Để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành chính sách thuế thỏa đáng. Việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thủy sản từ ngày 15/02/1998 có ý nghĩa rất tích cực để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về giá cả xuất khẩu.
Đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu, Nhà nước nên áp dụng chính sách hoàn trả 100% thuế nhập khẩu. Chế độ miễn giảm thuế, khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thủy sản xuất khẩu thông qua quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị .
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đã chính thức được công nhận về pháp lý để khẳng định được chỗ đứng tại 15 nước của EU.
Trong những năm 2000-2002, hoạt động xuất khẩu thủy sản bị chững lại và có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng các chất kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Theo bảng số liệu 2.4, năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 116,7 triệu USD, năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, năm 2005 đạt 367,3 triệu USD. Hàng thủy sản hiện nay là mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Khối lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 367,3 triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã tăng lên 723, triệu USD với sản lượng đạt 219 nghìn tấn.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
Năm
Kim ngạch
(triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
Sản lượng (tấn)
Tốc độ tăng (%)
2000
71,8
-19,4
20.290,8
-
2001
90,7
26,32
26.659,1
31,38
2002
73,7
- 18,74
29.612,8
11,08
2003
116,7
58,34
38.186,8
28,95
2004
231,5
98,4
73.459,2
92,36
2005
367,3
58,66
110.911,2
50,98
2006
723.5
97
219.967
98,33
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thủy sản)
Tính tới tháng 8 năm 2007, xuất khẩu thủy sản sang EU đạt 175,4 nghìn tấn với kim ngạch 586.8 triệu USD, tăng 24,56% về lượng và 29,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 30,88% về lượng và 25,13% về kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam (Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thủy sản).
1.2.2..Về cơ cấu sản phẩm
Nhìn chung, các mặt hàng xuất khẩu vào EU là khá đa dạng với nhiều chủng loại. Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu là các mặt hàng cá, tôm, bạch tuộc, cá ngừ, đồ hộp. Trong giai đoạn từ 2000-2001, mặt hàng có khối lượng nhập khẩu lớn nhất của EU từ Việt Nam là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh năm 2000 đạt 38,6 triệu USD, năm 2001 đạt 43,6 triệu USD. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam có giảm sút, chỉ còn 15,7 triệu USD (Nguồn: Diễn đàn Doanh nghiệp ngày 4/2/2004). Trong thời gian đó, một số lô hàng tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang EU bị phát hiện có dư lượng kháng sinh cao quá mức cho phép và bị hủy, gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn được công bố trong Sách Trắng của EU đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu.
Từ năm 2002, thương mại tôm giữa Việt Nam và EU đã có những dấu hiệu phục hồi và có sự gia tăng cả về giá trị và khối lượng tôm xuất sang thị trường này trong năm 2003 – 2004. Năm 2003, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 5316 tấn tôm sang EU, tăng 28% so với năm 2002 là 4000 tấn (Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thủy sản). Năm 2004, tôm Việt Nam đã thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới tại khu vực EU, khi các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam chuyển hướng từ Bỉ (thị trường truyền thống số một tại khu vực EU) sang các thị trường tiềm năng khác như Anh, Đức, Italy. Hiện nay, Bỉ và Italy vẫn là hai thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam tại EU, chiếm 53% tổng lượng hàng xuất sang EU năm 2005. Việt Nam nằm trong tốp 10 nhà cung cấp tôm hàng đầu của Bỉ với 4% thị phần nhập khẩu. Mặt hàng chính là tôm nước ẩm đông lạnh. Việt Nam đồng thời cũng là nhà cung cấp thủy sản lớn thứ 9 của Anh.
Bên cạnh đó, cá đông lạnh cũng là mặt hàng có mức tăng xuất khẩu sang EU đều và đáng kể. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường này đã vượt xa tôm không những về khối lượng và giá trị, vươn lên trên cả Nhật (66 triệu USD năm 2003), chỉ sau Mỹ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004, xuất khẩu cá của Việt Nam sang EU tiếp tục tăng trưởng với giá trị xuất khẩu đạt 231,5 triệu USD, gấp 3 lần so với năm 2003, chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu thủy sản sang EU (nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thủy sản). Sản phẩm cá chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường này là cá tra, các basa và cá ngừ.
Tuy cơ cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang EU có sự thay đổi qua các năm những trong tất cả các sản phẩm mà Việt Nam xuất khẩu sang EU thì mặt hàng cá tươi, cá đông lạnh vẫn chiếm tỷ lệ cao với 517,476 triệu USD (chiếm 71,5%), còn mặt hàng khô vẫn chiếm tỷ lệ thấp nhất với con số 1,451 triệu USD (chỉ chiếm 0,2%).
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường EU năm 2006
STT
Sản phẩm
Khối lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
Giá trị
(triệu USD)
Tỷ trọng (%)
1
Tôm đông lạnh
21.265
9,67
154,3
21,33
2
Cá tươi/đông lạnh: Trong đó
- Cá da trơn
- Cá ngừ
179.374
123.212
14.045
81,55
56,01
6,39
517,476
343,427
33,085
71,52
47,46
4,57
3
Mực và Bạch tuộc đông lạnh
18.976
8.63
50,278
6,95
4
Hàng khô
352
0,15
1,451
0,2
(Nguồn: Tạp chí thương mại Thủy sản tháng 2/2007)1
II. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG EU.
1. Hệ thống chính sách
1.1. Chính sách thuế lệ phí.
Thuế là công cụ điếu tiết nền kinh tế, đồng thời là nguồn thu ngân sách cho Nhà nước. Đối với nghề cá, tính từ khâu đầu là sản xuất tạo ra nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng phục vụ cho tiêu dùng hoặc xuất khẩu, thông thường chịu các loại thuế: môn bài, tài nguyên, thuế sử dụng đất cho nuôi trồng thủy sản và nhiều loại phí như: phí trước bạ, đăng kiểm tàu đánh bắt, giấy di chuyển ngư trường, bến bãi. Ngoài ra, ngư dân còn phải nộp nhiều khoản khác như tham gia bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm nhân mạng... Để phù hợp với thực tiễn và khuyến khích sản xuất phát triển, thuế và lệ phí đối với nghề cá đã được sửa đổi tích cực.
