Thực trạng về đầu tư vào nông nghiệp những năm qua đã cho thấy, mặc dù nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung thì đầu tư vào nông nghiệp chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao, còn mất cân đối. Vì vậy trong giai đoạn này và giai đoạn tiếp theo đòi hỏi phải tăng cường đầu tư vào nông nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả. Để làm được điều này phải có những giải pháp để thu hút đầu tư nhiều hơn nữa vào nông nghiệp. Các nguồn vốn cần thu hút để đầu tư vào nông nghiệp là: nguồn vốn nước ngoài, nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn trong nước là các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn của các tổ chức tín dụng trong nước, vốn từ dân cư Theo dự báo, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn thời kỳ này duy trì tỷ lệ khoảng 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng khoảng 3,5% so với bình quân thời kỳ 1996 - 2000. Như vậy để tăng cường đầu tư vào nông nghiệp phải chú ý xin nêu một số giải pháp sau đây:
* Lãi suất: cần chú ý đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Có nhiều chủ trương cho rằng, nên tăng lãi suất huy động, nhưng tăng lãi suất huy động thường đi kèm theo với tăng lãi suất cho vay. Thực tế cho thấy, các đối tượng đi vay trong nông nghiệp chủ yếu là những hộ nghèo, thu nhập thấp. Do vậy mà các ngân hàng và quỹ tín dụng rất ít khách hàng đến vay khi thực hiện chủ trương này. Bởi vậy chủ trương này chưa thu hút được đầu tư vào nông nghiệp, thậm chí còn giảm đầu tư vào nông nghiệp từ các hộ, các tổ chức muốn đầu tư vào nông nghiệp. Như vậy lãi suất trong giai đoàn này cần phải thực hiện là:
-Giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay
-Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng.
-Xử lý lãi suất linh hoạt đối tượng cho vay
48 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1677 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp chủ yếu tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các loại cây, con nhất định. Vì thế mà xác định đúng cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp từng vùng sẽ có tác dụng khuyến khích phát triển và ngược lại.
Một trong những nhân tố quyết định đến chiến lược đầu tư thích hợp, lựa chọn kỹ thuật và năng suất nông nghiệp của một quốc gia trong các thời kỳ khác nhau là tỷ lệ đất trên lao động mà mối quan hệ của tỷ lệ đất trên lao động với hộ phát triển lao động, năng suất lao động và năng suất đất đai được biểu hiện qua công thức
Y/L = Y/A x A/L
Trong đó: Y: là sản lượng nông nghiệp
L: là số lao động trong nông nghiệp
A: là diện tích đất canh tác
Các nhân tố trên là các nhân tố chủ yếu tác động tới đầu tư vào nông nghiệp ta cần nghiên cứu, xem xét để có thể đầu tư hợp lý hơn vào nông nghiệp.
iii. kinh nghiệm đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số nước trên thế giới
1. ở các nước châu á - Thái Bình Dương
ở các nước này trong các chính sách đầu tư, họ xem nhẹ đầu tư, họ xem nhẹ đầu tư cho nông nghiệp do đó nông nghiệp bị tụt hậu so với các ngành du lịch, dịch vụ vào những năm của thập kỷ 50, các nước này đã tập trung quá mức do công nghiệp, xem nhẹ nông nghiệp . Nông nghiệp chỉ được xem là một ngành cung cấp lao động dư thừa, rẻ mạc cho công nghiệp và dịch vụ. Nhưng thực tế đã cho thấy rằng: dù tốc độ tăng trưởng của công nghiệp cao nhưng nông nghiệp vẫn lạc hậu, như vậy thì bản thân ngành công nghiệp không đứng vững được. Công nghiệp không đủ sức thu hút lao động ở nông thôn, nông thôn vẫn nghèo nàn, công nghiệp thiếu thị trường nội địa và thị trường nước ngoài. Do vậy chưa đủ sức cạnh tranh và dẫn đến phát triển chậm.
2. Đài Loan:
Khác với các nước ở châu á - Thái Bình Dương, Đài Loan được coi là thành công trong chiến lược phát triển kinh tế từ nông nghiệp. Từ năm 1953, Chính phủ Đài Loan đã ưu tiên hàng đầu cho nông nghiệp về vốn đầu tư và cả cơ cấu chính sách. Bước đi tuần tự của Đài Loan là: Phát triển nông nghiệp trước và sau khi nông nghiệp đã phát triển, nhân công dư thừa mới chuyển sang các ngành công nghiệp nhẹ cần nhiều nhân lực, cuối cùng là mới phát triển công nghiệp nặng.
Để hỗ trợ tích cực cho nông nghiệp - nông thôn thì Chính phủ Đài Loan đã có 9 nội dung sau:
1- Bãi bỏ việc dùng lúa đổi lấy phân bón hoá học
2- Hiện đại hoá công trình công cộng và kết cấu hạ tầng nông thôn.
3-Giảm nhẹ lãi suất tín dụng nông nghiệp
4-Tăng cường nghiên cứu, thí nghiệm phục vụ sản xuất
5-Khuyến khích lập nhà máy ở nông thôn
6-Khuyến khích lập khu công nghiệp chuyên ngành
7-Đẩy mạnh kỹ thuật tổng hợp nuôi trồng trong nông nghiệp
8-Huỷ bỏ các khoản phụ thu thuế ruộng
9-Cải thiện giao thông nông thôn.
Trong bước đầu công nghiệp hoá thì các biện pháp này đã góp phần bù đắp những thiệt thòi cho người nông dân, tăng sức mua của thị trường nông thôn và thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đây là những bước đi đúng đắn, đã giúp nền kinh tế Đài Loan nói chung và nông nghiệp nói riêng phát triển mạnh.
3. Trung Quốc
Với Trung Quốc ban đầu họ phát triển tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản. Bước tiếp theo phát triển cao hơn đó là phát triển các ngành lớn là: Công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp dịch vụ, kiến trúc, giao thông vận tải và dịch vụ thương nghiệp với quy mô không nhỏ.
