Đề án Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam

Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN. Tính đến 10/2003 cả nước đã có 88 KCN (trong đó có 3 KCX). Tuy nhiên bên cạnh các mặt đã đạt được còn có nhiều mặt chúng ta chưa đạt được. Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư từ trong nước và nước ngoài. Việc đưa ra các giải pháp và chính sách hợp lý sẽ không những tạo ra môi trường đầu tư và hành pháp lý thuận lợi cho nguồn vố đầu tư mà còn tạo điều kiện thúc đẩy cho các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới./.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức khu công nghiệp để tiếp thu được công nghệ hiện đại. Tuỳ hoàn cảnh cụ thể từng nước mà mục tiêu hội nhập và quãng bá kỹ thuật công nghệ mới của khu công nghiệp được nhấn mạnh nhiều hay ít. *Khu công nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động : Việt nam là một nước đông dân, đến nay dân số nước ta đã gần 80 triệu người và tốc độ tăng dân số là khá cao so với các nước trong khu vực.,Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, có tỷ lệ nửa thất nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp tại các đô thị ngày càng tăng và chủ yếu vẫn là những người vừa đến độ tuổi lao động do dân số tăng nhanh trong các thập kỷ trước. Vậy vấn đề tạo thêm công ăn việc làm cũng là một mục tiêu quan trọng trong những năm tới và phát triển khu công nghiệp chính là một biện pháp để tăng công ăn việc làm. Hầu hết các nước đang phát triển , trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp phải tình huống khó xử nếu theo đuổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội đạt hiệu quả cao bằng cách doanh nghiệp nhập các công nghệ tinh vi tức là doangh nghiệp sử dụng ít lao động sống thì sẽ làm tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý tưởng, nhưng việc thiết lập các khu công nghiệp chính là ở chỗ thông qua khu công nghiệp sẽ tạo ra một lối thoát góp phần để các chính phủ theo đuổi mục tiêu toàn dụng lao động một cách thực tế góp phần tạo khả năng để chính phủ hiệu lực hoá các công cụ quản lý vĩ mô nền tài chính tiền tệ của mình. Tạo việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh kinh tế kém phát triển và lại vào giai đoạn bùng nổ dân số nên tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển là vấn đề rất căng thẳng. Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển muốn sử dụng khu công nghiệp để giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Theo ngân hàng thế giới đến nay số việc làm chỉ tính riêng trong khu công nghiệp đã lên tới 4-5 triệu chỗ trong đó Châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất chiếm 76.59% tổng số chỗ làm (số liệu 1998) *Tăng cường các mối liên hệ và tác động tới các bộ phận còn lại của nền kinh tế. Về bản chất, khu công nghiệp là bộ phận cấu thành của chính sách phát triển toàn diện, tổng thể khu vực, vùng, lãnh địa của một quốc gia trên cơ sở những tiền đề sẵn có về địa lý tự nhiên, kinh tế và nhân văn mà kết hợp với các lợi thế của nước ngoài, của các công ty xuyên quốc gia, của các nhà đầu tư nhằm nhân lên sức mạnh kinh tế - xã hội - văn hoá của một quốc gia. Có hai loại cách tiếp cận về vị thế khu công nghiệp: Loại thứ nhất cho rằng: chỉ đặt khu công nghiệp ở những nơi mà nội năng kinh tế địa phương sở tại ít có điều kiện vực dậy tiềm năng, tất nhiên là những nơi có lợi thế địa lý tự nhiên, ít nhiều hấp dẫn các nhà đầu tư. Cách tiếp cận này thường gắn liền với các vị thế địa lý hiện tại, ít có ảnh hưởng tích cực tới tiến trình hiện đại hoá đất nước về kinh tế và ít có ảnh hưởng sâu rộng tới chính trị, xã hội chung. Về chính sách thiết chế, cách tiếp cận này chủ trương ưu đãi tuyệt đối, gần như đáp ứng mọi yêu cầu kinh tế tài chính của các nhà đầu tư và đôi khi có nới lỏng ít nhiều về chính trị cho nhà đương cục khu công nghiệp. Loại thứ hai: chủ trương đặt khu công nghiệp ở những vị trí đã tuỵêt đối thuận lợi về kinh tế - xã hội so với các vùng khác trong nước. Các thiết chế về khu công nghịêp đối với cách tiếp cận này là có điều kiện ràng buộc chứ không phải thả lỏng hoàn toàn .Các khu công nghiệp đặt ở các vị trí này, từ nguyên trạng đã có nhiều thuận lợi về kết cấu hạ tầng, về kinh tế tài chính xã hội, vốn đã có ý nghĩa chính trị tuyệt đối với cả quốc gia. Thế mạnh của việc thiết lập các khu công nghiệp của cách tiếp cận này là tốc độ vận hành của khu công nghiệp nhanh đi tới mục tiêu và do đó ảnh hưởng của nó đối với các vùng phụ cận nhanh phát huy tác dụng, thúc đẩy tích cực. Cách tiếp cận ở góc độ này hay góc độ khác là do hoàn cảnh lịch sử cụ thể chi phối, tuyệt nhiên không vì cách tiếp cận mà làm giảm ý nghĩa "sợi dây nối" giữa nền kinh tế thế giới với các vùng hay khu vực kinh tế khác trong nước của các khu công nghiệp. 4. Điều kiện để phát huy vai trò khu công nghiệp: ở tầm vĩ mô, chúng ta thấy rằng, ở Việt nam, vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết cho sự thiết lập các khu công nghiệp, qua đó tạo nên sự đột phá cho sự thu hút đầu tư trong nước, nước ngoài và mở cửa hơn nữa trong việc giao lưu với thị trường quốc tế, tạo nên sức hút mạnh hơn các nguồn lực bên ngoài để phát triển nền kinh tế Việt Nam * Điều kiện chính trị: ở Việt nam, tình hình chính trị đạt được sự ổn định cao qua thời gian dài, với sự thống nhất cao về tư tưởng và tổ chức, với chính sách ngày càng cởi mở và nhất quán. Vị trí chính trị hiện nay của Việt Nam tạo nên sự ủng hộ của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế, mối quan hệ ngoại giao thân thiện và hợp tác với các quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng. Thủ đô Hà Nội của chúng ta vừa mới được tặng danh hiệu: Thành phố hoà bình, càng góp phần khẳng định thêm điều kiện chính trị ổn định. *Điều kiện tự nhiên: Nước ta nằm ở vị trí địa lý thuận lợi trong khu vục Đông Nam á, có nhiều đường giao thông quốc tế về hàng không và hàng hải chạy qua, đồng thời có các nguồn khoáng sản phong phú và đa dạng, đủ sức đáp ứng cho việc xây dựng một nền kinh tế với cơ cấu đa ngành, có khả năng tham gia ngày càng rộng vào phân công lao động quốc tế. Lợi thế về các nguồn tài nguyên và khoảng sản, bao gồm cả tài nguyên hữu hình và tài nguyên vô hình, trong đó các tài nguyên vô hình ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ . *Điều kiện kinh