Về Luật thuế tài nguyên, khung thuế suất 2-7%, theo Nghị định của Chính phủ, Thông tư số 30 BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thống nhất thuế suất là 4% với khai thác hải sản và 3% với khai thác cá sông.
Những hộ nuôi trồng thủy sản tư nhân không phải đóng thuế doanh thu vì họ đã đóng thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ngư dân sẽ phải đóng thuế suất bằng 2% giá trị sản lượng đưa vào bờ hàng năm.
Ngày 2/6/1998, Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 103 QĐ/BTC về việc đánh thuế 0% đối với hàng thủy sản xuất khẩu. Việc đánh thuế 0% này đã làm tăng sức cạnh tranh về giá cả hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thời với mức thuế này là sự phù hợp của nó với công nghệ sản xuất và chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu hiện nay của nước ta so với các nước xuất khẩu thủy sản khác.
1.2. Chính sách đầu tư và quản lý vốn
Trong thời gian hơn 10 năm vừa qua, ngành thủy sản có mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4% và giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 10-15%. Nhưng, nếu so với tiềm năng lớn của vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 thì con số này mới chỉ là biểu hiện bước đầu, chưa đáng kể. Muốn thủy sản có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước, cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành, đồng thời Nhà nước cần ban hành những chính sách mới để khuyến khích, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực thủy sản, nhất là trong khu vực nuôi trồng và đánh bắt xa bờ.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, chúng ta đã khai thác khá mạnh các nguồn lực bên ngoài. Với nguồn tài trợ và đầu tư trên, chủ yếu là nguồn ODA, các nước và các tổ chức quốc tế đã tập trung giúp Việt Nam xây dựng quy hoạch phát triển ngành; nghiên cứu nguồn lợi biển; phát triển cơ sở hạ tầng nghề cá; tăng cường năng lực chế biến thủy sản và nâng cao chất lượng sản phẩm; phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế cho ngành thủy sản. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch phát triển ngành cụ thể, thiếu số liệu điều tra khảo sát và thiếu các dự án khả thi, nên nguồn vay từ ODA và FDI mới chỉ đạt khoảng 6,2% và 8%, mặc dù có không ít các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến tiềm năng thủy sản của Việt Nam. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 42 dự án FDI với số vốn hơn 144 triệu USD và 10 dự án ODA (150 triệu USD) đã được cấp phép còn tiếp tục hoạt động.
Qua xem xét, phân tích nguồn vốn đầu tư của ngành thủy sản của các giai đoạn, ta nhận thấy rằng: muốn đạt được các mục tiêu đặt ra và hội nhập với nghề cá thế giới, sự huy động nguồn lực trong nước là cơ bản, nhưng sự giúp đỡ của quốc tế là không thể thiếu và rất quan trọng. Trong nguồn lực quốc tế, về chỉ đạo chúng ta cần khơi thông nguồn FDI, sao cho tỷ trọng này ngày càng cao, giá trị ngày càng lớn và tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 nguồn FDI và ODA để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.
1.3. Chính sách về khai thác thủy sản
Tới nay, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đã vượt qua mức 1 triệu tấn/ năm, song cũng để lại một vùng biển cạn kiệt nguồn lợi, năng suất đánh bắt giảm 1/2, giá thàng sản phẩm tăng gấp đôi. Tuy phát triển nghề cá xa bờ để bảo vệ nguồn lợi ven biển và tăng chất lượng sản phẩm nhưng lại chưa triển khai đồng bộ, hiệu quả còn thấp.
Nghị định số 13/CP của Chính phủ (ký ngày 02/3/1993), tiếp đến là Thông tư liên bộ số 02 LB/TT hướng dẫn thi hành Nghị định số 13/CP cho thấy công tác khuyến ngư đã tác động rất hiệu quả đến phong trào nuôi trồng, khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản, khơi dậy tiềm năng của cả miền biển, đồng bằng và miền núi. Tuy nhiên, qua thực hiện Nghị định này còn bộc lộ những hạn chế cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì vậy mà cần có sự hoàn thiện và điều chỉnh Nghị định này theo tinh thần tập trung kinh phí cho những vùng khai thác, sản xuất thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 400/ Ttg ngày 7/8/1993 cho miến thuế tài nguyên, thuế doanh thu, thuế lợi tức và hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đầu đối với tàu thuyền đánh bắt hải sản xuất khẩu ở Biển Đông Trường Sa. Chính sách ưu đãi trên đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển nghề cá khai thác xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, cũng hạn chế việc đánh bắt hải sản gần bờ khi mà nguồn hải sản gần bờ đang bị cạn kiệt. Nhưng điều đáng lo ngại là chỉ có khoảng 20% sản lượng khai thác xa bờ có thể dùng để xuất khẩu. Còn lại 80% dùng tiêu thụ nội địa hay làm bột cá, phơi khô và làm nước mắm. Cá đánh được nhiều mà bán giá lại rẻ và khó bán thì hiệu quả thấp. Lại chưa có cơ quan dự báo ngư trường và khai thác ngắn hạn để hướng dẫn các tàu đi đánh bắt cá xa bờ đi đến đúng nơi có cá mà đánh. Trình độ các thuyền trưởng non yếu, sử dụng tàu lớn và máy móc khá hiện đại sẽ gây ra những sự cố hỏng hóc. Nhất là vào thời vụ chính, cá về nhiều lại không có kho lạnh dự trữ hải sản, điều kiện trên tàu bảo quản kém, bến bãi thiếu... càng làm cho sản lượng bị thất thoát nhiều và giá hạ hơn.
Rõ ràng là có nhiều vấn đề đang đặt ra để bảo đảm cho việc đầu tư đóng tàu khai thác hải sản xa bờ có hiệu quả. Đó không phải là việc một sớm, một chiều có thể giải quyết được.
Tóm lại, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ không chỉ là việc đóng tàu đi khơi, mà nó là dây chuyền đồng bộ từ khai thác, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thật tốt.
1.4. Vấn đề đảm bảo chất lượng thủy sản chế biến cho xuất khẩu
Trong thời gian qua những hiện tượng tạp chất vào hàng thủy sản xuất khẩu vẫn có chiều hướng gia tăng do một số doanh nghiệp thiếu nguồn hàng vì chỉ nghĩ đến lợi nhuận vẫn mua hàng có cho thêm tạp chất về chế biến, làm thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước, làm giảm uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Và chính vì một trong những nguyên nhân như vậy, mà hàng thủy sản Việt Nam có nguy cơ bị mất dần, đặc biệt là thị trường tôm nguyên liệu, trước tình hình cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực.