Để phát triển nông nghiệp, Trung Quốc còn chú ý đến thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản, hoàn thiện đường sá, cơ sở ý tế, bến bãi.
Trung Quốc đã thấy được vai trò của thị trường trong việc cung ứng các đầu vào và việc tiêu thụ các đầu ra của nông nghiệp. Chính vì vậy mà Chính phủ đã quan tâm đến đầu tư để mở rộng thị trường, vì thế mà nông nghiệp Trung Quốc tương đối phát triển.
Để đầu tư cho nông nghiệp, ngoài vốn trong nước, nhà nước còn dành các nguồn vốn vay nước ngoài để đầu tư cho nông nghiệp. Từ năm 1989 Trung Quốc đã dành 1/4 số tiền của Ngân hàng thế giới cho vay để đầu tư cho nông nghiệp, trước tiênnn là đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, mở rộng sản xuất lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu và ứng dụng giống cây, con mới vào sản xuất.
Nhìn chung, quá trình phát triển nông nghiệp Trung Quốc đã giúp chúng ta thêm nhiều kinh nghiệm về quản lý, đầu tư vào sản xuất trong nông nghiệp sao cho có hiệu quả, mặc dù họ vẫn còn có nhiều hạn chế.
phần II: thực trạng về đầu tư cho nông nghiệp ở Việt Nam trước năm 1988 và từ năm 1989 đến nay.
i. đầu tư cho nông nghiệp Việt Nam từ 1988 trở về trước.
Trong thời kỳ này với tham vọng mau chóng xây dựng nền kinh tế phát triển "Toàn diện, tự chủ" trong đó công nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên tiến… để thực hiện được chiến lược duy ý chí đó, các nguồn vật chất trong xã hội được sử dụng vô tội vạ, các nguồn tài chính từ ngân sách chủ yếu là nguồn vay nợ, viện trợ nước ngoài đã được tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và rải cho các ngành khai thác, trong đó có nông nghiệp một cách dàn đều, bất chấp hiệu quả, cung, cấu trên thị trường, hình thành những vùng, địa phương sản xuất khép kén.
Quan điểm cơ bản về việc hình thành và phát triển nền kinh tế nói chung là quá đề cao vai trò sỡ hữu nhà nước, điều này dẫn tới việc thiết lập hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh, trang trại trong mọi lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp với sự tài trợ rất lớn và chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Những khu vực sản xuất thuộc các thành phần kinh tế không phải sở hữu nhà nước, kể cả sở hữu HTX cũng chỉ coi là hình thức quá độ, còn các hình thức sở hữu tư nhân không được thừa nhận tồn tại. Thời kỳ này, mô hình kế hoạch hoá tập trung tỏ ra kém hiệu quả, cộng với đó là các tiềm năng như đất đai, lao động, vật tư, tiền vốn bị sử dụng lãng phí và thất thoát. Bên cạnh đó là hiệu quả của chiến tranh để lại khá nặng nề cùng với việc cấm vận của Đế quốc Mỹ kéo dài đã làm cho nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng chậm phát triển rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đời sống nhân dân khó khăn, nạn đói, mất mùa xảy ra triền miên.
Trong giai đoạn này, vốn đầu tư cho nông nghiệp chủ yếu là do nhà nước cấp phát từ ngân sách và cho vay thông qua hình thức tín dụng, vốn đầu tư không lớn nhưng lại chủ yếu tập trung quốc doanh, chỉ có một phần nào cho kinh tế tập thể (tập thể HTX), không phát huy được nguồn vốn từ dân chúng, tỷ trọng và giá trị ngân sách năm 1976 là 25,6%, năm 1980 là 24,2%, năm 1981 là 2938,9 triệu đồng, năm 1982 là 2390 triệu đồng, năm 1984 là 4427 triệu đồng (26,5%). Năm 1985 là 4608,5 triệu (27,9%), 1986 là 30,1%, 1987 là 25,1%.
Năm 1986 vốn ngân sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp dành 44,6% cho các nông trường quốc doanh để phát triển cao su, cà phê, chè, năm 1987 giảm xuống còn 40,6% và năm 1988 còn 32%. Trong thời kỳ này, nhà nước đã dành số vốn lớn cho xây dựng thuỷ lợi, trong đó chủ yếu là thuỷ nông, nhất là năm 1986-1988. Ta có thể thấy điều này thông qua biểu 2.
Biểu 2: thực hiện vốn và cơ cấu đầu tư XDCP của nhà nước trong ngành nông nghiệp (1986-1988)
1986
1987
1988
Số lượng (triệu đồng)
Tỷ trọng (%)
Số lượnng (tr.đồng)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (Tr.đồng)
Tỷ trrọng (%)
Tổng số
6.074,7
100,0
21.551,0
100,0
128.398,8
100,0
I. Trồng trọt
3321,2
54,7
10.234,3
47,5
49877,9
38,8
1. Khai hoang
542,5
8,9
1220,8
5,7
6737,6
5,2
2. Nông trường quôc doanh
2705,1
44,6
8760,8
40,6
41094,1
322,0
Trong đó: cao su
1502,3
24,7
5244,2
21,4
19691,3
16,3
Cà phê
756,2
12,4
1607,2
7,5
9881,3
7,7
Chè
137,2
2,3
482,0
2,2
1848,8
1,4
3. Trang trại kỹ thuật
73,6
1,2
252,7
1,2
2046,2
1,6
II. Chăn nuôi
227,7
3,7
1338,1
6,2
13315,9
10,4
1. Chuồng trại
173,4
2,9
-
-
7199,9
5,6
2. Trạm trại kỹ thuật
49,3
0,8
-
-
616,0
4,8
III. Trạm máy kéo
18,9
0,3
43,0
0,2
281,5
0,2
IV. Thuỷ lợi
2511,9
41,3
9935,6
46,4
64923,5
50,6
Trong đó: Thuỷ nông
2388,7
39,3
8303,6
38,5
47762,0
37,2
Về hệ thống kinh tế quốc danh nông - lâm - ngư nghiệp và thuỷ lợi có 1921 đơn vị, trong đó nông nghiệp (gồm các nông trường quốc doanh và trạm trại) chiếm 48,7%, doanh nghiệp lâm nghiệp 22,6%, doanh nghiệp thuỷ sản 12,2%, doanh nghiệp thuỷ lợi là 16,5% (bình quân thời kỳ 1976-1985) vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 18,7%. Trong tổng vốn đầu tư thì riêng nông nghiệp chiếm 9,8%, điều đáng chú ý ở đây là, trong giai đoạn này, việc bao cấp vốn tràn lan, không phải hoàn vốn, dẫn đến sử dụng các nguồn lực và vốn đầu tư bừa bãi, không hiệu quả. Không những vậy mà còn nảy sinh nhiều vấn đề khác như: Tham nhũng, thất thoát vốn… do vậy mà làm ăn thua lỗ, người lao động không có ruộng đất, hàng năm phải nhập từ 0,7-0,8 triệu tấn gạo.
