Trên cơ sở nội dung đề án là: “Đánh giá thực trạng quản lý đô thị ở nước ta thời gian qua; Thiết lập mô hình quản lý đô thị mới trong thời gian tới”. Trong phạm vi đề án, em đã giải quyết được một số yêu cầu chính liên quan đến quá trình quản lý đô thị mới như:
• Cơ sở lý luận về quản lý đô thị
• Thực trạng quản lý đô thị ở nước ta
• Thiết lập mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở nước ta
- Xác định vị trí địa lý của đô thị mới
- Xác định mô hình quản lý đô thị mới
- Xác lập mô hình chính quyền đô thị mới
- Xác định mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý trên địa bàn đô thị
- Xác định phương pháp và công cụ quản lý chủ yếu
- Đánh giá mô hình tổ chức chính quyền ở đô thị mới đã đề xuất
- Đánh giá tính khả thi của mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở Việt nam
Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn nên còn những điều chưa giải quyết được trong đề án này như:
- Những lĩnh vực mà Thị trưởng thành phố có quyền tự quyết
- Những lĩnh vực mà các cơ quan sở tại trực tiếp giải quyết theo sự ủy quyền của Thị trưởng
- Cơ cấu tổ chức Hội đồng thành phố.
Và các vấn đề này sẽ được giải quyết ở các nghiên cứu tiếp theo. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của Cô giáo để xây dựng đề tài hoàn thiện hơn và góp phần vào quá trình xây dựng mô hình quản lý đô thị hiện đại trong tương lai ở nước ta.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Điều tra, khảo sát và đánh giá thực trạng công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị mới tại Việt Nam. Kiến nghị một số vấn đề về mô hình quản lý phát triển đô thị mới trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vị khác nhau liên quan đến lĩnh vực quản lý để tạo sự đồng bộ ăn khớp các hoạt động theo cấp hành chính về thời gian, lộ trình, tiến độ công việc.
Chức năng tài chính
Dự toán nguồn thu; cấp ngân sách đúng quy trình, hiệu quả.
Phát triển và khai thác hiệu quả nguồn thu, tiết kiệm ngân sách.
Quản lý tài sản công.
Chức năng theo dõi, giám sát, kiểm tra, tiếp nhận phản hồi để điều chỉnh
Chức năng báo cáo, sơ kết, tổng hợp đánh giá
Thiết lập các báo cáo định kỳ, báo cáo tổng kết dài hạn thể hiện các đánh giá việc thực hiện mục tiêu. Từ đó có thể địn công, thưởng phạt nghiêm, rút kinh nghiệm cả trong lý luận, thực tiễn và đề ra phương hướng kế hoạch cho thời gian tiếp theo.
I.5.3. Các mô hình chính quyền đô thị
Mô hình chính quyền ba cấp
Đặc trưng của mô hình
Bộ máy chính quyền đô thị gồm ba cấp: cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW, cấp quận/ huyện, cấp phường/xã.
Các cấp đều có quyền ra quyết định trên địa bàn sở tại
Ưu điểm: Cách tổ chức đơn giản
Nhược điểm
Quản lý bị chồng chéo, thông tin bị sai lệch do qua nhiều tầng lớp trung gian.
Tồn tại hiện tượng quan liêu, xa rời thực tế.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả
Điều kiện vận dụng
Những đô thị có sự tập trung cao, mật độ dân số lớn, trình độ cán bộ còn hạn chế, hệ thống thông tin liên lạc chưa phát triển, nền tài chính thấp kém.
Mô hình chính quyền hai cấp
Đặc trưng của mô hình
Chính quyền đô thị được tổ chức thành hai cấp: Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW, cấp phường/xã.
Ưu điểm của mô hình:
Do tổ chức chính quyền hai cấp, loại bỏ được một cấp trung gian, làm cho bộ máy chính quyền thành phố gọn, nhẹ hơn, tác động quản lý nhanh chóng đi vào cuộc sống; tạo được sự thống nhất quản lý của cấp thành phố đối với các lĩnh vực biểu hiện tính chất đặc thù của thành phố, như việc quản lý các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cảnh quan đô thị, cơ sở phúc lợi công cộng…
Tạo điều kiện phát huy được những sáng tạo của co sở và khuyến khích thúc đẩy đông đảo nhân dana tham gia hoạt động quản lý.
Nhược điểm: Xảy ra hiện tượng quá tải ở hai cấp cao.
Điều kiện vận dụng
Hệ thống thông tin liên lạc hiện đại; đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao; ý thức chấp hành, sử dụng pháp luật của dân cư thành phố tốt.
Mô hình chính quyền một cấp
Đặc trưng của mô hình
Ở các đô thị chỉ có một cấp quản lý là cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc TW.
Mọi vấn đề của cơ sở đều do cấp thành phố quyết định. Các cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên chỉ được quyền thỉnh thị báo cáo và chờ đợi quyết định của thành phố và làm theo quyết định đó. Như vậy, cơ cấu của bộ máy chính quyền cấp thành phố phải mở rộng, tăng thêm để giải quyết các vấn đề của cấp dưới, trong khi đó ở các cấp dưới sẽ thu nhỏ lại.
Ưu điểm
Bộ máy quản lý gọn, nhẹ. Tính tập trung trong giải quyết các vấn đề của thành phố rất cao.
Nhược điểm
Do tính chất tập trung cao trong giải quyết các vấn đề thành phố, sự can thiệp sâu của các cơ quan cấp thành phố vào hoạt động tại cơ sở làm cản trở việc phát huy tính sáng tạo của cấp dưới, và người dân ít được thamgia giải quyết công việc địa phương.
Điều kiện vận dụng
Áp dụng cho đô thị nhỏ, thị trấn.
I.5.4. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý đô thị
Phối hợp là quá trình liên kết hoạt động của những con người, bộ phận, phân hệ và hệ thống riêng rẽ nhằm thực hiện có kết quả và hiệu quả các mục tiêu chung của tổ chức.
Mục tiêu của phối hợp là đạt được sự thống nhất hoạt động của các bộ phận bên trong và cả với bên ngoài tổ chức. Vì vậy, phải đồng thời tồn tại hai loại quan hệ: quan hệ dọc và quan hệ ngang.
Quan hệ dọc, là mối quan hệ giữa cấp quản lý trên và cấp quản lý dưới; là quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Quan hệ dọc phải tuân thủ một nguyên tắc: trên ra chỉ đạo, dưới phải chấp hành với quyền bảo lưu nếu có ý kiến không đồng thuận và phải có nghĩa vụ báo cáo công việc với cấp trên. Trên bảo nhưng dưới không chấp hành hoặc chấp hành không tốt thì phải có biện pháp chế tài, kỷ luật để đảm bảo cho công việc của tổ chức luôn tiến triển, trật tự kỷ cương của tổ chức không bị phá Quan hệ ngang là quan hệ giữa những bộ phận chức năng thuộc cùng một cấp quản lý. Đây là quan hệ phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động giữa những người, những bộ phận độc lập với nhau trong cùng một cấp quản lý.
I.5.5. Các phương pháp và công cụ quản lý
a. Các phương pháp quản lý
- Phương pháp hành chính: Là các phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ tổ chức của cả hệ thống quản lý Nhà nước về đô thị và hệ thống kỷ luật của các tổ chức trong hệ thống thong qua các mệnh lệnh, văn bản quyết định hành chính mang tính cưỡng chế.
- Phương pháp kinh tế: Là các phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để họ tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả cho tổ chức, xã hội và bản thân họ.
- Phương pháp tuyên truyền, giáo dục: Là các phương pháp tác động vào nhận thức, tình cảm, tâm lý, nhằm thuyết phục, nâng cao nhận thức và tính tự giác của cán bộ công chức thực thi công cụ và đối tượng liên quan.
b. Các công cụ quản lý
- Luật pháp và các quy định dưới luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch hóa.
