Vụ kiện cá tra và cá basa đã tạm dừng. Đây là vụ kiện đầu tiên sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, và cũng là tranh chấp thương mại lớn đầu tiên trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Vụ kiện này là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế. Đó là họ phải tìm hiểu kỹ về thị trường mình sắp thâm nhập về các mặt kinh tế chính trị văn hoá và các tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt họ phải tìm hiểu kỹ các hàng rào thương mại phi thuế quan đang được sử dụng phổ biến như chống bán phá giá, quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm chỉ có thể hiểu rõ các thủ tục đó các doanh nghiệp mới có thể thâm nhập thành công vào thị trường quốc tế.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2120 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Động cơ của Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ khi kiện cá tra và basa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư, phát triển từ tháng 5 năm 1995 cá giống sinh sản nhân tạo với số lượng lớn và chi phí thấp được cung cấp thường xuyên cho nông dân.
Hoạt động nuôi cá tra, cá basa bắt đầu phát triển dưới hình thức bè cá và hầm cá, dọc hai bờ sông Hậu thuộc tỉnh An Giang và Đồng Tháp huyện Châu Đốc của An Giang là nơi tập trung chủ yếu của các bè cá và cũng là nơi cung cấp cá giống chính chủ yếu cho cả vùng. Năm 2001, sản lượng cá tra và cá basa của các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long lên tới 120.000 tấn, tăng gấp 6 lần so với năm 1997. Từ hai tỉnh đầu nguồn là An Giang, Đồng Tháp, nghề nuôi cá tra và cá basa đã lan nhanh đến Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long và Tiền Giang.
Hầu hết cá tra và cá basa sau khi nuôi được chế biến dưới dạng đông lạnh trước khi đi đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Các tỉnh nuôi cá tra và basa ở Đồng Bằng sông Cửu Long đều có doanh nghiệp chế biến thủy sản gắn với các làng bè nuôi cá.
1.1.2. Nghề nuôi cá da trơn và thị trường cá da trơn ở Mỹ
Trước năm 1970, cá da trơn hay Catfish theo tên tiếng Anh vẫn chỉ là một thứ đặc sản của một số vùng ở Mỹ và nhu cầu đối với sản phẩm này rất hạn chế. Hình ảnh này đã được dần dần thay đổi bằng các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Kết quả là nhu cầu nhu cầu đối với các sản phẩm chế biến từ Catfish tăng lên. Catfish trở thành một món ăn chính ở rất nhiều nhà hàng thuỷ sản và xuất hiện ở hầu hết các siêu thị. Mức tiêu dùng cá Catfish bình quân đầu người ở Mỹ tăng từ 0,41 pao vào năm 1985 lên 1 pao vào năm 2001.
Sản lượng cá tăng từ 2.580 tấn vào năm 1970 lên 271.000 tấn vào năm 2001 với doanh số trên dưới nửa tỷ đôla. Các trại nuôi cá Catfish được tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Missisipi tại các bang Missisipi, Alabama, Ankansas và Louisiana. Khác với Đồng Bằng sông Cửu Long nơi cá được nuôi chủ yếu bằng cách thả bè trên sông, cá Catfish ở các bang miền nam nước Mỹ hiện là 76.000 ha, trong đó bang Missisipi đã chiếm tới 58% diện tích.
1.2. Hoạt động xuất khẩu cá tra và cá basa sang thị trường Mỹ
Việt nam bắt đầu xuất khẩu cá basa và cá tra sang Mỹ từ năm 1996 sau khi cấm vận kinh tế được bãi bỏ. Cá xuất khẩu vào thị trường Mỹ là sản phẩm phi lê đông lạnh. Sản lượng cá da trơn dạng phi lê đông lạnh không xương nhập khẩu từ Việt nam vào Mỹ tăng mạnh từ năm 2000. Đến cuối năm 2001, sản lượng cá phi lê đông lạnh xuất khẩu đã tăng lên gần 21.000 tấn gấp hơn 20 lần sản lượng xuất khẩu năm 1998.
Nguồn: Fulbright economic teaching program, case study “cuộc chiến catfish”
Biểu 01: Sản lượng xuất khẩu cá phi lê đông lạnh sang Mỹ qua các năm
Trước khi Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực ( tháng 12 năm 2001), cá da và cá basa phi lê đông lạnh của Việt nam xuất sang chỉ Mỹ phải chịu thuế suất khoảng 1,3% giá trị sản phẩm (suy ra từ mức thuế đơn vị 4, 4xen/kg và giá nhập khẩu trung bình 3,5 USD/kg). Còn từ tháng 12 năm 2001 sản phẩm cá tra và basa phi lê đông lạnh của Việt nam không còn chịu thuế khi nhập khẩu vào Mỹ.
An Giang là tỉnh chủ lực sản xuất cá tra, basa, là nơi tập trung những doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản lớn như công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang ( Angifish), công ty nhập khẩu nông sản thực phẩm An Giang ( Afiex) và công ty trách nhiệm hữu hạn Nam Việt. Các doanh nghiệp lới với các địa phương khác gồm công ty Vĩnh Hoàn ( Đồng Tháp), công ty Catato (Cần Thơ) và công ty Cafatex ( Cần Thơ). Các công ty này hiện chiếm tới 95% kim ngạch xuất khẩu cá phi lê đông lạnh của Việt nam với thị phần của từng công ty được trình bày trong biểu 02
Nguồn : Fulbright economic teaching program, case study “cuộc chiến catfish”
Biểu 02: Cơ cấu kinh ngạch xuất khẩu cá phi lê đông lạnh của Việt Nam năm 2000 theo doanh nghiệp
1.3. Vụ kiện cá tra, basa của hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ.
Sau một thời gian hưởng sự gia tăng cả về sản lượng và giá cả, các nhà nuôi cá Catfish bắt đầu phải chấp nhận giảm giá từ năm 2001. Giá bình quân một pao mà các nhà nuôi cá Catfish nhận được giảm từ 75 xen ( 2000) xuống 66 xen năm 2001 và 50 xen ( 2002). Hiệp hội các nhà nuôi cá Catfish Mỹ (CFA) lập luận rằng giá bán hiện nay thấp hơn chi phí sản xuất tới 15 xen. Tổng doanh số cá Catfish nội địa bán cho các đơn vị chế biến giảm 20% từ 446 triệu USD năm 2000 xuống 385 triệu USD năm 2001. CFA coi các sản phẩm gây ra sự giảm sút này với lập luận rằng sản phẩm của Việt nam đang được bán tại Mỹ với giá thấp hơn 1 USD/pao so với sản phẩm nội địa. Chính vì vậy họ chủ trương dấy lên cuộc chiến chống lại cá tra và basa của Việt nam và đòn tấn công đầu tiên là vào tên gọi Catfish.
1.3.1 Kiện về tên gọi Catfish
*Lập luận của CFA
Sự thành công bất ngờ của Việt nam trong xuất khẩu cá tra và basa đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi cá nội địa của Mỹ. Cá Việt nam thắng lợi là do thay đổi về chiến lược tiếp thị. Những đợt cá đầu tiên được mang những thương hiệu khác nhau xoay quanh chữ “ basa”. Việc tiêu thụ không được thành công lắm. Năm 1996 sản lượng xuất khẩu cá da trơn dạng như phi lê đông lạnh của Việt nam vào Mỹ là 59 tấn và đến năm 1998 cũng chỉ đạt 260 tấn. Các doanh nghiệp nhập khẩu thủy sản Mỹ sau đó bắt đầu tiêu thụ sản phẩm cá basa của Việt nam trên thị trường với nhãn hiệu Catfish. Sản lượng nhập khẩu từ Việt nam kể từ đó tăng vọt. Từ 3269 tấn năm 1999 lên 8624 tấn năm 2000, 13475 tấn năm 2001 và 20965 tấn năm 2001. Như vậy sản lượng cá của Việt Nam xuất khẩu năm 2002 đã gấp hơn 21 lần so với năm1998 .