+Về tín dụng trong nông nghiệp :
Trong tín dụng ngắn hạn của HTX được vay thì gần 90% được sử dụng cho trồng trọt, vốn, 48% cho chăn nuôi và 7,25% cho ngành nghề.
Về tín dụng dài hạn: trong thời gian này, các TXH đã vay gần 12 tỷ đồng, chiếm 32,8% vốn vay ngắn hạn trong vốn này chủ yếu đầu tư cho trồng trọt là 83,96%, chăn nuôi là 7,49%, ngành nghề là 8,52%. Trong trồng trọt đại bộ phận là đầu tư cho cây hàng năm (81,9%), cây lâu năm chỉ chiếm gần 2% và chăn nuôi chủ yếu là trâu bò làm sức kéo. Vì thế đã không khuyến khích được tiềm năng bỏ vốn đầu tư trong nhân dân. Nhưng trong thời gian này, chỉ thị 100 của ban bí thứ (1/1981) đã trở thành động lực khơi dậy tiềm năng của dân chúng bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp. Bên cạnh đó là chỉ thị 35 về phát triển kinh tế gia đình, chỉ thị 50 về doanh nghiệp kiện toàn nhà nước, chỉ thị 65 về củng cố quan hệ ở miền biển, chỉ thị 67 hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm đến người lao động, cùng với các phong trào di dân, khai hoang phục hoá được phát triển rộng khắp, kết quả là hình thức chấm công, chấm điểm được xoá bỏ, phong trào lao động của người nông dân diên ra tương đối khẩn trương, tình trạng ruộng đất hang hoá hạn chế.
Năm 1980, giá trị tổng sản lượng tăng 33% so với năm 1980, sản lượng lương thực bình quân đầu người 1976-1980 đạt 13,5 triệu tấn nhưng đến thời kỳ 1981-1985 đạt 17,0 triệu tấn. Nhưng giai đoạn 1986-1988 lại đi vào trì trệ, gắn liền với nó là nền kinh tế đất nước đang trên đà suy thoái mạnh và các tổ chức hoạt động trong nông nghiệp rệu rạo, sản xuất lương thực có phần giảm sút, có hơn 9 triệu người thiếu ăn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như: thiên tai (1987) do quy luật của quá trình gia tăng năng suất sau hơn 5 năm đầu tư cho ruộng khoán, trong khi công nghệ, quy trình sản xuất không thay đổi, người sản xuất không có kinh nghiệm về đầu tư, dẫn tới hiệu quả sản xuất giảm trong khi vốn đầu tư của nhà nước tiếp tục tăng, nhưng với khu vực rộng lớn như vậy thì lại rất hạn chế, vốn tích luỹ trong dân cư ít, không đủ đầu tư cho nông nghiệp.
* Nguyên nhân cơ bản
+Do chủ trương, chính sách của nhà nước trong giai đoạn này không đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
+ Do người dân chưa thực sự làm chủ trong quá trình sản xuất.
+Do sai lầm về các chính sách như: giá cả, cung ứng vật tư kỹ thuật… làm cho giá cả leo thang, giá vật tư tăng nhanh hơn giá lương thực, các HTX luôn tăng dần mức khoán. Kết quả là sản xuất giảm, phần sản lượng vượt khoán không bù đắp nổi chi phí bỏ râ và người nông dân trả lại ruộng khoán.