- Tài chính: Cấp ngân sách và đầu tư tài chính, trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật; Các nguồn tài chính nước ngoài, các thuế và phí, huy động vốn trong nước.
- Dùng công cụ truyền thông cho các lĩnh vực đô thị
- Hệ thống thông tin - dữ liệu, kế toán, kiểm toán.
I.6. Mô hình quản lý đô thị Las Vegas
Las Vegas là thành phố đông dân nhất trong bang Nevada, nước Mỹ, trung tâm của Quận Clark, là một điểm đến nổi tiếng trên thế giới về nghỉ ngơi, mua sắm, giải trí và sòng bạc. Thành lập năm 1901 và chính thức trở thành một thành phố năm 1911. Với sự phát triển theo sau đó, Las Vegas trở thành thành phố lớn nhất nước Mỹ ở thế kỷ 20.
Las Vegas thường được gọi là thủ đô giải trí của thế giới; nổi tiếng về những khách sạn sòng bạc phong phú và tiện nghi, sự sẵn có của những đồ uống có cồn ở mọi lúc, và mức độ đa dạng của sự giải trí lớn.
Vậy bộ máy quản lý của Las Vegas đã được tổ chức như thế nào, để đưa Las Vegas trở thành một thương hiệu mạnh như vậy?
Chính quyền thành phố Las Vegas được tổ chức như một Hội đồng - Chính quyền quản lý. Thị trưởng ở vị trí như là một thành viên Hội đồng nói chung và điều khiển tất cả những cuộc họp Hội đồng thành phố. Trong những trường hợp, Thị trưởng không thể điều khiển một cuộc họp Hội đồng thành phố, Thị trưởng tạm thời là quan chức chủ trì của cuộc họp cho đến khi Thị trưởng trở lại vị trí của ông ấy. Nguời quản lý thành phố chịu trách nhiệm về mặt hành chính và sự vận hành của tất cả những dịch vụ hàng ngày và các cơ quan thành phố. Người quản lý thành phố cũng duy trì những mối quan hệ tồn tại giữa chính quyền với liên bang, bang, quận và những chính quyền địa phương khác.
Trong Hội đồng thành phố có 6 thành viên: Một Thị trưởng (thành viên Hội đồng nói chung), sáu thành viên Hội đồng bảo trợ.
Ban điều hành, quản lý thành phố gồm có: Một người quản lý thành phố, một thư ký thành phố.
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
II.1. Thực trạng mô hình quản lý đô thị
Trước Đại hội VI năm 1986, Việt nam là một nước nghèo nàn, lạc hậu. Do hậu quả của chiến tranh để lại, cùng với việc duy trì quá lâu một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã làm thui chột, không huy động được tối đa các nguồn lực tham gia phát triển kinh tế.
Tư tưởng “Bế quan tỏa cảng” trong đường lối lãnh đạo cũng đã cô lập nước ta trong một thời gian tương đối.
Hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, trình độ đô thị hóa thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém là những khó khăn đặt ra đối với nước ta tại thời điểm đó.
Vì vậy, thực hiện công tác quản lý trên địa bàn các đô thị: thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng… nước ta đã vận dụng mô hình quản lý đô thị lấy quản lý kinh tế làm chủ đạo.
Chính quyền các đô thị trực tiếp quản lý nền kinh tế thông qua các sở, ban chức năng.
Nội dung quản lý: Quản lý theo kế hoạch, chủ trương của cấp trên; Cụ thể theo kế hoạch, chủ trương đã được Chính phủ phê duyệt cho từng đô thị.
Hoạt động quản lý vì thế mang nặng tính hành chính: Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế đều bị quản lý bằng hệ thống mệnh lệnh, văn bản quyết định hành chính mang tính cưỡng chế.
Hệ thống pháp lý chung cho đô thị và nông thôn: tỉnh tương đương thành phố, quận tương đương huyện, phường, xã, thị trấn tương đương nhau.
Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế, sự vận dụng mô hình quản lý đô thị này, đã đem lại những kết quả nhất định trong quá trình phát triển đô thị ở nước ta. Nó đã tạo điều kiện phát triển kinh tế có trọng tâm trong điều kiện tài chính nước nhà hạn chế, tránh phân tán nguồn vốn. Do đó các đô thị: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng thật sự trở thành những hạt nhân quan trọng, đầu tàu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một miền lãnh thổ nói riêng và của cả nước nói chung.
Nhưng như đã phân tích trong phần cơ sở lý luận ở trên, bản thân mô hình quản lý này cũng bộc lộ không ít nhược điểm: Môi trường pháp lý bị xem nhẹ; các doanh nghiệp Nhà nước kém chủ động dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ; tệ tham nhũng, lãng phí xuất hiện và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Quản lý bị chồng chéo, thông tin bị sai lệch do qua nhiều tầng lớp trung gian. Bộ máy quản lý cồng kềnh kém hiệu quả.
Chính những nhược điểm này đã kìm hãm tốc độ phát triển của các đô thị nói riêng và của cả nước nói chung trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng: Sự vận dụng mô hình quản lý đô thị lấy quản lý kinh tế làm chủ đạo trong điều kiện đất nước tại thời điểm tương ứng là phù hợp với cơ sở lý luận.
Song trước yêu cầu phát triển đất nước, đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn mới, một tư duy, một đường lối lãnh đạo mới mang tính thời đại, hợp quy luật phát triển. Và Đại hội VI năm 1986 là một mốc son quan trọng, mở ra một thời đại mới trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thắng lợi to lớn trong đường lối lãnh đạo của Đảng, là tiền đề cho sự phát triển đất nước những năm sau đó.
Trong điều kiện mới, để đạt được mục tiêu phát triển của cả nước, cần tập trung phát triển các đô thị nhằm tạo ra hiệu ứng lan tỏa. Chính vì vậy, Nhà nước đã thực hiện chuyển đổi từ mô hình quản lý đô thị lấy quản lý kinh tế làm chủ đạo sang mô hình quản lý đô thị hỗn hợp.
Thực tiễn 20 năm đổi mới đã đem lại nhiều kết quả quan trọng: Ổn định kinh tế - xã hội, không gây xáo trộn lớn. Các đô thị như: đô thị Hà Nội, đô thị Hồ Chí Minh, đô thị Hải Phòng… đều có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của cả nước. Đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các vùng, miền trên lãnh thổ quốc gia.
Mặt khác, nhờ có chủ trương cổ phần hóa những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, đặc biệt diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây mà chính quyền đô thị chuyển dần từ quản lý kinh tế sang quản lý xã hội. Do đó, có khả năng tập trung vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng có trọng điểm.
Hiện nay, các đô thị lớn nhìn chung đã có cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, mô hình cũng đã bộc lộ những nhược điểm cơ bản. Quản lý chồng chéo: Mỗi doanh nghiệp bị UBND quản lý thông qua sở chuyên ngành, sở chuyên ngành bị Bộ chủ quản quản lý…Mỗi vấn đề của đô thị như đất đai, công trình do nhiều cơ quan quản lý. Điều đó đồng nghĩa với hiệu quả quản lý thấp do không đảm bảo tính thống nhất trong quá trính quản lý, không xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể quản lý.
Pháp luật lỏng lẻo: như ở Việt Nam đất đai thuộc quyền thuộc quyền sở hữu toàn dân nhưng bị lấn chiếm, khi thu hồi Nhà nước lại phải đền bù như là mua với giá thị trường.
Tình trạng buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng gia tăng. Ở Việt Nam, Cộng hòa liên bang Nga trong thời kỳ chuyển đổi, nạn buôn lậu, trốn thuế phát triển nhanh chóng.