Theo dự báo của các chuyên gia, nhu cầu trên thế giới đối với nhiều loại sản phẩm thủy sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ tăng lên mạnh chủ yếu theo các hướng: sản phẩm giá trị cao; sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thủy sản tưới sống. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu cũng đặt ra những thách thức mới, nhất là các qui định về an toàn vệ sinh thực phẩm; yêu cầu chất lượng tiêu dùng ngày càng cao hơn và những yêu cầu, qui định này cũng khác nhau ở từng thị trường.
Đối với EU, việc kiểm soát phải được thực hiện dưới sự giám sát của chính họ mới có giá trị và được công nhận. Để xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU, các nước phải có đủ ba điều kiện sau:
Xây dựng hệ thống pháp luật hữu hiệu về kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh thủy sản tương đương với EU.
Có cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh cấp quốc gia tương đương EU về tổ chức, trang thiết bị kiểm soát (ở Việt Nam, cơ quan này là NAFIQACEN).
Các doanh nghiệp ở nước xuất khẩu phải tương đương về điều kiện sản xuất, quản lý chất lượng với các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm cùng loại của EU.
Hiện nay, EU đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản theo 3 chỉ tiêu sau:
-Chỉ tiêu cảm quan: trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm.
-Chỉ tiêu hóa học: qui định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amôniắc, độ pH trong một gam sản phẩm.
-Chỉ tiêu vi sinh: qui định loại, lượng khuẩn có trong sản phẩm như khuẩn hóa khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Ecôli, Coliforime...
Công tác quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn nhiều tồn tại: Hệ thống văn bản pháp qui của Nhà nước, của Bộ chưa đầy đủ, đồng bộ và còn chồng chéo; tổ chức quản lý Nhà nước về chất lượng chưa hoàn chỉnh, việc quản lý điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản chưa được thực hiện ở các công đoạn: nuôi trồng, đánh bắt, thu hoạch, vận chuyển và các khâu khác của dây chuyền sản xuất thủy sản...
2. Đặc điểm thị trường thủy sản EU
2.1. Về kinh tế - chính trị
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Đến nay, EU đã là một thị trường rộng lớn, bao gồm 25 quốc gia với gần 455 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thuộc Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường gồm 380 triệu người tiêu dùng.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam á là vùng hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập khẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. Tất cả 25 chính phủ đều tuân theo một đường lối chung về đân chủ, kinh tế của các nước đều tăng trưởng, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng ổn định.
2.2. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU nào có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi nhiều nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia thị trường này thì thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích và hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều kênh mậu dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch và các bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực hiện bởi các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh khác nhau trong thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực tiếp với người sử dụng cuối cùng, còn một số khác lại bán cho các nhà kinh doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc qua các đại lý bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu Âu. Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài với người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước ngoài) để biết được những nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử dụng cuối cùng. Họ cung cấp trực tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất thành phẩm. Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục vụ những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà sản xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý, nhà nhập khẩu hoặc từ ngành chế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ chuyên chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ, chuyên hoạt động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát triển và xuất khẩu sang các nước láng giềng ở Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ tới người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị trường EU. Các nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó khăn trong việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, trừ một vài siêu thị lớn.
Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ truyền thống. Các sạp nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun khói.
2.3. Về mức sống dân cư
Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu người rất cao, trong những năm gần đây mức bình quân đó là khoảng 20.000 đô la Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một số năm qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP của thế giới. Dân số khu vực EU khoảng 455 triệu người, chiếm 7.3% dân số toàn thế giới.
EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các khu vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn ( luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng năm một người dân EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cỏ nhân.
2.4. Về thói quen tiêu dùng
EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán được ở thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà Lan. Đây là thị trường khó tính và có chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác dụng của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.
Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà hàng và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. ở nhiều nước, mảng thị trường này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay gia đình thì đều phải qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các nước, thói quen ăn uống rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao động từ 15- 17 kg.
Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập thường là khối đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm lạnh ngay trên tàu. Các hải sản đánh bắt được làm lạnh trên bờ cả khối hoặc làm đông lạnh nhanh riêng rẽ (IQF). Nhìn chung sản phẩm đông lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì lý do chất lượng. Các nhà nhập khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung, thích loại sản phẩm được làm lạnh theo phương pháp IQF.
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG EU TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Những thành tựu đạt được
Việt Nam hiện là nước thứ 29 trên thế giới, đứng thứ 4 trong khối ASEAN về xuất khẩu thủy sản và mặt hàng thủy sản của Việt Nam hiện đã xuất khẩu được sang hơn 50 nước và khu vực.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm qua đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, cụ thể là:
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản không ngừng tăng lên qua các năm. Thị phần xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU đã tăng lên rất đáng kể.
Thủy sản của Việt Nam đã và đang được ưa chuộng, khẳng định được vị trí của mình trên thị trường này ngày một mạnh mẽ, trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng EU.
Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam như: tôm, nhuyễn thể chân đầu, cá đáy, cá nước ngọt thịt trắng ít xương; các sản phẩm truyền thống như: nước mắm, bánh phồng tôm, cua, ghẹ, tôm và đặc biệt là tôm sú đã đang và sẽ có sức cạnh tranh rất cao trong EU trong thời gian tới.
Xuất khẩu thủy sản sang EU nói riêng hay ra các thị trường trên thế giới trong những năm qua đã đóng góp không nhỏ trong việc tăng thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống cho nhiều vùng nông thôn ven biển.
Được sự hỗ trợ của dự án SEAQIP nhằm giúp đỡ các nhà máy thủy sản đông lạnh đạt tiêu chuẩn HACCP là giấy thông hành vào EU.
Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam mặc dù mới thành lập nhưng đã có đóng góp tích cực trong việc mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
2. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà xuất khẩu thủy sản sang EU đạt được trong những năm qua, không phải là tất cả đều thuận lợi, vẫn còn những khó khăn, những vướng mắc đang tồn tại đòi hỏi được khắc phục càng sớm càng tốt, cụ thể là:
Chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế, tỷ lệ sản phẩm có giá trị cao gia tăng thấp chủ yếu là xuất nguyên liệu.
Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào EU cũng như vào các thị trường khác có sự mất cân đối (hơn 90% là dạng sản phẩm tươi, ướp đông, đông lạnh). Điều này làm mất lợi thế cạnh tranh của thủy sản nước ta, cũng như thể hiện sự yếu kém của công nghệ chế biến thủy sản.
Nhiều doanh nghiệp chế biến không có khả năng tài chính để thay đổi công nghệ và các điều kiện tiêu chuẩn theo GMP và HACCP, để có thể chế biến sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang EU.
Giữa các doanh nghiệp xuất khẩu đã không có được sự cạnh tranh lành mạnh, làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam khi sang thị trường EU nói riêng, cũng như sang tất cả các thị trường khác.
Nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu còn bị thiếu trầm trọng, các nhà máy chế biến mới chỉ sử dụng hết 60-70% công suất, nguồn nguyên liệu phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, do đó ảnh hưởng đến sản phẩm chế biến cho xuất khẩu.
Trình độ khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thủy sản không đạt được hiệu quả mong muốn vì quá thấp.
Mối quan hệ hữu cơ giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ chưa được liên kết chặt chẽ để tạo một chiến lược sản phẩm xuyên suốt qua tất các khâu. Các doanh nghiệp chế biến chưa coi việc góp phần thúc đẩy sản xuất nguyên liệu là trách nhiệm của mình.
Chưa có được một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là ở EU.
PHẦN III GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG EU
I. ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI
1. Những quan điểm và định hướng phát triển xuất khẩu thủy sản
1.1. Quan điểm
Thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nghề cá với môi trường kinh tế mở, tích cực và chủ động trong xu thế hòa nhập quốc tế, lấy xuất khẩu thủy sản là mũi nhọn, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nghiêng về xuất khẩu, vừa khai thác tiềm năng nguồn lợi có hiệu quả, vừa quản lý bảo vệ môi trường, phát triển tái tạo nguồn lợi để duy trì tốc độ tăng trưởng cao của kinh tế thủy sản, tạo khả năng tích lũy nhanh chóng trong nội bộ ngành, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế thủy sản theo tuyến, theo vùng sinh thái nhằm phát huy lợi thế đặc thù, tạo thành hệ thống liên hoàn giữa các khâu khai thác-nuôi trồng-chế biến-tiêu thụ- cơ khí hậu cần dịch vụ, với sự phối hợp liên ngành, giữa kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương theo một quy hoạch thống nhất, bảo đảm phát triển ổn định, bền vững.
Khuyến khích các chủ vựa, chủ thuyền, chủ trang trại, chủ hộ mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh nghề cá, đưa nghề cá nhân dân phát triển trên cơ sở một nền công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Phát triển kinh tế thủy sản gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn ven biển, hải đảo, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân, năng cao dân trí, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, giữ vững trật tự xã hội, xây dựng các làng cá văn minh, giàu đẹp.
Phát triển kinh tế- xã hội thủy sản gắn kết với yêu cầu an ninh và quốc phòng kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế biển và hải đảo; tạo ra những cơ sở hậu cần dịch vụ thuận lợi cho nhân dân sản xuất an toàn, phòng tránh thiên tai.
Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thủy sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tăng cường khả năng thu ngoại tệ cho đất nước, đáp ứng ngày càng nhiều mặt hàng thủy sản phong phú cho nhu cầu thủy sản nội địa góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm.
1.2. Các định hướng cho từng lĩnh vực
Hợp lý hóa khai thác thủy sản, bao gồm phát triển có hiệu quả khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh hợp lý nghề cá ven bờ; vừa khai thác, vừa bảo vệ, phát triển và tái tạo nguồn lợi, đảm bảo phát triển nghề cá ổn định, bền vững. Mở rộng hợp tác với nước ngoài để du nhập công nghệ mới, thúc đẩy khai thác hải sản xa bờ và tiến tới nghề cá viễn dương. Xây dựng đồng bộ ngành công nghiệp khai thác hải sản (đội tàu, bến, cảng cá, cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần an toàn trên biển...), trong mối quan hệ thống nhất với các lĩnh vực khác, các ngành nghề khác.
Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản là một hướng phát triển chiến lược; tạo ra bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi biển. Xây dựng các vùng nuôi công nghiệp tập trung ở những vùng điều kiện sinh thái cho phép; đồng thời mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ở các vùng eo, vụng, vịnh ven biển, các vùng còn hoang hóa, vùng sâu, vùng xa, ruộng trũng... Tập trung mọi lực lượng nghiên cứu và du nhập công nghệ mới tạo được bộ giống nuôi thủy sản có chất lượng cao.
Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược sản phẩm và định hướng thị trường, gia tăng giá trị thương mại. Khai thác và sử dụng tối ưu nguồn nguyên liệu (kể cả nguyên liệu nhập khẩu), hết sức coi trọng công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Quy hoạch lại và nâng cấp hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản. Đầu tư nghiên cứu và phát triển mặt hàng mới. Tăng cường và hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản. Đẩy mạnh chế biến, kinh doanh và chú trọng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản tiêu thụ nội địa phục vụ nhân dân, nhất là các vùng sâu, vùng xa.
Phát triển lĩnh vực cơ khí hậu cần dịch vụ nghề cá theo hướng vừa đầu tư củng cố nâng cấp, kết hợp chặt chẽ với việc chuyển đổi quản lý các cơ sở hiện có, vừa xây dựng các cơ sở mới hiện đại, bảo đảm đủ năng lực phục vụ hiệu quả cho đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, thương mại thủy sản... trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các chỉ tiêu quy hoạch cơ bản đến 2010
Chỉ tiêu
1995
2000
2005
2010
GDP (100 tỷ VND)
6.664
12,6
28,8
57,6
Tổng sản lượng thủy sản (1000 tấn)
1.414,590
(459,95)
1.600
(600)
1.900
(800)
2400
(1.200)
Bình quân thủy sản tiêu thụ nội địa
(kg/người/năm)
13,5
14
14,5
16
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
550
1.100
1.800
2700-3000
Nguồn: Bộ Thủy sản
Ghi chú: Số liệu trong ngoặc chỉ sản lượng nuôi trồng thủy sản
2. Mục tiêu và nhiệm vụ phát triển xuất khẩu thủy sản
2.1. Mục tiêu
- Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng nhanh, đưa kinh tế thủy sản phát triển thành ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đát nước, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện bộ mặt nông thôn và vùng ven biển, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường sinh thái.