CFA còn đưa thêm bằng chứng cho rằng bao bì đóng gói cũng giống với các nhà sản xuất trong nước, nhiều hãng nhập khẩu cá của Mỹ sử dụng nhãn hiệu “ Delta Fesh”. CFA cho rằng nhãn hiệu này tạo ra sự nhầm lẫn vì người tiêu dùng có thể hiểu rằng cá được nuôi từ Đồng bằng sông Missisippi, trong khi trên thực tế là từ Đồng Bằng sông Cửu Long.
Kết luận của CFA là phía Việt nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của những người nuôi cá Mỹ.
CFA và các nhà vận động hậu trường cho những chủ trại nuôi cá tìm cách chứng minh rằng cá tra và basa của Việt nam không phải là Catfish và do vậy việc sử dụng nhãn hiệu Catfish trên bao bì là không được phép.
*Lập luận của phía Việt nam
“ Catfish” là một từ tiếng Anh thông dụng chỉ hàng trăm loại cá. Theo từ điển Webster định nghĩa thì Catfish là “ bất kỳ loại cá nước ngọt nào có da trơn, có ria gần miệng thuộc Silurifonnes”. Như vậy, thì rõ ràng cá tra và basa của Việt nam là Catfish
Theo bộ thủy sản Việt nam thì trên tất cả bao bì của sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt nam đều ghi rõ dòng chữ tiếng Anh “Product of Việt Nam” hay “ Made in Việt nam” và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại theo đúng quy định của FDA.
1.3.2. Vụ kiện bán phá giá
Mặc dù thắng lợi về quy định về tên gọi Catfish nhưng rõ ràng quy định này không cản trở được cá tra và basa của Việt nam nhập vào Mỹ. Và việc các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về vụ tranh chấp tên gọi đã làm cho cá tra và basa trở nên nổi tiếng. Với nhãn hiệu và chiến lược tiếp thị mới giá cá tra và basa phi lê đông lạnh ở thị trường tăng lên tới 20- 30% so với trước khi đổi tên. Cá tra và basa phi lê đông lạnh của Việt nam xuất sang Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2002. tăng tới 24% cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2001. Thêm vào đó không chỉ có người tiêu dùng Mỹ mà cả người tiêu dùng ở nhiều nước khác cũng biết đến sản phẩm của Việt nam. Đứng trước lo ngại về thị phần cá Việt nam ngày càng gia tăng các nhà nuôi cá và chế biến cá của Mỹ đưa ra đòn tấn công thứ hai: cáo buộc doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt nam bán phá giá cá tra và basa phi lê đông lạnh trên thị trường Mỹ.
Vào ngày 28 tháng 6 năm 2002, Hiệp hội chủ trại nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) đã đệ đơn kiện một số doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt nam lên bộ thương mại Mỹ ( DOC) và Uỷ Ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC) là các sản phẩm cá tra và basa phi lê đông lạnh được bán thấp hơn giá trị hợp lý tại thị trường Mỹ gây thiệt hại về vật chất cho sản xuất nội địa.
Luận điểm của các bên về các cáo buộc bán phá giá cá tra và basa phía các trại nuôi cá Catfish và các doanh nghiệp chế biến Catfish Mỹ :
- Về khía cạnh thứ nhất- ngày sản xuất nội địa và thiệt hại vật chất
+ Bên nguyên đơn lập luận cho rằng sản phẩm của họ chiếm khoảng 86% sản lượng sản xuất nội địa. Các trại nuôi cá bán hầu hết cho các đơn vị chế biến và đơn vị chế biến phụ thuộc hoàn toàn vào các nguyên liệu của nông dân nuôi cá. Do vậy, cá trại nuôi lẫn cơ sở chế biện cộng lại có thể đại diện cho phía sản xuất trong ngành để kiện Việt nam.
+ Hàng nhập khẩu của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng từ năm 1999 và chiếm tới 20% thị phần vào năm 2001. Các sản phẩm cá tra và basa như phi lê đông lạnh nhập khẩu luôn có giá trị hơn các sản phẩm Catfish nội địa (mức chênh lệch 0,8- 1 USD/pao).
- Về khía cạnh thứ hai- bán phá giá:
+ Trong đơn kiện nhằm khởi xướng điều tra bán phá giá, CFA cung cấp các tính toán về mức độ bán phá giá trên cả cơ sở kinh tế thị trường và phi thị trường.
+ Trong trường hợp kinh tế thị trường, CFA cho rằng thị trường cá tra và basa phi lê đông lạnh ở Việt nam quá nhỏ nên không thể căn cứ vào giá nội địa để tính giá trị hợp lý. Do CFA cũng không tìm thấy được số liệu về giá xuất khẩu của Việt nam ở một nước thứ ba nên trong tính toán CFA tự xây dựng chi phí sản xuất.
+ Trường hợp kinh tế phi thị trường, CFA chọn ấn Độ là nước “ có khả năng so sánh”. Vì ấn Độ có cùng mức độ phát triển như Việt Nam và có sản xuất đáng kể cá trê trắng giống cá tra và basa.
+ Giá cả nguyên liệu chế biến cá phi lê đông lạnh ở ấn độ được sử dụng để tính giá trị hợp lý. Đối với số lượng các nhân tố sản xuất CFA cho rằng không thu thập được thông tin tin cậy của Việt nam. Với lập luận quy trình chế biến cá phi lê đông lạnh gần như giống nhau ở mọi nơi trên thế giới, CFA dựa vào số liệu về lượng nhân số sản xuất của một số cơ sở chế biến của Mỹ sau khi đã hiệu chỉnh những khác biệt được biết đến ở Việt nam để tính toán.
* Phía các doanh nghiệp chế biến cá tra và basa phi lê đông lạnh của Việt nam :
- Về khía cạnh thứ nhất – ngành sản xuất nội địa và thiệt hại vật chất:
+ Việc quy định về tên gọi vừa qua chứng tỏ rằng không có một sản phẩm nào ở Mỹ là đồng nhất với cá tra hay basa của Việt nam. Do vậy, vụ kiện phải dựa vào sản phẩm sản xuất ở Mỹ giống nhất với cá tra hay basa đông lạnh.
+ Ngành kinh tế được xem xét là chế biến cá phi lê đông lạnh và do vậy các chủ trại nuôi cá Catfish đủ tư cách đại diện cho các nhà sản xuất sản phẩm chế biến
Ngành chế biến Catfish phi lê đông lạnh của Mỹ không bị thiệt hại vật chất do cả sản lượng nội địa lẫn nhập khẩu đều tăng và không cạnh tranh trực tiếp về giá giữa hai loại.
- Về khía cạnh thứ hai- bán phá giá :
+ Việt nam lập luận mạnh mẽ cho tư cách kinh tế thị trường
+ Với tư cách kinh tế thị trường, giá cả phi lê trong thị trường nội địa của Việt nam có thể được dùng để tính giá trị hợp lý.
+ Ngay cả khi vẫn coi Việt nam là nước chưa có kinh tế thị trường thì đề xuất chọn ấn Độ là nước thứ ba để so sánh giá thành cá tra, basa Việt nam xuất sang thị trường Mỹ vẫn là vô lý. Vì cá trê trắng ấn Độ khác với cá basa, cá tra Việt nam và kỹ thuật nuôi cá, quy trình chế biến phi lê và chi phí sản xuất của ngành cá hai nước cũng hoàn toàn khác biệt.
+ Quy trình chế biến cá là quy trình khép kín từ nuôi cá đến chế biến cá phi lê đông lạnh.
1.4. Động cơ của CFA khi kiện sản phẩm cá tra và basa của Việt nam.