tế - xã hội: Đây là một thị trường rộng lớn với gần 80 triệu dân. Sức mua của dân cư ngày càng tăng. Nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, đang đi vào thế ổn định và có khả năng tăng trưởng nhanh. Các điều kiện xã hội ở Việt Nam càng có nhiều thuận lợi: Giáo dục và y tế đã đạt được kết quả đáng khích lệ, trình độ dân trí được nâng lên, hiện nay người dân biết chữ ở việt nam chiếm hơn 80%, tâm lý xã hội ngày càng trở nên lành mạnh, người dân có ý chí vươn lên và có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh mới. Lợi thế về nguồn nhân lực nhân công dồi dào, tay nghề tương đối cao, có khả năng tiếp thu nhanh chóng khoa học công nghệ mới mà giá nhân công còn quá rẻ, ở mức 1/10-1/5 so với giá nhân công ở nhiều nước trong khu vực . Với lợi thế nằm trong khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới, có khả năng mở rộng các giao lưu kinh tế quốc tế với nhiều đường giao thông hàng không và hàng hải thuận tiện, làm cho việc giao lưu nhanh chóngvới bên ngoài, với giá thành tương đối thấp. Phần II: Những vấn đề về xúc tiến đầu tư 1. Khái niệm xúc tiến đầu tư phát triển khu công nghiệp: * Khái niệm đầu tư: Thuật ngữ đầu tư nói chung, có thể được hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra, sự hy sinh. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong lai. Theo định nghĩa này, tất cả các hoạt động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động như xây dựng nhà cửa, phân xưởng, về cơ sơ vật chất, về nâng cao trình độ …trong tương lai lớn hơn chi phí bỏ ra. Vì vậy, tất cả những các hoạt động đó được coi là đầu tư . Xét trên góc độ tài chính: đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhập nhằm hoàn vốn và sinh lời. Trên góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được các mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai . Trên góc độ kinh tế: đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác một tài sản ) nhằm thu về các kết quả có lợi cho tương lai. Theo định nghĩa này, các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phiếu, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế mà thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền và quyền sử hữu cổ phần hàng hoá từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm , của cổ đông bán cổ phần và người mua hàng. Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp * Khái niềm xúc tiến: Trong marketing xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó là các hoạt động trao, truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần thiết về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp cũng như những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó doanh nghiệp tìm ra cách thức tốt nhất nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng . Khái niệm xúc tiến đầu tư phát triển KCN: đó là những hoạt động cung cấp các thông tin tới các nhà đầu tư về những ưu thế và ưu đãi của KCN để kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư vào các khu công nghiệp. Khi hoạt động đầu tư ở Việt Nam ở giai đoạn đầu các chủ đầu tư còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như “chiếc cầu nối” lôi cuốn các công ty trong nước và nước ngoài đến đầu tư vào các khu công nghiệp ở Việt Nam, như “bà mối” giúp các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Khi mà hoạt động đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì khi đó, vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi bởi vì, khi đó, môi trường đầu tư quá quen biết đối với các nhà đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang một trạng thái khác. Xúc tiến, vận động đầu tư vào khu công nghiệp giữ vai trò quyết định đến sự thành công của khu công nghiệp. Công tác vận động đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Thời gian tới, nhất là từ nay đến năm 2005, để thực hiện mục tiêu mà chính phủ đề ra là thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện, yêu cầu đặt ra là các bộ ngành liên quan và các địa phương cần đổi mới từ hình thức, nội dung đến phương thức vận động đầu tư nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác này. 2. những lợi thế của các khu công nghiệp: *Chính phủ đã ban hành Nghị định 36CP về quy chế KCN. Quy chế KCN là văn bản pháp quy quan trọng quy định hoạt động đầu tư phát triển trong các KCN, khẳng định chính sách thu hút đầu tư, những lĩnh vực khuyến khích ưu đãi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh trong KCN * ưu tiên về tài chính: Thông thường, các nhà đầu tư đầu tư vào KCN được khuyến khích ưu đãi về: thuế, thu nhập Công ty, thuế sở hữu tài sản, thuế thương mại, thuế nhập khẩu. Thời hạn được hưởng ưu đãi thường là 5 năm, tuỳ loại thuế và tuỳ điều kiện từng nước mà thời hạn có thể dài hơn 10 năm, 15 năm. Có chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp :  giá thuê đất, thuế (thuế lợi nhuận đối với nhà đầu tư cơ sở hạ tầng trong nước là 15%, các nhà đầu tư nước ngoài là 10%), hỗ trợ vốn, lãi xuất ưu đãi . Các ưu đãi về tài chính nhằm bảo đảm cho dòng vận động của ngoại hối không bị kiểm soát, việc chuyển vốn đầu tư theo đúng điều lệ thành lập công ty, phù hợp tập quán tài chính của KCN, tự do di chuyển lợi nhuận và tiền thu từ bán bản quyền sáng chế quy định. * ưu tiên các tiện ích hạ tầng: Hầu hết, các KCN đều được hưởng một số lợi thế về kết cấu hạ tầng, địa điểm xây dựng,... như đường sá giao thông, phương tiện vận chuyển, kho bãi, cung ứng điện, nước, liên lạc thông tin viễn thông, chăm sóc y tế, bảo hiểm. Với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ và xã hội trong khu công nghiệp, bảo đảm tính đồng bộ, thuận tiện, thoã mãn khách hàng. Vì vậy, kết quả hoạt động và phát triển khu công nghiệp không gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường và tệ nạn xã hội. Môi trường đầu tư thuận lợi : Việc thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” và sự ra đời của Ban quản lý khu công nghiệp cấp Tỉnh đã góp phần tích cực vào tiến trình cải cách hành chính, bước đầu đã đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc phát triển KCN và đã được chính các nhà đầu tư hoan nghênh. Thể chế quản lý hiện hành quy định trong Nghị Định 36CP năm 1997 ban hành quy chế khu công nghiệp, theo đó quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tôn trọng và nâng