-Gắn chế biến, xuất khẩu thủy sản với nuôi trồng, khai thác, bảo quản nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất và khai thác có hiệu quả tiềm năng thủy sản, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tăng tích lũy để tái sản xuất mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững và phát triển thị trường tiêu thụ hàng thủy sản Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ đối với từng lĩnh vực
2.2.1. Khai thác hải sản
* Về cơ cấu sản lượng khai thác
Ổn định sản lượng khai thác hải sản gần bờ đến năm 2010 (700.000 tấn/ năm).
Sản lượng khai thác hải sản xa bờ giai đoạn 2000-2005 tăng 6,7%/ năm (từ 300.000 tấn/ năm lên 400.000 tấn/ năm); giai đoạn 2005-2010 tăng 5%/ năm (từ 400.000 tấn/ năm lên 500.000 tấn/ năm), như vậy sản lượng hải sản xa bờ chiếm 42% trong tổng sản lượng khai thác hải sản vào năm 2010.
Ghi chú: NL: nghề lộng, NK: nghề khơi
* Về cơ cấu nghề
- Đối với vùng nước gần bờ: Sắp xếp lại cơ cấu nghề nghiệp theo hướng phù hợp với nguồn lợi.
- Đối với vùng nước xa bờ: Phát huy nghề truyền thống kết hợp vận dụng các nghề khơi phù hợp của nước ngoài để khai thác nguồn lợi vùng khơi.
Loại bỏ các nghề mang tính hủy diệt môi trường nguồn lợi như: đánh mìn, dùng hóa chất độc, xung điện.
* Về tổ chức sản xuất
Tiến hành cổ phần hóa các quốc doanh khai thác hải sản để nâng cao hiệu quả kinh tế. Phát triển nhanh các loại hình công ty tư nhân, các hợp tác xã, tập đoàn đánh cá theo các đơn vị thuyền nghề, trên cơ sở tự nguyện. Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong khai thác viễn dương.
* Các dịch vụ hỗ trợ
Hoàn thiện các công trình xây dựng bến, cảng cá nhất là ở tuyến đảo, tạo ra hệ thống đồng bộ các cơ sở hạ tầng hậu cần dịch vụ từ ven bờ đến các đảo lớn, các đảo tiền tiêu để phục vụ cho khai thác khơi, phòng tránh bão, bảo vệ an ninh quốc phòng. Xây dựng các trục giao thông nối liền cảng, bến cá với các thị xã, thành phố. Xây dựng các chợ cá ngay tại bến cảng. Phát triển các hình thức tín dụng, hỗ trợ nguồn vốn cho ngư dân khi thác xa bờ.
2.2.2. Nuôi trồng thủy sản
* Nuôi thủy sản nước ngọt
Nuôi cá ao hồ nhỏ:
Theo mô hình VAC với hình thức nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi xen ghép. Đối tượng nuôi là các loài: mè, trắm, trôi, rô phi và các loài đặc sản: baba, lươn, ếch... Năng suất bình quân từng vùng khác nhau, đồng bằng sông Hồng: 3 tấn/ ha; đồng bằng sông Cửu Long: 10 tấn/ ha; trung du miền núi: 2 tấn/ ha.
Nuôi cá ruộng trũng:
Phát triển nuôi cá ruộng trũng kết hợp với nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị trên 1 ha canh tác. Tiếp tục gia tăng sử dụng diện tích mặt nước tiềm năng để nuôi đến năm 2010, dự kiến diện tích nuôi là 310.000 ha và sản lượng là 465.000 tấn, chiếm 38% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Năng suất bình quân đạt 1,5 tấn/ ha. Đối tượng nuôi: ngoài các đối tượng nuôi truyền thống ở từng vùng, chú ý nuôi các đối tượng có giá trị cao như: chép lai, tôm càng xanh, rô phi...
Nuôi mặt nước lớn:
Diện tích mặt nước lớn đưa vào nuôi thủy sản sẽ được tăng nhanh. Đến năm 2010, dự kiến diện tích đạt 190.000 ha; sản lượng tương ứng là 180.000 tấn, năng suất bình quân: 0,09 tấn/ ha. Điều quan trọng đối với nghề cá hồ chứa là gắn nuôi cá với phát triển kinh tế-xã hội của cộng đồng dân cư ven hồ, tạo ra cơ cấu sản xuất mới trên vùng trung du, miền núi, góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo vùng sâu, vùng xa.
Nuôi thủy sản lồng bè trên vùng nước ngọt:
Tiếp tục phát triển nghề nuôi cá lồng bè trên các sông, hồ chứa nước. Dự kiến tổng số lồng bè năm 2010 sẽ là 39.000 lồng, đạt sản lượng 77.000 tấn. Lựa chọn các đối tượng nuôi có giá trị cao như: bống tượng, lóc bông, basa, trắm cỏ... và chú ý đến khâu phòng trị bệnh và thị trường tiêu thụ.
Nuôi trồng thủy sản nước lợ
Diện tích nuôi trồng sẽ tăng không đáng kể, tuy có một số vùng có khả năng tăng thêm, nhưng nhiều vùng phải điều chỉnh lại diện tích đã nuôi cho phù hợp với điều kiện cân bằng sinh thái nhất là vùng rừng ngập mặn ở Cà Mau, Bạc Liêu có thể giảm bớt 30.000-40.000 ha.
Dự báo đến năm 2010, diện tích nuôi nước lợ sẽ là 280.000 ha, đạt sản lượng 189.000-259.000 tấn, năng suất bình quân là 0,65-0,93 tấn/ ha. Đối tượng nuôi chủ yếu là tôm, cua, rong câu, một số loài cá thị trường có nhu cầu.
-Đối với các vùng đã khoanh nuôi: Theo các dự án 327 và 773 cần tổng kết đánh giá cả về kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế-xã hội để điều chỉnh hợp lý, đầu tư nâng cấp có chọn lọc, đưa năng suất bình quân nuôi tôm lên 1-2 tấn/ ha/ năm.
