Đề án Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Singapore

Một trong các cam kết quan trọng khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là Nhà nước sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp càng được nâng cao. Điều này đã được thể hiện qua việc đa số các trường hợp tranh chấp, dàn xếp trong thương mại quốc tế là do các hiệp hội đứng ra thực hiện cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ. Các hiệp hội có thể hỗ trợ doanh nghiệp tích cực hơn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, củng cố và mở rộng thị trường nội địa, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên; xác định được phương hướng liên kết, liên doanh và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc chống bán phá giá; phản ánh trung thực ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh lên các cơ quan liên quan; hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành hàng trong cộng đồng quốc tế; tăng cường hơn sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các hiệp hội trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam đối với WTO nói chung và cam kết hợp tác với Singapore nói riêng. Bên cạnh các giải pháp trên, để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Singapore doanh nghiệp hai nước cần tìm hiểu rõ về nhu cầu của nhau, nắm bắt được các mặt hàng mình có thế mạnh, nắm rõ tập quán buôn bán của mỗi nước để có chiến lược sản xuất và xuất khẩu phù hợp. Doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu nông sản, thủ công mỹ nghệ .Doanh nghiệp Singapore có thế mạnh về IT, về điện tử .do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu khả năng kết hợp các mặt hàng này. Các doanh nghiệp hai nước cũng cần đẩy mạnh trao đổi thông tin qua các kênh như Đại sứ quán, VCCI Tham gia tích cực vào các kỳ hội chợ, triển lãm nhằm quảng bá sản phẩm để nâng cao vị thế của quốc gia mình cũng như tìm kiếm cơ hội đầu tư. Chính phủ hai nước cần đẩy mạnh các chuyến thăm chính thức nhằm tăng cường ký kết các dự án đầu tư mới. Đẩy mạnh hoạt động của các khu công nghiệp, đặc biệt khu công nghiệp Việt Nam- Singapore ( VSIP) nhằm triển khai tốt các dự án đầu tư đã có và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phòng (trên 155 triệu USD, tăng 85,2%); nguyên liệu sản xuất thuốc lá (trên 134 triệu USD, tăng 40,7%); máy xử lý dữ liệu (123,5 triệu USD, tăng 1,9%); và các thiết bị cơ khí công trình (99,5 triệu USD, tăng 42,1%).... Điều đáng lưu ý là trong tổng kim ngạch 4,3 tỷ USD Việt Nam nhập khẩu của Singapore, chỉ có 2,6 tỷ USD là hàng sản xuất tại Singapore, còn lại khoảng 1,7 tỷ USD là hàng Singapore nhập của các nước khác rồi tái xuất sang Việt Nam. Năm 2006 đánh dấu việc Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 14 của Singapore, với kim ngạch xuất khẩu từ nước này sang Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2005. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore đạt 8,1 tỷ USD tăng 43,1% so với năm 2006. Thị trường Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 13 của Singapore. Kim ngạch nhập khẩu từ Singapore gấp gần 4 lần so với kim ngạch mà Việt Nam xuất khẩu sang quốc đảo này. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Singapore trong năm nay vẫn chủ yếu là xăng dầu, thiết bị tin học…Thị trường Singapore (51,5 triệu USD, chiếm 36,8% kim ngạch nhập khẩu) là thị trường nhập khẩu thiết bị tin học dẫn đầu. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Singapore là bảng mạch (17,6 triệu USD); linh kiện vi tính (11,8 triệu USD) và máy in (5,7 triệu USD). Thị trường Nhật Bản (31,5 triệu USD chiếm 22,6% kim ngạch nhập khẩu) đứng thứ 2. Nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là linh kiện vi tính (17,8 triệu USD) và bảng mạch (12,6 triệu USD). Tháng 8/2008, Singapore tiếp tục là thị trường cung cấp xăng dầu lớn nhất nước ta đạt 450,5 nghìn tấn với trị giá 412,54 triệu USD. Đồng thời Singapore cũng dẫn đầu về thị trường nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng với kim ngạch đạt 51,6 triệu USD, chiếm 32,7% kim ngạch nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng sang tất cả các thị trường, trong khi đó xuất khẩu sang thị trường này là 10,6 triệu USD chiếm 6,7%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu sang thị trường này là linh kiện vi tính (15 triệu USD) và bảng mạch các loại (11,6 triệu USD). * Nhận xét: Như vậy, nếu xét về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore có thể thấy các mặt hàng dầu mỏ chiếm tỷ trong rất lớn, có tính  quyết định đến sự tăng, giảm xuất nhập khẩu giữa hai nước. Việt Nam xuất khẩu dầu thô sang Singapore có kim ngạch lớn nhưng cũng nhập lại nhiều các sản phẩm hóa dầu của các nhà máy lọc dầu Singapore để phục vụ nhu cầu trong nước. Năm 2005, giá dầu và các sản phẩm hóa dầu trên thị trường thế giới tăng cao, nhất là vào các tháng cuối năm là yếu tố quan trọng làm tăng tổng kim ngạch XNK hai chiều giữa hai nước lên 34,3%. Ngoài dầu thô, gạo, và một vài mặt hàng khác đến nay ta vẫn chưa có được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có trị giá kinh tế cao, đủ mạnh để cạnh tranh xâm nhập thị trường một cách bền vững, lâu dài, nhất là đối với Singapore một thị trường mang đậm đặc thù chuyển tải, tái xuất. Về nhập khẩu, ngoài sản phẩm hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn, Việt Nam nhập khẩu của Singapore chủ yếu là các mặt hàng: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu cho sản xuất cho hàng xuất khẩu. Nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay, cơ cấu xuất nhập khẩu này là có thể chấp nhận được.  Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, ta có thể thấy được một số thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển quan hệ giữa hai quốc gia như: + Hai mặt hàng của Việt Nam có triển vọng trên thị trường Singapore là hàng thủ công và đồ gỗ. Bên cạnh đó, các mặt hàng nông sản, hải sản, hàng hoá sử dụng trong gia đình, do có truyền thống sản xuất đạt chất lượng yêu cầu nên trong tương lai, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục xuất sang thị trường Singapore. +Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của Singapore về vị trí địa lý và thế mạnh về kinh tế nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao thương của mình với thế giới bên ngoài. Hơn nữa Singapore lại có quan hệ giao thương tốt đẹp với thị trường thế giới. Các nhà sản xuất Việt Nam nên tận dụng mạng lưới này của Singapore để mở rộng quan hệ thương mại với các thị trường khác, đặc biệt là các mặt hàng hải sản, may mặc và cao su. +Singapore là thị trường xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do, 96% hàng hóa xuất nhập khẩu không có thuế (thuế suất = 0); Chính phủ không sử dụng những rào cản