Như vậy trong thời kỳ này, nhà nước đã có những ưu đãi về đầu tư cho nông nghiệp nhưng nhìn chung đầu tư chưa hợp lý, chưa đáp ứng được nhu cầu, nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu nên chưa đảm bảo được điều kiện phát triển nhất là vật tư, tiền vốn đầu tư…
ii. đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 1989-1995
1. Thực trạng về đầu tư cho nông nghiệp
a. Tình hình đầu tư trong nước
Trong giai đoạn nhà nước ta đã có nhiều chính sách tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp, cũng với chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang trở thành động lực thúc đẩy sản xuất phát triển đi vào cuộc sống với nhiều chính sách, nhiều chương trình kinh tế lớn như: Cải tổ doanh nghiệp nhà nước củng cố và đổi mới quan hệ tập thể, phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình, tín dụng trong nông thôn, giá cả, bảo trợ sản xuất, khuyến nông, chương trình 327…đồng thời một số bộ luật khác như: luật đất đai (1993), luật lao động (1994), luật phá sản doanh nghiệp (1994) đã tạo tền đề pháp lý cho hoạt động kinh tế hoạt động đầu tư phát triển đúng hướng, an toàn trong thời gian này, các quan hệ trì trệ đã được xoá bỏ, nó cởi trói cho người nông dân, nhất là sự đầu tư ngay chính trên đồng rộng của mình, đánh giá đúng vai trò của người lao động, tạo ra động lực to lớn phát triển sản xuất, thu nhập và đời sống của nhân dân không ngừng tăng lên, trong thời gian này thì vốn cấp phát dưới hình thức tín dụng trước đây được chuyển sang bước mới , đó là vay vốn và phải trả lãi. Thực tế năm 1989 trở lại đây, vốn ngân sách dành cho khai hoang vẫn giữ tỷ lệ 5-7% tỷ lệ dành cho các nông trường quốc doanh còn tren 10%. Nhà nước thực hiện một số vốn lớn để thực hiện chương trình 327 nhằm bảo vệ hiệu quả vốn rừng gắn liền vơi định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc. Trong 2 năm 1993-1994 nhà nước ta đã đầu tư 416 tỷ đồng, đầu tư trực tiếp đến hộ nông dân là 60% tổng vốn đầu tư và đầu tư 80% so với đầu tư lâm sinh (bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng). ở giai đoạn này, chúng ta đã chú ý đầu tư vào mọi thành phần kinh tế trong nông nghiệp. Việc điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp của nhà nước cũng như vào quốc doanh vào các ngành trồng trọt cũng như vào các ngành quốc doanh trong nông nghiệp. Song song với chính sách khuyến khích nông dân bỏ vốn phát triển sản xuất đã không gây ra hẫng hụt lớn đối với sự phát triển mà ngược lại đã thu hút được 1 lượng tiền lớn trong nông dân đưa vào sản xuất, qua đó kích thích tiết kiệm và sử dụng những nguồn lực sẵn có của các thành phần kinh tế. Việc điều chỉnh trong chính sách đầu tư của nhà nước vào nông nghiệp và giai đoạn này là rất kịp thời và mạnh dạn, tác động tích cực đến điều chỉnh là không những thu hút thêm vốn của xã hội vào sản xuất mà còn tăng hiệu quả đầu tư, đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong khu vực nông nghiệp thoát khỏi tình trạng bao cấp, ỷ lại nhà nước về vốn. Xét nhu cầu về vốn trong thời kỳ này ta thấy. Khoảng cách giữa nhu cầu về vốn và thực tế đầu tư trong nông nghiệp còn lớn thực tế năm 1991 nhu cầu là 4975,6 tỷ đồng thì ngân sách nhà nước mới đáp ứng được 368,1 tỷ. Năm 1992 tổng nhu cầu là 6002,1 tỷ gấp 4,95 lần đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông-lâm-ngư nghiệp. Năm 1993 gấp 4,34 lần và năm 1994 gấp 4,49 lần. Trong thời kỳ này ngân sách nhà nước dành cho đầu tư ít và phân bổ chưa hợp lý giữa các ngành, đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp xấp xỉ trên dưới 10% và có xu hướng ngày càng giảm, điều này chưa tương xứng với đóng góp của nông-lâm-ngư nghiệp vào GDP thực trạng vốn đầu tư trong thơi kỳ này còn còn cho thấy : số tuyệt đối về vốn đầu tư tăng và số lượng đổi lại giảm liên tục từ 17,1% (năm 1990) xuống còn 9,4% năm 1994.
Biểu 3: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước phân theo ngành kinh tế (giá so sánh năm 1989-tỷ đồng).
1990
1992
1994
1. Tổng số
2145,8
3333,2
5729,8
2. Nông nghiệp
324,7
370,0
437,2
3. Lâm nghiệp
42,3
52,1
99,6
5. Nông-lâm nghiệp
367,0
422,1
536,8
Số 4/1 (%)
17,1
12,7
9,4
Nguồn: niên giám thống kê 1997 trang 160.
Nghiên cứu giá trị tài sản cố định mức tăng, phân theo ngành kinh tế (biểu 4) cũng giảm tư 13,9% (1990) còn 7,1% (1994)
Biểu 4: Giá trị tài sản cố định mới tăng phân theo ngành kinh tế (giá so sánh năm 1989 tỷ đồng)
1990
1992
1994
1. Tổng số
1433,5
1627,0
4402,7
2. Nông nghiệp
171,5
205,3
167,5
3. Lâm nghiệp
27,6
40,6
46,0
4.Nông, lâm nghiệp
199,1
254,9
313,5
So 4/1 (%)
13,9
15,1
7,1
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp thì vốn đầu tư vào nông thôn cũng được chú trọng, đặc biệt là chính sách mới về tạo vốn cho nông thôn đã thành công trên nhiều mặt, cụ thể là:
-Đối tượng cho vay mở rộng tới hộ nông dân với tư cách là những đơn vị chủ sản xuất kinh doanh hàng hoá nông thôn. Trong giai đoạn 1989-1994, khách hàng chủ yếu của ngân hàng nông nghiệp là các hộ nông dân. Số hộ được vay vốn tăng nhanh với doanh số cho vay lớn. Chúng ta đã bình đẳng hoá các thành phần kinh tế trong quan hệ tín dụng. Với ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, xoá bỏ quy định áp dụng các mức lãi suất khác nhau giữa các khách hàng. Hệ thống lãi suất ưu đãi chỉ còn áp dụng cho các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, vùng kinh tế mới… Điều này đã tăng hiệu quả vốn vay giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích vùng sâu, vùng xa vay vốn, mở rộng sản xuất phát triển nông nghiệp, giảm sự mất cân đối giữa các vùng. Bên cạnh các hình thức tín dụng ngân hàng, nhà nước còn mở rộng và hoàn thiện các hình thức, các kênh truyền tải vốn vay tới hộ nông dân như: vay vốn tổ chức hội nông nghiệp, cho vay qua các tổ chức xã hội và hiệp hội nghiĩa hiệp (hội cựu chiến binh, hội làm vườn..), cho vay qua các tổ chức liên doanh, tổ tự nguyện của nông dân… với các hình thức cho vay trong nước như vậy đã góp phần không nhỏ vào phát triển nông nghiệp trong giai đoạn này.