Các đô thị đang trong quá trình chuyển đổi nhanh từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo điều kiện cho các đô thị phát triển với quy mô rộng và tốc độ nhanh trong thời gian tới. Vì vậy, đòi hỏi chính quyền đô thị phải chuyển từ quản lý kinh tế sang quản lý xã hội.
II.2. Thực trạng bộ máy quản lý đô thị tại Việt nam
Để có được một bộ máy quản lý hoạt động đầy hiệu quả, trong quá trình tổ chức cần tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tổ chức bộ máy, thông qua việc tập trung xác định ít nhất 03 vấn đề cơ bản:
II.2.1. Mô hình chính quyền đô thị
Xây dựng mô hình chính quyền đô thị là một quá trình đi tìm lời giải cho câu hỏi: Bộ máy tổ chức ấy cần phải có bao nhiêu tầng nấc, bao nhiêu cấp quản lý và mỗi cấp quản lý như vậy cần phải có bao nhiêu bộ phận chức năng, bao nhiêu phòng ban chuyên môn là vừa đủ để hoạt động?
Xác định không đúng, không đủ, không phù hợp các nấc quản lý trung gian hay các phòng ban chuyên môn thì hoạt động của bộ máy sẽ trở nên khó khăn. Sẽ xảy ra não trang có việc, có lãnh vực không ai quản lý và cũng có những cơ quan chức năng được lập ra nhưng không đủ việc để làm.
Để trả lời câu hỏi nêu trên, người ta thường dựa vào các cơ sở:
Bộ máy quản lý phải phù hợp với mục đích, yêu cầu mang tính khách quan của hoạt động quản lý.
Trước kia, trong thời kỳ bao cấp, số lượng các sở trực thuộc UBND tăng lên tới mức tối đa. Theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) tại các thành phố trực thuộc Trung ương, số cơ quan chuyên môn thuộc UBND lên tới 35. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, các UBND còn được đặt ra các tổ chức mới để thực hiện những nhiệm vụ nhất định nào đó, sau khi đã xin ý kiến của Chính phủ.
Nhìn chung, ở thời kỳ này, các đơn vị hành chính – lãnh thổ có xu hướng sát nhập thành các đơn vị lớn, nhưng trên Trung ương lại có xu hướng tách các bộ thành các bộ chuyên ngành với chuyên môn sâu, thực hiện quản lý tập trung thống nhất theo ngành từ Trung ương đến cơ sở. Vì thế, mỗi bộ đều muốn có cơ quan thuộc ngành dọc của mình trực thuộc UBND các thành phố để triển khai hoạt động quản lý chuyên môn theo ngành dọc tới từng cơ sở. Điều này cũng xuất phát từ nhu cầu của cơ chế quản lý theo kế hoạch tập trung cao độ. Một mặt các cơ quan chuyên môn giúp UBND thực hiện quản lý ngành theo lãnh thổ, nhưng mặt khác bảo đảm sự can thiệp của các bộ và những hoạt động cụ thể, chi tiết của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc ngành.
Cũng ở thời kỳ này, chức năng của các sở đối với các cơ sở sản xuất là sở “ chủ quản” – Quản lý toàn diện từ cấp vốn đầu tư xây dựng đến phân phối, lưu thông các sản phẩm do các cơ sở kinh tế sản xuất ra, cũng như kiểm soát toàn bộ quá trình hoạt động của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Do đó, cơ cấu tổ chức của các sở rất nặng nề, cồng kềnh.
Hiện nay, cơ chế quản lý nền kinh tế đã có những thay đổi. Thị trường đã xuất hiện – nền sản xuất hàng hóa dần trở thành nhu cầu thiết yếu để đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế, vì thế không thể dùng cơ chế cũ, cùng với cơ cấu tổ chức trước đây của các cơ quan chuyên môn để quản lý sản xuất kinh doanh. Các sở không thể can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh nữa, không trực tiếp đặt ra các chỉ tiêu pháp lệnh cho các cơ sở thuộc diện quản lý của mình nữa, mà các sở cần thay đổi về diện mạo cũng như hình thức hoạt động.
Từ chỗ là sở “chủ quản” – Tức chủ yếu đặt kế hoạch chi tiết vào sản xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh ở điạ bàn thành phố. Các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, phát triển ngành chuyên môn kỹ thuật ở địa phương, đồng thời giúp UBND thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các cơ sở kinh tế thuộc quyền quản lý thực hiện các định hướng đó trên cơ sở pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, các sở không còn làm chức năng “chủ quản” như hiện nay mà chỉ làm chức năng quản lý Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp nằm trong lĩnh vực quản lý, không kể trong hay ngoài quốc doanh. Mặt khác, khi chuyển sang kế hoạch định hướng, sẽ không còn có sự phân biệt các doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương trên địa bàn đo thị nữa. Các cơ qua chuyên môn sẽ là người giúp UBND thành phố thực hiện quản lý Nhà nứớc đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn đô thị.
Bộ máy quản lý phải phù hợp với đặc thù của địa bàn quản lý
Địa bàn nông thôn khác với địa bàn đô thị nên quản lý đô thị phải khác với quản lý nông thôn, chính quyền đô thị phải được tổ chức khác với chính quyền ở nông thôn. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đã có sự phân biệt về tổ chức giữa chính quyền đô thị/thành phố với chính quyền nông thôn với sự tôn trọng tính thống nhất của đô thị.
Đến Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992, các tỉnh thành đều được chia thành 3 cấp đơn vị hành chính. Và theo luật pháp hiện hành, mô hình chính quyền đô thị ở nước ta hiện nay vẫn là mô hình 3 cấp hoàn chỉnh. Dựa vào tính chất cần thiết quản lý đời sống thành phố với những đặc điểm phức tạp của tình hình dân cư do sự tập trung cao, mật độ dân số lớn, trình độ của cán bộ còn hạn chế, các phương tiện thông tin liên lạc của ta còn lạc hậu… Ngoài ra, còn dựa vào những quan điểm chính trị nhằm động viên, tổ chức cho đông đảo nhân dân tham gia vào quản lý thành phố, bảo đảm để nhân dân phát huy được quyền làm chủ ở mọi cấp.
Mô hình chính quyền đô thị ba cấp hoàn chỉnh ở nước ta hiện nay
Chính
phủ
Bộ TNMT
Bộ KHĐT
Bộ Tài chính
Bộ quốc phòng
Bộ Công thương
…
Sở
Công thương
Tỉnh
đội
Sở
Tài chính
Sở KHĐT
Sở TNMT
UBND Tỉnh/
Thành phố trực thuộc TW
đ
Ban Công thương
Xã
đội
Ban
Tài chính
Ban Thống kê chuyên trách
Ban TNMT
UBND phường
UBND Quận/ Thành phố thuộc Tỉnh
Phòng Tài chính
Phòng KHĐT
Phòng TNMT
Huyện đội
Phòng Công thương
Như vậy, theo mô hình tổ chức chính quyền đô thị hiện nay thì bộ máy quản lý đô thị không khác gì bộ máy quản lý nông thôn. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta đã và đang đồng nhất những đặc trưng của đô thị với những đặc trưng của nông thôn. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra những bất cập, lúng túng, lộn xộn trong quản lý đô thị ngày nay ở nước ta.