Động cơ về lợi nhuận: Kinh tế Mỹ suy thoái, giá năng lượng tăng cầu giảm, giá giảm trong khi giá thành sản xuất tăng làm cho lợi nhuận giảm. Mặt khác CFA vừa đổ tội cho các doanh nghiệp Việt Nam bán pháp giá cá tra và Basa và áp với mức thuế cao vừa cho rằng thiệt hại của họ là do thiên tai gây ra để xin được hưởng tiền trợ cấp của chính phủ (ít nhất 80% số tiền thu được sẽ chui vào túi các thành viên CFA).
Động cơ về thị trường : CFA lo ngại cho vị thế độc quyền của cá nheo Mỹ ngay trên đất Mỹ. Do đó họ đã sử dụng mọi biện pháp để ngăn chặn không cho cá tra và basa xâm nhập vào thị trường Mỹ. Mục đích là để bảo vệ mình khỏi sự cạnh tranh hợp pháp và làm triệt tiêu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Hoa Kỳ với doanh nghiệp Việt Nam.
- Động cơ về chính trị:
+ Quan điểm bảo hộ mậu dịch cho rằng xuất khẩu thì tốt hơn nhập khẩu. Do vậy họ cần phải ủng hộ chính sách bảo hộ về phía mình và lên án chính sách bảo hộ của phía nước đối tác.
+ Bảo vệ hàng nghìn người nuôi cá trong nước và bảo vệ ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản.
+ Các quyết định ngoại thương mang tính chính trị cao, bị ảnh hưởng bởi một nhóm nhỏ những nghị sĩ. Mọi chính sách thương mại thường đem lại lợi ích cho một nhóm người, nhưng lại gây hại cho nhóm khác. Tự do nhập khẩu cá basa của Việt Nam làm lợi cho người tiêu dùng thu nhập thấp ở Mỹ, nhưng lại gây hại cho các chủ trại trên thị trường Catfish. Do đó, các chính sách thương mại thường thiên lệch theo hướng bảo vệ những nhóm lợi ích hùng mạnh, thậm chí đưa ra những lý lẽ trái ngược nhau như việc coi cá basa giống Catfish nhưng không được mang tên Catfish.
Chương IIPhân tích động cơ vụ kiện cá tra và basa của Việt nam xuất khẩu sang Mỹ
2.1. Phân tích động cơ của CFA kiện cá tra và cá basa của Việt nam
2.1.1 CFA và tên gọi Catfish
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ ( CFA) đại diện cho giới chủ trại nuôi cá giàu có có bang Missisipi và một số bang miền nam nước Mỹ. Là một ngành sản xuất quan trọng tại các bang này. Các chủ trại nuôi cá nheo thu lợi rất lớn và họ đã dầy công để đưa con cá nheo trở thành một món ăn phổ biến được tiêu thụ rộng rãi khắp cả nước. Quyền lợi của họ gắn chặt với loài cá này. Cho nên họ rất lo lắng khi thấy những sản phẩm cá da trơn được nhập từ nước ngoài có phẩm chất tốt hơn, giá bán rẻ hơn đang chiếm lĩnh trên thị trường Mỹ. Do đó, họ tiến hành vụ kiện cá basa của Việt nam.
“ Catfish” là tên tiếng Anh chỉ tính có các loài cá da trơn ( không vảy). Theo cách phân loại tất cả các loài cá đó đều thuộc bộ cá nheo gồm khoảng
2.500 loài cá đến 3000 loài khác nhau phân bố trong các thuỷ vực nước ngọt, mặn và nợ trên khắp thế giới.
2.1.2. Động cơ của CFA.
2.1.2.1. Động cơ về lợi nhuận.
Lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó.
∏ = R- C
∏: Lợi nhuận
R: Doanh thu
C: Chi phí
Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp, tổ chức có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp hay tổ chức đó có tạo ra được lợi nhuận hay không.
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo cuả Mỹ ( CFA) cũng không nằm ngoài quy luật đó
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời. Hoạt động của các doanh nghiệp luôn dựa trên một mục tiêu duy nhất đó là lợi nhuận. Họ tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp mình, tổ chức mình kể cả bằng các biện pháp cạnh tranh lành mạnh lẫn các hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Khi hoạt động trong một môi trường kinh doanh như vậy thì bất kỳ sự cạnh tranh không lành mạnh nào mà ảnh hưởng đến lợi nhuận của các bên sẽ bị trả đũa.
Như đã nêu ở chương I, từ năm 1970 cá da trơn hay Catfish đã dần trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng Mỹ. Thông qua hành loạt các chiến dịch quảng cáo, tiếp thị các nhà sản xuất cá nheo Mỹ đã làm thay đổi hình ảnh của sản phẩm Catfish. Kết quả là nhu cầu đối với các sản phẩm chế biến từ Catfish tăng lên. Nó trở thành món ăn chính của rất nhiều nhà hàng thuỷ sản và xuất hiện ở hầu hết các siêu thị. Mức tiêu dùng cá Catfish bình quân đầu người ở Mỹ tăng từ 0,41pao vào năm 1985 lên 1 pao vào năm 2001. Hầu hết nguyên liệu cho chế biến các sản phẩm này đều do các trại cá ở các bang Missisippi, Alabama, Arkansas và Louisana cung cấp. Trong đó bang Missisippi có diện tích mặt nước ao hồ lớn nhất chiếm 58% diện tích. Nếu năm 1970 các nhà nuôi cá nheo Mỹ chỉ sản xuất được 2.580 tấn thì vào năm 2001 đã lên tới 270.000 tấn với doanh số trên dưới nửa tỷ đô la. Cá Catfish trở thành sản phảm quan trọng đối với các bang miền nam nước Mỹ.
Tuy nhiên thị trường Catfish gia tăng ở Mỹ đã hấp dẫn hàng nhập khẩu từ nước ngoài như Braxin, Guyana, Trung quốc và Việt nam. Sự có mặt của các sản phẩm cá da trơn từ các nước này với chất lượng cao giá thấp đã làm cho phí giá cá trên thị trường Mỹ giảm. Giá bình quân 1 pao mà các nhà nuôi cá Catfish nhận được giảm từ 75 xen năm 2000. Từ đó dẫn đến doanh số nội địa bán cho các đơn vị chế biến giảm 20%. Từ 446 triệu USD năm 2000 xuống 385 triệu USD năm 2001. Điều này ảnh hưởng mạnh đến các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ. Nguồn thu nhập chính của họ có nguy cơ bị đe doạ bởi các sản phẩm xuất khẩu.
Mặt khác kinh tế Mỹ trong giai đoạn này đang suy thoái, giá năng lượng trên thị trường thế giới cũng như tại Mỹ tăng. Nền kinh tế suy thoái làm cho nhu cầu về các sản phẩm cá Catfish bị giảm họ buộc phải giảm giá bán sản xuất lại tăng do đó lợi nhuận giảm.
Do nhu cầu của người tiêu dùng về thủy sản giải và lại chịu gánh nặng mở rộng sản xuất, các nhà nuôi cá Catfish Mỹ phải tìm ra lý do giải thích vấn đề của họ. Họ cho rằng cá tra và basa của Việt nam chính là nguyên nhân gây ra sự giảm sút về lợi nhuận. Họ đổ lỗi cho các nhà nhập khẩu và Việt Nam là một mục tiêu dễ dàng vì các doanh nghiệp Việt Nam ít có kinh nghiệm ở thị trường Mỹ.
2.1.2.2. Động cơ về thị trường
Thị trường tiêu thụ cá da trơn của Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng. Với dân số trên 200 triệu dân và GDP hàng năm đạt trên dưới 10.000 tỷ USD, mức tiêu dùng cá và hải sản các loại bình quân đầu người ở Mỹ hiện nay là 15 pao, sản lượng tiêu thụ cá Catfish mới chỉ chiếm 3- 4% tổng lượng cá và hải sản tiêu thụ. Chính vì quy mô rộng lớn các thị trường Mỹ đã thu hút rất nhiều các quốc gia tham gia xuất khẩu vào thị trường này.