b. Tình hình về đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp
Cùng với vốn cho vay trong nước qua các tổ chức tín dụng thì vốn vay cho nông nghiệp được huy động từ nước ngoài cũng tăng lên thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức quốc tế như FAO, PAM, UNFPA, SODA, QUAKER, ADB, WB, IMF, NICEF, UNDP… đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế nước ta, trong đó có nông nghiệp. Các dự án đầu tư vào nông-lâm-ngư nghiệp tuy chưa nhiều, nguồn vốn còn hạn hẹp,, song nó có xu hướng tăng lên qua các năm
Biểu 5: vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ 1/1/1988 đến 30/6/1994
Tổng số từ
Trong đó
1/88-6/94
1990
1991
1992
1993
1994
1. Đã cấp giấy phép tất cả các ngành
9551.1
839
1321,5
2095,3
2836,7
1502,4
Trong đó
Nông-lâm nghiệp
549
74
53,2
130,2
89,0
88,5
Thuỷ sản
234
26
37
16,7
13,5
16,2
2. Đã hoạt động tổng số ngành
5580,9
-
-
-
-
-
Nông-lâm nghiệp
171,2
-
1-
-
-
-
Thuỷ sản
43,9
-
-
-
-
-
Nguồn: Vụ kế hoạch và quy hoạch - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Từ 1988 đến 1994 có 137 dự án vốn, vốn đầu tư là 541 triệu USD, chiếm 4,1% tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong số này84 dự án hoạt động với số vốn là 428 triệu USD trong đó nông-lâm nghiệp có 73 dự án với 367 triệu USD, thuỷ sản có 21 dự án với 61 triệu USD, theo kết quả điều tra của Tổng cục thống kê và uỷ ban hợp tác đầu tư với nước ngoài năm 1994 tình hình góp vốn pháp định của các dự án chung còn thấp, riêng với nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 13,7 triệu USD, bên ngoài góp 5,6 triệu USD. Vốn đầu tư vào nông-lâm-nghiệp đã triển khai từ khi có luật đầu tư nước ngoài đến năm 1993 chỉ chiếm tỷ lệ 23,5% vốn ngoài nước (bao gồm cả viện trợ không hoàn lại, cho vay và liên kết, liên doanh) vào nông nghiệp - nông thôn từ 1990 đến 1994 khoảng 800 tỷ đồng, trong đó khoảngg 90% là nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế theo các dự án nghiên cứu và triển khai trên địa bàn nông thôn.
c. Những hạn chế của vốn đầu tư thời kỳ 1989-1994
Trong thời kỳ này ta thấy rằng, nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp đã diễn ra ngược chiều với sự thay đổi về tỷ lệ động viên trực tiếp của nhà nước đối với nông nghiệp. Số tuyệt đối về đầu tư tăng lên trong khi đó số tương đối lại giảm xuống, tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp thời kỳ này chưa tương xứng với vai trò và vị trí của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Về nguồn vốn trong nhân dân là rất quan trọng nhưng lại bị hạn chế về thu nhập của nông dân rất thấp. Theo số liệu điều tra năm 1990 cho thấy: thu nhập bình quân của nông dân là 32248 đồng/tháng, bằng 68% mức thu nhập bình quân của thành thị. Năm 1993 thu nhập cảu nông dân tăng lên 94944đ/tháng, bằng 39% mức thu nhập của thành thị. Thu nhập thấp lại chủ yếu chi cho các nhu cầu cơ bản nên tỷ lệ tích luỹ cho đầu tư thấp. Tỷ lệ để dành tăng rất chậm qua các năm, riêng đối với Đồng bằng Sông Hồng có xu hướng giảm. Như vậy, điều đó làm cho đầu tư nông nghiệp từ trong dân rất ít và kém hiệu quả.
Về nguồn tín dụng của ngân hàng nông nghiệp cho vayđến từng hộ sản xuất tuy tăng nhưng tính bình quân cho một hộ vẫn thấp cơ cấu vốn cho vay chưa hợp lý, vốn vay ngắn hạn là chủ yếu trong khi chu kỳ sản xuất của ngành nông nghiệp lại dài.
Nguồn vốn đầu tư và hỗ trợ của nước ngoài trong nông nghiệp còn ít và tăng chậm do tính rủi ro lớn… trong khi đó nhà nước chưa cocs khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
2. Những tác động của việc đổi mới cơ chế chính sách và cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp
Vốn đầu tư là một trong 4 yếu tố cơ bản (thể chế, chính sách, vốn công nghệ, thị trường) tác động chủ yếu tới nền nông nghiệp hàng hoá và nông thôn theo hướng đô thị hoá và hiện đại hoá. Sự đổi mới cơ chế chính sách đầu tư vào nông nghiệp cùng với đổi mới 3 yếu tố tác động vào nông nghiệp thể hiện ở các khía cạnh là:
-Sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Nông nghiệp không phải là ngành có khả năng sinh lời cao, nó là ngành phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhưng thấy rằng chúng ta đầu tư đúng mức, hiệu quả thì nó sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực. Đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân phản ánh qua tỷ trọng của nông-lâm-ngư nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Theo các số liệu cho thấy: Nông-lâm nghiệp năm 1991 chiếm tỷ trọng lớn nhất (40,5%) nhưng đến năm 1994 còn 28,7% đồng thời đó là tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng.