Mặc dù trong nhiệm kỳ Đại hội 8 Đảng đã yêu cầu “ … nghiên cứu sự khác biệt giữa hoạt động của HĐND và nhiệm vụ quản lý hành chính ở nông thôn…” nhưng cho đến nay, chúng ta hầu như chưa có những kết luận dứt khoát về sự phân biệt này. Trầm trọng hơn nữa là chúng ta đã rập khuôn, máy móc khi tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước: hễ UBND có bao nhiêu cấp thì HĐND cũng có đủ bấy nhiêu cấp, làm cho bộ máy mất đi sự linh hoạt, gọn nhẹ, đôi khi có cấp HĐND trở thành thừa thãi, không hữu ích và không cần thiết
c. Xây dựng bộ máy quản lý phải phân định thẩm quyền quản lý hợp lý, hài hòa
Trong bộ máy quản lý Nhà nước ở đô thị, mỗi cấp chính quyền được giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để quản lý các lĩnh vực trên địa bàn nhất định. Trong luật tổ chức HĐND và UBND hiện hành có những quy định về quyền hạn, nhiệm vụ thuộc bảy lĩnh vực hoạt động khác nhau của HĐND và cũng quy định bảy loại nhiệm vụ, quyền hạn của UBND trong thực hiện quản lý Nhà nước ở địa phương. Những nhiệm vụ, quyền hạn trên đều được quy định chung cho cả ba cấp chính quyền ở các địa phương khác nhau, không có sự phân biệt nào. Các cấp chính quyền địa phương trong thực hiện nhiệm vụ quyền hạn đều hướng tới những đối tượng chung, giống nhau. Nếu đi ngược thời gian, xem xét những quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND được ban hành ở các thời điểm khác nhau (1962, 1983, 1989), tình hình cũng diễn ra tương tự. Mặc dù về quyền hạn, nhiệm vụ phân giao cho từng cấp chính quyền địa phương đã có những sự khác nhau nhưng cơ bản chưa phản ánh được sự khác biệt xuất phát từ những đặc thù của các đơn vị hành chính lãnh thổ.
Tình hình trên dẫn đến thực tế là cấp nào cũng thực hiện quản lý toàn diện, nhưng không rõ trách nhiệm đến đâu trong quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể. Cùng một nội dung quản lý đối với một đối tượng, bị cắt khúc, do nhiều cấp, ngành thực hiện. Tình trạng lúng túng, bị động, chờ quyết định của cấp trên về một nội dung quản lý đã hạn chế hiệu quả hoạt động của tất cả các cấp trong hệ thống bộ máy chính quyền. Thí dụ, việc xử lý xây dựng nhà trái phép ở thành phố trong thời gian dài do cả ba cấp thực hiện: cấp phường xử lý phần móng; quận phần tường; cấp thành phố phần mái. Chính sự cắt khúc này tạo cớ cho đương sự dây dưa, công việc giải quyết của các cấp bị kéo dài, ách tắc, khó dứt điểm. Sự phân cấp quản lý giữa các ngành chuyên môn theo hệ thống dọc với quản lý theo lãnh thổ cũng không rõ ràng gây ra sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, làm cho các cấp chính quyền thành phố lúng túng, bị động trong hoạt động quản lý, chẳng hạn trong lĩnh vực tài chính, thuế vụ, y tế, giáo dục.
II.2.2. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy quản lý
Thực trạng quản lý đô thị hiện nay thường xảy ra tình trạng mạnh bộ phận nào bộ phận ấy làm, thiếu hẳn sự điều phối từ bên trên và sự phối hợp với nhau từ bên dưới. Điển hình hay bị nhắc đến nhiều nhất là vấn đề đào đắp đường để làm các công trình công cộng. Chỉ với một đoạn đường mà nhiều cơ quan chức năng thuộc nhiều sở khác nhau, thi nhau đào lên đắp xuống vừa gây phiền hà, khổ sở cho dân lại vừa làm lãng phí tiền bạc của nhà nước. Sự thiếu đồng bộ này có thể xuất phát từ tâm lý cục bộ, bản vị của các bộ phận chức năng. Họ chỉ thấy hoặc chỉ vì lợi ích riêng của ngành mình mà không thấy hoặc không vì lợi ích chung mang tính toàn cục của đất nước, của người dân. Qua đó cũng chứng tỏ rằng: Các cơ quan trong bộ máy quản lý đô thị bị chi phối mạnh theo ngành dọc hơn theo UBND.
II.2.3. Lựa chọn con người cho bộ máy quản lý
Xác định các thành phần, các bộ phận của bộ máy, xác định xong các mối quan hệ giữa các bộ phận vẫn chưa đủ, người ta còn phải tìm kiếm, lựa chọn những con người, những nhân sự có phẩm chất, năng lực phù hợp với yêu cầu công việc để đưa vào bộ máy, khiến bộ máy ấy vận hành trơn tru, thuận lợi. Con người là linh hồn của mọi tổ chức. Cơ cấu tổ chức có hoàn hảo đến mấy nhưng con người của tổ chức mà yếu kém thì bộ máy tổ chức vẫn không thể phát huy tác dụng được. Do vậy việc lựa chọn cán bộ cho bộ máy chính quyền là một vấn đề hệ trọng.
Năng lực trình độ quản lý được thể hiện ở tầm quản lý của cán bộ công chức. Khi tầm quản lý rộng, nhà quản lý có thể tự mình điều hành, kiểm tra đôn đốc, theo dõi giám sát nhiều đầu mối công việc, nhiều lĩnh vực hoạt động, nhiều nhân viên dưới quyền cùng một lúc nên sẽ không cần nhiều nấc quản lý trung gian. Do đó, bộ máy tổ chức sẽ trở nên ít tầng nấc, gọn nhẹ mà vẫn hiệu quả.
Ngược lại khi tầm quản lý hẹp, nhà quản lý chỉ có thể nắm bắt, điều hành được một vài đầu mối công việc, một vài lĩnh vực hoạt động cho nên họ sẽ phải cần thêm các tầng nấc quản lý trung gian. Điều này sẽ làm cho bộ máy tổ chức phình to và trở nên cồng kềnh, tốn kém mà lại ít hiệu quả. Đây chính là sự hạn chế lớn trong bộ máy quản lý đô thị ở nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý đô thị ở nước ta hiện nay còn yếu kém về năng lực và nghiệp vụ, thiếu tầm nhìn cần thiết, thiếu kiến thức về kinh tế đô thị để quản lý đô thị một cách hiệu quả. Vì vậy, trong quá trình quản lý họ thường mắc phải các căn bệnh: chủ quan, giáo điều, bảo thủ, làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm và thực dụng, không đánh giá đúng thực trạng yếu kém về các mặt hành chính hiện thời, không theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Do đó, các quyết định họ đưa ra trong quá trình quản lý thường thiếu tính khả thi, không đạt được hiệu lực cũng như hiệu quả quản lý. Thậm chí, rất nhiều biện pháp đã bị thất bại khi đưa vào thực tiễn.
Mặt khác, hạn chế trong tầm nhìn đã khiến những người làm công tác quản lý đô thị không có một định hướng, một chiến lược lâu dài, mà chỉ mải chạy theo lo giải quyết sự cố. Điều này có thể dễ nhận thấy từ thực trạng quy hoạch lộn xộn của các đô thị ở nước ta hiện nay. Cũng có thể lấy một ví dụ như việc UBND TP Hà Nội vừa quyết định thôi thí điểm tạm ngừng đăng ký xe máy tại nội thành, kết thúc những tranh cãi và nhiều phiền toái của bao công dân Hà Nội.
Còn nhớ thời điểm tháng 9/2003, Hà Nội bắt đầu thực hiện chủ trương dừng đăng ký xe máy tại 4 quận nội thành.
Trước đó, số người chết do tai nạn xe máy tăng nhanh. Thiếu tướng Phạm Chuyên, Giám đốc Công an bức xúc: “Năm 2003 cả thành phố chỉ có 14 người chết vì tai nạn khi ngồi trên ôtô, vài chục người chết khi đi bộ nhưng có tới hơn 300 người đi xe máy chết”. (Năm 2005 số người chết vì TNGT ở Hà Nội còn cao hơn: 533 người, loại phương tiện gây ra tai nạn nhiều nhất vẫn là mô- tô xe máy)
Số người chết và bị thương do TNGT tăng, yêu cầu cấp bách phải có biện pháp giải quyết nhanh và hiệu quả. Nghị quyết 34/2003/NQ-HĐ của Hội đồng nhân dân TP Hà Nội, nêu 9 giải pháp, trong đó có biện pháp dừng đăng ký xe máy tại 4 quận nội thành nhằm giảm số lượng xe máy. Mặc dù số lượng xe máy đăng ký giảm mạnh, nhưng số xe lưu thông thì vẫn tăng.