Trong 10 năm qua các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ gần như độc quyền, không có đối thủ cạnh tranh. Nhưng từ khi các nước thực hiện xuất khẩu cá da trơn vào Mỹ đã làm cho CFA dần mất đi vị thế độc quyền. Cá tra và basa của Việt nam bắt đầu có mặt trên thị trường năm 1996. Thời gian đầu việc tiêu thụ không thàmh công. Năm 1996, sản lượng xuất khẩu cá da trơn dạng phi lê đông lạnh của Việt nam vào Mỹ chỉ được 59 tấn và đến năm 1998 cũng chỉ đạt được 260 tấn. Nhưng sản lượng bắt đầu tăng nhanh ở các năm tiếp theo ( xem Biểu 01). Đến năm 2002 sản lượng cá da trơn phi lê đông lạnh đã đạt 20.965 tấn. Thị phần cá tra và cá basa ngày càng tăng.
Bảng 03: Thị phần sản phẩm mặt hàng từ VN tại thị trường Mỹ
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Sản lượng cá tra, basa phi lê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam (tấn)
2.179
5.357
11.078
Thị phần của sản phẩm Việt Nam
3.4
8.0
15.5
Nguồn : Fulbright economic teaching program, case study “cuộc chiến catfish”
Các sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ hơn chất lượng cao hơn, với kim ngạch tăng 80% trong vòng 2 năm 2000-2002 đã làm điêu đứng nghề cá Catfish trên sông Missisippi. Do đó, CFA lo ngại thị trường cá phi lê đông lạnh sẽ bị sụp đổ bởi các sản phẩm nhập ngoại. Nên họ đã quyết định can thiệp thông qua việc tác động đến chính phủ Hoa Kỳ.
2.1.2.3. Động cơ về chính trị
Động cơ chính trị trong vụ kiện này là bảo vệ việc làm cho người nông dân và bảo vệ ngày sản xuất cá Catfish.
Phía nguyên đơn trong vụ kiện bao gồm 500 trại nuôi cá Catfish thuộc hiệp hội nuôi cá Catfish Mỹ tập trung chủ yếu ở các bang miền Nam. Phần lớn trong lực lượng 13.000 nhân công hoạt động trong lĩnh vực các Catfish đều trụ lại ở đây.
Mississippi là một trong những tiểu bang miền Nam nuôi nhiều Catfish nhất. Có thể coi Mississippi là "Thủ đô của Catfish" - sản xuất hơn 3/4 số cá da trơn nuôi tại Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong những tiểu bang nghèo nhất nước Mỹ và công nghệ sản xuất Catfish được coi là một trong những thế mạnh duy nhất của họ. Người dân chủ yếu sống dựa vào nghề nuôi các Catfish. ở một số nơi khoảng 1/2 số gia đình sống dưới mức nghèo khổ và tỉ lệ thất nghiệp đạt 20%. Khi Catfish Việt Nam với giá thành hạ vào thị trường Mỹ đã mang lại một mối lo lớn, đụng chạm sống còn về quyền lợi kinh tế của Mississippi và một vài tiểu bang lân cận.
Do đó, nếu nghành Catfish mà sụp đổ thì số người thất nghiệp ở các bang miền Nam sẽ tăng không chỉ dừng ở con số 20%. Điều này chắc chắn là không thể chấp nhận được đối với người Mỹ. Bên cạnh đó lý do bảo vệ việc làm chính phủ Mỹ còn thông qua sự can thiệp của mình để bảo vệ ngành sản xuất cá Catfish nội địa.
Chỉ khi ngành công nghiệp chế biến nội địa tồn tại và phát triển thì mới đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động. Nếu chính phủ Mỹ không bảo vệ cho ngành sản xuất này cho các nhà sản xuất chế biến cá phi lê đông lạnh thì nghĩa là người tiêu dùng Mỹ được lợi. Bởi vì họ được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao và giá cả lại rẻ hơn từ những sản phẩm nhập khẩu. Nhưng ngược lại thì các nhà sản xuất cá Catfish Mỹ sẽ gặp bất lợi, họ buộc phải hạ giá để có thể cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Giá giảm sẽ làm cho lợi nhuận giảm theo. Nhiều nhà sản xuất có thể sẽ bị phá sản. Khi đó hậu quả sẽ lớn hơn cái lợi bảo vệ người tiêu dùng. Mặt khác, thì khi bảo vệ người tiêu dùng thì chi phí Mỹ sẽ mất đi một khoản thu lợi từ thuế.
Mặt khác do sự nghiệp chính trị của những người đứng đầu tiểu bang Mississippi " gắn liền với Catfish". Do vậy nếu không bảo vệ được quyền lợi của những nhà sản xuất và kinh doanh mặt hàng thuỷ sản này thì họ sẽ mất đi những phiếu bầu quan trọng trong cuộc bầu cử vào nghị viện.
Một lý do nữa mà chính phủ bảo vệ người sản xuất đó là sự vận động hậu trường mạnh mẽ từ các nhà sản xuất, chế biến Catfish. Trong vụ kiện này CFA đã sử dụng vận động hành lang (lobbly ) để giành thắng lợi về phía họ. Ngay từ đầu CFA đã tiến hành chiến dịch vận động, gây áp lực lôi kéo nghị sĩ của các bang ở nghề nuôi cá nheo, huy động mọi lực lượng ở các cơ quan lập pháp và hành pháp để tìm kiếm sự hỗ trợ tấn công lại các sản phẩm cá da trơn Việt nam nhập khẩu. Và họ đã thành công. Dưới sức ép của CFA ngày 9-2-2001, 12 nghị sĩ Mỹ gồm 8 thượng nghị sĩ 4 hạ nghị sĩ đại biểu cho các bang nuôi nhiều cá nheo đã cùng gửi thư cho ông Robert Zoerick đại diện thương mại Mỹ kêu ca về việc cá tra và cá basa nhập khẩu từ Việt nam gây thiệt hại cho nghề nuôi cá nheo Mỹ và yêu cầu chính phủ Mỹ phải có biện pháp xử lý. Sự vận động liên tục của CFA và các nghị sĩ ở những bang nuôi cá Catfish đã cho kết quả đầu tiên là đạo luật HR 2964 của Hạ viện Mỹ thông qua vào tháng 10 năm 2001 ra lệnh cấm tạm thời tất cả các loại cá không thuộc họ da trơn Ictaruridae được mang nhãn hiệu Catfish khi tiêu thụ tại Mỹ. Vào tháng 5-2002 tổng thống Mỹ phê chuẩn Đạo luật an ninh trang trại về đầu tư nông thôn HR.2642 trong đó có điều khoản 1.806 quy định chỉ đặt tên, dán nhãn mác hoặc quảng cáo “ Catfish” cho cá loại cá da trơn họ Ictaruridae vào thị trường Mỹ để áp đặt mức thuế trừng phạt 64% đối với các sản phẩm cá da trơn (cá basa, cá tra) đông lạnh của Việt nam nhập vào thị trường Mỹ.
Với những hành động này phía Mỹ đã thành công trong việc ngăn cản cá tra và basa Việt nam vào thị trường Mỹ nhằm bảo vệ nhóm nhỏ những người sản xuất.
2.2. ảnh hưởng của vụ kiện cá tra và basa
2.2.1. Về phía Việt Nam
2.2.1.1. Tác động đến các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản
Từ khi xảy ra sự kiện đã ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp chế biến cá tra và basa phi lê đông lạnh. Trong tháng 3 năm 2002 xuất khẩu cá sang Mỹ đã giảm 65% so với cùng kỳ năm 2001.
Không những bị thiệt hại trong hoạt động xuất khẩu do sản lượng giảm sút, các công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán còn bị ảnh hưởng do giá cổ phiếu giảm. Buổi giao dịch ngày 24-7, ngày công bố quyết định kết quả vụ kiện cá tra, basa của Uỷ Ban Thương mại Mỹ số lượng giao dịch của Angifish chỉ bằng một số nhỏ ( 10 cổ phiếu). Và giá cổ phiếu của Angifish đã giảm từ 32.000 xuống còn 27.500 đ/CP sau khi vụ kiện xảy ra.