cao, giảm dần các thủ tục hành chính “xin, cho”,xét từng trường hợp cụ thể, đã uỷ quyền cho BQLKCN một số chức năng như: cấp giấy phép đầu tư, xuất nhập khẩu, lao động,… Cải thiện các khu công nghiệp, chỉ là điều cần, nhưng chưa đủ. Điều kiện nền tảng nhất là chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu nguồn vốn FDI, giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng hoá, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài. 3. cơ quan tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư phát triển kcn: Hiện nay, các Công ty đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có chức năng xúc tiến kêu gọi các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Cơ quan này cùng với các trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư của các Tỉnh và Thành phố và Cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện các chương trình, các hội nghị để tiến hành kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp . Hệ thống xúc tiến đầu tư gồm: Vụ Luật và xúc tiến đầu tư được thành lập trên cơ sở sát nhập ba bộ phận luật và xúc tiến đầu tư của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (cũ) từ tháng 4/1993. Ngoài ra còn một số tổ chức khác trong đó còn phải kể đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và một số công ty tư vấn. Phần III: Một số vấn đề thực tế xúc tiến đầu tư phát triển khu công nghiệp 1. Tổng quan về tình hình phát triển khu công nghiệp ở Việt nam: 1.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành khu công nghiệp ở Việt Nam: Mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò quan trọng đối với các nứơc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, các nguồn lực cần thiết cho đầu tư phát triển là rất hạn chế. Chính vì vậy, mở rộng hợp tác với nước ngoài tạo cơ hội cho chúng ta thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có môi trường đầu tư hấp dẫn để tạo ra động lực thu các nhà đầu tư. Trong điều kiện đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn thì chúng ta không thể cùng một lúc tạo ra môi trường thuận lợi ở trên toàn quốc nên việc tạo lập ra những khu vực có diện tích nhỏ (khu công nghiệp) để có điều kiện tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, tạo khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước. Bên cạnh đó, việc hình thành các khu công nghiệp cũng là cơ hội để phát huy cao nhất sức mạnh nội lực của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thực tế, những năm vừa qua cho chúng ta thấy vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế . Chính sự phát triển chưa đồng đều về môi trường đầu tư, chính yêu cầu trong việc vừa phải tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý nhưng lại phải bảo đảm sự kiểm soát cần thiết của nhà nước về mặt kinh tế - xã hội, chính những mục tiêu riêng có được đặt ra nên đã đưa đến tính tất yếu của việc thiết kế và xây dựng các khu công nghiệp tại Việt nam. Sự ra đời khu công nghiệp là một bước đi đung đắn của chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở việt nam. Mô hình KCN được tập trung nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1989 qua các tài liệu thu thập được cũng như khảo sát thực tế ở một số nước và khu vực như Đài Loan, Thái Lan,…Từ ngày 24/9/1991, khi uỷ ban hợp tác và đầu tư (nay Bộ kế hoạch và đầu tư) được thủ tướng chính phủ ủy nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập khu chế xuất đầu tiên với quy mô 300 ha đất tại xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, đó là sự hợp tác với Đài Loan có tổng vốn đầu tư là 80 triệu USD, là cột mốc đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển KCN tại việt nam. Từ đó đến nay, số lượng KCN phát triển nhanh chóng trên khắp các địa phương. Việc hình thành các khu công nghiệp được thông qua hai con đường: thành lập trên cơ sở quy hoạch lại các cụm công nghiệp đã có từ trước hoặc thành lập mới hoàn toàn. Bảng 1: Tình hình phát triển các KCN tại Việt Nam (Tính đến tháng 10/2003) Chỉ tiêu Năm Số lượng KCN Tổng diện tích (ha) Diện tích bình quân 1 khu (ha) 1995 12 2370 197,5 1996 25 4569 182,8 1997 44 7619 162,1 1998 62 10108 163,0 1999 67 10452 156,0 2000 67 11023 164,7 2001 68 11800 173,5 2002 76 15214 200.1 2003 88 16573 188.3 Qua bảng ta thấy, tốc độ phát triển các khu công nghiệp khu chế xuất ở Việt nam là rất nhanh, đặc biệt trong hai năm 1997, 1998 hơn 40% các khu công nghiệp đã được thành lập trong thời gian này, năm 1997 có 22 khu công nghiệp ra đời và năm 1998 có 15 khu công nghiệp. Cũng trong thời gian này, với sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút, cùng với viếc thành lập ồ ạt các khu công nghiệp nhưng không gắn với đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào dẫn đến kết quả thu hút đầu tư vào một số khu công nghiệp, đặc biệt là ở miền trung và miền bắc gặp nhiều khó khăn. Từ năm 1999 trở lại đây, việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp đã được điều chỉnh, tính toán có hợp lý hơn nên các khu công nghiệp được chú trọng đến mặt chất lượng, các biện pháp thu hút đầu tư được đẩy mạnh, không chỉ tập trung vào các nhà đầu tư nước ngoài như trước mà còn thu hút được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư trong nước.Tính đến tháng 8/2003, cả nước đã có 88 khu công nghiệp (chưa kể Dung Quất ) với tổng diện tích 16573 ha. Như vậy, bình quân diện tích một khu công nghiệp là trên 188 ha/ khu, trong đó khu công nghiệp có quy mô lớn nhất là khu công nghiệp phú mỹ I tại Bà Rịa -Vũng Tàu có diện tích là 954.4 ha và khu công nghiệp có quy mô nhỏ nhất là khu công nghiệp Bình Triệu tại Thành Phố Hồ Chí Minh có diện tích 28 ha. Trong tương lai quy mô này có xu hướng giảm xuống để có điều kiện phát triển. Đến tháng 3/2003, cả nước đã có 76 khu công nghiệp (trong đó có 3 khu chế xuất) được thành lập với tổng diện tích :15.214 ha, đã có 18 dự án đầu tư nước ngoài (tổng vốn 981 triệu USD) và 58 dự án đầu tư trong nước (tổng số vốn 15.472tỷ đồng ) đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Cũng trong thời điểm này, đã có 20.319 dự án (1.235 dự án nước ngoài với tổng vốn 9.868 triệu USD và 1084 dự án trong nước với tổng vốn 55.850 ngàn tỷ đồng, hiện đang có hiệu lực). Cùng với sự phát triển cả về số lượng cũng như tổng diện tích các khu công nghiệp thì việc cho thuê đất