như biện pháp hạn chế thương mại; cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu (như thanh toán, trọng tài thương mại, cảng khẩu …). Điều này là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. + Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Đây là điểm thuận lợi và cũng là điểm khó khăn đối với các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam và Singapore. + Đặc biệt, có thể thấy rằng chính sách thương mại của 2 quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại trong thời gian vừa qua. Ví dụ:- Năm 2006, Hải quan Singapore đã đưa ra 2 sáng kiến quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại - Đó là Kế hoạch thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) kho ngoại quan 0 % và Hệ thống TradeXchangeTM. - Nếu một công ty Việt Nam cam kết sử dụng Singapore là nơi trung chuyển để xuất khẩu một lượng lớn hàng hoá, thì cơ quan chức năng của Singapore sẽ xem xét hạ mức thuế DN cho các công ty đó. Ngoài ra, khi các DN Việt Nam có mặt tại thị trường Singapore, họ có thể được tiếp cận các quỹ vốn đầu tư và liên doanh để thành lập các liên doanh tại Singapore. Mặc dù vậy, trong quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, hai bên cũng gặp không ít những khó khăn: + Dù chúng ta xuất khẩu sang thị trường Singapore là lớn nhưng nước bạn cũng xuất khẩu trở lại thị trường nước ta với giá trị không nhỏ hơn gây nên sự mất cân bằng cán cân thanh toán. Việt Nam liên tục là nước nhập siêu từ thị trường Singapore( năm 2004 nhập siêu khoảng 2,08 tỷ USD thì đến năm 2005 nhập siêu lên đến 4,5898 triệu USD, trong khi xuất khẩu chỉ đạt 1,8 tỷ USD; quý I/2007 nhập siêu lên tới con số 826,23 triệu USD + Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Điều này làm cho các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam cũng như ở Singapore thụ động trong việc cải tiến công nghệ sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng XNK cũng như mở rộng quy mô sản xuất hàng xuất khẩu. + Hầu hết các doanh nghiệp Singapore đều than phiền rằng, hàng hoá của họ bị hải quan Việt Nam giữ lại quá lâu. Và họ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác/đại lý thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó việc cấp phép XNK hàng hóa còn khá chậm. + Singapore còn có nhiều hạn chế đối với việc nhập khẩu Singapore không áp đặt bất kỳ một hạn chế hạn ngạch nào đối với hàng hoá nhập khẩu và hầu hết hàng hoá đều có thể được nhập khẩu theo giấy phép chung không hạn chế ngoại trừ đối với những hàng hoá nhập khẩu từ Irắc. Nhưng có một số những mặt hàng sau bị cấm nhập khẩu như kẹo cao su, bật lửa (có dạng hình súng ngắn và súng lục ổ quay), pháo và các loài động vật quý hiếm và các sản phẩm phụ. Những mặt hàng cần phải có giấy phép cụ thể bao gồm động vật; vũ khí và chất nổ; Chlorofluocarbon (CFCs); hoa quả tươi và ướp lạnh; mũ bảo hiểm; thịt và các sản phẩm từ thịt; phân hữu cơ; các xuất bản phẩm; băng video và cassetle đã thu thanh; gạo (ngoại trừ cám gạo); thiết bị viễn thông và phát xạ chẳng hạn như điện thoại vô tuyến, máy phát, máy thu và phát vô tuyến xách tay; dược phẩm và chất độc. Thuế hàng hoá và dịch vụ 3% đánh vào tất cả hàng hoá và dịch vụ ở Singapore và hàng hoá nhập khẩu vào trong nước. Giá trị đánh thuế đối với hàng nhập khẩu dựa trên giá CIF. Yêu cầu ghi nhãn ở Singapore áp dụng đối với thực phẩm, ma tuý và rượu, sơn và chất dung môi. Các nhà sản xuất phải ghi rõ khối lượng, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất. 2.2. Thực trạng quan hệ hợp tác đầu tư Quan hệ đầu tư Việt Nam- Singapore được tiến hành từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Ngay sau khi chính phủ Singapore tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam vào cuối 1989, tháng 10/1990 công ty Kiều My Trading Pte.Ltd của Singapore đã trở thành doanh nghiệp ASEAN đầu tiên có giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Nếu năm 1995, Singapore mới chỉ có 116 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD thì đến năm 2000, số dự án của Singapore đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên 255 dự án với tổng vốn đầu tư 6,839 tỷ USD. Singapore trở thành nước đứng thứ 1 trong khối ASEAN đầu tư vào Việt Nam và đứng thứ 4 trong top 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2003, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với với 289 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 7,8 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện gần 3 tỷ USD. Năm 2005, Singapore đã có 396 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng kí 7,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 3,45 tỷ USD và trở thành nước đứng thứ 2 trong hơn 80 nước đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2006, Singapore là nước đứng đầu trong số 65 nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam với 402 dự án, tổng vốn đăng ký gần 7,7 tỷ USD. Các dự án đều tập trung vào các ngành như: kinh doanh bất động sản, khách sạn, văn phòng, căn hộ; thăm dò và khai thác dầu khí; sản xuất công nghiệp; chế biến nông, lâm, hải sản... Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết năm 2007 Singapore đã có 474 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 9,07 tỷ USD. Singapore đứng thứ 2 trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Tính đến tháng 7/2008, Singapore có 48 dự án được cấp phép đầu tư mới tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký trên 4 tỷ USD, trong đó có quy mô đầu tư lớn nhất là Dự án liên doanh viễn thông tại TP.HCM (vốn đăng ký 1,2 tỷ USD). Như vậy, tính đến nay, Singapore có hơn 580 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký gần 15 tỷ USD, đứng thứ 4 trong tổng số hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư tại Việt Nam. Tính đến tháng 10/2008, Singapore đứng thứ 5 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn vào Việt Nam với mức đầu tư khoảng 15 tỷ USD. Về lĩnh vực đầu tư Các dự án đầu tư của Singapore tập trung chủ yếu vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản, được các chuyên gia kế hoạch và đầu tư đánh giá là đạt hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào việc giải quyết việc làm, phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Năm 2006, Singapore đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ với 207 dự án và có tới hơn 5,5 tỷ USD chiếm khoảng 60,7% tổng số vốn đăng ký; lĩnh vực xây dựng và công nghiệp với 230 dự án và số vốn đăng ký khoảng 3,3 tỷ USD, chiếm khoảng 36,4% tổng vốn đăng ký. Các dự án và doanh nghiệp đầu tư tiêu biểu của Singapore tại Việt Nam Sức sống và mức độ gắn kết của các doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam có thể được minh hoạ thông qua hình ảnh của các dự án hoạt động hiệu