Mặt khác khi tham gia kiện các doanh nghiệp Việt Nam phải thuê luật sư nước ngoài, do luật sư của Việt Nam không có đủ khả năng, làm cho chi phí theo kiện cao. Chi phí để thuê luật sư ở Mỹ khá cao khoảng 300-500 USD/giờ làm việc.
2.2.1.2. Tác động đến người nông dân.
Nghề nuôi cá tra, basa tại các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long là một nghề truyền thống. Hầu hết người dân tại An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. . . . đều có người làm nghề này, và có nhiều hộ làm từ rất lâu rồi. Đây là nghề đã mong tính chất cha truyền con nối. Hầu hết các hộ gia đình đã quen sống bằng nghề này.
Nghề nuôi cá tra và basa là một nghề rất đặc thù. Chưa kể trong các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu, nghề này giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Chỉ riêng ở An Giang số lao động trong các nhà máy chế biến không dưới 5000 công nhân, trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản của Vĩnh Long là trên 2.200 người. Hơn 90% lao động trong các nhà máy chế biến là người địa phương.
Với một lượng người lao động đông đảo phụ thuộc vào nghề nuôi cá tra và basa như vậy, tác động của vụ kiện đến họ là rất lớn. Hàng vạn người dân ở ĐBSCL có nguy cơ không có nghề sinh nhai do chưa có điều kiện làm nghề khác. Điều này không những đúng với các chủ trại nuôi cá mà còn đúng với các lao động làm thuê trong các bè và hầm cá. Việc thay đổi nghề không phải một sớm một chiều mà làm được nhất là khi thị trường đầu ra cho một sản phẩm mới còn chưa được định hướng. Nhiều gia đình sẽ trở thành con nợ lâu dài. Cuộc sống của nhiều người dân nghèo phụ thuộc vào nghề sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
2.2.1.3. Tác động của Nhà nước
Việc DOC áp dụng thuế chống bán phá giá với doanh nghiệp Việt Nam làm cho sản lượng xuất khẩu của Việt Nam giảm. Tác động đầu tiên trực tiếp đó là Nhà nước sẽ mất đi một khoản thu đáng kể từ thuế. Lượng cá xuất giảm làm giảm tìên thu từ thuế cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó là việc giảm nguồn thu ngoại tệ từ nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì ngoại tệ là nguồn quan trọng để phát triển đất nước.
Tác động gián tiếp đó là vấn đề xã hội, việc giảm sản lượng xuất khẩu có thể làm cho lượng người thất nghiệp tăng. Và nhà nước sẽ phải tốn chi phí trong việc giải quyết vấn nạn này.
2.2.2. Về phía Mỹ
2.2.2.1. Tác động đến các doanh nghiệp chế biến
Người được lợi nhất trong vụ kiện này là hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ và các doanh nghiệp chế biến. Việc cản trở cá tra và cá basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ giúp CFA trở thành gần như độc quyền về các sản phẩm phi lê đông lạnh trên thị trường Mỹ. Do đó họ có thể áp đặt mức giá sao cho có lợi cho họ nhất.
2.2.2.2. Tác động đến người tiêu dùng Mỹ và các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
Trong vụ kiện này thì người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu, phân phối cá nheo ở Mỹ bị thiệt hại lớn nhất với mức thuế chống bán phá giá bất công với mục đích bảo hộ một nhóm nhỏ có lựa chọn các nhà sản xuất. Người tiêu dùng và các doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ sẽ chịu hậu quả do sự suy giảm cạnh tranh, tăng giá và ít có hơn cơ hội lựa chọn mặt hàng.
2.2.2.3. Tác động đến chính phủ Mỹ
Với phán quyết mang nặng tính bảo hộ như vậy đã làm hài lòng một nhóm nhỏ các nghị sĩ trong quốc hội có lợi ích gắn liền với ngành nuôi cá nheo Mỹ. Chính phủ Mỹ đã đạt được mục tiêu vừa không làm mất lòng các cử tri ở các bang miền Nam vừa bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Và với quyết định đánh thuế cao như vậy họ còn thu được một khoản thuế đáng kế từ hàng nhập khẩu.
2.3. Tồn tại và những nguyên nhân của vụ kiện cá tra và cá basa Việt Nam
Ngày 24/7/2003 ITC ra quyết định xác nhận cá tra cá basa Việt Nam có khả năng gây thiệt hại cho ngành cá da trơn Mỹ. Do đó quyết định của DOC về áp dụng thuế chống bán phá giá với doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng này có hiệu lực. Các công ty tham gia vụ kiện này là Vĩnh Hoàn, Angifish, Nam Việt, Catacô và 7 công ty nhỏ có mức thuế từ 36,84 đến 53,68%. Các công ty khác không tham gia vụ kiện bị áp mức thuế 63,88%.
Trước quyết định áp đặt vô lý này hiệp hội thuỷ sản Việt Nam tuyên bố tiếp tục kiện DOC lên toà án thương mại quốc tế Hoa Kỳ để nhằm thay đổi quyết định bất công của DOC. Các thủ tục cho vụ kiện sẽ được hoàn thiện trong vòng một năm. Và trong một năm đó, trước khi vụ kiện DOC diễn ra thì các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu mức thuế chống bán phá gía nêu trên.
Vụ kiện này là một bài học cảnh báo cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài để họ nhận thức được rằng bước vào toàn cầu hoá là những cuộc chiến không khoan nhượng. Vụ kiện này còn rất nhiều những tồn tại và nguyên nhân cần khắc phục để có thể đối phó với các vụ kiện sắp tới mà gần nhất là vụ kiện phá giá tôm của Mỹ.
Những tồn tại cần khắc phục đó là:
Việt Nam vẫn chưa được coi là nước có nền kinh tế thị trường. Việc xác định một nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường được áp dụng cho các nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Nga, các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, Trung Quốc và bây giờ là Việt Nam. Các tiêu chí được DOC xem xét để đưa ra quyết định một nước có nền kinh tế thị trường hay phi thị trường là:
Khả năng chuyển đổi của đồng tiền.
Mức độ trong đó lương bổng được mặc cả tự do.
Mức độ mà các công ty liên doanh được hoạt động tại nơi đó.
Mức độ sở hữu của chính phủ đối với các phương tiện sản xuất.
Mức độ chính quyền kiểm soát việc phân phối tài nguyên.
Tháng 12/2002, DOC đã quyết định nền kinh tế Việt Nam là phi thị trường. Do đó DOC chỉ yêu cầu Việt Nam cung cấp số liệu về sản lượng sản xuất và lượng các nhân tố sản xuất còn các mức giá của ấn Độ, Bănglađét được sử dụng để tính giá trị hợp lý.
Bên cạnh đó Việt Nam chưa gia nhập WTO nên vụ kiện này không thể đưa ra xem xét ở mức độ quốc tế được. Việt Nam sẽ không được áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp khá công bằng của WTO. Quyết định của toà án thương mại Mỹ sẽ là quyết định cuối cùng. Đây là một thiệt thòi của Việt Nam.
Về phía các doanh nghiệp Việt Nam thì còn thiếu hiểu biết về thị trường nước ngoài không có kiến thức về tổ chức thương mại thế giới và hiệp định thương mại của Mỹ. Do đó không biết được các quy định, cơ chế của tổ chức này để vận dụng vào hoạt động của mình.
Một thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua đó là họ vẫn chưa quan tâm đến phát triển thương hiệu, các quy định về ghi nhãn mác tạo cơ sở cho phía nước ngoài kiện cáo. ở vụ kiện cá tra và basa ban đầu khi mới vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp dùng thương hiệu Catfish quen thuộc của thị trường này. Chỉ sau khi bị kiện về tên gọi mới bắt đầu quan tâm tới tên hiệu riêng cho sản phẩm của mình.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nhiều doanh nghiệp còn chưa nghiêm chỉnh thực hiện những quy định về xuất khẩu. Như những quy định về nhãn mác, xuất xứ hàng hoá về vấn đề giá bán….