Tiếp đến ngày 21/11/2005, Bộ Công an có Thông tư số 17/2005/TT-BCA về việc bỏ quy định mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe môtô hoặc xe gắn máy. Trước sức ép mạnh mẽ của dư luận, lãnh đạo thành phố đã phải ra Quyết định số 221/2005/QĐ-UB, thôi thí điểm tạm ngừng đăng ký xe máy tại nội thành Hà Nội.
Những phản ứng trên cho thấy, tư duy quản lý đô thị kiểu cũ cách đây nửa thế kỷ vẫn đang được sử dụng để áp vào một đô thị đang hiện đại hóa. Đặc điểm của thứ tư duy ấy là sự phân định rõ, chính quyền là người quản lý, còn người dân là đối tượng quản lý. Trong quản lý đô thị hiện nay, nhà quản lý chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để đạt được ý chí của mình mà thiếu sự quan tâm, tìm hiểu tâm lý của người dân. Cách thức này cần phải thay đổi.
Trong tư duy mới về quản lý đô thị, người dân có vị thế hoàn toàn khác, cao hơn nhiều. Từ đối tượng quản lý, họ trở thành một bộ phận của bộ máy quản lý, ngày càng tham gia tích cực vào quá trình ra các quyết định của thành phố. Sự tham gia đó có thể là gián tiếp – thông qua Hội đồng nhân dân, cũng có thể là trực tiếp thông qua các hình thức từ thăm dò ý kiến cho đến trưng cầu dân ý về một vấn đề nào đó.
Trở lại vấn đề ngừng đăng ký xe máy. Chính quyền thành phố hoàn toàn có thể tiến hành trưng cầu dân ý, hoặc chí ít là một số cuộc thăm dò dư luận và cần tận dụng các phương tiện truyền thông để bảo vệ cho chủ trương của mình, phân tích cho người dân hiểu, chỉ cho người dân thấy, họ sẽ phải lựa chọn một trong hai phương án với cả cái tiện và bất tiện của từng phương án.
Sự lựa chọn của đa số sẽ được áp dụng, những người thuộc phái thiểu số sẽ phải tuân thủ ý nguyện của số đông. Làm theo ý nguyện của đa số người dân, chính quyền sẽ nhận thêm sự ủng hộ. Quan điểm mới của quản lý đô thị hiện đại là dân luôn luôn đúng. Chính quyền là người thực thi ý nguyện của số đông. Nhưng do nhiều lý do, số đông hôm nay có thể lại trở thành số ít ngày mai. Ở đây không có sự “thắng” hay “thua”.
Qua sự việc trên cho thấy, bộ máy quản lý đô thị ở nước ta chưa thực sự tạo điều kiện để các công dân và cộng đồng liên quan được tham gia vào công việc quản lý một cách dân chủ. Đặc biệt, chưa huy động tối đa và sử dụng triệt để các nhà khoa học, các cán bộ của Nhà nước đóng trên địa bàn thành phố trong hoạt động quản lý của chính quyền thành phố.
Nhìn một cách khái quát, thực trạng bộ máy QLNN ở đô thị Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
Bộ máy quản lý Nhà nước ở đô thị là một tổ chức công quyền của dân, thực hiện chức năng hành pháp của quyền lực Nhà nước, phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận nghiêm khắc về chất lượng thì họ còn nhiều yếu kém về năng lực hành chính, không được đào tạo theo hướng chính quy nghiệp vụ hành chính, do đó hiệu quả quản lý trên các lĩnh vực ở đô thị không cao.
Bộ máy quản lý Nhà nước trong các đô thị ở nước ta thiếu một quy chế công chức Nhà nước hoàn chỉnh có tính pháp lý và tính khoa học.
Quy chế hoạt động của hệ thống hành chính không được quy định chính thức, thủ tục hành chính còn phiền hà.
Do luật pháp còn thiếu và không đồng bộ nên hiện nay việc quản lý đô thị được tiến hành theo những văn bản đơn hành. Mỗi địa phương trong cả nước đều ban hành hệ thống văn bản pháp quy riêng của mình vf tự định ra những quy định quản lý, không có quy định chuẩn mực chung cho các đô thị nên dễ tùy tiện, thiếu thống nhất và có khi trái với pháp luật. Bộ máy quản lý hành chính hoạt động theo phong cách cũ, tạo điều kiện cho các cơ quan và viên chức Nhà nước dễ dàng vi phạm quyền lợi công dân.
Quản lý đô thị ở nước ta có hiện tượng vừa bị chia cắt theo từng mảng, vừa bị giới hạn theo địa giới hành chính và thường tập trung quản lý theo ngành, thiếu sự phối hợp giữa các ngành để quản lý có hiệu quả hơn.
Phân công trách nhiệm cho các cấp, các ngành không rõ ràng, vì thiếu kiến thức cơ bản và kinh nghiệm quản lý trong lĩnh vực hành chính, từ đó đội ngũ công chức thiếu phương thức hoạt động chuần xác.
Bộ máy quản lý Nhà nước ở đô thị chúng ta thiếu đội ngũ công chức có năng lực, thiếu tầm nhìn cần thiết, thiếu kiến thức về kinh tế đô thị để quản lý đô thị. Muốn quản lý chuyên ngành ở đô thị có hiệu quả cao thì vai trò lãnh đạo và đội ngũ công chức phải có kiến thức nghiệp vụ hành chính thông thạo, đó là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định chất lượng công tác QLNN đối với dô thị.
Đội ngũ công chức ở các đô thị chưa được đào tạo lại một cách hệ thống, vì vậy còn bệnh chủ quan, giáo điều và bảo thủ, làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm và thực dụng, không đánh giá đúng thực trạng yếu kém về các mặt của nền hành chính hiện thời, ít có khả năng tiếp thu những yêu cầu mới của xã hộ, của cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, mà chủ yếu là cuộc cách mạng khoa học về thông tin trong quản lý xã hội và quản lý con người.
Bộ máy quản lý Nhà nước trong các đô thị ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và những đòi hỏi của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trong nhiều năm, Nhà nước thiếu sự quan tâm chỉ đạo vấn đề quản lý đô thị từ trung ương đến địa phương, vì vậy mỗi địa phương tự ban hành những quy định riêng về quản lý đô thị, từ đó gây ra những tiêu cực trong xây dựng, trong cung cấp các dịch vụ điện, nước v.v…thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp tạo nên kẽ hở, trách nhiệm của cơ quan thi hành luật pháp không rõ ràng, cán bộ yếu kém về năng lực và nghiệp vụ, hệ thống quản lý đô thị chưa phân định rõ ràng với tỉnh, huyện, quận, phường, xã.
Những yếu kém trên đã làm suy yếu chính quyền ở các đô thị, suy yếu nền hành chính quốc gia, bộ máy quản lý đó không đủ quyền lực, năng lực hiệu lực để quản lý nền hành chính công trong các đô thị ở nước ta.
Những khiếm khuyết trình bày ở trên đã gây trở ngại nghiêm trọng đến công cuộc đổi mới nền kinh tế và đổi mới thể chế hoạt động của Nhà nước, làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước ở đô thị, đặc biệt làm giảm khả năng cạnh tranh của các đô thị Việt nam với các đô thị trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, mô hình quản lý đô thị hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu của một đô thị văn minh hiện đại. Do đó, một trong những vấn đề mấu chốt trong quá trình xây dựng đô thị đẳng cấp quốc tế ở nước ta trong tương lai là: Xây dựng mô hình quản lý đô thị hợp lý, hiệu quả.