quả tại Việt Nam. Một trong số đó là Công ty Liên doanh Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore. Đây là liên doanh giữa Công ty Thương mại và Đầu tư với Công ty Vietnam Singapore Industrial Park Pte., Ltd (VSIP) với tổng vốn đầu tư tính đến hết năm 2007 là trên 139,1 triệu USD, phía Việt Nam chiếm 49%, Singapore chiếm 51%. VSIP đã triển khai xong việc góp vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn với tổng diện tích khoảng 600 ha đất, đã lấp đầy khoảng 88%. ( Nguồn Trong những ngày cuối năm 2007, VSIP đã triển khai kế hoạch mở rộng đầu tư tại một số tỉnh phía Bắc bằng lễ động thổ Dự án Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ Việt Nam – Singapore tại tỉnh Bắc Ninh. Với diện tích 700 ha, dự án thứ 3 này của VSIP sẽ dành 500 ha cho việc phát triển một khu công nghiệp sạch, có tiêu chuẩn môi trường và công nghệ sản xuất tiên tiến. 200ha còn lại bao gồm các dự án thương mại, khách sạn, siêu thị, nhà ở, căn hộ chất lượng cao. Hiện VSIP Bắc Ninh đã thu hút được 15 dự án đầu tư với tổng số vốn ước tính 200 triệu USD, cam kết thuê trên 120 ha. Ngày 11/12/2007, dưới sự chứng kiến của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và Bộ trưởng cấp cao Chính phủ Singapore Goh Chok Tong, Công ty Cổ phần Phát triển đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore đã long trọng tổ chức lễ động thổ Dự án Khu đô thị, Công nghiệp và dịch vụ Việt Nam - Singapore (VSIP) tại tỉnh Bắc Ninh, trao giấy chứng nhận đầu tư cho 7 nhà đầu tư đầu tiên trong dự án. Sau 2 dự án thành công tại Bình Dương, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá, Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh là một minh chứng cho tình hữu nghị, sự hợp tác kinh tế bền chặt giữa Việt Nam và Singapore. Một gương mặt khác trong ngành công nghiệp của Việt Nam là Công ty TNHH NATSTEELVINA. Đây là liên doanh giữa Tổng công ty Thép Việt Nam với hai công ty Natsteel Ltd. Singapore và Southern Steel Berhad – Malaysia, trong 30 năm tại thành phố Thái Nguyên, để sản xuất và kinh doanh sản phẩm thép. Tổng vốn đầu tư: 21,7 triệu USD. Hiện liên doanh đã góp vốn thực hiện là 12,1 triệu USD, có doanh thu từ 1995 với mức doanh thu bình quân mỗi năm khoảng 20-25 triệu USD và hoạt động có lãi liên tục từ năm 1997 đến nay. Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan cũng là một điểm sáng trong hợp tác Việt Nam-Singapore. Đây là công ty 100% vốn của Công ty Burghley Enterprise Pte.Ltd.-Singapore (được chuyển nhượng từ Công ty Vedan trong tháng 9 năm 2002), để sản xuất bột ngọt với công suất thiết kế 5.500 tấn/tháng tại Đồng Nai. Năm 2008, hai dự án tiêu biểu của Singapore đầu tư tại Đà Nẵng là Chi nhánh Công ty TNHH Nước ngọt Coca Cola Non Nước với tổng vốn đầu tư 25 triệu USD, dự án liên doanh Tanda Motor giữa Công ty Cơ khí ô-tô và Thiết bị điện Đà Nẵng (DAMACO) với 2 doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Tan Chong tại Singapore và Malaysia (cấp phép ngày 19-7-2005). Tổng số vốn giai đoạn 1 của dự án là 4 triệu USD. Công ty bất động sản Mapletree thuộc tập đoàn Temasek Holding của Singapore vừa ký một hiệp định đầu tư phát triển dự án khu thương mại 400 triệu USD tại Khu liên hợp- Công nghiệp- Dịch vụ- Đô thị Bình Dương hôm 14/10/2008. Dự án khu thương mại có quy mô 75 ha thuộc tỉnh Bình Dương, Việt Nam với số vốn đầu tư 400 triệu USD. Đây là khu phức hợp công nghệ sản xuất, kinh doanh đầu tiên của Mapletree tại Việt Nam, nhằm phục vụ cho các công ty trong lĩnh vực phát triển phần mềm công nghệ cao, gia công phần mềm, nghiên cứu và phát triển sản phẩm và sản xuất hàng hoá có giá trị gia tăng. Dự án sẽ được đầu tư xây dựng thành nhiều giai đoạn, giai đoạn 1 bắt đầu từ năm 2009. Với dự án này, Mapletree đã nâng tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lên con số 700 triệu USD. Đây là dự án khu công nghiệp vận tải thứ 2 mà Mapletree đầu tư vào Việt Nam, khu thứ nhất nằm ở khu công nghiệp Việt Nam – Singapore I (VSIP I), mở cửa tháng 1/2007. Khu vận tải thứ 2 này được xây dựng tại VSIP II, trị giá 110 triệu USD, đáp ứng khoảng 420.000m2 mặt bằng kho chứa cho thuê. Bên cạnh đó, Mapletree đã khánh thành kho vận 68 ha nằm trong Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore II, có vốn đầu tư 110 triệu USD. Mới đây, TP.HCM đã chào mời khoảng 27 dự án đầu tư bất động sản lớn dưới nhiều loại hình và quy mô khác nhau, như Dự án Khu Tây Bắc TP.HCM; Dự án Trường học quốc tế Fosco và Dự án Khu công nghệ cao Sài Gòn; Dự án Bãi đậu xe ngầm, khu vui chơi giải trí và khu động vật hoang dã Safari... Đặc biệt, Dự án Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm, với diện tích trên 6,2 triệu m2 và nhiều hạng mục đầu tư, như khu dân cư, khu thương mại, sân vận động, giải trí..., được xem là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư Singapore. Dự án chính như dự án xây văn phòng, căn hộ tại Hồ Chí Minh của tập đoàn TA Associates International, trị giá 1,2 tỷ USD, cấp phép mới đây nhất 11/6/2008; Dự án xây dựng khu đô thị mới ở Đồng Nai 750 triệu USD do Công ty Water Front đầu tư. Một loạt các dự án xây khách sạn, văn phòng, căn hộ có trị giá trên 200 triệu USD như Công ty Lap An Development Pte, Singapore xây khách sạn ở Thừa Thiên Huế 298 triệu USD, Công ty C.R.D.Pte.Ltd, Singapore xây khách sạn ở Hà Nội,… Dự án Saigon Sports Ctity do Keppel Land và Tập đoàn Chiap Hua (Hồng Kông) liên doanh triển khai. Dự án có tổng diện tích 74 ha tại phường An Phú (quận 2, TP.HCM). Saigon Sports City được phát triển thành khu đô thị có quy hoạch tổng thể chuẩn và đồng bộ. Trong đó, bao gồm các tòa nhà chung cư cao tầng, nhà vườn thấp tầng, khu trung tâm thương mại bán lẻ, khu tiện ích công cộng và 15 ha thiết kế dành riêng cho các tiện ích thể dục - thể thao công cộng. Dự án có tổng vốn đầu tư 130 triệu USD. Dự án Saigon Centre cũng do Keppel Land đang triển khai là dự án khu phức hợp có diện tích 2 ha mặt tiền Đại lộ Lê Lợi (Quận 1, TP.HCM). Giai đoạn 1 đã hoàn thành năm 2006 với một tòa nhà 25 tầng, bao gồm 3 tầng dưới dành cho khu thương mại bán lẻ, 11 tầng văn phòng cao cấp, 89 căn hộ kèm theo dịch vụ và 3 tầng hầm dùng làm nơi đậu xe. Giai đoạn tiếp theo, Keppel Land và các bên đối tác Việt Nam là Sowatco và Resco sẽ cùng phát triển Saigon Centre thành dự án mang tính biểu trưng tại Việt Nam. (Nguồn www.Asset.vn l DT) Các dự án tập trung tại các thành phố lớn Theo báo cáo từ Bộ kế hoạch đầu tư (năm 2007), các dự án đầu tư của Singapore vào Việt Nam tập trung chủ yếu tại: Hà Nội (chiếm 33,8% tổng vốn đăng ký, với 69 dự án, tổng vốn đầu tư là 3,07 tỷ USD,), Tp Hồ Chí Minh (chiếm 22,2% tổng vốn đăng ký, với 198 dự án và 2,09 tỷ USD vốn đầu tư), Bình Dương (chiếm 9,7% tổng vốn đăng ký, với 198 dự án và 2,09 tỷ USD vốn đầu tư). Sở