thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất , phát huy vai trò của tổng công ty tài chính dệt may. Tạo nguồn vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước. Đối với ngành dệt luôn đòi hỏi đầu tư lớn, vì vậy để thu hút nguồn vốn cần tăng cường các hình thức: xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường phi hạn ngạch. Ngoài ra cần thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho sản phẩm công nghiệp xanh và sạch. Hiện các doanh nghiệp đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt theo quy định ISO 9000 và ISO 14000. Phát triến ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là một xu hướng hợp lý. Chỉ các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất là nên tổ chức sản xuất theo quy mô lớn. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phấn đấu sản xuất nguyên phụ liện nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Quy hoạch phát triển dùng nguyên liệu cac loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt may và chính sách đầu tư phát triển cho vùng nguyên liệu ổn định cho sự phát triển cho ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các chất khác cho ngành dệt. Khuyên khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên liệu phụ nhập ngoại. Đồng thời xây dựng các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước (chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu ). 1.3. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Trên thị trường, giá cả có thể rất quan trọng. Nhưng tại EU chất lượng luôn là yếu tố được quan tâm hàng đầu. Người tiêu dùng EU không chỉ quan tâm đến chất klượng sản phẩm mà các dịch vụ khách hàng bao gồm cả dịch vụ sau khi bán hàng. Nét độc đáo và đặc biệt của sản phẩm so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh sẽ có sức thu hút lớn đối với ngưới tiêu dùng EU. Do đó, cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị, cải tiến công nghệ, nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm của mình với đối thủ cạnh tranh. Bí quyết ở đây chính là tính sáng tạo. Các công ty may Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội nghiên cứu thị trường và kế hoạch để nắm được đặc điểm của thị trường : nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và kênh phân phối trên thị trường EU, từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp để cải tiến, nâng cao và đa dạng hoá sản phẩm, tạo nguồn thích hợp với thị trường EU,nhằm đạt được mục đích là tăng khả năng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này. Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường EU có hiệu quả thông qua các hình thức: -Xuất khẩu trực tiếp. -Thực hiên liên doanh. -Thực hiện đầu tư trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập vào thị trường EU hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, nhưng với các công ty may Việt Nam thì hình thức này hầu như chưa được áp dụng mà chủ yếu thường thông qua trung gian. Tạo lập tên tuổi, khẳng định uy tín trên thị trường EU. Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẩu mã vải sản phẩm may. Tổ chức công tác tiếp thị, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Có kế hoạch hợp tác với các viện mốt, hay thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để nhanh chóng hoà nhập vào thị trường thế giới. Khắc phục kho khăn về thiếu nguồn tài nguyên chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhập khẩu đại diện của các mạng lưới phân phối tại các nước thuộc EU. Khi chưa có tên tuổi, hình ảnh trên thị trường này thì cách tốt nhất để thâm nhập vào thị trường trong giai đoạn đầu là mua nhãn hiệu, bằng sáng chế của các công ty nước ngoài để làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn. Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Để xuất khẩu trực tiếp sản phẩm dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam cần khẳng định vị trí của mình đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. 2. Đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu - Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp . EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm là rất lớn, thế nhưng cho đến nay hàng dệt may xuất khẩu vào EU mới chỉ chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường này và thường thông qua hoạt động xuất khẩu trung gian. Do đó hiện nay vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Vì vậy để các doanh nghiệp dệt may giữ vững vị trí và thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập thị trường EU một cách suôn sẻ thì cần có sự hỗ trợ của nhà nước một cách thích đáng. Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với EU để giảm thuế nhập khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng vào thị trường này và mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam . Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng của Việt Nam tại thị trường EU. Tổ chức các loại hình dịch vụ sau khi bán hàng, giữ gìn và phát huy uy tín cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Tổ chức nghiên cứu thị trường, giá cả, hỗ trợ và tư vấn cho các công ty may xuất khẩu sang thị trường EU thông qua việc hỗ trợ đắc lực như: Ngoài phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, thu thập xử lý thông tin về thị trường , về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường. Ngoài ra khẩn trương chuẩn bị tham gia hệ thống “thông tin ngành dệt may khu vực Châu Á-Thái Bính Dương” của 7 nước trong khu vực Châu Á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường . Nghiên cứu, ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để nhằm phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuyếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may tìm được chỗ đứng vững chắc, và phát triển trên thị trường này. Đồng thời thắt chặt và tỏ ra luôn quyan tâm đến các mối quan hệ khách hàng, tạo một niềm tin vững chắc và lâu bền song phương. Tổ chức hội chợ triển lãm ở Việt Nam và EU nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong công tác tuyên truyền, quảng cáo, khuyếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng EU, trao đổi, học tập kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường quốc tế. Tổ chức các doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò, chào hàng, đồng thời mời các đoàn, các doanh nghiệp của EU vào làm việc tìm hiểu cơ hội kinh doanh , đầu tư sản xuất hàng dệt may Việt Nam. Thực hiện kiểm tra chất lượng với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, trước mắt áp dụng một chế độ kiểm tra bắt buộc đối với một số mặt hàng. Bộ thương mại nên phối hợp với bộ khoa học công nghệ- môi trường và các bộ quản lý ngành xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng nghiêm túc. Đồng thời có khen thưởng thích đáng kịp thời với những công ty may xuất khẩu sang EU đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quy định của nhà nước. Xử phạt nghiêm khắc những cônh ty kinh doanh xuất khẩu không bảo đảm những tiêu chuẩn quy định. Tổ chức hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả. Điều quan trọng là Việt Nam phải có một thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, đồng thời tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế Việt Nam cần phải được tăng lên để hỗ trợ cho đà phát triển sắp tới. 3. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thương mại và tổ chức quản lý. Với xu thế khu vực toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam vào quá trình này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin luôn đặt ra yêu cầu mới rất cao đối với đội ngũ cán bộ thương mại. Ở Việt Nam những kiến thức quản lý kinh tế nói chung quản lý thương mại nói riêng ở tầm vĩ mô về quy mô đang có sự hụt hẫng và có độ chênh lệch lớn so với ngay cả các nước trong khu vực. Chính do sự yếu kếm này đã gây thiệt hại cho Việt Nam trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng thương mại và kinh tế với các đối tác giầu kinh nghiêm như EU. Vì vậy chính phủ nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của công ty thương mại. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học nghề dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng. Đầu tư cho các trường dạy nghề , đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kỹ thuật theo dây chuyền hiện đại nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh của ngành dệt may Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và hoạt động Marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mã và xúc tiến thị trường. Đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho người lao động . Tránh tình trạng những công nhân, kỹ sư có tay nghề cao bị hút sang công ty liên doanh. Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu cụ thể là: Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành. Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực quy hoạch của nhà nước về dầu khí, các công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu tằm. Gắn công nghiệp may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ… nhằm làm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm để nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nước ngoài. Gắn công nghiệp dệt may vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ , vừa tận dụng diều kiện cơ sở hạ tầng về giao thông, văn hoá, thông tin, vận chuyển. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam . Với chính sách này chúng ta có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các công ty dệt may EU vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Việt Nam. Việt Nam không những nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của mình mà nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dư thừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cải thiện được công nghệ, mà còn học được kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp EU góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh chóng. PhÇn III: KÕt luËn Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển nhờ có chiến lược “hướng vào xuất khẩu chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới và có giá trị thặng dư cao ”. Đặc biệt ngành dệt may xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động, cung cấp hàng hoá trong nước, tạo điều kiện mở rộng thương mại Quốc Tế và là ngành có lợi nhuận cao. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường Quốc Tế. Tuy nhiên quá trình xuất khẩu này có nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra, thì ngoài sự trợ giúp của nhà nước, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện mình hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt may Việt Nam trên trường Quốc Tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dú còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước. Quá trình nghiên cứu đề tài giúp em có thêm nhiều kiến thức bổ ích về thực tế. Do vậy cho phép em được nói lời cảm ơn thầy giáo thêm một lần nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35454.doc
Tài liệu liên quan