Dưới đây, tôi xin đề xuất mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở Việt nam.
III. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH QUẢN LÝ ĐÔ THỊ MỚI TRONG TƯƠNG LAI Ở VIỆT NAM
III.1. Khái niệm đô thị mới
Đô thị mới có thể là đô thị cũ sau khi được nâng cấp, cải tạo và hiện đại hóa.
Trong lòng đô thị vẫn tồn tại những mặt hạn chế mang tính nan giải như: Kiến trúc đô thị không thống nhất, cảnh quan đô thị không được đảm bảo, mật độ dân số cao, giá nhà đất quá cao trong khu trung tâm… Đặc biệt, khó đáp ứng tốt được nhu cầu trong tương lai của đô thị.
Đô thị mới cũng có thể là đô thị được quy hoạch và xây dựng mới hoàn toàn.
Do đó nó có thế mạnh là: cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh; kiến trúc và cảnh quan đô thị tốt; khả năng đáp ứng cao nhu cầu trong tương lai của bản thân đô thị. Mục đích của việc quy hoạch một đô thị mới loại này là để định hướng phát triển, phục vụ yêu cầu và nhu cầu trong tương lai của các đô thị cũ.
III.2. Đánh giá thực trạng đô thị Việt Nam
Ngày 13/9/2004 các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố số liệu khảo sát mới nhất về đô thị Việt Nam. Theo đó, cơ sở hạ tầng đô thị Việt Nam hiện trong tình trạng quá xập xệ: Diện tích nhà ở trung bình là 10m2/người, chỉ bằng 1/3 diện tích tiêu chuẩn trên đầu người ở các đô thị tiên tiến trên thế giới; tỷ lệ đất giao thông rất thấp; hệ thống cấp nước bị thất thoát tới 30-40%; tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải chỉ đạt 70%; ô nhiễm trầm trọng về nguồn nước, không khí và môi trường, tiếng ồn... Ô nhiễm đang khiến hàng nghìn phụ nữ và trẻ em mắc bệnh; sức khoẻ bị suy giảm nghiêm trọng.
Khảo sát của WB cũng cho thấy, tỷ lệ đói nghèo ở đô thị Việt Nam là 9,5% (năm 2000), đi liền đó là hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém và thiếu thốn các dịch vụ cơ bản. Tốc độ đô thị hoá hiện đang tăng cao dẫn đến hiện tượng di cư ra thành thị ngày một lớn. Do đó, đói nghèo từ nông thôn đang chuyển sang đói nghèo thành thị. Hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của dân nghèo.
Tất cả các các đô thị Việt Nam đều chưa có sự lồng ghép giữa quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch môi trường. Chưa kiểm soát được luồng dân cư di cư lên thành thị.
Mặt khác, các đô thị Việt Nam đang phải đối mặt với một nhu cầu đang tăng mạnh và cung không đủ cầu về những lĩnh vực: văn phòng cho thuê, căn hộ cao cấp, khu dân cư và khách sạn. Đơn cử ở TP HCM, chúng ta chỉ mới nói đến khoảng 350.000 m2 diện tích văn phòng cho thuê trong khi ở Bangkok con số đó là 3,5 triệu m2 và ở Jakarta là 4 triệu m2. Vì thế, gần như 100% diện tích văn phòng cho thuê luôn kín chỗ.
Thêm vào đó, nhu cầu về văn phòng từ các doanh nghiệp mới, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài càng làm cho phân khúc này nóng lên. Cung ít trong khi cầu tăng mạnh tất nhiên sẽ dẫn đến tình trạng giá cả leo thang. Công ty Richard Ellis cho biết giá thuê của văn phòng hạng A vào qúi 1/2006 là 23 USD/m2 nay đã khoảng 29,50 USD/m2. Cá biệt có những khu o trung tâm lên đến 100 USD/m2.
Nhu cầu mua nhà riêng hoặc các căn hộ chung cư của người dân trong nước cũng như của Việt kiều ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó nhu cầu giải trí cũng như du lịch của người dân đô thị và người nước ngoài đã, đang và sẽ tăng mạnh cũng là một sức ép đối với các đô thị hiện có.
Để khắc phục những tồn tại này nhằm tạo điều kiện phát triển đô thị có thể thực hiện bằng hai cách: Một là cải tạo và mở rộng đô thị hiện có cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới và hai là quy hoạch xây dựng đô thị ở những địa điểm mới nhằm hỗ trợ cho đô thị cũ đồng thời xây dựng những tiền đề mới cho phát triển đô thị. Trên thực tế khó có thể tìm được những biện pháp để giải quyết triệt để những vấn đề nan giải đang tồn tại trong các đô thị cũ, đặc biệt là trong điều kiện tốc độ đô thị hoá cao như ở nước ta hiện nay. Từ những lý do đó, chúng ta đã, đang và cần tiếp tục nghiên cứu đề xuất việc xây dựng các đô thị mới và coi đó như một giải pháp tối ưu nhằm giải quyết các vấn đề của phát triển và quá tải của các đô thị hiện có.
Trong quá trình quy hoạch đô thị mới, một trong những vấn đề quan trọng là phải xác định vị trí tối ưu của những đô thị mới nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển của đô thị.
III.3. Xác định vị trí địa lý của đô thị mới.
Theo kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới, các đô thị mới thường được bố trí gần đô thị cũ với khoảng cách không quá 10 – 30 km. Ở những vị trí này, đô thị mới sẽ tận dụng được những thế mạnh của đô thị cũ như nguồn nhân công và các sản phẩm sẵn có của đô thị cũ; đồng thời phát huy được những thế mạnh của đô thị mới như đất đai và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, các đô thị cũ khi vẫn có một tốc độ phát triển cao thì chưa nên xem xét việc xây dựng đô thị mới.
Khu vực được quy hoạch ở đô thị mới thường được chọn ở những nơi có điều kiện thuận lợi về nguồn nhân công, về giao thông như gần cảng, sân bay quốc tế và các trục giao thông quan trọng. Địa điểm mới cũng là nơi có quỹ đất và khả năng cung cấp điện, nước đầy đủ
Các đô thị mới có quy mô khác nhau với diện tích loại nhỏ từ 400 ha (Hàn Quốc) đến các đô thị loại vừa từ 1000 – 2000 ha (Hàn Quốc), loại lớn từ 6000 – 8000 ha (St. Quetin và Cergy Pontoise của Pháp, Shuzon của Trung Quốc) đến rất lớn từ 10.000 ha trở lên (Phố Đông của Trung Quốc, Marne la Vallée và Melun Sénert của Pháp). Dân số của các đô thị mới thường dao động từ mức nhỏ 65.000 người (Evrry của Pháp) đến mức trung bình khoảng hơn 100.000 (Cergy Pontoise, Marne la Vallée của Pháp), đô thị loại lớn từ 200.000 đến 400.000 người (Sanbon, Pyungchon, Ilsan và Bungdang của Hàn Quốc) và loại rất lớn như Shuzon (650.000 người) và Phố Đông (1.800.000 người) của Trung Quốc. Do điều kiện đất đai, lối sống và dân số nên mật độ dân cư của các đô thị Châu Á thường cao hơn các đô thị Châu Âu.
Nước ta đã quy hoạch một số đô thị mới gần các đô thị: TP Hà nội, TP Hồ Chí Minh. Đặc biệt, đô thị mới Hà Nội ( Hà Tây và Bắc Sông Hồng) là một dự án cực lớn về phát triển đô thị, nằm ở vị trí đặc biệt ngay cạnh đô thị cũ của Thủ đô có gần 1000 năm tuổi.