-Đối với các vùng đầm, phá: Cần hạn chế khoanh nuôi xung quanh ven bờ, có thể tăng thêm nuôi lồng, phân chia mặt nước hợp lý cho cộng đồng ngư dân sống ven đầm, phá để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi.
-Vùng rừng ngập mặn: Điều chỉnh lại diện tích nuôi hợp lý để kết hợp hài hòa giữa trồng, bảo vệ rừng ngập mặn-nuôi tôm-với quyền lợi của cộng đồng ngư dân tại đó.
-Vùng cao triều: Áp dụng hình thức nuôi công nghiệp để đạt năng suất 4-5 tấn/ ha/ năm với đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú.
Nuôi nước mặn (nuôi biển)
Nuôi biển sẽ là hướng phát triển đột phá trong nuôi trồng thủy sản nói riêng và phát triển kinh tế thủy sản nói chung. Tổ chức rộng rãi việc nuôi cá biển có giá trị xuất khẩu cao như: song, hồng, vược, bống, giò... bằng phương thức nuôi lồng bè và nuôi cao triều; đưa nhanh việc nuôi các loài thủy đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, chủ yếu là nhuyễn thể hai mảnh vỏ như: nghêu, ngao, sò lông, điệp, bào ngư, trai... các vùng ven biển.
Về sản xuất giống
Tập trung đầu tư các cơ sở sản xuất tôm giống tại Nam Trung Bộ để đảm bảo cung ứng 80% nhu cầu tôm sú bột P15 cho cả nước. Nâng cấp hệ thống giống quốc gia để có thể cho đẻ nhân tạo được một số giống thủy sản mới và thuần hóa giống nhập nội.
Giải quyết đồng bộ các khâu: tạo đàn bố mẹ thuần thục-sinh sản tôm bột-ươm nuôi thành giống nhất là bộ giống cho nuôi biển và nuôi nước lợ; với một quy trình hoàn chỉnh từ kỹ thuật, thức ăn, kiểm soát dịch bệnh, chất lượng và cung ứng giống đến đầm nuôi.
Về sản xuất thức ăn
Xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn nuôi thủy sản đến năm 2010 đạt sản lượng là 275.000-383.000 tấn/ năm.
Về phòng và chữa bệnh
- Quy hoạch lại các vùng nuôi thủy sản phù hợp với môi trường sinh thái.
- Tiến hành kiểm tra chặt chẽ giống nhập nội, giống trước khi thả xuống ao đầm nuôi.
- Xây dựng hệ thống quan trắc kiểm soát dự báo môi trường và nguy cơ gây bệnh cho tôm, cá ở các vùng nuôi trồng thủy sản.
Các giải pháp hỗ trợ
Nhà nước hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản thông qua các hoạt động như: xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình thủy lợi, dịch vụ khuyến ngư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông tin hướng dẫn tiếp thị, vốn tín dụng ...
2.2.3. Chế biến và thương mại thủy sản
Từng bước giảm tỷ lệ chế biến bán thành phẩm, tập trung tinh chế các mặt hàng thủy sản có hàm lượng giá trị cao, tạo hiệu quả tối ưu cho toàn bộ chu trình sản xuất kinh doanh nghề cá.
Đối với chế biến tiêu thụ nội địa, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản, ngoài các sản phẩm truyền thống, chế biến các sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu đa dạng của thị trường trong nước. Mở rộng chủng loại và khối lượng cá mặt hàng thủy sản chế biến có giá trị gia tăng
Khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu
Nguyên liệu cung ứng cho chế biến xuất khẩu, chế biến và tiêu thụ nội địa, dự tính sẽ từ 3 nguồn: nuôi trồng thủy sản: 42-45%; khai thác thủy sản: 43-46% và nhập khẩu nguyên liệu: 9-12%.
Nhập khẩu nguyên liệu thủy sản không chỉ để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước mà còn góp phần cân đối nguyên liệu khi trái vụ, nhờ vậy sẽ tăng hiệu quả của các cơ sở chế biến thủy sản. Nguyên liệu có thể nhập từ các nước có giá nguyên liệu thấp hoặc từ các nước có chi phí nhân công chế biến cao.
Giải pháp công nghệ chế biến
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, cần chú trọng đầu tư cho nghiên cứu công nghệ chế biến các sản phẩm mới và đa dạng hóa các sản phẩm bao gồm cả cải tiến bao bì, quy cách sao cho tiện sử dụng. Dây chuyền chế biến sẽ được áp dụng phù hợp với từng loại nguyên liệu và sản phẩm. Việc lựa chọn kỹ thuật và quy trình công nghệ phải trên cơ sở nghiên cứu thị trường.
Công tác quản lý chất lượng cũng cần được tăng cường cả đối với sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm tiêu thụ nội địa. Các tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cần được đưa vào áp dụng bắt buộc ở tất cả các cơ sở chế biến thủy sản.
Phát triển các nhà máy chế biến
Tới năm 2010, dự tính sản lượng chế biến thủy sản đông lạnh là trên 340.000 tấn/ năm, trong khi công suất cấp đông hiện nay là 800 tấn/ ngày, tương đương khoảng 250.000 tấn/ năm. Vì vậy, phải đầu tư thêm công suất cấp đông khoảng trên 100.000 tấn/ năm, nâng tổng công suất cấp đông lên khoảng 1.500 tấn/ ngày. Bên cạnh các cơ sở đông lạnh đã được đầu tư đổi mới thì trong các năm tới, những cơ sở chế biến đông lạnh đã có thời gian hoạt động lâu (trên 15 năm) cũng cần được nâng cấp, thay thế để đáp ứng các yêu cầu công nghệ hiện đại.
Bên cạnh các dây chuyền chế biến hiện đại, các thiết bị cấp đông tiên tiến, các thiết bị phụ trợ như: hệ thống thông gió, chiếu sáng, lọc nước, thiết bị đóng gói... cũng cần được đầu tư đúng mức để đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn môi trường, công nghệ theo yêu cầu của thị trường.
Các cơ sở chế biến đông lạnh sẽ quy hoạch lại một cách hợp lý tại các tụ điểm nghề cá lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Kiên Giang, Cà Mau... trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010.