trong các khu công nghiệp cũng ngày càng chiếm tỷ lệ cao, nếu như năm 2000, mới chỉ cho thuê được 26000ha ( chiếm 35% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê ), thì năm 2002, đã cho thuê được 4606 ha nâng tổng diện tích cho thuê lên gần 45 % tổng diện tích đất công nghiệp. Trong đó, 16 khu công nghiệp đã thuê từ 80% trở lên, 19 khu công nghiệp đã cho thuê từ 50 - 80% diện tích, 17 khu đã cho thuê 30 - 50% diện tích, còn lại chưa cho thuê được đất . Ngoài ra, trong thời gian gần đây, tại vùng kinh tế trọng điểm miền trung, Chính phủ đã quyết định thành lập khu công nghiệp Dung Quất với tổng diện tích 14000 ha có tính chất như một khu kinh tế tổng hợp, và đang nghiên cứu xây dựng mô hình khu kinh tế mở Chu Lai, sẽ làm cho việc phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đa dạng hơn và có thể phát huy tối đa tiềm năng để phát triển đất nước. 1.3. Thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp Việt Nam. Sau hơn 10 năm hoạt động, các khu công nghiệp đã tạo ra nguồn lực sản xuất mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế, song bên cạnh đó đã bộc lộ những bất cập gây cản trở cho sự phát triển của các khu công nghiệp . 1.3.1. Thành tựu đạt được: Qua hơn 10 năm phát triển mạnh mẽ, kết quả hoạt động của các khu công nghiệp đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng GDP, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước. Đồng thời khu công nghiệp cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động thất nghiệp ở địa phương, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, mở ra hướng mới trong công nghiệp hoá nông thôn, thu hẹp chênh lệch trong khoảng cách kinh tế giữa các vùng của đất nước. Tại các khu công nghiệp ngoài công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng, điện tử còn thu hút được cả các dự án công nghiệp nặng, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đến tháng 10/2003, cả nước đã có 88 khu công nghiệp, khu chế xuất tổng diện tích 16.573 ha trong đó gần 70% diện tích có thể cho thuê. Đã có gần 2600 dự án đang hoạt động trong đó có 52% là các dự án FDI, với doanh thu ước đạt 6.1 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu đạt 2,6 tỷ USD, nộp ngân sách 325 triệu USD. Tại các khu công nghiệp có gần 41.2000 lao động đang làm việc, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước được thành lập trước khi khu công nghiệp được hình thành, các doanh nghiệp xin đàu tư mới vào các khu công nghiệp . Ngoài việc gia tăng vốn đầu tư vào khu công nghiệp, tình hình hoạt động của các khu công nghiệp cũng đạt được các kết quả khả quan, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Trong giai đoạn 1996 - 2000 tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp khu công nghiệp đạt từ 35 - 50%. Năm 1996, doanh thu của các doanh nghiệp khu công nghiệp mới chỉ đạt 0.4 tỷ USD, xuất khẩu đạt 0.32 tỷ USD; đến năm 2000 đã là 3.5 tỷ USD doanh số( bằng 10% GDP của cả nước) và 2.2 tỷ USD ( chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ). Trong 10 tháng đầu năm 2003, doanh thu cuả các doanh nghiệp đã đạt 6,1 tỷ USD và đạt giá trị xuất khẩu là 2,6 tỷ USD. Sản phẩm từ các khu công nghiệp được xuất khẩu đi hơn 50 nước và khu vực, trong đó nhiều nhất là Nhật bản, EU, Đài Loan, Mỹ, ASEAN…Nhìn chung, các dự án đầu tư vào khu công nghiệp đều cam kết tỷ lệ xuất khẩu tương đối cao. Bảng 2: Doanh thu và xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN Năm Doanh thu (Tr.USD) Xuất khẩu (Tr.USD) Tốc độ tăng hàng năm (%) Doanh thu Xuất khẩu 1996 400 320 1997 1.155 848 291 265 1998 1.871 1.300 61 53 1999 2.982 1.761 59 35 2000 3.465 2.250 16 28 2001 4.500 2.500 23 10 Nguồn: Tạp chí Kinh tế Phát triển số 36/2000 Tạp chí Thông tin KCN số 1/2002 Các doanh nghiệp có vốn FDI trong khu công nghiệp đã góp phần tạo thêm nhiều năng lực sản xuất mới trong các ngành sản xuất then chốt: trên 900 triệu kw điện, 6 triệu quạt điện dân dụng, 40 triệu tấn sợi các loại, trên 100 triệu sản phẩm may mặc, 80.000nguyên liệu nhựa PVC, 1,3triệu bóng đèn hình TV, 200.00TV/năm, 200.00 tủ lạnh /năm, 30.000 maý giặt /năm … Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như: giày dép, đồ điện, sản phẩm điện tử… có tỷ lệ công xuất tương đối cao. Đồng thời, các khu công nghiệp đã góp phần tích cực trong quá trình hoá hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng máy móc thiết bị, công nghệ mới vào sản xuất. Nếu so sánh trình độ trang thiết bị và quy trình công nghệ giữa các dự án trong khu công nghiệp với dự án ngoài khu công nghiệp và đặc biệt so sánh với trình độ chung của các doanh nghiệp trong nước thì tính hiện đại của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cao hơn nhiều. Đây là điều tất yếu, bởi vì các sản phẩm đước sả xuất tại các khu công nghiệp đều có mục tiêu là xuất khẩu. Do đó, đòi hỏi phải có công nghệ, máy móc hiện đại. Với những kết quả như vậy, các khu công nghiệp đã góp phần nâng cao giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá. Ngoài việc góp phần nâng cao giá trị sản xuất, và năng lực xuất khẩu, các KCN còn thu hút được một số lượng đáng kể lao động, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động quốc gia. Nơi đây chính là những trung tâm đào tạo, sử dụng và nâng cao tay nghề, tạo thêm việc làm. Trong điều kiện tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn cao và có xu hướng gia tăng, nhất là khu vực nông thôn, việc thu hút hàng chục ngàn người là một đóng góp to lớn về mặt xã hội. 1.3.2. Những tồn tại, khó khăn trong xây dựng và phát triển khu công nghiệp. Từ những đánh giá trên đây về một số kết quả bước đầu của các khu công nghiệp thời gian qua cho thấy, tuy thời gian xây dựng và hoạt động chưa nhiều, nhưng khu công nghiệp đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Song thực trạng khu công nghiệp hiện nay cho thấy, việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu tìm giải pháp cho thời gian tới. Định hướng chính sách và khuôn khổ pháp lý còn nhiều tồn tại và không theo kịp tiến trình phát triển của các khu công nghiệp hiện nay. Cơ cở pháp lý chủ yếu chế định sự hoạt động của các khu công nghiệp là Nghị Định 36/CP ban hành quy chế khu công nghiệp. Nghị định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hịên hành, cốt lõi là luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật doanh nghiệp nhà nước, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân và một số luật quan trọng khác. Hai hệ thống khác nhau cùng tồn tại điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp khu công nghiệp, đã tạo nên sự khác biệt trong kinh doanh, nhất là ưu đãi về thuế giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cùng hoạt động trong khu công nghiệp . Cùng với các vấn đề về luật pháp, chính sách, việc định hướng, quy hoạch phát triển khu công nghiệp còn thiếu cân đối. Thực trạng phát triển và hoạt động của khu công nghiệp trong thời gian qua đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu công nghiệp trong khi thu hút đầu tư còn hạn chế, không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng, nhất là đối với các khu công nghiệp trong nước đầu tư. Phương thức xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cho thuê lại đất cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Đến 8/2001, mặc dù có trên 60 khu công nghiệp triển khai đầu tư xây dựng các hạng mục cơ sở hạ tầng khu công nghiệp như: đường giao thông nội bộ, cấp điện cấp nước, bưu chính viễn thông với đầu tư khoảng 7000 ngàn tỷ đồng song chỉ mới có 30% tổng số vốn đầu tư đăng ký hoặc dự toán được duỵêt. Mô hình kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thực hiện theo phương thức nhà nước giao đất cho doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cở sở hạ tầng, sau đó cho doanh nghiệp khu công nghiệp thuê lại đất và phí sử dụng hạ tầng. Phương thức này dẫn đến tình trạng nhiều công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp đầu cơ đất với các ưu đãi của nhà nước để thu hút đầu tư không tác động tới nhà đầu tư thứ cấp. Do vậy, nhà nước cần xem xét bổ xung các phương thức khác cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Công tác xúc tiến, vận động đầu tư vào khu công nghiệp chưa thực sự được quan tâm. Xúc tiến, vận động đầu tư vào khu công nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của khu công nghiệp. Song trên thực tế, công tác này chưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu tổ chức. Một trong những biện pháp xúc tiến vận động đầu tư hiệu quả tốt nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài là việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh, trước hết trong những vấn đề thủ tục hành chính thuế, hải quan, xuất khẩu, lao động … Ngoài các tồn tại trên đây, các vấn đề về lao động, về cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào và cơ sở hạ tầng xã hội bảo đảm đời sống của người lao động cũng đang là những cản trở đối với sự phát triển của các khu công nghiệp, đặc biệt là những khu công nghiệp đã thu hút được nhiều nhà đầu tư , tập trung cao độ các hoạt động sản xuất công nghiệp trong những địa bàn nhất định như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp xã hội đang gặp mẫu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề, trong khi số lao động cần công ăn, việc làm còn hết sức dư thừa. Về cơ bản lao động cung cấp cho các khu công nghiệp được hình thành gần như tự phát thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, dựa vào sự cung cấp lao động sẵn có trên thị trường và "hưởng thụ " kết quả đào tạo của nhà nước. Ngoài ra, cần thấy rằng bên cạnh nhân tố tích cực là làm thay đổi đáng kể thị trường và cơ cấu lao động, thúc đẩy lực lượng lao động trẻ đào tạo, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng và các doanh nghiệp khu công nghiệp nói riêng cũng đang gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực trong trả lương, đối xử không công bằng và thô bạo đối với người lao động. Cùng với vấn đề về lao động, các công trình ngoài hàng rào là những công trình đòi hỏi vốn đầu tư lớn như: đường giao thông, hệ thống cung cấp điện chưa được triển khai đồng bộ. Do vậy, việc triển khai xây dựng các khu công nghiệp cần phải gắn liền với việc thực hiện các quy hoạch xây dựng các công trình hạ tầng xã hội như: nhà ở, trường học,cơ sở khám, chữa bệnh… mà thực chất là tiến hành đô thị hoá cùng với quá trình công nghiệp. Thực trạng về xúc tiến đầu tư trong thời gian qua: 2.1. Những hoạt động trong thời gian qua. Hiện nay, ở Việt Nam những khu công nghiệp đã thành lập Wedsite về các khu công nghiệp của mình trên mạng Internet nhằm tằng cường khả năng vận động đầu tư và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về hoạt động, về các khu công nghiệp. Các khu công nghiệp đã chủ động thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận công tác xúc tiến vận động đầu tư. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì ngoài các thị trường truyền thống ở Châu á, các cơ quan vận động xúc tiến đầu tư ở khu công nghiệp đã nghiên cứu kỹ lưỡng các đối tác đầu tư ở Tây âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ về công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay, ở một số KCN, ví dụ ở Thành Phố Hồ Chí Minh, cơ quan xúc tiến đầu tư đã phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh và tổ chức phát triển hợp tác hải ngoại Nhật Bản xây dựng cơ sở dữ liệu SMEs của Việt Nam và Nhật Bản tại Thành Phố Hồ Chí Minh và hình thành Website Việt - Nhật và tiếp tục mở các hội chợ ảo trên mạng với một số nhóm ngành với các ưu đãi để kêu gọi các nhà đầu tư vào KCN. Công tác vận động đầu tư đã được chú ý ngay từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài. Từ năm 1990, Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư nước ngoài (SCCI) đã phối hợp với UNDP, UNIDO tiến hành vận động từ khu vực Châu á, Châu úc, Châu Âu thông qua việc cử các đoàn ra nước ngoài, tổ chức các cuộc hội thaỏ với hành trăm doanh nghiệp các nước. Tháng 3 năm 1991, diễn đàn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lần đầu tiên tổ chức đã thu hút trên 650 người tham dự. SCCI cũng đã cử các đại diện của mình ở Nhật, Pháp, ý…Và đã ký hợp đông xúc tiến đầu tư với nhiều cơ quan và doanh nghiệp nước ngoàI như: cơ quan xúc tiến đầu tư ở Thái Lan, Malayxia,… Các cơ quan xúc tiến đầu tư ở các khu công nghiệp, thông qua các nhà doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại các khu công nghiệp để tuyên truyền, vận động thu hút các nhà đầu tư khác đến với khu công nghiệp của mình. Thông qua các cuộc hội thảo về KCN, các cơ quan xúc tiến đầu tư của các KCN đã giới