Để xây dựng, vận hành và phát triển đô thị mới theo định hướng của một đô thị đẳng cấp quốc tế, cần phải thiết lập một mô hình quản lý đô thị phù hợp.
III.4. Thiết lập mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở Việt Nam
III.4.1. Xác định mô hình quản lý đô thị mới
Việt nam đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Và để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống luật pháp nước ta đã và đang được hoàn thiện từng bước, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động. Do đó, trong tương lai các đối tượng quản lý trên địa bàn đô thị nói riêng và cả nước nói chung sẽ được quản lý bằng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Mặt khác, hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, giao thông tốt; hệ thống tài chính hiện đại; trình độ dân trí cao là những lợi thế của các đô thị mới trong tương lai ở nước ta.
Với những điều kiện đó, các đô thị mới sẽ được quản lý bằng mô hình quản lý đô thị lấy quản lý xã hội làm chủ đạo.
Như đã phân tích ở trên, việc vận dụng mô hình quản lý này vào quản lý đô thị, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của các đô thị, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài như vốn đầu tư, lao động kỹ thuật… Đó cũng chính là mục đích hướng tới của các đô thị mới trong quá trình phát triển.
Bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả cao là một trong những ưu điểm của mô hình quản lý đô thị lấy quản lý xã hội làm chủ đạo. Vậy chính quyền đô thị mới nên được tổ chức như thế nào?
III.4.2. Xác lập mô hình phân cấp quản lý đô thị mới
Trên cơ sở phân tích ưu, nhược điểm của các mô hình tổ chức chính quyền đô thị, cùng thực trạng quản lý đô thị Việt nam hiện nay. Đồng thời, xuất phát từ những đặc điểm của các đô thị mới trong tương lai với điều kiện tương ứng của đất nước và qua xem xét kinh nghiệm thực tế tổ chức chính quyền của các đô thị phát triển trên thế giới thì thấy rõ: tại các đô thị mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị một cấp là phù hợp.
Mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị mới trong tương lai ở nước ta:
Bộ Tài chính
Bộ KHĐT
Bộ TNMT
Chính phủ
Bộ công thương
Sở công thương
Tỉnh đội
Sở Tài chính
Sở KHĐT
Sở TNMT
Tỉnh trưởng/Thị trưởng
Bộ quốc phòng
Như vậy, HĐND chỉ có ở cấp thành phố (gọi là hội đồng thành phố), Còn cấp quận và phường chỉ có cơ quan hành chính như là một cơ quan của chính quyền thành phố đặt tại các địa bàn sở tại để giải quyết các vấn đề cụ thể theo ủy quyền của Thị trưởng. Các cơ quan này sẽ hoạt động như những văn phòng hành chính để xử lý các công việc hành chính theo phân cấp.
Thị trưởng thành phố sẽ đóng vai trò như thế nào?
Đó là người đứng đầu thành phố phải chịu trách nhiệm toàn bộ trước nhà nước về mặt hành chính, chứ không phải là cơ quan tập thể như hiện nay.
Thị trưởng quản lý mọi vấn đề của đô thị. Do đó thị trưởng phải có trách nhiệm ra quyết định, phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, phải căn cứ vào nghị quyết của HĐND, nghị quyết của cấp ủy để mà hành động.
Thị trưởng thành phố sẽ được tự quyết trong một số lĩnh vực mà không phải thông qua Hội đồng thành phố.
Thị trưởng được chọn ra theo thể thức bầu cử trực tiếp, quảng đại quần chúng nhân dân sẽ “chọn mặt gửi vàng” thông qua các cuộc tranh cử công khai đúng luật mà không bằng con đường bổ nhiệm. Cũng bằng thể thức này, thị trưởng có thể bị miễn nhiệm qua các cuộc thăm dò dư luận xã hội theo luật. Ít khi thị trưởng bị phế truất thụ động mà thường họ tự nguyện từ chức khi có một sai lầm nào đó gây hậu quả nghiêm trọng trong địa hạt mình quản lý (có thể không phải do ông ta trực tiếp gây ra). Đó là một lối thoát.
Giúp thị trưởng là cả một bộ máy hành chính, hoạt động theo chỉ huy điều hành của thị trưởng.
Tuy nhiên, để thị trưởng hoạt động hiệu quả thì bao giờ cũng có một hội đồng thành phố có chức năng kiểm soát và xem xét các chính sách do thị trưởng đề xuất trước khi ban hành. Đứng sau lưng thị trưởng còn có một hội đồng cố vấn chính sách bao gồm những nhà khoa học và những người hoạt động thực tiễn có tâm huyết và thật sự tài năng.
Theo kinh nghiệm của Malaysia, Hội đồng cố vấn của thị trưởng thành phố Kuala Lumpur gồm 13 thành viên thường trực và 12 thành viên cộng tác. Họ là các nhà khoa học, các học giả không bằng cấp có tài và có tâm phục vụ trên tinh thần bất vụ lợi và không thiên vị.
Số lượng các sở tương ứng với các Bộ trong tổ chức Chính phủ. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm và định hướng phát triển của từng đô thị mà số lượng các sở có thể tăng lên hoặc giảm đi một cách tương thích.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, chính phủ chỉ nên được tổ chức không quá 15 bộ. Do đó, trên địa bàn đô thị số lượng các sở giúp việc cho Thị trưởng cũng không được vượt quá 15 sở. Các sở cần được bố trí theo các khối công tác khác nhau. Trong mỗi khối bao gồm các lĩnh vực, ngành kinh tế, kỹ thuật có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chẳng hạn: Khối cơ quan sự nghiệp - văn hóa - xã hội; khối kinh tế - kỹ thuật; khối cơ quan nội chính.
III.4.3. Tạo lập sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trên địa bàn đô thị
Các cơ quan quản lý trên địa bàn đô thị là những cơ quan giúp việc cho Thị trưởng, có nhiệm vụ giám sát, báo cáo, thực hiện các quyết định của Thị trưởng và giải quyết một số việc theo ủy quyền của Thị trưởng.
Các cơ quan đó trong quá trình thực hiện các quyết định của Thị trưởng, hay giải quyết một số việc cụ thể sẽ phải có sự phối hợp với nhau để đảm bảo hiệu lực cũng như hiệu quả của những quyết định. Và khi để xảy ra các sự cố, Thị trưởng có quyền xử lý trực tiếp các chủ thể trong các cơ quan đó như cắt chức, phạt tài chính…
Như vậy, các cơ quan này sẽ chịu sự chi phối mạnh của Thị trưởng hơn theo ngành dọc. Nó phù hợp với xu hướng mạnh nhất trong phân quyền là chuyển từ quản lý theo ngành dọc sang quản lý theo lãnh thổ
III.5. Xác định phương pháp và công cụ quản lý chủ yếu
Trong quá trình quản lý đô thị, chính quyền đô thị sử dụng đồng thời các phương pháp và công cụ quản lý chủ yếu như đã trình bày ở trên.
Tuy nhiên, quản lý xã hội hiện đại phải sử dụng các phương cách và công cụ của công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Không thể quản lý một xã hội đô thị rộng lớn giống như một cộng đồng làng xã. Chính phủ điện tử là một giải pháp tốt cho những đô thị mới này nhằm tăng cường quản lý đô thị hữu hiệu. Nó thay cho việc họp hành liên miên, xếp hàng dài bất tận, lãng phí thời gian cho việc tìm kiếm yếu nhân và truy tìm thông tin lòng vòng. Thực tế, Singapore, Tokyo, Seoul đã khá thành công trong việc sử dụng các công nghệ hiện đại vào quản lý một đô thị với nhiều triệu dân.