Thị trường xuất khẩu
Mức giá xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam hiện tại thấp hơn nhiều so với mức giá nhập khẩu của các thị trường chính trên thế giới. Do vậy, các sản phẩm thủy sản Việt Nam có thể có được sức cạnh tranh cao nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và hoạt động tiếp thị có hiệu quả.
Để giảm bớt tình trạng quá phụ thuộc vào thị trường Nhật Bản, hoạt động tiếp thị sẽ phải được cải tổ và hoàn thiện nhằm mục đích đa dạng hóa thị trường và thâm nhập vào các thị trường tiềm năng đối với các sản phẩm có ưu thế của Việt Nam. Đến năm 2010, dự kiến tỷ trọng giá trị xuất khẩu sang các thị trường chính sẽ thay đổi đáng kể so với hiện nay: Nhật Bản: 35-40%, Đông Nam Á (kể cả Trung Quốc): 20-22%, EU: 12-20%, Bắc Mỹ: 15-20%, thị trường khác: 5-10%.
II. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG EU
1. Nhóm giải pháp về thị trường
a) Tập trung xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển thị trường, nhất là các thị trường trọng điểm, gắn với việc xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia cho các nhóm sản phẩm chủ lực: tôm, cá tra, cá ba sa, cá ngừ;
b) Từng bước tiến hành xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm thủy sản Việt Nam tại nước ngoài để chủ động điều phối hàng hoá tại các thị trường lớn. Xây dựng mối quan hệ liên kết, hợp tác kinh doanh với nhà phân phối lớn, các hệ thống siêu thị và tổ chức dịch vụ thực phẩm lớn ở các thị trường;
c) Đổi mới phương thức công tác phát triển thị trường theo hướng chuyên nghiệp hoá, đa dạng hóa và mở rộng các hình thức xúc tiến thương mại;
d) Nâng cao trình độ hiểu biết về luật pháp quốc tế của đội ngũ cán bộ làm công tác thương mại và của các doanh nghiệp để hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động đối phó và đấu tranh với những tranh chấp, rào cản thương mại do chính sách bảo hộ của các nước nhập khẩu.
2. Nhóm giải pháp về nguyên liệu
a) Chú trọng việc tổ chức lại sản xuất, nhất là tổ chức lại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo hướng liên kết sản xuất với các nhà khoa học, nhà quản lý, tạo ra sản lượng hàng hoá lớn và kiểm soát được chất lượng, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh. Trong khai thác thủy sản, tổ chức lại sản xuất trên biển theo tổ đội, hợp tác, gắn với sử dụng tàu hậu cần dịch vụ, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm khai thác đưa vào chế biến xuất khẩu;
b) Xây dựng và thực hiện tốt các chương trình phát triển các sản phẩm chủ lực và các sản phẩm mới có tiềm năng về thị trường;
c) Áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến cùng với việc hình thành hệ thống cảng cá, chợ cá để giảm thiểu thất thoát sau thu hoạch; đồng thời, tổ chức lại hệ thống nậu vựa, phát huy vai trò tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của hệ thống này nhằm từng bước quản lý tốt thị trường nguyên liệu;
d) Tăng cường nhập khẩu nguyên liệu đa dạng, với cơ cấu thích hợp phục vụ chế biến tái xuất đáp ứng yêu cầu cơ cấu sản phẩm của thị trường, khắc phục tình trạng cung cấp nguyên liệu theo mùa vụ của sản xuất trong nước.
3. Giải pháp về chế biến thuỷ sản
a) Tiếp tục nâng cấp điều kiện sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo HACCP, GMP, SSOP, đảm bảo 100% doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đạt tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm;
b) Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị, cơ giới hoá và tự động hoá dây chuyền chế biến. Thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành chế biến để tiếp cận nền công nghiệp chế biến hiện đại của thế giới;
c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển và đổi mới sản phẩm tại các doanh nghiệp. Mở rộng chủng loại và khối lượng các mặt hàng thuỷ sản chế biến có giá trị gia tăng, hàng phối chế, hàng ăn liền, đạt tỷ trọng 60 - 65% sản phẩm giá trị gia tăng trong cơ cấu giá trị xuất khẩu thuỷ sản.
4. An toàn vệ sinh thực phẩm
a) Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục về vệ sinh an toàn thực phẩm tại cộng đồng, trong đó đặc biệt chú trọng đến cộng đồng những người sản xuất và cung ứng nguyên liệu;
b) Hoàn thiện và tăng cường năng lực hệ thống tổ chức, thanh tra, kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, huy động sự tham gia của tất cả cộng đồng. Nâng cao năng lực kiểm nghiệm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và tăng cường hợp tác quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm;
c) Xây dựng và thực hiện hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Trước mắt, sớm triển khai thực hiện mã hoá các vùng nuôi, tạo tiền đề để thực hiện truy xuất nguồn gốc. Hỗ trợ doanh nghiệp chế biến tăng cường năng lực kiểm soát và phát hiện dư lượng kháng sinh, hoá chất trong nguyên liệu, áp dụng các hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm;
d) Tăng cường hoạt động liên ngành trong công tác bảo đảm vệ sinh an tòan thực phẩm. Duy trì hoạt động kiểm soát dư lượng các chất độc hại trong thuỷ sản và sản phẩm thuỷ sản nuôi và hoạt động kiểm soát vệ sinh an toàn vùng thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ. Tăng cường hoạt động phòng, chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản.
5. Khoa học công nghệ, khuyến ngư và đào tạo
a) Xây dựng và tuân thủ hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng từ ao nuôi đến chế biến sản phẩm xuất khẩu. Hoàn thiện mô hình nuôi an toàn, nuôi thuỷ sản thân thiện môi trường theo GAP, CoC. Phổ biến kiến thức và tổ chức áp dụng trong cả nước, phấn đấu đến năm 2010 có ít nhất 50% các vùng nuôi thủy sản tập trung thực hiện hệ thống quản lý theo GAP hoặc các hệ thống quản lý đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế;
b) Tạo đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất giống chất lượng cao, kháng bệnh. Ưu tiên nhập công nghệ sản xuất giống thuỷ sản các loài có giá trị cao, tăng đối tượng phục vụ cho xuất khẩu. Tăng cường nghiên cứu và hướng dẫn để ứng dụng công nghệ mới trong chế biến thuỷ sản;
c) Thông qua các hình thức khuyến ngư, đa dạng hoá các hình thức chuyển tải thông tin, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về công nghệ nuôi, khai thác, bảo quản và chế biến thuỷ sản, các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thủy sản cho các chủ tàu, ngư dân trực tiếp khai thác trên biển và các chủ nậu vựa thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm;
d) Tăng cường các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ về marketing, giỏi về nghiệp vụ và am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế để tăng cường và bổ sung đội ngũ các nhà doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản giỏi trên thương trường quốc tế. Đồng thời chú ý đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật, hướng dẫn nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của ngành.