thiệu về hình ảnh, những chính sách ưu đãi của KCN mình với các nhà đầu tư * Hiện nay, ở một số KCN trong cả nước đã hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu vào các thị trường mục tiêu. Đây là chương trình nhằm hình thành một địa chỉ cung cấp thông tin cơ hội giao thương miễn phí và hiệu quả cho các khu công nghiệp thu hút đầu tư nước ngoài. Quảng bá cho hình ảnh và thương hiệu của các KCN - địa điểm đầu tư an toàn và hiệu quả ở khu vực Châu á - TBD, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài 2.2. Thành tựu đạt được: Cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào các khu công nghiệp thì một trong những vấn đề quan trọng là phải nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư và đây là một phần việc quan trọng hàng đầu trong đẩy mạnh hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp. Cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách và biện pháp nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư và khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các khu công nghiệp . Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách mà trọng tâm là 4 lần sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài ( vào các năm 1990,1990,1996 và 2000)và luật khuyến khích đầu tư trong nước, Những năm qua, Bộ kế hoạch và đầu tư đã phối hợp cùng với các bộ ngành, địa phương, ban quản lý các khu công nghiệp tổ chức nhiều chương trình vận động đầu tư trong nước và nước ngoài hướng vào việc thực hiện các mục tiêu, chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm. Trong đó phần việc hàng đầu là xây dựng quy hoạch, lập doanh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư vào các khu công nghiệp. Nhờ những nổ lực đồng bộ, đáng kể của các ngành, các cấp hữu quan, đến nay nhiều lĩnh vực, ngành, sản phẩm đã lập được quy hoạch phát triển để xúc tiến kêu gọi các nhà đầu tư . Cũng trong năm qua Bộ kế hoạch và đầu tư đã cùng với các bộ ngành, các ban quản lý các khu công nghiệp trong cả nước tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo góp phần tuyên truyền, vận động kêu gọi đầu tư ở trong nước và nước ngoài nhằm đầu tư vào các khu công nghiệp. Kể từ năm 1991, với sự giúp đỡ của UNDP/UNIDO, Diễn đàn đầu tư Việt nam và tiếp đó là chương trình tổng thể vận động đầu tư nước ngoài cho Việt nam đã được tổ chức với mục tiêu xúc tiến thực hiện 187 dự án trong danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp. Không chỉ tổ chức hội thảo, tuyên truyền chung mà Bộ kế hoạch và đầu tư còn cùng với ban quản lý các khu công nghiệp tổ chức nhiều cuộc hội thảo chuyên đề, đối thoại trực tiếp với các nhà đầu tư trong nước về các chính sách , các ưu đãi khi nhà đầu tư đầu tư vào các khu công nghiệp. Có thể nói chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu về hoạt động xúc tiến đầu tư trong thời gian qua. Từ năm 1992 đến nay, Bộ kế hoạch và đầu tư đã lần lượt thiết lập quan hệ hợp tác với văn phòng hội đồng tư vấn Thái lan (OBOI), cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB)…Riêng đối với Nhật Bản, chúng ta có quan hệ với cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và cơ quan xúc tiến mậu dịch Nhật Bản (JETRO)… để xúc tiến đầu tư cho các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào các khu công nghiệp Việt nam. Ngay từ đầu năm 1990, Việt nam đã có quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính, xúc tiến đầu tư quốc tế như: MIGA, FIAS, IFC, ESCAP…Những quan hệ này được thiết lập để trao đổi về quan điểm, định hướng, kinh nghiệm vận động đầu tư và khung pháp lý đầu tư quốc tế … Và từ năm 1996, Bộ kế hoạch và đầu tư đã triển khai dự án xúc tiến do EU tài trợ như một bộ phận trong chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho Việt nam chuyển sang nền kinh tế thị trường. Không chỉ vậy mà trong khuôn khổ hợp tác xúc tiến đầu tư được thoả thuận với ASEAN, APEC, ASEM, …để đạt được kết quả trên trong những năm qua, bên cạnh nổ lực của các cơ quan chủ quản là bộ kế hoạch và đầu tư, còn có những cố gắng và đóng góp rất lớn của các bộ ngành, UBND và ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh thành. 2.3. Hạn chế. Tuy nhiên, công tác vận động xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập và kết quả còn nhiều hạn chế: Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì các nhà đầu tư chủ yếu đến từ các nước công nghiệp mới như : Đài Loan, Hàn Quốc, Maláyia, chưa thu hút được mạnh mẽ các nhà đầu tư đến từ Mỹ và EU, là những nước có công nghệ tiên tiến,trình độ quản lý cao và thị trường rộng lớn. Hầu hết tập trung vào các ngành khai thác và chế biến, đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao còn rất ít, mức độ chuyển giao công nghệ còn rất thấp. Thời gian qua, phần lớn các nhà đầu tư tự tìm đến, số được mời vào đầu tư trong các khu công nghiệp rất ít chủ yếu là các nhà đầu tư tự tìm đến, đặc biệt là các dự án lớn có thể làm thay đổi cả nền kinh tế thì rất ít. Trong khi đó hoạt động xúc tiến đầu tư của chúng ta còn quá chung chung, không biết nhà đầu tư muốn gì và cần gì nên không thể lôi kéo được nhiều nhà đầu tư. Trong thời gian qua, trong thu hút đầu tư chúng ta chưa xác định được chúng ta muốn gì và cần gì . Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định chồng chéo và mâu thuẫn. Sự thiếu minh bạch và hay thay đổi các quy định của nhà nước đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước chưa an tâm về sự ổn định của chính sách đầu tư vào khu công nghiệp ở Việt Nam và trình độ tay nghề của người lao động, thủ tục hành chính rườm rà, môi trường đầu tư ở Việt nam theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Châu Âu ở mức trung bình, thấp hơn so với các nước trong khu vực vì vậy làm cho công tác vận động xúc tiến đầu tư trong thời gian gặp rất nhiều khó khăn . 2.4. Đề xuất những ý kiên đổi mới hoat động xúc tiến: 2.4.1. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng để thu hút vốn đầu tư. Hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện ràng buộc liên quan đến công việc làm ăn của các nhà đầu tư. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, thì Nhà nước Việt Nam phải ban hành những cơ chế chính sách còn thiếu, sửa đổi, bổ sung những chính sách không phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, “Luật chơi hoàn chỉnh” cho hoạt động của KCN. Luật pháp được xây dựng và sửa đổi phải dựa vào địa điểm, phong tục, tập quán của đất nước và thông lệ quốc tế. Tạo ra môi trường ổn định, thông thoáng, công bằng cho các nhà đầu tư. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đồng thời sáng tạo, đưa ra các sáng kiến mới để cụ thể hoá luật pháp. Các chính sách về luật trước lúc ban hành phải làm thí điểm ở vài KCN để đánh giá được các tác động của nó. Sửa đổi trong ổn định các chính sách lớn có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của các nhà đầu tư. Đồng thời phải linh hoạt, uyển chuyển trong các trường hợp cụ thể (Tức giao nhiều quyền tự quyết, tự quản cho KCN). Các vấn đề địa điểm KCN cần được luật hoá. Vấn đề giải phóng mặt bằng KCN và phát triển mở rộng KCN nên giao cho các chủ đầu tư hay giao cho chính quyền địa phương cần quy định rõ. Ngoài ra, Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan đến người nước ngoài, XNK, quy chế đấu thầu, Luật thương mại, tài chính... để đảm bảo cho người nước ngoài yên tâm đầu tư. 2.4.2. Tạo ra quy hoạch KCN hợp lý. Vấn đề thu hút vốn đã khó khăn nhưng vấn đề sử dụng vốn lại càng khó khăn hơn. Với số vốn có thể có làm sao để sử dụng vốn đó có hiệu quả để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư mới là quan trọng. Chính vì vậy mà việc phát triển KCN cần được quy hoạch một cách hợp lý. Trước hết công tác quy hoạch cần phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, đặc điểm tự nhiên, khí hậu, phong tục tập quán... của từng vùng, địa phương. Các KCN trước đây quy hoạch chưa hợp lý, hoạt động không hiệu quả, không khai thác được tiềm năng của vùng, địa phương cần xử lý một cách dứt điểm. Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập KCN. Xem đây là trung tâm để phát triển vùng và địa phương đó. Do điều kiện, đặc điểm của đất nước cần phát triển các KCN vừa và nhỏ. Đồng thời cần thành lập các KCN lớn có tầm cỡ Quốc tế để tham gia tốt tiến trình hội nhập. Tất nhiên việc thành lập KCN ở các tỉnh, thành phố cũng phải tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, các KCN, KCX mọc lên tràn lan mà không chú ý tới chất lượng. Tính đến tháng 9 năm 1999 ở Việt nam có 66 KCN phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Với số lượng như vậy chúng ta cần đầu tư vào việc lấp đầy các khoảng trống trong KCN tạo cho các KCN này hoạt động có hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam, nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển vì vậy các KCN thành lập cấn có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông nghiệp (kể cả thành phẩm, cả phế phẩm) tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ. 2.4.3. Phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN. Vấn đề tạo ra mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN là vấn đề phức tạp. Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình nên quản lý và kiểm soát các KCN ở tầm vĩ mô, định hướng phát triển cho KCN. Còn các chính sách cụ thể nên để cho các KCN tự linh hoạt, tự xử lý. Hay nói cách khác là Nhà nước nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN miễn là kết quả không trái với định hướng, với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nhà nước nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư được giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn. Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Khi xây dựng các thể chế kinh tế Nhà nước cần lấy ý kiến của các đối tượng thi hành, đặc biệt là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bảo đảm cho mọi quy định được phù hợp với thực tế, kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích Nhà nước. Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cần phải tạo ra sự công bằng, vô tư cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải có một cơ chế thành lập ban chủ quản để giải quyết các vấn đề liên quan đến KCN. Đồng thời chính phủ cần có biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, hợp lực với Nhà nước xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, vi phạm pháp luật. Điều đó đáp ứng yêu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng và cạnh tranh lành mạnh. 2.4.4. Cải thiện chính sách thuế, giảm thuế cho thuê đất. Mức thuế suất hợp lý cũng sẽ là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tue. Mặc dù KCN ở Việt nam đã có một số ưu đãi về thuế nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn chưa có ưu thế, cụ thể như thuế XNK, thuế VAT... chính sách thuế nhiều khi còn chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy Nhà nước cần đưa ra các chính sách hợp lí để quản lý thuế, cần phải cụ thể chặt chẽ tránh tình trạng gian lận, trốn thuế làm lũng đoạn thị trường. Hoạch định chính sách thuế phải phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới, với định hướng tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế. cần thí điểm cho một vài KCN để thực hiện chính sách giảm thuế nhằm thấy được các tác động cụ thể của nó để khắc phục. Trong vấn đề chi phí trong khu chế xuất, một điểm còn nổi bật lên là vấn đề giá cho thuê đất. Hiện nay, mức giá cho thuê đất ở nước ta vẫn còn cao, việc này ảnh hưởng đến việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN. Vì vậy, Nhà nước cần cho thuê đất với giá ưu đãi nhất, thậm chí chỉ thu tượng trưng để phát triển hạ tầng KCN và nên coi đất phát triển KCN khác hẳn với đất dành cho phát triển đô thị và kinh doanh các bất động sản khác thì mới đẩy nhanh tiến trình thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI vào KCN, KCX. Nhà nước cũng cần điều chỉnh giá thuê đất ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam cho hợp lý tránh tình trạng chênh lệch nhau khá lớn. 2.4.5. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong KCN. Đây là công việc tạo được sự thuận lợi, một tâm lý hài lòng của chủ đầu tư khi đầu tư vào KCN. Điều này là cách để giữ được chân các nhà đầu tư ở lại tiếp tục đầu tư vào KCN. Chính vì vậy mà Nhà Nước ngoài nguồn vốn ngân sách cần huy động tối đa tất cả các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác để phát triển cơ sở hạ tầng. Cho phép xây dựng các ngân hàng hay mở các chi nhánh ngân hàng, bưu điện, sân bay, hải cảng... trong KCN. Nhà nước có thể ban hành nhiều chính sách như: Cho vay ưu đãi ( có thể không có lãi suất để xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN). Không thu thuế đất của các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và nhiều chính sách giảm thuế, ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. 