ở Việt Nam hiện nay còn thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn có hiểu biết sâu về luật kinh doanh quốc tế. Chưa có các luật sư giỏi. Nên khi tham gia kiện các doanh nghiệp phải thuê các luật sư của nước ngoài làm cho chi phí theo kiện cao.
Các vụ kiện phía nước ngoài đều yêu cầu ta cung cấp cho họ thông tin cho tiết về các yếu tố giá thành, giá về một số vấn đề tổng hợp khác chỉ trong khoảng một tháng. Tổng hợp những thông tin này phải từ nhiều nguồn, trong khi việc xử lý thông tin gặp nhiều khó khăn do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc lưu trữ các thông tin về hoạt động kinh doanh của mình.
Các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã tập hợp trong một hiệp hội nhưng vẫn còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, không tuân thủ những nghị quyết các hiệp hội tự ý hoạt động. Hiện nay chúng ta có khoảng 20 đầu mối xuất khẩu thuỷ sản mặc dù sinh hoạt chung ở hiệp hội Vasep nhưng vẫn có tình trạng tranh mua tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh hạ giá sản phẩm một cách vô tội vạ, không những chỉ gây thiệt hại đối với người sản xuất trong nước mà còn ảnh huởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu mặt hàng này. Như trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu ồ ạt vào thị trường Mỹ cạnh tranh với nhau thậm chí giá hạ gây thiệt hại cho ngành và tạo lý do cho phía nước ngoài can thiệp. Trong vụ kiện này các nguyên đơn đã cáo buộc rằng hoàn cảnh nghiêm trọng đã tồn tại đối với vấn đề nhập khẩu phi lê cá đông lạnh từ Việt Nam đây là việc xuất khẩu ồ ạt vào thị trường trong thời gian điều tra điều này làm phức tạp quá trình điều tra, tạo sức ép lớn hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương IIINhững bài học kinh nghiệm và giải pháp đối với các vụ kiện bán phá giá quốc tế
3.1. Những bài học kinh nghiệm.
Vụ kiện và cá tra và Basa là một bài học quý báu cho các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh quốc tế. Họ phải học cách vượt qua các rào cản thương mại quốc tế nếu muốn kinh doanh thành công ở thị trường nước ngoài. Đây không phải là vụ kiện cuối cùng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế cho nên các doanh nghiệp cần rút ra các bài học để đối phó với các vụ kiện sắp tới.
Bài học đầu tiên đó là việc phát huy vai trò của các hiệp hội có vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp khi kinh doanh quốc tế cần tổ chức thành các hiệp hội ngành hàng xuất nhập khẩu. Vì khi tham gia vào thương mại quốc tế thì những vụ kiện tương tự sẽ luôn tồn tại. Đó là điều không thể tránh khỏi và xảy ra thường xuyên hơn, bản thân một doanh nghiệp không thể giải quyết được. Khi xảy ra kiện tụng hiệp hội sẽ đứng ra giải quyết làm các thủ tục theo kiện. Chỉ có liên kết thang các hiệp hội các doanh nghiệp thuộc cùng ngành nghề mới. Có thể đoàn kết gắn bó và có đủ tiềm lực tài chính để theo điều kiện các hiệp hội doanh nghiệp có thể đứng ra mời các luật sư đến từ các nước là thị trường xuất khẩu để bàn thảo về luật của thi trường đó. Ngoài ra các hiệp hội còn thu thập thông tin về hệ thống luật pháp, tìm hiểu về thị trường, mẫu mã, các quy định về chất lượng hàng hoá.
Khi xảy ra tranh chấp thương mại thì vai trò của luật sư tư vấn. Do đó các doanh nghiệp nên có luật sư tư vấn trong hoạt động kinh doanh nhằm tránh những tranh chấp không đáng có. ở Mỹ có tập quán là giải quyết các tranh chấp bằng cách đưa nhau ra trước toà. Vì thế mỗi một doanh nghiệp của Mỹ đều có các luật sư tư vấn.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi hoạt động trên thị trường Mỹ cũng cần phải làm quen với tập quán này nếu không muốn bị thua trong các vụ kiện. Từ vụ kiện này nếu các doanh nghiệp Việt Nam có luật sư tư vấn tìm hiểu hệ thống luật pháp nhu cầu thị trường, đặc biệt là tình hình sản phẩm tại quốc gia nhập khẩu mặt hàng này tìm hiểu thật kì nguyên nhân sâu xa của vấn đề dẫn đến tranh chấp thì có thể tránh tình trạng càng kéo dài không cần thiết.
Bài học tiếp theo đó là các doanh nghiệp liên quan đến vụ kiện cần sớm bắt tay vào hành động để giành thế chủ động. Hiệp hội cần tập hợp tài liệu liên quan đến vụ kiện gửi cho các doanh nghiệp. trước khi khởi kiện các doanh nghiệp nên tích cực mời các luật sư có kinh nghiệm và các chuyên gia kinh tế đến doanh nghiệp mình hướng dẫn các thức điều tra giúp doanh nghiệp làm tốt công tác chuẩn bị. Trong thời gian điều tra cần tích cực hợp tác với phía đối tác, với phái đoàn điều tra để cung cấp thông tin cần thiết. Thực tế vì vụ kiện cá ba tra, cá basa các doanh nghiệp mà tham gia vụ kiện bị áp mức thuế 63, 88%.
Các doanh nghiệp phải đa dạng hoá thị trường để tránh rủi ro không chỉ ở phát triển các thị trường nước ngoài mà cả thị trường trong nước. Tránh tập trung quá nhiều có một thị trường dẫn đến tình trạng phụ thuộc dễ gặp rủi ro khi thị trường đó biến động. Bên cạnh đó cũng cần đa dạng hoá các mặt hàng, không tập trung các một số ít mặt hàng nhằm tránh rủi ro.
Mặt khác trong quá trình theo kiện thì sự ủng hộ chi viện kịp thời của các bộ ngành là rất quan trọng. Các bộ ngành cần phát huy vai trò về tác dụng của mình kịp thời. Can thiệp chi viện có hiệu quả trong thời điểm quyết định một bài học nữa từ vụ kiện việc sử dụng vận động hàng lang (lobby) để bảo vệ lẽ phải của mình.
Lobby là phương tiện giành cho mọi tổ chức kinh tế - xã hội để bàn rõ quan điểm về quyền lợi chính trị kinh tế của mình đối với chính quyền và dư luận. Trong vụ kiện này CFA đã sử dụng lobby để giành thắng lợi trước các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể vận động các cá nhân tổ chức có chung quyền lợi là các nhà nhập khẩu cá tra và basa góp tiền cùng thúc các tổ chức lobby chuyên nghiệp. Lobby không chỉ với chính quyền mà còn hướng tới dư luận. những người tiêu dùng có lợi ích với hàng nhập khẩu giá cạnh tranh qua đó tác động gây áp lực với chính quyền và cùng thông qua lobby có thể thương thảo với người kiện thoả thuận với mức giá bán và sản lượng xuất khẩu mà hai bên chấp nhận được.
3.2. Kiến nghị và giải pháp
Từ những tồn tại, thực trạng và bài học rút ra từ vụ kiện cá tra và basa rút ra các kiến nghị và giải pháp để đối phó với các vụ kiện tương tự sắp xảy ra.