Trong giai đoạn 1990-1994 sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-ngư nghiệp có giảm nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng. Điều này cho thấy rằng chính sách đầu tư vào nông nghiệp nước ta thời kỳ này cou trọng đầu tư phát triển nông-lâm-ngư nghiệp một cách toàn diện. Tỷ trọng ngành trồng trọt năm 1989 là 75,7%, chăn nuôi là 24,39%, đến năm 1994 tỷ trọng của ngành trồng trọt còn là 72,5% và chăn nuôi thì tăng lên 27,5%. Trong ngành trồng trọt thì nhóm cây công nghiệp, cây ăn quả còn chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu được cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Xét về ngành chăn nuôi trong giai đoạn này cũng cho thấy rằng: giai đoạn này nặng về gia súc, chưa phản ánh về tiềm năng phát triển chăn nuôi trong nền nông nghiệp nước ta.
Nhìn chung, cơ cấu nội bộ nông nghiệp cũng có sự chuyển dịch, nhưng chúng ta chưa có một cơ cấu đầu tư hợp lý, đủ mạnh để tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu cây, con trong trồng trọt và chăn nuôi giữa các vùng và của từng vùng nói riêng. Về cơ giới hoá nông nghiệp, những năm sau đổi mới nhò có kinh tế phát triển, thu nhập của nông dân tăng lên và có tích luỹ để mở rộng đầu tư sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị để đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường. Do vậy mà trong nông nghiệp, số lượng máy kéo, máy nông nghiệp ở các vùng và các địa phương tăng nhanh dẫn đến việc góp phần giải phóng sức lực trong làm đất, vận chuyển, ra hạt, bơm tát nước, đồng thời còn tăng cường hiệu quả trongkhâu chế biến, bảo quản sản phẩm góp phần làm tăng giá trị sản phẩm. Mặt khác, trong những năm qua, nhà nước đã đầu tư khá lớn để xây dựng các hệ thống công trình thuỷ lợi lại cho thấy so với các vùng trong cả nước thì Đồng Bằng Sông Cửu Long thuận lợi hơn cả vì từ sau ngày được giải phóng, nhà nước ta quan tâm đầu tư cho các công trình thuỷ lợi nhỏ, chủ yếu xây dựng các hồ, đập… đã giảm bớt khó khăn trong việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, vấn đề đê và thuỷ lợi để đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp còn nhiều bất cập. Chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu về cấp nước cho phát triển sản xuất nông nghiệp . Một số công trình xuống cấp nhưng thiếu vốn để trùng tu, bảo dưỡng… Như vậy đủ thấy rằng, đầu tư cho thuỷ lợi là cần thiết cho phát triển nông nghiệp nước ta.
Về hoá học hoá cũng có nhiều khởi sắc, lượng phân bón, thuốc trừ saau, thuốc diệt cỏ tăng, chủng loại đa dạng. Tuy nhiên hoá học nông nghiệp còn nhiều khó khăn đó là: công nghệ sản xuất phân hoá học trong nước chưa phát triển xứng với nhu cầu trong thị trường và giá cả nhập khẩu ổn định. Việc trợ giá của nông nghiệp đối với các loại vật tư nông nghiệp lại chưa đạt ra. Mặt khác, việc sử dụng phân bón hoá học quá mức làm tăng sản lượng trước mắt, nhưng về lâu dài nó sẽ làm cho đất canh tác bị kiềm hoá, độ màu mỡ giảm. Thực tế các loại phân bón ở Việt Nam còn có tác hại đến cả môi trường sinh thái như: huỷ hoại sinh vật, gây ô nhiễm không khí… Đây còn là điều bất cập.
Như vậy: đầu tư cho nông nghiệp Việt Nam giai đoạn này có nhiều chuyển biến tốt, điều nàu có tác động tích cực đến phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy vậy trong nông nghiệp đầu tư còn nhiều bất hợp lý về cơ chế chính sách, về cơ cấu và tổ chức thực hiện nên hiệu quả của đầu tư vào lĩnh vực này chưa cao, tác động chưa rõ nét trên một số lĩnh vực nông nghiệp. Đây là những điều mà cần được khắc phục trong những giai đoạn sau.
iii. giai đoạn 1995 đến nay
1. Về vốn đầu tư
a. Vốn từ ngân sách nhà nước : Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp vẫn tăng, năm 1995 là 2383 tỷ chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, cho đên năm 1998 đạt 15,1 vốn đầu tư ngân sách nhà nước. Trong thời gian này vốn đầu tư thường đáp ứng 50-60% nhu cầu đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng trong tình trạng tương tự và hầu như chỉ tập trung cho xây lắp, vốn đầu tư cho thiết bị và các nhu cầu khác hầu như không đáng kể và tăng chậm.
b. Vốn từ các nguồn khác
Nguồn vốn tín dụng đầu tư gián tiếp vào nông nghiệp thời gian này khoảng 20.000 tỷ đồng/năm, riêng năm 1998 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nông dân vay với tổng vốn khoảng 22 nghìn tỷ đồng để phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Nguồn vốn tự có trên cơ sở 10 triệu hộ nông dân đầu tư cho phát triển nông nghiệp cũng góp phần quan trọng (chiếm 30% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp) .Ước tính, vốn đầu tư bình quân là 1 đồng/hộ/năm.
Vậy thì tổng vốn đầu tư từ nguồn này (10.000 tỷ đồng) gấp 3 lân vốn từ ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư của dân tập trung vào chuyên canh, sản xuất hàng hoá lớn như: lúa, gạo ỏ Đồng bằng Sông Cửu Long và cà phê ở Tây nguyên, cao su, điều ở Đồng bằng Nam bộ.. Điều đặc biệt thời kỳ này là nông dân đầu tư vào mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại. Tính đến năm 1999, cả nước có trên 50.000 trang trại nông nghiệp được hình thành ở các miền Trung du, Miền núi phía Bắc, Tây nguyên và Đông Nam Bộ.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp cũng góp phần quan trọng thúc đẩy quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung như: lúa, gạo ở Đồng bằng Sông Cửu Long, cà phê tây nguyên, cao su Đông Nam bộ… phương thức đầu tư chủ yếu là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây, con, bao tiêu sản phẩm, ứng trước vốn cho nông dân mua vật tư, phân bón.
