Đề án Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ

Việc mở ra thị trường Mỹ là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may. Mặc dù chỉ mới có qua khoảng 10 tháng, Hiệp định có hiệu lực nhưng nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt được cơ hội chủ động xuất khẩu vào Mỹ. Theo thống kê, doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đạt cao nhất hiện nay là trên 30 triệu USD. Một số doanh nghiệp như May Việt Tiến, May Đức Giang, May 10, May Tân Châu. có kim ngạch đạt trên 10 - 20 triệu USD. Ông Võ Trung Đông, Phó Tổng Giám đốc Công ty may Đức Giang cho biết từ đầu năm đến nay, Đức Giang đã phải từ chối khá nhiều đơn hàng rào Mỹ vì không có khả năng đáp ứng, mặc dù Công ty đã phát huy hết năng lực sản xuất. Nhiều doanh nghiệp lớn khác trong ngành dệt may Việt Nam cũng nằm trong tình trạng này. Theo ong Lê Quốc Ân, để tận dụng cơ hội về thị trường, năm 2002, năng lực sản xuất của ngành đã được tăng mạnh. Nhiều nhà máy mở rộng quy mô sản xuất lên 2 - 3 lần hoặc được thành lập mới nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng hết các đơn hàng của đối tác Mỹ. Việc có nhiều đơn hàng nhưng không thỏa mãn được đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội vì mất khách hàng. Cũng vì có nhiều đơn hàng, các doanh nghiệp phải phát huy hết công suất, mở rộng quy mô nên cần nhiều công nhân trong khi đào tạo không kịp đã xảy ra tình trạng tranh giành công nhân giữa các nhà máy trong thời gian qua. Điều này đã thể hiện những yếu kém, bất cập trong ngành dệt may hiện nay. Các chuyên gia cho rằng để có thể đáp ứng được hết các đơn hàng xuất khẩu vào Mỹ, ngành dệt may Việt Nam cần nhanh chóng đầu tư nâng cao năng lực sản xuất lên khoảng 30% so với năng lực hiện có. Nhưng để thực hiện được việc này không phải là chuyện dễ dàng. Bởi hiện nay, chương trình đầu tư tăng tốc ngành dệt may theo QĐ 55/2001 của Thủ tướng Chính phủ đang triển khai rất chậm vì không có vốn đầu tư. Ông Lê Quốc Ân cho biết, cho đến nay sau 1,5 năm thực hiện QĐ55, VINATEX đã xây dựng được 52 dự án đầu tư với tổng số tiền là 3.465 tỷ đồng. Nhưng VINATEX mới được giao 898 tỷ đồng từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Trong tổng số 53 dự án đầu tư đã được phê duyệt, có nhiều dự án lớn nhưng chưa có vốn thực hiện đầu tư. Đó là dự án đầu tư Nhà máy liên hợp Hòa Khánh (Đà Nẵng) với tổng kinh phí 850 tỷ đồng, dự án Nhà máy nhuộm Yên Mỹ (Hưng Yên) 280 tỷ đồng, dự án Nhà máy nhuộm Thủ Đức (TP.HCM) 280 tỷ đồng, dự án Nhà máy sợi Đắc Lắc 216 tỷ đồng. Như vậy, với tốc độ cấp tín dụng ưu đãi đầu tư chậm như hiện nay, chương trình đầu tư tăng tốc ngành dệt may chắc chắn sẽ không đạt được mục tiêu của Chính phủ giao.

doc65 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, thế nhưng mẫu mã thiết kế chưa thật sự đi vào cuộc sống, chủ yếu còn nặng về phần trình diễn, còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã nghèo nàn, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương trường quốc tế. - Hầu hết các doanh nghiệp dệt may chưa có kinh nghiệm và thụ động trong hoạt động tiếp thị, chưa có chiến lược tiếp thị đối với hàng dệt may Việt Nam. Công tác xúc tiến thương mại chưa kết hợp khai thác sử dụng triệt để 4 công cụ quảng cáo, xúc tiến bán hàng, bán hàng trực tiếp và tuyên truyền. Như vậy, chỉ mới sau một thời gian ngắn thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường này đã tăng với một tốc độ "chóng mặt", vượt xa dự đoán của các nhà quản lý. Với số kim ngạch đạt được trên 600 triệu USD trong 10 tháng, Mỹ đã vượt qua thị trường EU, Nhật Bản và vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam hiện nay. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 9 tháng đầu năm đạt 1.880 triệu USD, trong đó thị trường Mỹ đạt 540 triệu USD, chiếm 28,7% tổng kim ngạch; thị trường DEU đạt 476 triệu USD, chiếm 25,3% tổng kim ngạch, thị trường Nhật Bản chỉ đạt 350 triệu USD, giảm 25% so với cùng kỳ 2001; Hồng Kông giảm 13% so với cùng kỳ 2001. Theo ông Lê Hoàng Thắng, Vụ phó Vụ XNK Bộ Thương mại, nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp chủ động chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường Mỹ để tận dụng cơ hội do Hiệp định mang lại, hoặc giảm xuất hàng qua thị trường trung gian như Hồng Kông, Đài Loan. Hiện nay có một số mặt hàng xuất mạnh vào Mỹ là hàng sơ mi dệt kim (cat 338 - 339); áo khoác (cat 334 - 335); sơ mi vải dệt thoi (cat 340 - 341); quần (cat 347- 348); vải tổng hợp (cat 637, 638, 641, 642)... Theo đánh giá của ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) kiêm Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, những mặt hàng xuất mạnh vào Mỹ hiện nay chắc chắn sẽ là đối tượng để Mỹ áp đặt quato trong thời gian tới. 10 năm qua ngành Dệt may nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng nhanh, nhiều năm liền đứng hàng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo thêm việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, uy tín, chất lượng các sản phẩm dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường thế giới. Có sự tăng trưởng liên tục và vững chắc như vậy là nhờ đường lối đổi mới của Đảng, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, sự nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường, sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 1,85 đến 1,90 tỷ USD, tăng khoảng 8 - 9% so với năm 1999, thấp hơn so với kế hoạch ban đầu, nhưng tăng gấp 10 lần so với năm 1991. Tình hình thị trường năm 2000 có những diễn biến phức tạp, đồng EURO của Châu Âu sụt giá so với đồng USD đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhập khẩu và tiêu thụ hàng hóa nói chung, hàng dệt may nói riêng tại thị trường này. Khối lượng buôn bán hàng dệt may trên thế giới hiện nay khoảng 350 tỷ USD, trong đó 150 tỷ hàng dệt và 200 tỷ là hàng may mặc sẵn. Các thị trường nhập khẩu chính là: - EU: 140,5 tỷ USD, trong đó hàng dệt 56 tỷ USD, hàng may mặc sẵn 84 tỷ USD; nhập ngoài FU hàng dệt 18 tỷ USD, hàng may mặc sẵn 48 tỷ USD. - Mỹ: 70 tỷ USD, trong đó hàng dệt 14 tỷ, hàng may sẵn 56 tỷ. Qua số liệu trên, chúng ta thấy rằng ngành Dệt May xuất khẩu của ta còn rất khiêm tốn, không tương xứng với tiềm năng của một đất nước gần 80 triệu dân, đồng thời cũng thấy rõ những thị trường ta có khả năng và cơ hội tiếp cận, khai thác, những đối thủ phải cạnh tranh lâu dài. Rõ ràng các nước phát triển, nhập khẩu hàng may mặc sẵn là chính: Nhật trên 77%, Mỹ 80%, EU 60%, Thụy Sĩ 70%... các nước đang phát triển ở trình độ cao như Hàn Quốc, Đài Loan xuất khẩu vải, sợi là chính, vẫn mở thị trường cho hàng may mặc sẵn. Cơ cấu này tạo cho chúng ta cơ hội phát triển nhanh ngành may mặc. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết tháng 7/2000 là một cơ hội mới, to lớn cho ngành Dệt - May nước ta, vì đây là một thị trường tiêu thụ khổng lồ, dễ tính. Trong khi chờ đợi Hiệp định được phê chuẩn, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng để "tăng tốc" khi điều kiện cho phép, đặc biệtcần thiết trong giai đoạn chưa áp dụng chế độ hạn ngạch. Xu thế tự do hóa thương mại đối với ngành Dệt may đang được thực hiện từng bước theo lịch trình của Hiệp định ATC (Agreement on Textile and Clothing). Theo Hiệp định này đến năm 2005 sẽ xóa bỏ toàn bộ hàng rào hạn ngạch đối với các nước thành viên thuộc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đây cũng là một cơ hội nhưng đồng thời là một thách thức lớn đối với ngành Dệt May nước ta, kể cả khi ta đã là thành viên của tổ chức này trước năm 2005. Cơ hội là: vì thị trường mở rộng, không có bất cứ cản trở nào, nhưng thách thức sẽ rất gay gắt vì những yếu kém vốn có hiện nay của ngành dệt may nước ta. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tuy tăng nhanh, nhưng hiệu quả còn thấp, do ngành Dệt phát triển kém, không đáp ứng yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng cho hàng may mặc xuất khẩu, chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường thế giới, nên khoảng trên 70% sản phẩm xuất khẩu được sản xuất theo phương thức gia công, công tác thị trường còn nhiều hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp xuất hàng phải thông qua trung gian, lợi nhuận thực sự mang lại còn rất thấp. 4. Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ. Những năm vừa qua, trên cơ sở tận dụng các lợi thế so sánh sẵn có của mình, Việt Nam đang ngày càng tham gia sâu, rộng hơn vào lĩnh vực cạnh tranh đầy quyết liệt này và đã thu được một số thành công. Tuy nheien, không phải mọi việc đều suôn sẻ. Việc tìm hiểu và phân tích khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt - may đã từng được thực hiện ở các góc độ khác nhau. Đặc biệt là ở khía cạnh công nghệ. ở đây, xin đi vào phân tích ở một số khía cạnh khác. Đó là khả năng chiếm lĩnh thị trường và phát triển các quan hệ liên kết. Có thể đánh giá khái quát là khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt - may Việt Nam chưa cao. Điều đó thể hiện ở các điểm sau: * Về khả năng chiếm lĩnh thị trường: a) Đối với thị trường trong nước: Việt Nam với số dân gần 80 triệu người, là một thị trường đầy tiềm năng cho tiêu thụ các loại hàng hóa nói chung và hàng dệt may nói riêng. Trong tương lai, khi đời sống của tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện, thì nhu cầu sử dụng hàng dệt - may sẽ ngày càng tăng cao. Tuy vậy, năm 1999, theo thống kê chưa đầy đủ sản xuất của Ngành mới đạt 314,7 triệu m2 vải, lụa thành phẩm, tức là bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ đạt chưa đầy 5m2/ năm. Thực ra, mức sử dụng hàng dệt may theo bình quân đầu người (cho cả các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất công nghiệp) của nước ta là lớn hơn thế nhiều. Song, một điều dễ giải thích là, bù lại sự thiếu hụt của sản xuất trong nước, một số lượng lớn vải được nhập khẩu bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó có nhiều loại trong nước chưa sản xuất được. Một thực tế khá phũ phàng là mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất còn ít - mới đạt bình quân 5m2/ người/ năm và 50% công suất thiết kế, song vải của ta bán vẫn chậm, một số doanh nghiệp hàng tồn kho vẫn cao và kinh doanh thua lỗ. Năm 1999, trong số 6 doanh nghiệp lỗ của TCty Dệt - May Việt Nam thì có 4 doanh nghiệp dệt - chiếm 20% trong tổng số các doanh nghiệp dệt của TCty - với tổng số lỗ là 10 tỷ đồng. Khả năng cạnh tranh kém của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường nội địa còn được thể hiện ở chỗ, nếu so sánh với một số hàng nhập khẩu, đặc biệt là của Trung Quốc, thì hàng của họ rẻ hơn và mẫu mã phong phú hơn hàng của ta nhiều. Có một số người cho rằng, sở dĩ hàng của các nước được nhập vào ta với giá rẻ là do họ có chính sách khuyến khích mậu dịch biên giới. Song, có lẽ không phải như vậy. Phải chăng, điều cốt yếu là họ đã biết sản xuất và đưa vào thị trường Việt Nam các loại hàng hóa phù hợp với mức sống còn chưa cao của đại đa số người dân ở nông thôn/ giá rẻ và chất lượng trung bình không cần dùng lâu bền, dễ thay đổi... Còn hàng dệt - may của ta một số khá lớn không bán được ở thị trường thành phố vì lỗi mốt hoặc chất lượng không cao, nhưng cũng không tiêu thụ được ở nông thôn vì giá đắt... Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên là hầu hết các loại chi phí cho đơn vị sản phẩm của ta đều cao hơn so với các nước trong khu vực. - Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN. Một điều dễ nhận thấy là, có sự chênh lệch lớn về kỹ năng của lao động giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (khu vực trong nước). - Các chi phí về nguyên liệu (bông, xơ, hóa chất, thuốc nhuộm) đều ca do thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu nên mức tiêu hao lớn, đồng thời còn do hệ thống cung cấp đầu vào không được kiểm soát chặt chẽ (cả về số lượng và chất lượng). Ngoài ra, cơ cấu vốn không hợp lý cùng với lãi suất ngân hàng và mức thuế động viên vào ngân sách còn quá lớn đã không khuyến khích sản xuất, làm cho các chi phí gián tiếp tăng cao. Đã có rất nhiều doanh nghiệp do bị các nguồn vốn trung và dài hạn đã phải dùng các nguồn vay ngắn hạn để đầu tư. Lãi suất cao, thời gian vay ngắn đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất. Đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt - may Việt Nam trên thị trường nội địa. Một nguyên nhân nữa cũng cần phân tích ở đây là khả năng sáng tạo mẫu mốt của ta kém. Một sản phẩm, sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường trong một thời gian khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này có tác hại rất lớn là, mặc dầu khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong kỳ sống của sản phẩm và dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra, trên thị trường, vẫn tồn đọng một khối lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và đưa ra ngay sản phẩm mới khác. Với cách làm này, nhu cầu của người tiêu dùng - như ta thường nói - vẫn đang trong trạng thái "thèm thuồng" (do sản phẩm cũ đã thôi không được sản xuất) thì lại được mời chào bằng các sản phẩm khác đẹp hơn, lạ hơn (thực ra, theo các chuyên gia công nghệ đánh giá, về kết cấu mặt hàng, không có sự thay đổi nhiều). b) Đối với thị trường xuất khẩu: - ở các thị trường không hạn ngạch, mà trước hết là thị trường Mỹ: Khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi xuất khẩu hàng dệt - may sang Mỹ là phải chịu thuế suất cao, do chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) do hầu hết nguyên, phụ liệu cho sản xuất, Việt Nam đều phải nhập khẩu và Hiệp định Thương mại song phương chưa được Quốc hội hai nước phê chuẩn. Thị trường Mỹ thường ưu nhập khẩu hàng dệt - may theo hình thức FOB (bán thẳng). Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam lại thiên về phương thức gia công, nên khả năng thâm nhập thị trường Mỹ còn khó khăn. Nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam:6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch chỉ đạt 931 triệu USD, tăng 12,7% so với năm 2000. Dự báo, kim ngạch xuất khẩu cả năm không những không đạt kế hoạch đề ra 2,2 tỷ USD mà rất nhiều khả năng tăng trưởng âm, tức không bằng 1,9 tỷ USD năm 2000. Điều đáng lo ngại là ở cả 3 thị trường lớn là EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ chúng ta đang mất dần lợi thế cạnh tranh và thị phần. Giá trị hợp đồng xuất khẩu vào EU trong 6 tháng đầu năm giảm 26% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Nhật Bản đã chuyển đơn hàng từ Việt Nam sang Trung Quốc; thị trường Hoa Kỳ nhập khẩu trên 50 tỷ USD dệt - may mỗi năm mà 6 tháng qua chỉ nhập của Việt Nam 22 triệu USD. Tính tổng cộng có tới 16/40 thị trường dệt - may giảm sút, trong đó có những thị trường chiếm tỷ trọng nhập khẩu của ta khá lớn như CHLB Đức (chiếm 46,9% tổng lượng hàng nhập khẩu toàn EU từ Việt Nam), Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Ô-xtrây-lia, Xin-ga-po, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Thụy Điển. Cơ hội là: vì thị trường mở rộng, không có bất cứ cản trở nào, nhưng thách thức sẽ rất gay gắt vì những yếu kém vốn có hiện nay của ngành Dệt may nước ta. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tuy tăng nhanh, nhưng hiệu quả còn thấp, do ngành Dệt phát triển kém, không đáp ứng yêu cầu về số lượng. Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu: Việt Nam nằm ở khu vực vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt động giao dịch thương mại quốc tế nói chung và buôn bán hàng may nói riêng. Có hơn 1300 km bờ biển và nhiều cảng nước sâu, nằm trong tổng thể quy hoạch đường bộ, đường sắt xuyên á của ADB giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí vận chuyển hàng hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, cần mẫn, sáng tạo phù hợp với ngành dệt may, giá nhân công rẻ là những nhân tố hấp dẫn thu hút được nhiều hợp đồng gia công may mặc cũng như tiếp nhận sự chuyển dịch ngành dệt may từ các nước phát triển và các nước NICs. Tuy vậy, giá lao động rẻ chỉ là lợi thế nhất thời, không ổn định trong cạnh tranh. Khi khoa học kỹ thuật phát triển cao thì nhân công rẻ mạt không còn là yếu tố hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài nữa. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm, mưa nhiều là lợi thế để phát triển nghề trồng bông, trồng đay. Nhờ vậy, ngành dệt may nước ta có ưu thế lớn về nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào rẻ và ổn định. Điều này góp phần không nhỏ vào nỗ lực giảm giá thành sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn, yêucầu về công nghệ không quá hiện đại và có tỷ lệ hàng xuất khẩu lớn được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp mới này như miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, quy định mức thuế 0% để được hoàn thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng thực hiện cho vay ưu đãi đối với một số doanh nghiệp dệt may để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặc dù có nhiều lợi thế song do hạn chế về kỹ thuật, thông tin thị trường, tay nghề nên cho đến nay, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng ổn định trên thị trường. Về cơ bản, hàng dệt may xuất khẩu của ta mới chỉ có khả năng đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao. Chương III Giải pháp và kiến nghị chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ 1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ Năm 2000, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như phải cạnh tranh quyết liệt tại thị trường xuất khẩu và nội địa, cạnh tranh không lành mạnh do hàng nhập lậu, hàng giả, trốn thuế, chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên vật liệu (bông xơ, xăng dầu, điện...) tăng, song nhìn chung, tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty vẫn giữ được mức tăng trưởng cao và ổn định. Đạt được những thnàh tích trên chủ yếu do Tổng Công ty và các doanh nghiệp thành viên đã triển khai đồng bộ các biện pháp về đầu tư, đào tạo và phối hợp tốt giữa các đơn vị thành viên. Các doanh nghiệp đã đặc biệt chú trọng đến chất lượng, vì vậy đến nay đã có 17 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Hoạt động xúc tiến thương mại được mở rộng, đặc biệt tại các thị trường Mỹ, Hồng Kông... và thị trường trong nước. Chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt - May Việt Nam, với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2000 - 2005 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 17,1%/ năm, giai đoạn tiếp theo đến 2010 là 9,2%/ năm, để đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD, sử dụng 4 triệu lao động. Tăng nhanh khối lượng sản phẩm, đặc biệt là bông xơ để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy dệt. Hiện nay, bông xơ nội địa cung cấp cho dệt mới chỉ chiếm 10 - 15% nhu cầu, sẽ tăng lên 70% vào năm 2010. Sản xuất vải cũng cần tăng nhanh để cung cấp nguyên liệu chính cho ngành may, đặc biệt vàicó chất lượng xuất khẩu đến năm 2005 sẽ đạt khoảng 500 triệu mét vuông, 2010 là gần 1 tỷ mét vuông, nhằm tăng tỷ trọng nội địa hóa các sản phẩm từ 25% hiện nay lên 75% vào năm 2010. Để đạt những mục tiêu trên, ngành Dệt - May Việt Nam cần khẩn trương thực hiện 4 biện pháp lớn: - Giải pháp về tài chính và vốn - Giải pháp về đầu tư - Giải pháp về thị trường: Thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ... đồng thời tập trung phát triển thị trường trong nước. - Giải pháp về quản lý điều hành và quản lý nguồn nhân lực. Hoa Kỳ là một thị trường có sức mua lớn và có nhiều mức thu nhập khác nhau nên yêu cầu về chất lượng khá rộng rãi, không quá khắt khe như đối với Châu Âu và Nhật Bản. Nhưng đây là một thị trường cạnh tranh khốc liệt đối xử rất tinh vi và đàm phán hiệp định dệt may sẽ là một thách thức lớn. Khó khăn nữa là hệ thống luật của Hoa Kỳ rất phức tạp, các nước khi buôn bán với Hoa Kỳ đều phải sử dụng luật sư, trong khi giá thuê tư vấn rất đắt. Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin về thị trường cũng đang là trở ngại lớn cho các nhà kinh doanh Việt Nam. Hiện nay, hai nước chưa dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc, vì vậy, hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường này phải chịu mức thuế suất rất cao. Những trở ngại trên khiến hàng dệt may của chúng ta đến nay mới xuất sang thị trường này một lượng rất nhỏ. Năm 1999, hàng may mặc nhập vào thị trường Mỹ đã được tưng gần gấp đôi, ước đạt 70 triệu USD. Khi Hiệp định thương mại được Quốc Hội 2 nước thông qua (dự kiến trong năm 2001) thì hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong thời gian đầu sẽ có lợi thế phi hạn ngạch. Tuy nhiên, thời gian hưởng lợi thế này, theo nhận định của nhiều nhà chuyên môn sẽ rất ngắn. Trong thời gian ngắn ngủi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tranh thủ xuất thật nhiều hàng vào Hoa Kỳ để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi. Hàng dệt may Việt Nam có thể vào thị trường Mỹ bằng 4 con đường: Các doanh nghiệp tự tiếp cận với khách hàng để trực tiếp bán sản phẩm, đó là phương thức nhiều doanh nghiệp đã thực hiện thành công trong thời gian qua như Công ty May Thăng Long, Dệt - May Hà Nội, Dệt - May Thành Công, Dệt Việt Thắng...; Xuất hàng vào thị trường Hoa Kỳ thông qua một nước thứ ba; Liên doanh, liên kết, hợp tác quốc tế, các đối tác này sẽ giúp chúng ta giải quyết những mặt còn yếu như tạo mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu, uy tín nhãn hiệu hàng hóa...; Thông qua các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để đưa những sản phẩm có xuất xứ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Chúng ta phải khẩn trương tăng cường mở rộng thị trường bằng sự phối hợp có hiệu quả giữa Tổng Công ty và các doanh nghiệp. Với tiềm lực và vai trò chủ đạo của mình, Tổng Công ty đã và đang triển khai xây dựng mạng xúc tiến thương mại toàn cầu. Năm qua, Tổng Công ty đã liên doanh với Hồng Kông để thành lập Công ty liên doanh thương mại Hồng Kông, thành lập Trung tâm Xúc tiến thương mại và xuất khẩu, đây sẽ là những cầu nối giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm đối tác và bạn hàng mới, đồng thời cũng tư vấn và cung cấp thông tin về thị trường, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp. Dự kiến, trong năm tới, Tổng Công ty và các doanh nghiệp thành viên sẽ tham gia một số hội chợ quốc tế tổ chức tại Hoa Kỳ. Mục tiêu xuất khẩu 2 tỷ USD vào Mỹ Mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam là nâng giá trị xuất khẩu hàng dệt may lên 4 - 5 tỷ USD vào năm 2005, trong đó thị trường Mỹ sẽ đạt 2 tỷ USD, EU đạt 1 tỷ USD, Nhật 700 triẹu USD và các thị trường còn là 1 tỷ USD. Theo ông Lê Quốc Ân, bên cạnh việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, ngành dệt may cần phải tận dụng được 3 lợi thế. Đó là lợi thế phi quota, lợi thế về ổn định, chính trị trị và lợi thế về lao động rẻ, lao động khéo tay. Việc tận dụng được những lợi thế đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự nỗ lực của từng doanh nghiệp. Cũng theo ông Ân, ngay trong giai đoạn 1 (giai đoạn chưa áp đặt quota), phải tìm mọi cách để xuất hàng vào Mỹ nhằm lấy số lượng. Bởi vì Mỹ sẽ áp đặt hạn ngạch theo số lượng chứ không phải theo giá trị. Vì vậy, ngay lúc đầu, các doanh nghiệp có thể hợp tác với bên thứ ba làm gia công, làm OPA (mỗi nước làm một công đoạn nhưng công đoạn của mình được Mỹ công nhận có xuất xứ ở Việt Nam). Để làm được việc này, phải tạo được sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn như ở Hà Nội, TP.HCM với các doanh nghiệp địa phương để giúp cho các doanh nghiệp địa phương nâng cấp về quản lý, chất lượng sản phẩm, để tất cả các doanh nghiệp đều có thể làm được hàng xuất sang Mỹ. Hiện nay, VINATEX đang thực hiện chương trình này, đồng thời tích cực mời gọi đầutư nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may. Hiện có nhiều Công ty lớn đã vào Việt Nam như Esquel (Hồng Kông), Hanson, Pacific, Hang Ten (Hàn Quốc) Chutex (Singapore). Giai đoạn 2 là giai đoạn bắt đầu tăng trị giá. Do vậy phải chuyển đầu từ làm gia công cho một bên thứ ba sang kinh doanh FOB trực tiếp với các nhà mua hàng của Mỹ. Giai đoạn này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sản phẩm đạt chất lượng, giá trị gia tăng cao, có nhãn hiệu và có đẳng cấp. Muốn làm được điều này, ông Lê Quốc Ân cho rằng các doanh nghiệp phải chọn lọc các đối tác có đẳng cấp cao, có uy tín và giá cao cùng làm. Đồng thời các doanh nghiệp cần chọn sản phẩm có giá trị cao, trong đó phải sử dụng các nguyên vật liệu trong nước để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản xuất xuất khẩu. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần nắm bắt kịp hai xu thế lớn trong ngành thời trang: đó là nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng trong từng sản phẩm đối với từng người mua hàng, và phải đi vào công nghệ cao - tức là dùng Internet để nâng cao kỹ thuật, đáp ứng nhanh các đơn hàng. 2. Những biện pháp vĩ mô: Đó là sản phẩm đa dạng, nhiều chủng loại và nhu cầu liên tục tăng lên cùng với xu thế tăng trưởng kinh tế. Mức sống càng cao đòi hỏi phải ăn mặc càng đẹp, đó là tất yếu. Hơn thế nữa, sản phẩm lại gọn nhẹ, mỗi nước có những sở thích thị hiếu ăn mặc khác nhau, nên có thể thâm nhập và khai thác đặc điểm của mỗi loại thị trường, giúp cho các mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn, phong phú hơn. Mặc dù vậy, nhưng trên thực tế, ngành dệt may hiện nay ở nước ta vẫn là ngành hoạt động hiệu quả kinh tế chưa cao, sản xuất gia công là chính, công nghệ còn lạc hậu, mẫu mã chưa phong phú, phát triển chưa đồng bộ giữa dệt với may; phải nhập nhiều nguyên liệu, quản lý còn chồng chéo, sự liên kết, hợp tác chưa cao. Do vậy, để tiếp xúc phát triển một ngành có lợi thế này ở Việt Nam, đáp ứng được mục tiêu của chiến lược tăng tốc đã được Chính phủ phê duyệt đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may phải đạt 4 - 5 tỷ USD và đến năm 2010 sẽ là 8 - 10 tỷ USD, thu hút 2,5 - 3 triệu lao động) cần phải phân tích các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của ngành. Điều này có một ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh hội nhập hiện nay khi sản phẩm dệt may của Việt Nam phải đương đầu với những đối thủ mạnh hơn ta nhiều. Từ đó mới có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế của một ngành quan trọng này. Tuy nhiên những yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng cạnh tranh trước mắt và lâu dài của hàng dệt may thì "gỡ rồi vẫn vướng". Nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu được ban hành nhưng được triển khai không đồng bộ và kịp thời nên chưa phát huy tác dụng với xuất khẩu dệt may như quyết định miễn thu một số loại phí đối với hàng xuất khẩu chưa có quy định cụ thể, hay như chủ trương Nhà nước bù lỗ cho hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ đã được đưa ra một năm nhưng đến nay vẫn không thực hiện được. Cạnh tranh trước hết và quyết định nhất định là giá. Một số ưu đãi về thuế đã được ban hành, song một số quy định hiện hành về thuế và sự tăng giá nhiều loại phí như phí cầu đường, cảng, giá điện, nước bưu chính viễn thông... liên tục tăng vẫn làm giá thành hàng dệt may cao hơn các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt với thị trường Trung Quốc xuất khẩu theo phương thức FOB là mục tiêu của ngành Dệt - May và cũng là xu hướng phát triển trong buôn bán hàng dệt may thế giới. Những các quy định về thuế cho nguyên phụ liệu nhập khẩu để sản xuất hàng FOB (sau 275 ngày chưa xuất hàng thì phải nộp thuế nhập khẩu (ít nhất cũng 40%) và 10% thuế GTGT đã làm giảm động lực phát triển phương thức này. Ngay ở phương thức chủ yếu là gia công, các quy định về tái xuất nguyên, phụ liệu dư thừa cũng gây không ít mệt mỏi cho doanh nghiệp, vì nếu không tái xuất được thì doanh nghiệp phải nộp thuế (thuế suất thuế nhập khẩu và GTGT không nhỏ) mà bán cho nội địa thì chẳng ai mua, các chi phí phát sinh bất khả kháng do giá thành phải gánh. Bên cạnh đó là các quy định rườm rà của Hải quan khi theo dõi nhập khẩu nguyên phụ liệu, khi gia hạn thời gian tạm nhập nguyên, phụ liệu, khi có các phát sinh khác đã hạn chế hoạt động xuất khẩu. Một chiến lược xuất khẩu hàng dệt may vững chắc và hiệu quả cao phải trên cơ sở phát triển đồng bộ nguyên phụ liệu. Song các quy hoạch đầu tư cho ngành Dệt, cho phát triển nguyên liệu ngành Dệt phải nhiều năm sau mới có thể phát huy tác dụng. Về chủ quan, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm chính về xuất khẩu và cạnh tranh. Nhưng theo một đánh giá thì các doanh nghiệp yếu nhất về xúc tiến thương mại, vẫn thụ động, thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin và khả năng tài chính để phát triển thị trường... Thực tế xuất khẩu thời gian qua cho thấy hàng dệt may Việt Nam vẫn có những lợi thế trên thị trường về trình độ lao động và chất lượng sản phẩm, đồng thời có cơ hội và thị trường mới (Mỹ). Tận dụng những lợi thế và cải thiện các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất, xuất khẩu sẽ tăng sức cạnh tranh mạnh hơn cho xuất khẩu hàng này. Ngày 26/7/2001Chính phủ đã ban hành Quyết định 908/QĐ-TTg tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu, trong đó có tác động trực tiếp đến xuất khẩu hàng dệt may như ưu đãi về thuế trong lĩnh vực gia công, miễn thu lệ phí hải quan một năm, hoàn trả 100% tiền ký quỹ đấu thầu hạn ngạch... Đây là những thuận lợi cơ bản cho xuất khẩu. Bên cạnh đó là những giải pháp hỗ trợ toàn diện hơn của Chính phủ như tiếp tục đàm phán với EU và Canada để mở rộng thị trường; điều chỉnh cơ chế điều hành xuất khẩu hàng dệt may cho phù hợp thực tiễn và tận dụng hết hạn ngạch (khuyến khích hoàn trả hạn ngạch, điều chỉnh mặt hàng cấp phép tự động...); đồng thời mở rộng đàm phán cấp quốc gia đối với một thị trường quan trọng khác. Cùng với biện pháp vĩ mô, các doanh nghiệp tiếp tục đề nghị tạo cơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may như tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành cho hàng xuất khẩu dạng FOB được áp dụng gia hạn tạm nhập nguyên liệu như hàng gia công, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, điều chỉnh hợp lý giá các loại phí điện, nước, cầu đường, viễn thông..., có chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng FOB, và có quỹ dự phòng cho hàng này... Các doanh nghiệp cũng đề nghị giới hạn thời gian hoàn trả hạn ngạch vào 01/3/2001 chứ không nên đợi đến 31/8/2001. Đồng thời các doanh nghiệp có nhu cầu được cung cấp kịp thời, cập nhật các thông tin liên quan đến cơ chế quản lý, điều hành XNK hàng dệt may để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình. Xúc tiến thương mại là vấn đề bức xúc của hoạt động xuất khẩu. Để đạt hiệu quả cao công tác này phải được đẩy mạnh ở cả 8 cấp. Chính phủ, các Bộ, các cơ quan xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp. Dệt May đang thực sự là ngành mũi nhọn vì vậy nên có một cơ quan điều hành của Chính phủ chuyên trách vì vậy nên có một cơ quan điều hành của Chính phủ chuyên trách về ngành này, để có thể phối hợp đồng bộ các ngành, cấp liên quan giải quyết đồng bộ, có hiệu lực các vấn đề về lao động đảm bảo thực hiện tốt chiến lược xuất khẩu. Để thực hiện chiến lược phát triển nguyên liệu, Nhà nước và các ngành liên quan cần nhanh chóng nghiên cứu và ban hành các chính sách khuyến khích trồng bông (trợ giá cho người trồng bông)... Về phía các doanh nghiệp phải khai thác tối đa lợi thế của mình, xây dựng các phương án giảm giá thành, nâng cao năng suất lao động, có sự phối hợp, phân chia thị trường, mặt hàng, có sách lược để giữ khách hàng và mở rộng thị trường. Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc trên sẽ tạo sự thông thoáng và tăng sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn để nhằm tới thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu 2,2 tỷ USD hàng dệt may năm 2001 và chuẩn bị cho thị trường năm 2002. Để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp (bao gồm chất lượng, giá, thương hiệu, tiếp thị) và tăng khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống. - Về chất lượng: Đây là yếu tố chính và điểm mạnh chính làm cho hàng dệt may Việt Nam tăng tính cạnh tranh được như hiện nay. Vấn đề là chất lượng phải tốt hơn để nâng cao hơn tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may. Đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt hơn chỉ có thể thực hiện được bởi chính bản thân các doanh nghiệp bằng cách đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị, tăng khả năng tự động hóa quá trình sản xuất kết hợp với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. - Về yếu tố giá: Đây là yếu tố hạn chế của hàng dệt may Việt Nam. Giá của chúng ta thường cao hơn giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực khoảng 10 - 15%. - Yếu tố "nghệ thuật bán hàng" của ta đã khá hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây, song vẫn còn là điểm yếu so với các nước trong khu vực. Đội ngũ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hệ thống nhân viên bán hàng còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. Rất nhiều Doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin, hệ thống phân phối trong cả nước, đại diện thương mại trong khu vực và các nước. - Uy tín của thương hiệu sản xuất ngày càng trở nên quan trọng. Cùng một mức chất lượng nhưng sản phẩm có thương hiệu uy tín, được nhiều người biết đến có thể bán giá cao hơn hàng chục lần. Xu thế hội nhập ATC/WTO còn yêu cầu cao hơn cho thương hiệu doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải xử lý và quản lý môi trường (theo tiêu chuẩn ISO - I4000) và có trách nhiệm với xã hội, với người lao động (theo tiêu chuẩn SA - 8000). - Về biện pháp tăng khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống: Khả năng cạnh tranh của hệ thống được đề cập ở đây chính là bối cảnh, là môi trường hoạt động của toàn ngành Dệt May Việt Nam. Hệ thống có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Đối với trường hợp của ngành Dệt May Việt Nam, những vấn đề sau đây là những vấn đề hệ thống mà Chính phủ và các Tổ chức phi chính phủ cần hết sức quan tâm để tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam. Các Hiệp định song phương và đa phương về thương mại giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế cần được mở rộng hơn. Cơ chế quản lý DNNN cần được đổi mới theo mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp dệt may. Giám đốc là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong Công ty. Do vậy cần gắn cam kết về kinh tế của giám đốc với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty và Giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định. Hiện nay cả nước có khoảng 1 ngàn doanh nghiệp dệt may lớn nhỏ khác nhau song chỉ khoảng 50 doanh nghiệp (5% có khả năng cạnh tranh cao trên khu vực và quốc tế. Đây là một con số rất đáng lo ngại. Nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập. Doanh nghiệp phải là chủ thể chính của quá trình này. Tuy nhiên vai trò của Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ cũng hết sức quan trọng. Nên chăng về mặt quản lý vĩ mô, cần có một văn phòng quốc gia về phát triển ngành Dệt May nhằm nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho ngành này phát triển trong từng giai đoạn; Tham gia các diễn đàn dệt may khu vực và quốc tế, đấu tranh đảm bảo sự bình đẳng và có lợi cho ngành Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, Nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa, Nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như thị trường Trung Đông như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu quy chế tín dụng xuất khẩu vào Mỹ, chế độ ưu đãi phổ cập (102 - 103) để khai thác nguồn vốn này mua sắm nguyên liệu. Trong chiến lược phát triển ngoại thương của nước ta từ nay đến năm 2010, hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo vì nó rất phù hợp với điều kiện tác động và sản xuất của Việt Nam. Bước sang những năm đầu của thế kỷ mới, Việt Nam sẽ thực hiện hàng loạt những cam kết quốc tế và khu vực về hội nhập mà vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu là cắt giảm thuế quan. Để đối phó với sự cạnh tranh bình đẳng nhưng khốc liệt hơn rất nhiều khi chúng ta là hội viên chính thức của các tổ chức quốc tế, Nhà nước Việt Nam cùng với ngành dệt may phải thực hiện một cách nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp về quản lý và sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. 3. Những biện pháp vĩ mô. * Tăng cường biện pháp chuyên môn hóa. Một số ý kiến cho rằng, do ngành dệt và sản xuất nguyên phụ liệu chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho ngành may nên đa số doanh nghiệp (DN) may xuất khẩu đều giảm, nhân công việc may gia công. Họ luôn bị động về mọi mặt, từ nguồn cung ứng hàng, kế hoạch sản xuất đến thời gian giao hàng, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm... Điều này làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của ngành may xuất khẩu. Để khắc phục, theo ông Nguyễn Đức Hoan - Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) - ngành dệt cần được đầu tư phát triển, nếu không gia công vẫn là công việc chủ yếu của ngành may. Song song đó, các doanh nghiệp cần đầu tư chuyển đổi công nghệ, thiết bị tiên tiến, nâng cao trình độ quản lý của người điều hành (giám đốc, quản đốc phân xưởng), nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ kỹ thuật, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng... Cùng có suy nghĩ như trên, ông Mai Hoàng Ân - Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam - cho biết lấy chủ trương coi trọng phát triển đi đôi với việc mở rộng chuyên sâu làm bước đi ổn định từ nay đến 2010, ngành dệt cần phát triển thành từng cụm nằm trong các khu công nghiệp (KCN) nhằm tiết kiệm vốn đầu tư hạ tầng cơ sở, giải quyết vốn và vấn đề nước thải, tập trung làm sạch hóa môi trường sinh thái để từ đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành. Ngoài ra, ông cũng cho rằng cần triển khai công tác quy hoạch các vùng nguyên liệu bông, dâu, tơ tằm, vải sợi tổng hợp, cùng với phát triển công nghiệp hóa dầu nằm nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa (tỷ lệ nội địa hóa) trong sản phẩm dệt may - mà Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu khoảng 79% nguyên liệu ban đầu cho ngành. Đây vừa là yêu cầu bắt buộc để làm giảm chi phí nhập khẩu vừa là mục tiêu nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành dệt may. Để có thể phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp khiến mức độ thành công của chiến lược tăng tốc được cao hơn, giới doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần liên kết thành một khối thống nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo bà Trần Thị Dương - Giám đốc Dệt Phong Phú; mỗi doanh nghiệp dệt may đảm trách từng công đoạn trong sản xuất kinh doanh phải có sự phối hợp chặt chẽ để trở thành những mắt xích của nhau. Sự phân tích cặn kẽ về địa lý, nhân sự, ngành nghề truyền thống sẽ dẫn đến sự phân công hợp lý hơn. Tuy nhiên, sự phân công này cần đòi hỏi về mặt chuyên môn sâu hơn giai đoạn đã qua, sao cho sự hợp tác giữa các ngành nghề trong lĩnh vực dệt - may tạo được những phản ứng dây chuyền và mang lại hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh. * Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Theo khảo sát của Hiệp hội dệt may TP.HCM (AGTEK), phần lớn lao động làm công tác quản lý trong ngành - được trưởng thành sau một quá trình làm việc lâu dài, đều có khởi đầu từ lao động trực tiếp sản xuất; và đại đa số lao động trực tiếp sản xuất khi vào nhà máy là lao động phổ thông. Trong số này, số người độ tuổi từ 24 - 30 chiếm khoảng 47%, số người có trình độ văn hóa dưới cấp II chiếm 61% và trên cấp I là 21% (căn cứ vào lời khai) nên yếu tố lao động của Việt Nam không còn được xem là lợi thế khi đem so sánh với lao động các nước trong khu vực về mặt chất lượng, nhất là đối với Trung Quốc và Indonesia - Hai nước có nền công nghiệp dệt may phát triển nhanh, có khả năng cạnh tranh mạnh với Việt Nam. Mặt khác, theo ông Nguyễn Thiện Nhân - Phó Chủ tịch UBND TP.HCM - muốn đẩy mạnh công tác đào tạo lao động ngành dệt may, bản thân