3.2.1. Đối với các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp không nên "bỏ trứng vào một rổ" cần phải đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá sản phẩm để tránh rủi ro khi phải phụ thuộc vào một thị trường, một mặt hàng nào đó. Ngoài việc phát triển các thị trường mới ở nước ngoài cần tập trung khai thác thị trường tiềm năng trong nước. Đây chính là cơ sở để tạo ra sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp không bị phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài, nơi các yếu tố môi trường thường xuyên biến động và luôn tiềm tàng những rủi ro cho doanh nghiệp khi kinh doanh ở đó.
Đối với nguồn nguyên liệu đầu vào cho chế biến cần nâng cao chất lượng thông qua cải tiến thức ăn, quản lý môi trường. Chỉ có vậy mới nâng cao được tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới và đảm bảo vượt qua được các rào cản về vệ sinh của các thị trường khó tính. Châu âu là một thí dụ điển hình, đây là thị trường tương đối ổn định đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng yêu cầu về vệ sinh công nghiệp hết sức khắt khe. Các sản phẩm từ khâu nuôi trồng đến chế biến phải đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh thì mới được phép bán tại đây.
Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào một thị trường lớn thì phải tìm những khách hàng mua lớn. Khi mới thâm nhập trên thị trường các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đến những nhà phân phối và bán lẻ trên toàn nước Mỹ như walmant.
Các sản phẩm Việt Nam nếu bán trực tiếp tới khách hàng Mỹ thì có thể gặp phải cản trở từ phía nhà sản xuất Mỹ. Nhưng nếu sản phẩm do chính người Mỹ bán thì sẽ thuận lợi. Những nhà phân phối và bán lẻ này thường có hệ thống hàng tiêu thụ rộng khắp cả nước. Có mối quan hệ rộng rãi với các khách hàng. Do đó doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ để đưa hàng hoá của mình vào Mỹ được nhanh chóng. Nên mời họ đến Việt Nam xây dựng mối quan hệ với họ. Sau đó họ sẽ có đơn đặt hàng với loại hàng nào, số lượng bao nhiêu, thời gian giao hàng, mẫu mã như thế nào. . . Tuy nhiên về dài hạn các doanh nghiệp Việt Nam phải tự xây dựng được hệ thống phân phối riêng của mình để tránh phụ thuộc. Những bước đầu tiên để đột phá vào thị trường lớn thì phải dùng ngay những doanh nghiệp đã có chân trên thị trường đó.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần có thái độ tích cực theo đuổi các vụ kiện khi bị nước ngoài phá giá. Khi bị kiện các doanh nghiệp cần chủ động hầu kiện. Thông qua các hiệp hội các doanh nghiệp cần đồng lòng, hiệp sức chủ động đứng lên kháng kiện giành quyền lợi hợp pháp cho mình. Tất cả các doanh nghiệp phải có ý thức về tầm quan trọng của vấn đề cùng thống nhất có thái độ tích cực tiến hành kháng cáo. Các doanh nghiệp cần đoàn kết thành một tổ chức như hiệp hội cùng nhau đưa ra chiến lược giá, sản lượng xuất khẩu vào một thị trường một cách hợp lý tránh tình trạng doanh nghiệp trong cùng một tổ chức lại "đá nhau" ở thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đảm bảo cơ cấu giá thành hợp lý để luôn chứng minh được không bán dưới giá thành, không nên quá nặng vào yếu tố giá thành thấp trên thị trường gây nghi ngờ cho các nước.
Hệ thống kế toán sổ sách trong doanh nghiệp nên sử dụng hệ thống kế toán độc lập, thực hiện công khai kế toán tài chính tạo lòng tin trên thị trường quốc tế.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh những quy định. Sản phẩm phù hợp với những đòi hỏi và những đặc tính của từng thị trường.
Các doanh nghiệp cần tổ chức lưu trữ hồ sơ trong sản xuất kinh doanh sẵn sàng làm chứng cứ để chứng minh sự làm ăn đứng đắn của doanh nghiệp mình trang có những hành động tạo cớ cho phía đối tác kiện tụng.
Doanh nghiệp khi thâm nhập vào bất cứ thị trường nào cũng cần tìm hiểu chi phí sản xuất ở nước sở tại như thế nào bán giá bao nhiêu để đưa ra được mức giá cho phù hợp. Tránh tình trạng bán thấp hơn giá bán của các sản phẩm cùng loại tại thị trường đó tạo cớ cho bên nước ngoài kiện bán phá giá.
Bên cạnh đó có các doanh nghiệp cũng cần phải nắm vững và thu thập đầy đủ thông tin và thường xuyên về thị trường, cơ chế chính sách, pháp luật của nhà nước sở tại, những căn cứ giúp các doanh nghiệp lường trước được những rắc rối có thể xảy ra chủ động đối phó
3.2.2. Đối với Nhà nước
Chính phủ Việt nam cần tích cực triển khai việc đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường. Mặc dù Việt Nam đã tạo được những thành tựu vượt bậc trong một số cuộc cải cách nhưng Mỹ vẫn không công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường vì vậy phía này đã cho rằng các số liệu mà Việt Nam đưa ra là không đáng tin cậy. Và họ cho đã đưa ra tính toán dựa trên số liệu của mình để rồi kết luận rằng việt Nam bán phá giá cá tra và basa vào thị trường Mỹ. Đây là cái cớ để phía Mỹ vin vào nhằm ngăn cản cá tra và basa vào thị trường Mỹ. Do đó Việt Nam phải tích cực đàm phán tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia khác công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO nên các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể kháng án tại toà thương mại quốc tế của Mỹ, chứ không thể đem ra kiện tại WTO nơi, theo cơ chế giải quyết tranh chấp, một hội đồng trọng tài sẽ được thiết lập bởi các thành viên độc lập cho các nước thứ ba. Vì vậy chính phủ cần chủ động đẩy mạnh quá trình đàm phán gia nhập WTO. Chỉ khi nào là thành viên của tổ chức này thì Việt Nam mới tránh được sự phân biệt đối xử trong thương mại, bao gồm cả việc giải quyết các tranh chấp về bán phá giá. Hơn nữa khi đó Việt Nam mới có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp khá công bằng của WTO. Trong vụ kiện này do chưa là thành viên của WTO nên Việt Nam không thể đưa ra xem xét ở mức độ quốc tế được và quyết định của toà án thương mại Mỹ là quyết định cuối cùng. Ngoài những lý do khác về thuế quan, hạn ngạch và tiếp cận thị trường khi là thành viên của WTO, thì vấn đề ra nhập WTO càng trở nên cấp thiết khi Việt Nam còn phải đối phó với nhiều vụ kiện về bán phá giá và các tranh chấp khác từ các nước đối tác, và vụ kiện bán phá giá tôm đang được phía Mỹ cân nhắc gần đây là một ví dụ.
Từ bài học về vai trò của các hiệp hội, nhà nước cần phát huy hơn nữa vai trò của các hiệp hội chuyên ngành hoặc của các tổ chức nhóm sản phẩm, tăng cường sự phối hợp của các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh nghiệp. Nhà nước cần tổ chức các hội, hiệp hội sao cho chúng hoạt động có hiệu quả nhất không chỉ phát huy được vai trò khi xảy ra tranh chấp thương mại mà còn cả trong hoạt động kinh doanh thông thường. Kinh nghiệm trong việc kiện bán phá giá cá tra và basa, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã tập hợp được 14 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa cùng nhau chia sẻ chi phí, kiên quyết theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu không có vai trò của Hiệp hội thì một doanh nghiệp riêng sẽ khó đủ điều kiện để theo đuổi vụ kiện.
Một nguyên nhân dẫn đến vụ kiện đó chính là sự thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp về kiến thức kinh tế quốc tế. Do đó cần tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp có những hiểu biết cơ bản về thị trường quốc tế, thương mại quốc tế. Đặc biệt là về các rào cản thương mại như biện pháp chống bán phá giá. Các doanh nghiệp cần phải hiểu được mình nên làm gì và phải làm như thế nào khi hàng xuất khẩu của mình bị nước ngoài điều tra bán phá giá. Trong thời gian tới cần coi trọng công tác đào tạo của cán bộ có kiến thức về biện pháp chống bán phá gía. Hiện nay chúng ta chưa nắm vững và vận dụng tốt các quy định pháp luật về thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá. Do đó cần phải quan tâm và nghiên cứu sâu hơn nữa về bán phá giá đưa nội dung này vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học sao cho có thể đào tạo một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực để đối phó với biện pháp cản trở thương mại đang ngày càng được áp dụng rộng rãi này.