6. Giải pháp về cơ chế, chính sách
a) Nhà nước có chính sách khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tập trung vốn đầu tư xây dựng hình thành các trung tâm nghề cá lớn, trong đó có các trung tâm chế biến thuỷ sản ở các tỉnh trọng điểm; đầu tư hệ thống chợ thuỷ sản tại các vùng và địa phương trọng điểm nghề cá, các chợ biên giới Việt - Trung, hiện đại hóa hệ thống thông tin nghề cá;
b) Ngân sách nhà nước hàng năm hỗ trợ kinh phí để thực hiện: các công việc liên quan đến kiểm soát an toàn vệ sinh thuỷ sản vì mục tiêu sức khoẻ của ngườì tiêu dùng; các hoạt động xúc tiến thương mại chung cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam (xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ, quảng bá thương hiệu chung cho các sản phẩm thuỷ sản chủ lực, đào tạo về marketting); hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức xúc tiến đầu mối tại các thị trường trọng điểm; thực hiện các chiến dịch truyền thông và quảng bá sản phẩm thuỷ sản Việt Nam và các hoạt động khác về xúc tiến thương mại phục vụ cho lợi ích chung của ngành;
c) Khuyến khích các thành phần kinh tế, các nguồn lực đầu tư vào sản xuất nguyên liệu, chế biến thủy sản
d) Miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thủy sản
Để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành chính sách thuế thỏa đáng. Việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thủy sản từ ngày 15/02/1998 có ý nghĩa rất tích cực để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về giá cả xuất khẩu.
Đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu, Nhà nước nên áp dụng chính sách hoàn trả 100% thuế nhập khẩu. Chế độ miễn giảm thuế, khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thủy sản xuất khẩu thông qua quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị ...
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các Bộ, ngành liên quan
a) Bộ Thủy sản có trách nhiệm:
- Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các hội, hiệp hội để thống nhất triển khai thực hiện Chương trình;
- Hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương phát triển sản xuất trên các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến theo đúng quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đã được phê duyệt, các quy hoạch trong từng lĩnh vực cụ thể;
- Tổ chức cung cấp thông tin, dự báo, theo dõi, cập nhật, đánh giá tình hình thực hiện nội dung Chương trình; tổng hợp, báo cáo và đề xuất các chính sách, cơ chế cần thiết để thúc đẩy thực hiện Chương trình;
- Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu thủy sản.
b) Các Bộ, ngành liên quan:
- Các Bộ, ngành: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm cân đối, bố trí ngân sách nhà nước và nghiên cứu các cơ chế, chính sách tạo điều kiện Bộ Thủy sản, các địa phương thực hiện các nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính - tín dụng và đầu tư, đảm bảo việc triển khai thực hiện Chương trình thuận lợi và hiệu quả;
- Các Bộ, ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ của mình, phối hợp chặt chẽ với Bộ Thuỷ sản trong việc thực hiện các nhóm giải pháp khác liên quan của Chương trình.
2. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương xây dựng và thực hiện Chương trình của địa phương mình, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình .- Tổ chức, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất trên các lĩnh vực ngành thủy sản theo đúng quy hoạch của ngành và của địa phương;
- Chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương tổ chức việc hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về kiểm soát chất lượng sản phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và đối với thủy sản nói riêng.
KẾT LUẬN
Thủy sản là một mặt hàng đóng vai trò quan trọng trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Trong thời gian qua, xuất khẩu thủy sản đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
Đạt được những thành tựu đó, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, phải kể đến sự tác động của hệ thống chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua và xuất khẩu thủy sản sang EU không nằm ngoài sự tác động đó.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cũng như sang các thị trường khác vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn gây trở ngại không nhỏ cho việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta.
Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU trong những năm tới, đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc, sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, điều này là hết sức cần thiết và cực kì quan trọng.
Đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, nhất quán, hiệu quả giữa các cơ quan hữu quan và các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong việc thực thi các chính sách vĩ mô của Nhà nước cũng như những qui chế, những yêu cầu của thị trường EU.
Với trình độ của bản thân và do thời gian có hạn nên đề án không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rắt mong nhận được những góp ý để em hoàn thiện bài đề án của mình.
Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Quốc tế - NXB Lao động - Xã hội, GS.TS Đỗ Đức Bình và PGS.TS Nguyễn Thường Lạng
Quan hệ Kinh tế quốc tế - NXB Thống kê, GS.TS. Võ Thanh Thu
Thâm nhập thị trường EU (Những điều cần biết) – Hà Nội: NXB Thống kê 2004, Đoàn Thị Hồng Vân
Thị trường xuất - nhập khẩu thủy sản - Hà Nội: NXB Thống kê 2005, Nguyễn Văn Nam
Tổng cục Thống kê. Niêm giám thống kê từ năm 2000-2006
Xuất khẩu sản phẩm thủy sản (Hướng dẫn nghiên cứu và tiếp thị ở các thị trường chính của Châu Âu) – NXB Nông nghiệp 2005, Profound – Nhà Tư vấn phát triển
Diễn đàn Doanh nghiệp
Tạp chí Thương mại thủy sản các năm t ừ 2000-2007
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Website:
www.agroviet.gov.vn ( Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
www.eurochambres.be ( Phòng Thương mại EU)
www.euristat.org ( Trang số liệu Thống kê)
www.fistenet.gov.vn (Trung tâm tin học thủy sản)
www.globefish.org/EU legislation (Trang thông tin nghề cá)
www.itpc.hochiminhcity.gov (Trung tâm xúc tiến thương mại Hồ Chí Minh)
www.smenet.com.vn (Trung tâm thông tin hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22663.doc