Nguồn vốn FDI vào nông nghiệp thời kỳ này tăng. Năm 1989 có 5 dự án với 2,8 triệu USD đầu tư vào nông nghiệp -nông thôn, năm 1997 có 225 dự án với tổng là 1,5 tỷ USD, các dự án được triển khai có số vốn là 467 triệu USD. Các dự án tập trung vào phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến hải sản. Tuy nhiên FDI đầu tư vào nông nghiệp có tốc độ tăng chậm và khiêm tốn, nó chỉ chiếm 10% tổng dự án và 5% tổng vốn FDI vào nước ta, tỷ lệ các dự án rút giấy phép trước thời hạn trong tất cả các lĩnh vực là 16%, trong khi ở ngành nông nghiệp là 27%. Nguyên nhân là năng suất lao động trong nông nghiệp thấp, dẫn đến thu nhập của nông dân và sức mua ở khu vực này thấp, việc thu hút vốndt nước ngoài chưa có quy hoạch rõ ràng, việc quản lý điều hành dự án còn phân tán, cơ chế chính sách chưa đủ, chưa phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra còn có các nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp từ việt kiểu, nhìn chung chưa lớn. Với chính sách khuyến khích việt kiều đầu tư vào trong nước, đặc biệt là vào nông-lâm-ngư nghiệp và công nghiệp chế biến tại chỗ ở các vùng cần khuyến khích đầu tư trong giai đoạn tới sẽ tăng nhanh.
Vốn đầu tư từ ODA trong giai đoạn này là nguồn vốn quan trọng trong 2 năm 1996-1997 chúng ta đã giải ngân được 45% so với kế hoạch, trong đó số vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chiếm 13% tổng ODA được giải nhân.
2. Đánh giá về đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 1995 đến nay
Trong giai đoạn này, nhìn chung, đầu tư cho nông nghiệp còn thiếu đồng bộ, chưa tập trung, còn dàn trải, hiệu quả đầu tư chưa cao, chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn chưa rõ ràng dẫn đến nguy cơ đầu tư trệch hướng, đầu tư ồ ạt. Một số ngành phục vụ nông nghiệp mà không tính đến hiệu quả kinh tế, không tính tính toán, cân đối giữa các vùng nguyên liệu với việc xây dựng nhà mấy chế biến nông sản. Nhiều nhà máy chế biến nông sản đầu tư bằng vốn vay chưa kịp sản xuất đã phải trả nợ, gây thiệt hại cho nền kinh tế, nhiều tiềm năng trong nông nghiệp chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Mặc dù ngân sách nhà nước đầu tư cho nông nghiệp tăng đáng kể so với vốn hàng trăm tỷ đồng/năm, nhưng cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu vốn cần có để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp từ nay đến năm 2010.
Trong giai đoạn này chúng ta đã chuyển từ đầu tư tập trung cho khu vực quốc doanh sang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp và phát triển thuỷ lợi là chính. Trong số 2882,4 tỷ đồng tổng số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong nông nghiệp năm 1996 có 1737 tỷ đồng cho thuỷ lợi (60%), 429 tỷ đồng cho trồng trọt (15%), trong đó trang trạng phục vụ trồng trọt 143,6 tỷ đồng, chăn nuôi 213 tỷ đồng (17,4%). Đến năm 1998 với 1783,56 triệu đồng vốn cấp của ngân sách nhà nước thì vốn dành cho thuỷ lợi là: 1493 tỷ đồng (83,7%), trồng trọt 60,7 tỷ đồng (3,4%), lâm nghiệp 133,6 tỷ đồng (7,5%), đầu tư khác 87,76 tỷ đồng (4,9%) vốn đầu tư đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất tăng lên 147,6 tỷ đồng năm 1996 và hơn 200 tỷ đồng năm 1997 đã là điều kiện để mở rộng diện tích giống lúa mới, năng suất cao trong trồng trọt và trong chăn nuôi.
Vốn đầu tư từ nước ngoài cho nông nghiệp còn thấp và không hiệu quả, đến nay vốn đầu tư cho nông nghiệp còn quá ít về số lượng dự án và cả lượng vốn. Điều này cho thấy lượng bổ xung vốn cho nông nghiệp còn hạn chế. Như vậy, so với yêu cầu tăng trưởng và vị trí của mỗi ngành trong trong nền kinh tế quốc dân thì chính sách đầu tư cho nông nghiệp là chưa thoả đáng, chưa hợp lý. Vì thế mà theo quyết định số 67/1999/QĐ-TTg quy định : hộ nghèo được ngân hàng phục vụ người nghèo dành phần cho vay hợp lý. Việc huy động vốn của ngân hàng được phép thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó chính phủ cho phát hành trái phiếu phục vụ chương trình phát triển nông nghiệp -nông thôn. Quyết định đã cụ nhiều quy chế về bảo quản tiền vay, thời hạn cho vay cũng được xác định theo chu kỳ sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi, thời gian luân chuyển vật tư, hàng hoá và khấu hao máy móc thiết bị.
Mặt khác, nhà nước còn khuyến khích mở rộng mạng lưới tín dụng xuống tận các cở sở và còn quy định cụ thể về xử lý rủi ro tín dụng. Điều này giúp các tổ chức tín dụng yên tâm cho vay theo quy chế mới và khuyến khích nông dân vay đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp.
3. Những thành tựu đạt được trong nông nghiệp dưới tác động của vốn đầu tư trong giai đoạn 1995 đến nay.
* Năng suất lúa: năm 1995 đạt 24,9 triệu tấn, năm 1998 tuy có khó khăn do hạn hán nhưng sản lượng lúa cả năm đạt 29,1 triệu tấn tăng 1,5 triệu tấn do với năm 1997 và năm 1999 đạt 31,3 triệu tấn tăng 2,2 triệu tấn so với năm 1998.