III.6. Đánh giá mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị mới đã đề xuất
Việc tổ chức bộ máy chính quyền một cấp ở những đô thị mới có những ưu, nhược điểm như sau:
III.6.1. Ưu điểm
Mô hình chính quyền đô thị một cấp sẽ khắc phục được những nhược điểm của mô hình chính quyền ba cấp hoàn chỉnh ở các đô thị nước ta hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, bộ máy quản lý đô thị sẽ trở nên gọn nhẹ, giải quyết các vấn đề tập trung, đồng bộ hơn trên toàn bộ thành phố. Chính quyền một cấp sẽ góp phần làm cho bộ máy hoạt động liên thông. Tất cả các chinh sách, các giải pháp sẽ được thực hiện một cách nhất quán, chứ không phải mỗi quận làm một kiểu như hiện nay.
Thứ hai, chúng ta sẽ tiết kiệm được một khoản đáng kể chi phí duy trì bộ máy HĐND. Mặt khác, do sử dụng phương cách và công cụ của công nghệ, kỹ thuật hiện đại (Chính phủ điện tử) vào quản lý đô thị sẽ giúp chuyển từ quản lý theo kiểu thủ công, bằng tay trở thành quản lý bằng mạng vi tính. Các phần mềm quản lý có khả năng lưu trữ thông tin rất lớn, xử lý thông tin rất nhanh nên có thể giải quyết công việc quản lý thay cho hàng loạt nhân viên. Vì vậy tiết kiệm được một khoản chi phí trả lương cho những cán bộ công chức này.
Thứ ba là trách nhiệm cũng rõ ràng hơn. Trách nhiệm của cơ quan hành chính sẽ rất rõ, không còn chuyện “đổ lỗi” quyết định đó do HĐND quyết được nữa. Và khỏi phải bàn nhiều, với một nền hành chính thủ trưởng, chắc chắn công việc sẽ được giải quyết nhanh gọn hơn rất nhiều do không phải trình lên trình xuống.
Bên cạnh những ưu điểm, mô hình chính quyền đô thị một cấp cũng bộc lộ không ít nhược điểm, đòi hỏi phải được phân tích để có biện pháp khắc phục.
III.6.2. Nhược điểm
Mọi vấn đề của cơ sở đều do cấp thành phố quyết định. Các cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên chỉ được quyền thỉnh cáo và chờ quyết định của thành phố và làm theo quyết định đó. Điều này dẫn đến sự can thiệp sâu của các cơ quan cấp thành phố vào hoạt động tại cơ sở làm cản trở việc phát huy tính sáng tạo của cấp dưới, và người dân ít được tham gia giải quyết công việc ở địa phương.
III.7. Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị mới đã đề xuất
Để phát huy tối đa những mặt tích cực, đồng thời hạn chế thấp nhất những tiêu cực của bộ máy chính quyền ở đô thị mới đã đề xuất, cần quán triệt những điều kiện sau:
Bộ máy chính quyền phải được tuyển chọn trên các tiêu chí chủ đạo là tài năng, tính trung trực, và lòng tâm huyết. Cơ chế trả lương sẽ do thành phố tự cân đối, quyết định để đảm bảo một chính quyền ưu tú, tận tâm, và tuyệt đối trong sạch.
Đảm bảo cuộc bầu cử Thị trưởng thành phố phải được diễn ra công khai, minh bạch theo đúng luật pháp.
Ứng dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại vào quản lý đô thị. Thành lập ban điều hành hệ thống thông tin, dữ liệu trong quá trình quản lý.
Thực hiện đối thoại trực tuyến giữa Thị trưởng thành phố với người dân. Thông qua đó, Thị trưởng có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của người dân và có những cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý hợp lý, hiệu quả.
Hệ thống hóa và thiết chế hóa sự tham gia của mọi thành phần vào các quyết sách liên quan đến ngân sách của thành phố mà theo đó, mỗi năm các công dân của thành phố được mời gọi tham gia một số cuộc hội nghị để cùng thảo luận và chọn ra năm vấn đề bức thiết nhất của thành phố để đầu tư, trên danh sách các vấn đề mà thành phố đưa ra.
Một trong những điều kiện quan trọng khác là: Chính phủ trung ương phải phân quyền mạnh mẽ cho các chính quyền đô thị. Khi đó Chính phủ trung ương chỉ nên đóng vai trò là “người điều phối” tạo ra các khuôn khổ pháp lý và quản lý cơ bản mà thôi. Khi các thành phố, quận thực hiện tự quản càng mạnh thì chính quyền trung ương lại càng có khả năng kiểm soát tốt, bởi vì thay cho việc chính phủ phải có “nghìn tay, nghìn mắt” để với tới tất cả lĩnh vực hoạt động ở mọi cấp độ sang quản lý một số ít thị trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng như thế cho thấy một khi phân quyền càng sâu rộng thì tập trung càng có hiệu quả. Nếu không có chế độ phân quyền thì không sao quản lý hiệu quả Tokyo với 27 triệu dân và Seoul với 17 triệu dân.
III.8. Đánh giá tính khả thi của mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở Việt nam
Tổ chức bộ máy chính quyền một cấp ở các đô thị mới trong tương lai ở Việt nam là một tất yếu khách quan, phù hợp với điều kiện đất nước tại cùng thời điểm và xu hướng phát triển chung của thế giới.
Với bộ máy chính quyền ưu việt đó sẽ đảm bảo cho các đô thị mới phát triển theo đúng định hướng đã được quy hoạch: Trở thành các đô thị đẳng cấp quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao với các đô thị phát triển trong khu vực và trên thế giới.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trên cơ sở nội dung đề án là: “Đánh giá thực trạng quản lý đô thị ở nước ta thời gian qua; Thiết lập mô hình quản lý đô thị mới trong thời gian tới”. Trong phạm vi đề án, em đã giải quyết được một số yêu cầu chính liên quan đến quá trình quản lý đô thị mới như:
Cơ sở lý luận về quản lý đô thị
Thực trạng quản lý đô thị ở nước ta
Thiết lập mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở nước ta
Xác định vị trí địa lý của đô thị mới
Xác định mô hình quản lý đô thị mới
Xác lập mô hình chính quyền đô thị mới
Xác định mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý trên địa bàn đô thị
Xác định phương pháp và công cụ quản lý chủ yếu
Đánh giá mô hình tổ chức chính quyền ở đô thị mới đã đề xuất
Đánh giá tính khả thi của mô hình quản lý đô thị mới trong tương lai ở Việt nam
Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn nên còn những điều chưa giải quyết được trong đề án này như:
Những lĩnh vực mà Thị trưởng thành phố có quyền tự quyết
Những lĩnh vực mà các cơ quan sở tại trực tiếp giải quyết theo sự ủy quyền của Thị trưởng
Cơ cấu tổ chức Hội đồng thành phố.
Và các vấn đề này sẽ được giải quyết ở các nghiên cứu tiếp theo. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của Cô giáo để xây dựng đề tài hoàn thiện hơn và góp phần vào quá trình xây dựng mô hình quản lý đô thị hiện đại trong tương lai ở nước ta.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS. TS. NGUYỄN ĐÌNH HƯƠNG - THS. NGUYỄN HỮU ĐOÀN, Giáo trình Quản lý đô thị, NXB Thống Kê Hà Nội - 2003, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
BỘ XÂY DỰNG, Phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, NXB Xây dựng Hà nội - 2002.
Th.S. NGUYỄN HỮU ĐOÀN, Bài giảng: Quản lý đô thị.
Giáo trình Quản trị học, NXB giao thông vận tải, Trường Đại Học Kinh Tế
Dân.
DANH MỤC VIẾT TẮT
TW : Trung ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
TNMT : Tài nguyên môi trường
KHĐT : Kế hoạch đầu tư
TP : Thành phố
QLNN : Quản lý nhà nước
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36049.doc