dĩ có sự phân bố các dự án đầu tư như thế là vì đây là những nơi có cơ sở hạ tầng rất phát triển. (Nguồn Về hình thức đầu tư Singapore tham gia vào tất cả các hình thức đầu tư như xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp hợp doanh. Trong các hình thức đầu tư trên, hình thức liên doanh chiếm vị trí chủ yếu, số dự án của hình thức này gồm 122 dự án, chiếm tới 74.8% , tiếp theo là xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, gồm 30 dự án, chiếm tỷ lệ 18.4 %, và số dự án hợp doanh là 11, chiếm 6.7% còn lại. * Nhận xét Qua lĩnh vực đầu tư có thể nhận xét, đặc điểm nổi bật nhất của đầu tư Singapore vào Việt Nam là ở chỗ, Singapore là nước chấp nhận đầu tư vào một số lĩnh vực chưa đem lại lợi nhuận ngay, với tỉ lệ vốn và dự án lớn hơn cả so với các nước thành viên ASEAN khác có đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như phần nhiều những nước ASEAN khác, Singapore cũng dành một phần lớn đầu tư các lĩnh vực thu hồi vốn và lợi nhuận nhanh như các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến nông lâm, hải sản, khách sạn và du lịch nhằm khai thác nguồn tài nguyên có sẵn, nguồn lao động giá rẻ của Việt Nam và sử dụng hiệu quả công nghệ- kỹ thuật của Singapore. Mặt tích cực của việc tiếp nhận vốn đầu tư Singapore đối với nền kinh tế- xã hội nước ta: - Thông qua các dự án liên doanh và hợp doanh của Singapore với Việt Nam về những ngành công nghiệp, dầu khí và nhất là đầu tư vào khách sạn, du lịch và dịch vụ, thuỷ hải sản, Việt Nam đã có thêm nhiều dự án đầu tư, mở rộng được sản xuất, tăng doanh thu xuất khẩu và nhất là giải quyết được một phần việc làm cho người lao động: Năm 2006, khu công nghiệp Việt Nam- Singapore (VSIP) đã thu hút 220 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đăng ký hơn 1,25 tỷ USD. Năm 2007, tình hình thu hút đầu tư tại VSIP tiếp tục đạt kết quả khả quan. Cụ thể,  2 khu đã thu hút mới hơn 457 triệu USD, vượt 128,2% so với kế hoạch đề ra. Trong đó có 61 dự án được cấp phép đầu tư mới với số vốn hơn 243,6 triệu USD và 34 dự án đăng ký tăng vốn bổ sung thêm hơn 212,6 triệu USD. Tính chung đến nay đã có 292 dự án đầu tư vào 2 khu công nghiệp VSIP gồm 276 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 1,98 tỷ USD và 16 dự án trong nước có vốn đầu tư 345 tỷ đồng. Mặc dù đầu tư của Singapore vào Việt Nam chỉ có tác dụng tới tăng trưởng kinh tế, chưa có tác dụng nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta trong khoảng thời gian này, việc sử dụng công nghệ thích hợp nhằm tạo việc làm và thu nhập cho người lao động cũng là góp phần vào việc thực hiện mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. - Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam chủ yếu vào công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, dầu khí đã góp phần nâng cao khả năng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. - Singapore là nước có trình độ công nghệ cao, do vậy tiếp nhận đầu tư của Singapore, Việt Nam đồng thời kiến thức và kỹ thuật của họ. Việt Nam có thể tiếp cận những phương thức quản lý trong một số lĩnh vực mà Singapore có thế mạnh được đầu tư vào Việt Nam. - Singapore là một quốc gia có quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới như Nhật, Mỹ , Malaysia, Hồng Kông và các nước Châu Âu, tham gia vào các tổ chức tài chính, tín dụng, thương mại quốc tế như APEC, WTO, ICAO, IMF… Do vậy, việc tiếp nhận đầu tư của Singapore cũng là bước tập dượt, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập với môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế bằng việc tiếp cận với tổ chức và bạn hàng quốc tế ngoài khu vực. Về mặt hạn chế của đối tác đầu tư Singapore và Việt Nam: + Về phía Việt Nam: những hạn chế có thể được tóm tắt như hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh và luôn thay đổi; cơ sở hạ tầng- bao gồm hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện nước… còn yếu kém; thủ tục hành chính còn rườm rà và nạn tham nhũng còn khá nặng nề; năng lực quản lý điều hành của cán bộ Việt Nam trong các công ty liên doanh với Singapore còn yếu kém; đầu tư của Việt Nam sang Singapore chưa được chú trọng mới chỉ dừng lại ở một số dự án nhỏ lẻ; Tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI tại Việt Nam thời gian qua khá chậm, số vốn giải ngân của Singapore hiện mới chỉ đạt trên 4 tỷ USD. + Về phía Singapore: các nhà đầu tư Singapore còn chưa mạnh dạn đầu tư hết khả năng vào Việt Nam; khả năng tài chính của Singapore cũng có hạn nên khi khủng hoảng tài chính của khu vực xảy ra, hoạt động đầu tư của Singapore tiến triển chậm so với những năm trước; mặc dù là nước có số dự án sử dụng công nghệ cao so với các nước ASEAN khác đầu tư vào Việt Nam, nhưng phần lớn các dự án của Singapore sử dụng công nghệ thấp, nhiều lao động và tài nguyên…; Vốn đầu tư của Singapore tham gia vào những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và theo định hướng xuất khẩu vẫn còn hạn chế, vì hầu hết họ đều tập trung đầu tư vào bất động sản, các khu chế xuất và những ngành công nghiệp nặng. 2.3. Đánh giá chung về sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore Singapore và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ từ 1973, tính đến năm cuối cùng của thế kỷ XX mối quan hệ này đã được 27 năm, nhưng phải mất 2/3 số thời gian ấy quan hệ Việt Nam- Singapore là thăm dò, ngờ vực và đối đầu. Chỉ từ đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, nhất là từ tháng 7/1995 sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, hai nước mới có mối quan hệ hợp tác, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hai nước về mọi lĩnh vực chính trị, ngoại giao và đặc biệt là kinh tế được phát triển lên 1 bước mới. Là hai nước thành viên ASEAN, Việt Nam và Singapore đã phối hợp chặt chẽ trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội, nhằm thúc đẩy hiện thực hoá mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN tới năm 2015 theo Hiến chương đã được thông qua, cũng như phối hợp tại các diễn đàn ASEM, APEC, Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế khác. Singapore trong những năm qua liên tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và về lâu dài Singapore vẫn là một trong những thị trường quan trọng của ta. Kim ngạch thương mại song phương giữa 2 nước đã tăng từ 3,08 tỉ USD trong năm 2000 đến 10,3 tỉ USD trong năm 2007. Với vị trí địa lý thuận lợi, hệ thống pháp luật đủ và nghiêm, chính sách phát triển kinh tế ổn định, Singapore đã thu hút hầu hết các tập đoàn công ty lớn trên thế giới mở các văn phòng đại diện, chi nhánh các công ty tại Singapore và thông qua các công ty này để buôn bán trực tiếp với Việt Nam và các nước trong khu vực. Chính phủ Singapore cũng rất khuyến khích các công ty Singapore