2.4.6. Xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý, thực hiện nguyên tắc một cửa, tại chỗ. Hiện nay, tuy đã có sửa đổi nhưng vấn đề tổ chức quản lý các doanh nghiệp trong KCN vẫn chưa đồng bộ. Nhiều thủ tục còn rườm rà gây nhiều khó khăn, phiền hà cho chủ đầu tư. Vì vậy các cơ quan nhà nước phải gấp rút nghiên cứu để xây dựng một mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của KCN. Phải xây dựng một cơ chế quản lý “ Một cửa tại chỗ” từ trung ương đến địa phương phải làm cho cơ chế này thực sự có hiệu quả. Cần có một đầu mối tại Trung ương lo cho các KCN. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vấn đề “ Một cửa, tại chỗ” chưa áp dụng được thành công là do vấn đề bổng lộc, quyền lợi, chung nhiều của cán bộ trong đó có cả trả lương không đúng vì thế Nhà nước phải đưa ra chính sách chế độ tiền lương họp lý đồng thời giáo huấn đối với đội ngũ cán bộ. Tăng cường hiệu lực cho ban quản lý KCN của Trung ương, ban này cần phải trở thành ban chủ quản cấp trên. Đồng thời các tỉnh uỷ quyền thêm số ban quản lý KCN để các ban quản lý KCN có nhiều quyền tự quyết, chủ động hơn trong công việc làm ăn. Tất nhiên cũng cần xác định rõ ban quản lý KCN cấp tỉnh là của địa phương. Còn ban quản lý cấp trung ương chỉ là đầu mối thực hiện, giúp mọi việc cho địa phương. Cấp trung ương nên tập trung vào việc tháo gỡ về cơ chế, chính sách. Việc nữa là các KCN cần bỏ dần cơ chế xin cho để chủ động huy động vốn và làm ăn có trách nhiệm hơn. Có cơ chế tài chính phù hợp cho hoạt động của ban quản lý như mạnh dạn cho phép ban quản lý để lại một tỷ lệ thoả đáng các nguồn thu để ban tự trang trải cho mọi hoạt động của mình. 2.4.7. Chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN. Với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá chính sách đối ngoại là một điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư. Vấn đề ở đây là ở các doanh nghiệp KCN. Các doanh nghiệp phải biết tự vận động, phải chủ động hoà nhập mình vào các hoạt động kinh tế quốc tế, phải xây dựng hệ thống `thông tin tiếp thị vừa tiếp thị trực tiếp thị từ xa. Phải cử người ra nước ngoài để thương thuyết, vận động nhiều tập đoàn, nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Phải giới thiệu để họ biết về doanh nghiệp, về tiềm năng của doanh nghiệp, tiềm năng của KCN và từ đó họ thấy lợi ích mà họ sẽ thu được khi đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta cần mở rộng hơn nữa các diện đối tác ở các nước có tiềm năng. Trong đó cần chú trọng cả nội dung lẫn hình thức tiếp thị với nhiều hình thức giới thiệu các KCN Việt Nam ra thị trường thế giới. Trong phạm vi thẩm quyền cho phép, Ban quản lý hoặc công ty phát triển hạ tầng về việc giao dịch với các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham quan, khảo sát thị trường các nước tổ chức hội thảo, tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm hoạt động KCN ở các tỉnh bạn hoặc liên kết với các tỉnh bạn trong quan hệ mở rộng thị trường đầu tư thế giới. Trong công tác tiếp thị nên cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho các đối tác như khả năng cung cầu của sản phẩm sẽ được sản xuất, tiến độ thực hiện các công trình kết cấu hạ tầng trong KCN, các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư được áp dụng với từng KCN cũng như kết quả thực hiện những cải cách thủ tục hành chính tại địa bàn tỉnh. Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vị trí địa lý KCN cùng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thuận lợi có ý nghĩa hàng đầu đối với các nhà đầu tư và chính đây là cơ sở thiết thực để làm tốt công tác tiếp thị đầu tư vào các KCN ở Việt Nam. Kết luận Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài và bằng những kinh nghiệm rút ra từ nhiều nước trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định được rằng những tác động kinh tế qua hoạt động thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào các khu công nghiệp là rất quan trọng , nó đã và đang là nhân tố cấu thành và quy định xu hướng phát triển các quan hệ kinh tế trong đất nước Việt Nam và giữa Việt Nam với quốc tế. Mặt khác nó là nhân tố cơ bản thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN. Tính đến 10/2003 cả nước đã có 88 KCN (trong đó có 3 KCX). Tuy nhiên bên cạnh các mặt đã đạt được còn có nhiều mặt chúng ta chưa đạt được. Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư từ trong nước và nước ngoài. Việc đưa ra các giải pháp và chính sách hợp lý sẽ không những tạo ra môi trường đầu tư và hành pháp lý thuận lợi cho nguồn vố đầu tư mà còn tạo điều kiện thúc đẩy cho các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới./. Tài liệu tham khảo 1. Những giải pháp chính trị kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nguyễn Khắc Thân - Năm 1996. 2. Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu chế xuất và đặc khu kinh tế năm 1994 3. Những văn bản pháp luật về khu chế xuất - khu công nghiệ - khu công nghệ cao. 4. KCX - KCN với cơ hội đầu tư ở Việt Nam-NXB Thống Kê-1993 5. CNH - HĐH ở Việt Nam và các nước trong khu vực - Phạm ích Khiêm. 6. Nhìn lại phát triển các KCN giai đoạn 1991 - 1999 –TC Công Nghiệp -1/2000. 7. Nguyễn Hồng Phối- Những nét chuyển biến mới tạI các KCN –TC Công nghiệp 6/2000. 8. Nguyễn Sinh Cúc- Thực trạng của những KCN-KCXcủa Việt Nam hiện nay-TC Phát Triển Kinh Tế-7/1999. 9. Nguyễn Xuân Dung- Một số vấn đề trong việc xây dựng KCN-KCX ở Việt Nam- TC Kinh Tế Thế Giới-10/1999. 10. Võ Đaị Lược – Thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu 15 năm qua của Việt Nam –TC – Kinh Tế Thế Giới- 8/2001. 11. Lê quang Mạnh – Phát triển các KCN tạI Việt Nam thành tựu và khó khăn- TC Lao Động Xã Hội 8/2001. 12. Lê Tuyển Cử - Quản lý Nhà nước các khu công nghiệp thành công và bất cập - Tạp chí Công nghiệp Việt Nam , số 12/2003. 13. Giáo trình Kinh doanh quốc tế - Đại học Kinh tế quốc dân 14. Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Đại học Kinh tế Quốc dân - NXB Giáo dục, 1997. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35551.doc
Tài liệu liên quan