các doanh nghiệp phải ngồi lại với nhau để ìtm giải pháp cho việc hình thành các trường hoặc trung tâm đào tạo trên cơ sở nguồn kinh phí, trí tuệ đóng góp của doanh nghiệp. Ngoài ra, giữa doanh nghiệp cơ quan quản lý Nhà nước và các nhà nghiên cứu khoa học (trường Đại học, Viện Nghiên cứu) cần có sự hợp tác để đưa ra các chương trình đào tạo phù hợp với tình hình hiện nay, cũng như tìm cách phát huy được tối đa năng suất của máy móc, thiết bị mà không nhất thiết phải chạy theo việc mở rộng số lượng. Từ đó, mức thu nhập của người dệt may được nâng cao. Thực tế, hiện nay thu nhập của lao động dệt may chỉ cao hơn người nông dân. Theo một thống kê mới nhất, thu nhập của lao động ngành hóa chất là 53 triệu đồng người / năm, ngành nhựa cao su là 35 triệu đồng/ người/ năm, ngành dệt 25 triệu đồng/ năm, ngành dệt ngành da giày là 18 triệu đồng/ người/ năm, ngành may là 10 triệu đồng/ người/ năm, nông dân là 5 triệu đồng / người/ năm (theo khảo sát của AGTEX). Mở rộng đầu ra: Thị trường đầu ra của sản phẩm dệt may hiện nay chưa ổn định luôn là nỗi ám ảnh đối với doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần cho ra đời Công ty kinh doanh hàng may mặc Việt Nam mà hoạt động của nó được đặt dưới sự kiểm soát của Hiệp hội dệt may Việt Nam và lấy việc phát triển của ngành làm mục đích chính. Công ty phải nắm rõ được khả năng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp trong nước cũng như nắm được tình hình thị trường ở nước ngoài, thông qua các chi nhánh. Chẳng hạn như đối thủ cạnh tranh gồm những ai? Mức độ biến động giá cả ở thị trường nước ngoài ra sao? Khách hàng có nhận định, thái độ thế nào đối với sản phẩm dệt may Việt Nam... Dựa vào các cơ sở này, Công ty sẽ đề ra những biện pháp hoặc cung cấp thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp trong nước. Song song đó, tự mỗi doanh nghiệp dệt may cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng và cần xây dựng thương hiệu mang tính dài lâu để tăng yếu tố cạnh tranh của sản phẩm. Có chính sách phát triển hợp lý. Có thể nói, việc tham gia vào các tổ chức thương mại đã tạo thuận lợi cho Việt Nam thực hiện chủ trương đa phương hóa hợp tác và góp phần phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập - Ngày 11/11/1998, Việt Nam đã trở thành thành viên của diễn đàn Châu á - Thái Bình Dương (APEC), đồng thời Việt Nam đang xúc tiến đàm phán để gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tuy mức độ cam kết có khác nhau, nhưng các Hiệp định thương mại đều có chung mục tiêu là tự do hóa thương mại và tháo gỡ hàng rào thuế quan. Chẳng hạn như vào năm 2006, thị trường các nước ASEAN sẽ dỡ bỏ hàng rào thuế quan. Hoặc vào 2004, quato hàng dệt may áp dụng cho các thành viên của WTO sẽ bị bãi bỏ ở thị trường Châu Âu... Những sự kiện này, theo ông Phan Thế Khoa - chuyên viên của Tổng cục thuế - đã đòi hỏi Việt Nam phải có những sửa đổi bổ sung về thuế XNK trước đó. Cụ thể ngày 22.5.1998, Việt Nam đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung điều chỉnh một số điều luật về thuế XNK. Tất cả những quy định về thuế xuất khẩu ngành dệt may và chi phí nhập vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và gia công hàng xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Cụ thể như để khuyến khích xuất khẩu, chính sách thuế quy định áp dụng thuế suất 0%, và để làm giảm chi phí nhập khẩu phục vụ cho sản xuất may gia công xuất khẩu, Nhà nước quy định hầu hết phụ tùng thiết bị dệt may đều áp dụng thuế suất 0%, nguyên liệu dệt may nhập khẩu có thuế xuất từ 0% - 10%. Về phía các doanh nghiệp phải khai thác tối đa lợi thế của mình, xây dựng các phương án giảm giá thành, nâng cao năng suất lao động, có sự phối hợp, phân chia thị trường, mặt hàng, có sách lược để giữ khách hàng và mở rộng thị trường. Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc trên sẽ tạo sự thông thoáng và tăng sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn để nhắm tới thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu 2,2 tỷ USD hàng dệt may năm 2001 và chuẩn bị cho thị trường năm 2002. 4. Một số kiến nghị, đề xuất. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được Đảng và Nhà nước khẳng định tại Nghị quyết 07 NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong quá trình hội nhập nước ta đã mở rộng quan hệ thương mại với 150 nước, tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực như: ASEAN, APEC, ASEM, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của hơn 70 nước, nâng cao một bước vị thế của đất nước trên chính trường và thị trường quốc tế. Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực, là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam trên con đường hội nhập quốc tế. Và để tăng cường xuất khẩu hàng dệt may một cách vững chắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp có tính chiến lược và đột phá sau: Đẩy mạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu: - Hiện nay, hàng dệt may nước ta gia công cho nước ngoài vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, rất ít doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc bằng chính thương hiệu của mình. Vì vậy để thể mở rộng thị trường mới đặc biệt là thị trường Mỹ, củng cố thị trường truyền thống, EU, Nhật, các nước công nghiệp SNG và Đông Âu, tăng nhanh xuất khẩu trực tiếp bằng thương hiệu của mình ngành dệt may cần xây dựng cho được chiến lược đồng boọ từ khâu cải tiến mẫu mã, tăng chủng loại mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tối đa chất lượng sản phẩm, giảm tối đa các nước chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh. - Chủ động tìm kiếm khách hàng qua các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như: Internet, hội chợ, triển lãm, đại lý, việt kiều... Hợp tác liên kết mở văn p phòng đại diện thương mại tại Mỹ, EU, Nga, Nhật. Thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư xây dựng 10 cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng là định hướng phương thức mới có tính hiệu quả và khả thi cao. Mỗi cụm công nghiệp được xây dựng trong các khu công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ có ưu điểm là tiết kiẹem vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sự hợp tác đầu tư vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng đầu tư phân tán hiệu quả thấp. Tuy nhiên, việc đầu tư các cụm công nghiệp cần tính đến yếu tố liên hoàn để khai thác hết tiềm năng và chuyên môn của nội bộ ngành, đồng thời phải ưu tiên đầu tư vào công đoạn dệt nhuộm để tăng nhanh về số lượng, chủng loại, chất lượng vải để đáp ứng cho nhu cầu may xuất khẩu. Và trong quá trình đầu tư cần được kiểm soát chặt chẽ theo đúng quy hoạch phát triển tổng thể, các doanh nghiệp cần nắm chắc thông tin về tình hình đầu tư, sản xuất mặt hàng gỗ, quy mô sản xuất, để có hướng đầu tư đúng, tránh đầu tư trùng lặp, tránh những thiệt hại nghiêm trọng về lâu dài cho ngành và cho nền kinh tế. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiéet và cấp bách, là một vấn đề lớn và khó đối với cả doanh nghiệp dệt may và các trường đào tạo nghề và quản lý. Ngành dệt may cần có một đội ngũ lớn từ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đén giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cấp cao. Biện pháp tốt nhất để đào tạo cán bộ quản lý, các cấp là tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để mở lớp đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn, đồng thời cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khóa học dùng làm cơ sở để tiêu chuẩn hóa cán bộ của ngành. Đối với lực lượng công nhân lành nghề ngoài việc tăng cường đào tạo lại doanh nghiệp, ngành dệt may nên có kiến nghị với Nhà nước để cấp kinh phí đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp may, dĩ nhiên với nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành. Ngoài ra, đối với đội ngũ công nhân đang làm việc cũng cần phải có những khóa đào tạo lại để thích nghi với môi trường sản xuất mới, công nghệ hiện đại. Nhanh chóng tăng năng lực sản xuất lên 30%. Việc mở ra thị trường Mỹ là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may. Mặc dù chỉ mới có qua khoảng 10 tháng, Hiệp định có hiệu lực nhưng nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt được cơ hội chủ động xuất khẩu vào Mỹ. Theo thống kê, doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đạt cao nhất hiện nay là trên 30 triệu USD. Một số doanh nghiệp như May Việt Tiến, May Đức Giang, May 10, May Tân Châu... có kim ngạch đạt trên 10 - 20 triệu USD. Ông Võ Trung Đông, Phó Tổng Giám đốc Công ty may Đức Giang cho biết từ đầu năm đến nay, Đức Giang đã phải từ chối khá nhiều đơn hàng rào Mỹ vì không có khả năng đáp ứng, mặc dù Công ty đã phát huy hết năng lực sản xuất. Nhiều doanh nghiệp lớn khác trong ngành dệt may Việt Nam cũng nằm trong tình trạng này. Theo ong Lê Quốc Ân, để tận dụng cơ hội về thị trường, năm 2002, năng lực sản xuất của ngành đã được tăng mạnh. Nhiều nhà máy mở rộng quy mô sản xuất lên 2 - 3 lần hoặc được thành lập mới nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng hết các đơn hàng của đối tác Mỹ. Việc có nhiều đơn hàng nhưng không thỏa mãn được đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội vì mất khách hàng. Cũng vì có nhiều đơn hàng, các doanh nghiệp phải phát huy hết công suất, mở rộng quy mô nên cần nhiều công nhân trong khi đào tạo không kịp đã xảy ra tình trạng tranh giành công nhân giữa các nhà máy trong thời gian qua. Điều này đã thể hiện những yếu kém, bất cập trong ngành dệt may hiện nay. Các chuyên gia cho rằng để có thể đáp ứng được hết các đơn hàng xuất khẩu vào Mỹ, ngành dệt may Việt Nam cần nhanh chóng đầu tư nâng cao năng lực sản xuất lên khoảng 30% so với năng lực hiện có. Nhưng để thực hiện được việc này không phải là chuyện dễ dàng. Bởi hiện nay, chương trình đầu tư tăng tốc ngành dệt may theo QĐ 55/2001 của Thủ tướng Chính phủ đang triển khai rất chậm vì không có vốn đầu tư. Ông Lê Quốc Ân cho biết, cho đến nay sau 1,5 năm thực hiện QĐ55, VINATEX đã xây dựng được 52 dự án đầu tư với tổng số tiền là 3.465 tỷ đồng. Nhưng VINATEX mới được giao 898 tỷ đồng từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Trong tổng số 53 dự án đầu tư đã được phê duyệt, có nhiều dự án lớn nhưng chưa có vốn thực hiện đầu tư. Đó là dự án đầu tư Nhà máy liên hợp Hòa Khánh (Đà Nẵng) với tổng kinh phí 850 tỷ đồng, dự án Nhà máy nhuộm Yên Mỹ (Hưng Yên) 280 tỷ đồng, dự án Nhà máy nhuộm Thủ Đức (TP.HCM) 280 tỷ đồng, dự án Nhà máy sợi Đắc Lắc 216 tỷ đồng... Như vậy, với tốc độ cấp tín dụng ưu đãi đầu tư chậm như hiện nay, chương trình đầu tư tăng tốc ngành dệt may chắc chắn sẽ không đạt được mục tiêu của Chính phủ giao. Kết luận Trong khuôn khổ bài viết có hạn, em chỉ xin trình bày một số nội dung khái quát. Việc mở rộng ra thị trường Mỹ là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may. Mặc dù chỉ nói qua khoảng 10 tháng, Hiệp định có hiệu lực nhưng nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt được cơ hội, chủ động xuất khẩu vào Mỹ. Việc xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ có nhiều thuận lợi và Mỹ là một thị trường tiềm năng, song bên cạnh đó khó khăn, thách thức lại nhiều hơn thuận lợi. Đó là phải cạnh tranh với hàng dệt may Trung Quốc, các hàng dệt may của các nước trong vùng khu vực ASEAN… doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư công nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, cùng các biện pháp cần thiết để có thể thâm nhập buôn bán với thị trường Mỹ rộng lớn. Tài liệu tham khảo - Giáo trình KTQT - trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Thời báo kinh tế Việt Nam - số 131 - thứ 6 ngày 1/11/2002 - Tạp chí phát triển kinh tế - tháng 5/2002 + Phân tích một số yếu tố ngành có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam. PGS. TS Hoàng Thị Chỉnh + Ngành dệt và làm hàng may mặc. Những cơ hội mới. TS - Lê Khoa + Phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam với những cơ hội mới và thách thức lớn. TS - Võ Phước Tấn. - Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 24 + Ngành dệt may có đạt kim ngạch xuất khẩu 2,2 tỷ USD - Hồng Phố. - Thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 5/2002 + Ngành dệt may trên con đường phát triển và hội nhập: Bức xúc hoàn thiện chất lượng lao động - Tùng Khánh. - Tạp chí kinh tế và phát triển - số 52/2001. Một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam - Vũ Bá Định. Bộ kế hoạch và đầu tư. -Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 15/2001, gạch nối giữa thiết kế mẫu và dệt may tạo dựng sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Đình Nam. - Tạp chí công nghiệp Việt Nam 4/2001 Thử tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt - may Việt Nam - Dương Đình Giám. - Công nghiệp tết Tân Tỵ. Ngành dệt may Việt Nam- tăng tốc trên đường hội nhập. + Cuộc trao đổi với ống Bùi Xuân Khu, tổng giám đốc Mỹ Công ty dệt may Việt Nam. - Thương nghiệp thị trường Việt Nam - số tháng 6/2001 ngành dệt may và những biện pháp hoá giải thách thức - Phi Hổ. - Tạp chí thương mại - số 21/2001. Thị trường dệt may còn khó khăn - Đoàn Nghiệp. - Tạp chí kinh tế và phát triển số 33/2000 hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thực trạng và giải pháp. PGS - PTS Đặng Đình Đào - Ngô Thị Mỹ Hạnh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29537.doc
Tài liệu liên quan