buôn bán với Việt Nam và coi Việt Nam là thị trường quan trọng trong khu vực. Đầu tư của Singapore đã góp phần tạo ra bước đột phá trong phát triển ngành công nghiệp thực phẩm và ngành du lịch dịch vụ ở Việt Nam. Tính đến cuối năm 2007, Singapore có hơn 500 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số vố đăng ký gần 9,7 tỷ USD. Các nhà đầu tư Singapore có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm dò khai thác dầu khí, sản xuất công nghiệp, tới chế biến nông-lâm-thủy sản; nhưng tập trung nhiều vào các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Các dự án đầu tư của Singapore đã giúp Việt Nam giải quyết một phần lớn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cũng như nguyên liệu cho sản xuất, hàng tiêu dùng, đặc biệt gần đây là phát triển giáo dục. Tuy nhiên, đầu tư của Singapore vào Việt Nam thiếu tính ổn định và các nhà đầu tư của Singapore chưa thực sự yên tâm đầu tư, làm ăn ở Việt Nam. * Những thuận lợi đối với sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore Quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore đang được phát triển trong môi trường quốc tế thuận lợi. Chính phủ hai nước đã quan tâm củng cố và phát triển quan hệ nhiều mặt, đặc biệt là quan hệ thương mại và quan hệ đầu tư. Hiệp định khung về gắn kết hai nền kinh tế Việt Nam – Singapore( 2005) là một ví dụ. Hai nước Việt Nam và Singapore đã có quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển y tế, giáo dục….từ nhiều năm nay. Cả hai nước đã có sự thông hiểu nhất định về nhau, đây là điều kiện thuận lợi để tiếp tục tăng cường hợp tác và mở rộng mối quan hệ kinh tế đã có giữa hai nước. Việt Nam và Singapore đều có môi trường kinh tế- chính trị- xã hội ổn định. Môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật đã và đang được chính phủ hai nước tích cực sửa đổi, bổ sung tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư phát triển.. Hơn nữa, Việt Nam và Singapore có rất nhiều lợi thế để hợp tác vì cùng là thành viên của ASEAN, phong tục tập quán có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là có những tiềm năng, lợi thế có thể bổ sung tốt cho nhau và cùng mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác để phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới( WTO), những cải cách và điều chỉnh để tương thích, phù hợp với cam kết WTO đã khiến cho thị trường Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội cho hàng hóa và doanh nghiệp nước ngoài nói chung, doanh nghiệp Singapore nói riêng đến với Việt Nam. Theo đánh giá của WB, Singapore hiện là nước có môi trường kinh doanh tốt nhất với chính sách thương mại thông thoáng và chính sách đầu tư mở rộng. Điều này đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam tăng cường hoạt động thương mại- đầu tư ở quốc gia này Về phía Việt Nam do có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ nên thuận lợi phát triển nhiều ngành sản xuất và xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, đồng thời cũng là nguồn lao động xuất khẩu lý tưởng cho Singapore. Những thành công trong công cuộc cải cách và đổi mới nền kinh tế của hai nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại- đầu tư giữa hai quốc gia. Bên cạnh những nhân tố thuận lợi như đã nêu trên đang và sẽ tiếp tục mang lại những triển vọng tốt đẹp trong quan hệ kinh tế thương mại- đầu tư giữa Việt Nam và Singapore, cũng còn có nhiều khó khăn thách thức cho việc phát triển mối quan hệ này giữa hai bên. * Những khó khăn trong phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore Sự phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nước còn thiếu nhiều định hướng và tầm nhìn dài hạn, chưa có chiến lược phát triển cụ thể. Trong điều kiện quốc tế mới và xu hướng của khu vực nhưng cả hai nước cho đến nay vẫn chưa có một định hướng phát triển cho quan hệ kinh tế, thậm chí là thời hạn ít nhất 10 năm. Đối với Việt Nam, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của các mặt hàng xuất khẩu cũng như của các doanh nghiệp XNK còn hạn chế. Năng lực và điều kiện sản xuất cũng còn hạn chế. Ngoài ra còn kể đến hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống luật pháp, chính sách Việt Nam chưa thực sự phù hợp làm giảm hiệu quả của các dự án đầu tư khiến các nhà đầu tư Singapore e ngại khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Môi trường đầu tư của Việt Nam còn có những bất cập, Về phía Singapore, dù là một quốc gia phát triển nhưng khả năng tài chính của Singapore cũng có hạn so với các nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam như Nhật, Mỹ, Hồng Kông…; và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực, gần đây nhất là khủng hoảng của kinh tế Mỹ đã tác động không nhỏ đến đầu tư Singapore vào các nước khác nói chung và Việt Nam nói riêng.Trong những năm cuối thập niên của thế kỷ XX, Singapore gặp phải đối thủ cạnh tranh đáng kể, đó là các công ty của các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc thường xuyên có mặt trong nhóm 5 nước có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất ở Việt Nam và một số công ty của các nước này đã tìm được chỗ đứng trong nhiều năm qua. Mặt khác, sau khi bãi bỏ cấm vận kinh tế và bình thường hoá quan hệ mọi mặt với Việt Nam, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam tăng nhanh, và cạnh tranh đầu tư với Mỹ của Singapore vào Việt Nam trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Bên cạnh những nhân tố nêu trên, còn có các nhân tố khác ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại- đầu tư giữa hai nước như: sự phát triển mạnh của các định chế toàn cầu ( WTO, WB, IMF, Liên hợp quốc…), sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia…, dịch vụ tài chính, ngân hàng hai nước còn yếu kém và chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý tình trạng phát triển kinh tế quá nóng. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM- SINGAPORE 3.1. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore Nền kinh tế Việt Nam hiện đang còn ở điểm xuất phát thấp. Xét về cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động. cơ cấu xuất nhập khẩu… thì nước ta vẫn đang ở những bước đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa. Vì vậy cơ cấu kinh tế Việt Nam trước mắt sẽ là sự kết hợp giữa các ngành khai thác lợi thế tự nhiên, chủ yếu là nông nghiệp. công nghiệp sử dụng nhiều nhân công, công nghiệp chế biến và công nghiệp chế tạo. Định dạng cơ cấu nói trên cũng hàm chứa một trật tự ưu tiên về bước đi và vốn đầu tư trong tiến trình công nghiệp hóa. Và có thể coi đó là nền tảng chung cho chiến lược phát triển và hội nhập của Việt Nam nói chung và thúc đẩy quan hệ hợp tác với Singapore nói riêng trên cả hai lĩnh vực thương mại và đầu tư. Phương hướng chiến lược phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam-Singapore đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 chủ yếu trên các mặt sau: - Tăng cường hợp tác và trao đổi kinh tế giữa hai nước. - Nỗ lực đàm phán để ký các hiệp định thương mại và đầu tư giữa hai nước. - Thực hiện điều chỉnh các chính sách thương mại, đầu tư cho phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của mỗi nước. - Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang thị trường Singapore tiến tới cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước. - Hỗ trợ, tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp hia nước trong quá trình xuất khẩu hàng hóa cũng như đầu tư và thu hút đầu tư. - Khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư. - Thực hiện mở rộng thị trường cho hàng hóa của Singapore vào Việt Nam. - Mở rộng tiêu thụ hàng hóa mà Việt Nam có lợi thế và Singapore có nhu cầu tại thị trường Singapore; hạn chế buôn bán qua các khâu trung gian. - Mở rộng lĩnh vực đầu tư cho các nhà đầu tư Singapore, đồng thời phải hỗ trợ để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư vào Singapore. 3.2. Giải pháp thúc đẩy quan hệ quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore 3.2.1 Về phía nhà nước * Tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Nhà nước vì quan hệ giữa hai Nhà nước sẽ tạo tiền đề và có ảnh hưởng lớn các quan hệ khác, đặc biệt là quan hệ kinh tế thương mại- đầu tư, quan hệ kinh tế giữa các ngành và các doanh nghiệp giữa hai nước. Nhân chuyến thăm Singapore của Thủ tướng Phan Văn Khải tháng 3/2004: Thủ tướng hai nước đã ký "Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21", tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Ngày 13/8/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội đi thăm chính thức Singapore từ ngày 13-14/8 theo lời mời của Thủ tướng Lý Hiển Long. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Singapore kể từ khi nhậm chức, đồng thời, cũng là chuyến thăm xã giao theo thông lệ của lãnh đạo mới các nước thành viên ASEAN. Chuyến thăm Singapore diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp đặc biệt sau khi Việt Nam ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21” với Singapore vào tháng 3/2004 Nhận lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Tổng thống Cộng hòa Singapore S.R.Nathan đã bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 25/02/2008 à 29/02/2008. Đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ hai của ngài S.R.Nathan trên cương vị Tổng thống Cộng hòa Singapore (lần đầu tiên vào tháng 2.2001). Trao đổi về quan hệ song phương, hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng về sự phát triển ngày càng tốt đẹp của quan hệ hợp tác giữa hai nước thời gian qua. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Singapore đầu tư và làm ăn tại Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo cũng hoan nghênh việc triển khai có hiệu quả Hiệp định Kết nối hai nền kinh tế Việt Nam - Singapore (ký tháng 12.2005). Để những cam kết trên thành hiện thực, thời gian tới hai Nhà nước cần tiếp tục có những động thái cụ thể và cần thiết để tạo điều kiện và môi trường pháp lý thuận lợi cho các mối quan hệ ở các cấp giữa hai quốc gia, đặc biệt là quan hệ kinh tế. * Khẩn trương xúc tiến thương thảo để ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Singapore Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu bởi trong khi các khung pháp lý, các cản trở trong quan hệ song phương còn nhiều thì Hiệp định thương mại tự do ra đời sẽ giảm bớt và dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động thương mại hai nước. Việt Nam và Singapore cần thỏa thuận để giảm bớt các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan trong thời hạn hợp lý với mức cam kết cao hơn mức cam kết trung bình của WTO. Do hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia mang tính chất bổ sung cho nhau nên việc giảm hàng rào bảo hộ này không chỉ tạo điều kiện đối với quan hệ song phương mà còn có lợi đối với người tiêu dùng ở hai nước. * Thỏa thuận các danh mục ưu đãi đầu tư cho nhau Quan hệ thương mại và đầu tư luôn có quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau. Thương mại phát triển tạo điều kiện thu hút đầu tư và ngược lại, đầu tư có phát triển thì các loại hình thương mại lại càng phát triển sâu rộng. Singapore hiện nay có thể nói là đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực của Việt Nam. Tuy nhiên, Singapore mới chỉ dành sự ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Về phía Việt Nam, các dự án đầu tư vào Singapore thật sự còn rất ít, mang tính tự phát và quy mô nhỏ hẹp. Trong quan hệ ưu đãi đầu tư, hai bên có thể dành cho nhau sự ưu đãi đối với các lĩnh vực sau: - Việt Nam có thể dành ưu đãi đầu tư cho Singapore những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương thức BOT; những dự án về y tế, giáo dục, viễn thông, quốc phòng và đặc biệt là bất động sản. - Singapore có thể dành ưu đãi cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học- công nghệ, giáo dục- đào tạo; các dự án xây dựng các trung tâm thương mại . chợ và siêu thị tại Singapore. Những ưu đãi này có thể là về thuế, về thủ tục pháp lý, về mặt bằng, thuế đất ưu đãi…ít nhất là không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Singapore và Việt Nam. * Ký kết các thủ tục về hải quan và kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu Tháng 11/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia đẩy nhanh thực hiện cam kết đối với Hiệp định về VSATTP và kiểm dịch động thực vật (SPS), đáp ứng nghĩa vụ thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này sẽ giúp hàng hóa XNK giữa Việt Nam và Singapore được thuận lợi hơn, giảm thời gian và chi phí cho việc xin chứng nhận chất lượng của từng lô hàng, từng hợp đồng. Chính phủ hai nước cần xúc tiến ký kết các thủ tục liên quan đến hải quan và kiểm tra hàng hóa XNK nhằm đảm bảo cho hoạt động XNK phát triển. * Ký kết các thỏa thuận về thanh toán Một trong những nguyên nhân làm hạn chế quan hệ thương mại giữa hai nước bấy lâu nay là do quan hệ thanh toán giữa các nhà kinh doanh hai bên. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần thỏa thuận với các ngân hàng thương mại Singapore thực hiện chiết khấu chứng từ xuất khẩu thông qua các công ty tài chính hoặc các tổ chức tín dụng, trong trường hợp cần thiết có thể cho phép họ cấp hạn mức tín dụng cho các NHTM Singapore tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Singapore được tài trợ, bảo lãnh khi nhập hàng hóa từ Việt Nam. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có độ an toàn trên thị trường Singapore, mở rộng quan hệ bạn hàng, tăng kim ngạch xuất khẩu. * Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư thông qua: - Đổi mới phương thức hoạt động, tổ chức quản lý và sử dụng Quỹ ngoại giao kinh tế nhằm phát huy tác dụng của quỹ này trong các hoạt động phát triển thị trường, tìm kiếm bạn hàng của các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. - Tổ chức lại các hệ thống xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư, cơ chế cung cấp dự báo thị trường, tư vấn đầu tư, thương mại, tư vấn pháp luật và môi trường kinh doanh ở trong và ngoài nước cho cộng đồng các doanh nghiệp - Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến cấp cao để thúc đẩy hợp tác đầu tư và buôn bán. * Tăng cường hợp tác theo vùng lãnh thổ và địa phương để khai thác tiềm năng và thế mạnh hai bên trong hợp tác sản xuất, đầu tư và trao đổi hàng hóa. Việt Nam và Singapore có thể hợp tác theo vùng lãnh thổ ở ven biển để phát triển loại hình dịch vụ cảng biển. * Điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với các quy định của WTO và khai thác lợi thế quốc gia Nguyên tắc cao nhất của WTO là đối xử bình đẳng giữa các nước thành viên, các quốc gia khi gia nhập WTO phải điều chỉnh các chính sách của quốc gia mình cho phù hợp với quy định của WTO. Việt Nam là nước đang phát triển nên ngoài các nguyên tắc phải tuân thủ, chúng ta có thể được áp dụng các điều kiện miễn trừ đặc biệt trong thương mại quốc tế ( áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, biện pháp hỗ trợ thương mại) và thương mại liên quan đến đầu tư. * Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến thương mại và đầu tư Đây là giải pháp rất quan trọng, các hoạt động xúc tiến thương mại cũng như xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh sẽ giúp doanh nghiệp hai nước có những cơ hội thuận lợi trong trao đổi, buôn bán và đầu tư với nhau và đặc biệt sẽ tạo chỗ đứng cho hàng hóa Việt Nam, nâng cao vị thế của Việt Nam ở thị trường Singapore. Để thực hiện được nhiệm vụ này, các cơ quan chức năng Việt Nam cần thực hiện các hoạt động như: - Đa dạng hóa và mở rộng các hình thức xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư. - Nhà nước hỗ trợ cho việc thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại, các văn phòng xúc tiến đầu tư tại các thành phố lớn của Singapore để vừa giới thiệu quảng bá hàng hóa của Việt Nam, vừa cung ứng các dịch vụ miễn phí hoặc phí thấp cho các nhà kinh doanh và đầu tư khi tiếp cận kinh doanh thị trường này. - Tố chức các kỳ triển lãm hàng xuất khẩu định kỳ tại Singapore nhằm góp quảng bá thương hiệu cũng như tạo vị thế cho Việt Nam. - Tổ chức các phái đoàn thương mại của Việt Nam di khảo sát thị trường, trao đổi thông tin và xúc tiến thương mại- đầu tư tại thị trường Singapore. * Hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư, đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vòa Singapore, đồng thời thu hút các nhà đầu tư Singapore đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam và Singapore đã ký kết Hiệp định về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư vào ngày 29/10/1992. Trong thời gian tới, hai Nhà nước cần có những chính sách cụ thể để có thể thực hiện cam kết một cách hiệu quả nhất. * Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể vay vốn tín dụng từ các ngân hàng phục vụ cho cả hoạt động đầu tư và nhập khẩu hàng hóa. Các doanh nghiệp Việt Nam và Singapore không những gặp khó khăn trong việc thanh toán mà còn gặp rất nhiều khó khăn đối với nguồn vốn để đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu các ngân hàng ở mỗi nước đều có chính sách hỗ trợ vốn vay tín dụng cho các doanh nghiệp thì chắc hản trong thời gian tới quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia sẽ phát triển lên một tầm cao mới 3.2.2 Về phía doanh nghiệp * Nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam cần kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư và hoạt động thương mại trong chiến lược kinh doanh của mình. Trong thời gian đầu có thể lấy đầu tư làm trọng tâm, làm nền tảng cơ sở cho hoạt động thương mại sau này. Đây được coi là cách làm phù hợp với bối cảnh quốc tế nói chung và bối cảnh kinh tế Việt Nam- Singapore nói riêng khi mà nhiều nhà sản xuất đã di chuyển nguồn vốn của mình sang kinh doanh ở nước ngoài nhằm giảm thiểu chi phí về nhân công, về nguyên vật liệu, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh. Để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam, tăng cường khả năng thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào thị trường Singapore, doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp: - Nâng cao chất lượng của hàng hóa Tập trung nâng cao chất lượng của hàng hóa xuất khẩu Việt nam sang các thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Singapore nói riêng theo các chiến lược sản phẩm đối với từng hàng hóa xuất khẩu. Tổ chức lại hoạt động sản xuất và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Singapore nói riêng. Thường xuyên cải tiến công nghệ sản xuất, cải tiến chất lượng, mẫu mã, bao bì đóng gói hàng hóa nhằm tăng cường sức hấp dẫn của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam. - Giữ chữ “tín” trong kinh doanh Việc giao hàng cần phải được thực hiện đúng thời hạn, đúng mẫu, đúng chất lượng…. như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Loại trừ hẳn việc giao hàng thứ cấp, hàng không đảm bảo chất lượng, không được vì lợi trước mắt mà làm ảnh hưởng đến uy tín chất lượng của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam. - Xây dựng giá cả cạnh tranh Vì Việt Nam và Singapore đều nằm trong khu vực Đông Nam Á, lại có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, xã hội….cho nên hầu hết các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu đều có tính bổ sung. Đặc điểm này đã gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc cạnh tranh với nhau để tìm kiếm bạn hàng. Do vậy, phấn đầu giảm bớt chi phí trung gian, hạ giá thành sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam tại thị trường Singapore là một biện pháp quan trọng. - Giảm chi phí cho xuất khẩu Các chi phí vận tải, dịch vụ đầu vào và các loại phí thu đối với hàng xuất khẩu làm tăng giá thành xuất khẩu, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa. Vì thế, các cơ quan chức năng cần rà soát và dỡ bỏ những chi phí cho việc xuất khẩu hàng hóa. Việt Nam và Singapore đã ký kết Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần ngày 02/03/1994. Hi vọng, hai Nhà nước sẽ tiếp tục có những biện pháp hộ trợ để có thể giảm chi phí cho hoạt động xuất nhập khẩu. * Đa dạng hóa các phương thức kinh doanh. Singapore là một thị trường đầy tiềm năng, có rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài đã và đang khai thác thị trường này. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp về chất lượng hàng hóa, mẫu mã, gía cả…đòi hỏi các doanh nghiệp cần có những phương thức kinh doanh hiệu quả. Để giữ được vị trí trên thị trường Singapore, các doanh nghiệp Việt Nam cần linh hoạt áp dụng các phương thức bán hàng ký gửi, mở các chuỗi bán hàng lẻ tại các thành phố lớn của Singapore. Mặt khác, nên gắn hoạt động thương mại và đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất, chế biến hay đóng gói tại thị trường Singapore. * Tăng cường liên kết giữa các hiệp hội ngành hàng Một trong các cam kết quan trọng khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là Nhà nước sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp càng được nâng cao. Điều này đã được thể hiện qua việc đa số các trường hợp tranh chấp, dàn xếp trong thương mại quốc tế là do các hiệp hội đứng ra thực hiện cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ. Các hiệp hội có thể hỗ trợ doanh nghiệp tích cực hơn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, củng cố và mở rộng thị trường nội địa, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên; xác định được phương hướng liên kết, liên doanh và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc chống bán phá giá; phản ánh trung thực ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh lên các cơ quan liên quan; hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành hàng trong cộng đồng quốc tế; tăng cường hơn sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các hiệp hội trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam đối với WTO nói chung và cam kết hợp tác với Singapore nói riêng. Bên cạnh các giải pháp trên, để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Singapore doanh nghiệp hai nước cần tìm hiểu rõ về nhu cầu của nhau, nắm bắt được các mặt hàng mình có thế mạnh, nắm rõ tập quán buôn bán của mỗi nước để có chiến lược sản xuất và xuất khẩu phù hợp. Doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu nông sản, thủ công mỹ nghệ….Doanh nghiệp Singapore có thế mạnh về IT, về điện tử…..do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu khả năng kết hợp các mặt hàng này. Các doanh nghiệp hai nước cũng cần đẩy mạnh trao đổi thông tin qua các kênh như Đại sứ quán, VCCI…Tham gia tích cực vào các kỳ hội chợ, triển lãm nhằm quảng bá sản phẩm để nâng cao vị thế của quốc gia mình cũng như tìm kiếm cơ hội đầu tư. Chính phủ hai nước cần đẩy mạnh các chuyến thăm chính thức nhằm tăng cường ký kết các dự án đầu tư mới. Đẩy mạnh hoạt động của các khu công nghiệp, đặc biệt khu công nghiệp Việt Nam- Singapore ( VSIP) nhằm triển khai tốt các dự án đầu tư đã có và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. KẾT LUẬN Quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore được phát triển kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức năm 1973. Ngày nay, mối quan hệ kinh tế này đang phát triển trong điều kiện mỗi nước đều xây dựng nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường, tự do hóa nền kinh tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới. Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, xác định phương hướng chiến lược để đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục phát triển quan hệ hai nước trong điều kiện mới, đề án này được hoàn thành với những kết quả đóng góp sau: 1) Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của đất nước Singapore. Nêu ra các điều kiện tự nhiên- xã hội có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Singapore. 2) Khái quát được tình hình phát triển kinh tế của Singapore từ năm 2000 cho đến nay. Singapore được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến thủ đô của nước này thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và Châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh. 3) Phân tích được thực trạng quan hệ thương mại, quan hệ đầu tư giữa hai quốc gia, những thuận lợi cũng như khó khăn mà hai nước gặp phải. Hiện nay, Singapore đang là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với giá trị xuất khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2008 từ Việt Nam đạt 948.501.383 USD. Riêng tháng 5/2008, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang Singapore đạt trị giá 240.666.277 USD . Singapore không những là đối tác đi đầu trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam mà hiện nay đang đứng thứ 4 trong tổng số hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư vào Việt Nam với hơn 580 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký gần 15 tỷ USD( tính đến tháng 7/2008). 4) Đề ra được phương hướng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore đến năm 2010 và tầm nhìn chiến lược đến năm 2020. Qua đó đề xuất các giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước. Hy vọng rằng những kết quả nghiên cứu và những đóng góp của đề án trên đây sẽ thiết thực phục vụ cho sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore trong thời gian tới lên một tầm cao mới, tương xứng với tiềm năng kinh tế, thương mại, đầu tư của cả hai nước cũng như mong muốn của hai bên. Đồng thời có thể góp phần nhỏ bé thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT - Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2005) Giáo trình Kinh Tế Quốc Tế , NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội. - Tô Xuân Dân(1998), Giáo trình Chính Sách Kinh Tế Đối Ngoại lý thuyết và kinh nghiệm thực tế, NXB Thống kê, Hà Nội. - Đỗ Đức Định (1993), Kinh tế đối ngoại- Nghiên cứu so sánh các nước đang phát triển Châu Á- Thái Bình Dương và Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. - Mai Ngọc Cường ( 1999), Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Đảng cộng sản Việt Nam ( 2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Bộ ngoại giao (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa vấn đề và giải pháp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. - Tạp chí Tài chính doanh nghiệp (Số 2004/12), Việt Nam- Singapore quan hệ thương mại ngày càng phát triển. B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH - Duning John (1993) Transnational Coporations and Economic Development, Routledge, UK. - Florde, Adam and Stefan De Vylder (1996), From Plan To Market: The Economic Transion in Vietnam, Westview Press: Harper Collins Publisher. C.TRANG THÔNG TIN TRA CỨU TRÊN MẠNG - Báo điện tử ĐCSVN:Thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác Việt Nam-Singapore(Theo SGGP) - Website Bộ ngoại giao VN Thông tin cơ bản về nước CH Singapore và quan hệ với VN -Báo điện tử Vietnamnet Thúc đẩy quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước VN- Singapore - Website: - - - - - - - - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22684.doc
Tài liệu liên quan