Chính phủ và các bộ, ban, ngành cần sớm ban hành pháp lệnh về chống bán phá giá. Đây là công cụ cần thiết để nhằm đối phó với hàng Nhập khẩu bán phá gía vào VN nhằm bảo vệ nền công nghiệp nội địa của Việt Nam. Bên cạnh đó cũng cần tiếp tục hoàn thiện bổ sung các luật khác có liên quan sao cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là về chế độ kế toán, vì với một chế độ phù hợp thì quá trình điều tra sẽ thuận lợi hơn và kết luận sẽ chính xác hơn.
Nhà nước cần có những biện pháp để giúp đỡ cho các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua những khó khăn khi bị kiện bán phá gía. Chính phủ có thể thành lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện, tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, chuẩn bị cho họ những hành trang kiến thức cần thiết.
Hiện nay cá tra và basa đã trở thành sản phẩm của vùng nên Bộ thuỷ sản cần có quy hoạch và cơ chế giám sát nhằm quản lý được quy mô sản xuất không để sản xuất tự phát tràn lan cung vượt cầu. Chấp nhận cho các doanh nghiệp cạnh tranh những không được giảm giá xuất khẩu đến mức gây bất lợi cho nông dân (không vì cạnh tranh mà bán phá giá) đồng thời có thể tạo ra lý do để phía nước ngoài lợi dụng áp đặt luật chống phá gía.
Một khi các nhà sản xuất mặt hàng tại nước nhập khẩu tiến hành nộp đơn yêu cầu điều tra phá gía. Cần tiến hành vận động bằng nhiều cách khác nhau để vận động các cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu không tiến hành điều tra. Nếu nước nhập khẩu cần tiến hành điều tra thì cần tích cực vận động những người tiêu dùng cuối cùng, các nhà sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu là nguyên liệu đầu vầo để họ gây sức ép với cơ quan có thẩm quyền áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá.
Kết luận
Vụ kiện cá tra và cá basa đã tạm dừng. Đây là vụ kiện đầu tiên sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, và cũng là tranh chấp thương mại lớn đầu tiên trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Vụ kiện này là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế. Đó là họ phải tìm hiểu kỹ về thị trường mình sắp thâm nhập về các mặt kinh tế chính trị văn hoá và các tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt họ phải tìm hiểu kỹ các hàng rào thương mại phi thuế quan đang được sử dụng phổ biến như chống bán phá giá, quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm… chỉ có thể hiểu rõ các thủ tục đó các doanh nghiệp mới có thể thâm nhập thành công vào thị trường quốc tế.
Vụ kiện này đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi các cơ quan nhà nứơc cần giải quyết như vấn đề các nước chưa công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, Việt Nam chưa là thành viên chính thức của WTO do đó các doanh nghiệp khi tham gia thị trường thế giới phải chịu nhiều thiệt thòi bởi sự phân biệt đối xử.
Sự kiện cá tra và cá basa là một hiện tượng bình thừơng trong thương mại quốc tế. Nó chưa phải là những khó khăn lớn thực sự mà Việt Nam gặp phải khi hội nhập. Những thách thức lớn hơn sẽ đến từ những cam kết mở cửa thị trường trong nước khi tham gia vào AFTA, WTO, APEC… do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành chức năng và sự nỗ lực từ chính các doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo
Sách:
TS. Nguyễn Thị Hường (2001), Giáo trình kinh doanh quốc tế, Tập 1, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê, Hà Nội.
Báo:
Đàm Tất Thắng, “Kiện về bán phá giá bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam”, tạp chí Thương Mại, số 22-2002, trang 7-8.
Báo kinh doanh và tiếp thị : Số 320, 12/08/2002 “Về tranh chấp cá basa ở thị trường Mỹ và bật lửa gas ở thị trường Châu Âu”.
Hoàng Lê, "Về một hành vi cạnh tranh không lành mạnh", tạp chí thuỷ sản, số 7/2002, trang 5-7.
Hoa Sen, " Tháo gỡ rào cản thương mại trong xuất khẩu thuỷ sản bằng cách nào", tạp chí thương mại, số 19/2002 trang 5-6.
Huỳnh Thế Năng, " Làm gì để xây dựng chiến lựơc thương hiệu cho cá tra, Basa", tạp chí thuỷ sản số 7/2003, trang 15-17.
Lưu Phan, "Không còn được dùng tên Catfish", thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 6/12/2001, trang 41.
PGS TS Nguyễn Hữu Dũng, “Tìm hiểu cuộc chiến Catfish của Mỹ chống cá tra và cá Basa Việt Nam”, Tạp chí Châu mỹ ngày nay, số 4-2002, trang 25-32.
PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, “Tìm hiểu cuộc chiến Catfish của Mỹ chống cá tra cá basa của Việt Nam”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4-2002, trang 25-32.
Tài liệu tham khảo đặc biệt TTXVN 19/07/2002 “Việt Nam – Mỹ: Xung quanh cuộc tranh cãi cá tra-cá basa”.
TTXVN tại Newyork 17/07/2002 “ Người Mỹ nói về vụ cá basa”.
Thời báo ngân hàng , 01/09/2002 “Không có lý do gì ngăn cản cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ”.
Vũ hoài Thu, “Đấu tranh với rào cản chống bán phá giá” tạp chí thương mại, số 21-2002, trang 9.
Internet:
www.vneconomy.com.vn, 12/08/2002 “Vì sao cá basa giá thấp”.
www.vneconomy.com.vn,12/08/2002, “Đằng sau vụ kiện cá basa”.
www.vdc.com, 25/11/2002, “Cá basa không thể mất thị trường Mỹ”
www.media.vdc.com.vn, 11/07/2002 “ Tuyên bố của hội nghề cá Việt Nam”.
www.vnexpress.net, 09/08/2002, “Cho tiếp tục kiện bán phá giá cá basa là sai lầm”.
www.vnexpress.net, 09/08/2002 “ Mỹ sẽ tiếp tục vụ kiện bán phá giá cá basa”.
www.vnexpress.net, 09/07/2002 “ Những bước đi của phía Mỹ trong vụ kiện cá basa”.
www.vnexpress.net, 20/08/2002 “AGF sẽ tăng giá trong thời gian dài”.
www.vnn, 08/08/2002 “Thông tin đầy đủ về nghề nuôi cá basa, cá tra ở Việt Nam”.
www.vnn.vn, 08/07/2002 “ Doanh nghiệp Mỹ: CFA kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa là vô lý”.
www.vnn, 23/07/2002 “Kết quả đầu tiên với ITC tốt hơn chúng tôi nghĩ ”
www.media.vdc.com.vn, 23/07/2002 “ VASEP hợp tác cùng các nhà nhập khẩu Mỹ đối phó với CFA”.
www.vneconomy.com.vn ,17/07/2002 “Ai thiệt hại trong vụ kiện”.
www.vnn.vn, 17/07/2002 “ Các doanh nghiệp Việt Nam không thể bán phá giá”.
www.vnexpress.net. 07/08/2002 “ Doanh nghiệp Việt Nam đủ lý để theo đến cùng vụ kiện cá basa- cá tra”.
www.media.vdc.com.vn, 05/07/2002 “ Cá basa: Nếu thua kiện sẽ phải chịu thuế gấp ba lần giá bán”.
www.vnexpress.net. 02/07/2002 “ Doanh nghiệp Việt Nam trước vụ kiện bán phá giá cá tại Mỹ”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33794.doc