* Diện tích lúa: nếu lấy năm 1999 so với năm 1986 thì diện tích lúa tăng 35%. Cùng với tiến bộ về tăng vụ, chuyển vụ và thâm cạnh lúa, những năm qua đã hình thành một số vùng lúa đặc sản phục vụ xuất khẩu nhất là Đồng Bằng Sông Cửu Long, tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang đều thực thực hiện đầu tư quy hoạch vùng lúa thâm canh cao, chất lượng tốt phục vụ xuất khẩu. Trong 11 năm (1989-1999) nước ta xuất khẩu được 26,7 triệu tấn gạo, bình quân 2,4 triệu tấn /năm theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước, từ 1,42 triệu tấn năm 1989 lên 3,87 triệu tấn năm 1998 và 4,5 triệu tấn năm 1999. Đầu tư để đa dạng hoá cây trồng có nhiều tiến bộ. Trong trồng trọt bước đầu đã thực hiện phương châm "Đất nào cây ấy" để tăng hiệu quả đầu tư. Chúng ta tăng cường đầu tư chuyển dần những diện tích trước đây trồng lúa, màu năng suất và hiệu quả thấp sang trồng cây công nghiệp hoặc cây ăn quả có lợi hơn.
Kết quả là: so với năm 1986, năm 1999 diện tích cây lâu năm tăng 1 triệu ha, gấp 2,13 lần. Diện tích cây hàng năm tăng 2614 ha, tăng 33%. Cơ cấu diện tích các loại cây trồng đã thay đổi theo hướng tích cực, tỷ trọng diện tích cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao tăng 8,37% năm 1989 lên 14,79% năm 1999. Tỷ trọng diện tích cây hàng năm giảm từ 91,6% năm 1986 xuống còn85,39% năm 1999.
Về công nghiệp có sản lượng cây cà phê năm 1990 đạt 119 ngàn tấn, năm 1995 đạt 268 ngàn tấn , năm 1996 đạt 320 ngàn tấn, năm 1997 đạt 420 ngàn tấn, năm 1998 đạt 409 ngàn tấn, năm 1999 đạt 480 ngàn tấn. Về sản lượng cây cao su, năm 1998 đạt 199 ngàn tấn tăng 3,9 lần so với năm 1986. Năm 1999 tăng lên 215 ngàn tấn, sản lượng xuất khẩu năm 1998 là 198 ngàn tấn, năm 1999 tăng lên 260 ngàn tấn. Về các loại cây ăn quả , đặc biệt là cây ăn quả có chất lượng cao được đầu tư khá nhiều, do vậy mà phát triển khá mạnh nhất là cây nho, vải thiều, cam , nhãn… đã đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ nét ở nhiều vùng, đặc biệt là vùng Nam bộ và Miền núi phía Bắc.
Về chăn nuôi phát triển mạnh toàn diện. Bình quân 10 năm (1989 đến 1999) so với bình quân 5năm trước đó đàn trâu tăng 52% đàn bò tăng 10%, đàn lợn tăng 20%, đàn gia cầm 25%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 25%, sản lượng trứng tăng 33%. Đặc biệ, đàn bò sữa tăng nhanh, năm 1999 đạt gần 34 ngàn con, trong đó thành phố Hồ Chí Minh gần 25 ngàn con, tăng gấp 3 lần so với năm 1990 . Nhờ đầu tư vào ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới về giống, thức ăn và thú y nên chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển khá ổn định tốc độ tăng trưởng cao hơn trong trồng trọt, góp phần tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Bình quân năm thời kỳ 1995-1999 tốc độ tăng trưởng chăn nuôi đạt trên 5%.
Nét mới trong phát triển nông nghiệp những năm đổi mới là xuất hiện một số mô hình kiểm mới như: kinh tế trang trại, cao su, tiêu, điều, cà phê, tổ hợp tác tự nguyện, HTX kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ theo thống kê của đến ngày 1/7/1999 cả nước có 45372 trang trai nông-lâm -thuỷ sản sản xuất chuyên môn hoá học kinh doanh tổng hợp với quy mô lớn, sử dụng lao động làm thuê với thu nhập vượt trộ so với kinh tế hộ gia đình nông dân.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản được đầu tư thích đáng do đó có nhiều tiến bộ. Nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi cá nước ngọct, nước lợ phát triển mạnh nhất là vùng đồng bằng ven biển, vùng Đông nam bộ với những phương thức khác nhau. Đã hình thành vùng chuyên nuôi tôm giống, chất lượng cao với phương thức đầu tư chiều sâu, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới tạo ra nhiều loại tôm giống tốt phục vụ nhu cầu cả nước. Xuất hiện nhiều mô hình trang trại nuôi tôm giống với quy mô lớn, hiệu quả cao, thu nhập hàng trăm triệu mỗi năm . Như vậy, qua khái quát tình hình đầu tư vào nông nghiệp cho thấy nông nghiệp vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong có cấu kinh tế quốc dân nước ta. Tuy không thể làm giàu bằng nông nghiệp nhưng những chuyển biến tích cực của nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tạo tiền đề phát triển trong tương lai.
So với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp, về cơ bản chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, khả năng sinh thái chưa được khai thác đầy đủ và hiệu quả. Tỷ suất hàng hoá thấp, trồng trọt, đặc biệt là trồng lương thực vẫn chiếm vị trí hàng đầu, chăn nuôi theo kiểu hàng hoá chưa phát triển mạnh, thuỷ sản tuy phát triển khá nhưng vẫn thấp xa so với tiềm năng của đất nước… so với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn. Vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư vào nông nghiệp hợp lý hơn để đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển tương xứng với vị trí vai trò của nó.
Phần iii: Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
i. những tiềm năng trong nông nghiệp cần được khai thác, và mục tiêu, phương hướng đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 2001-2005.
1. Tiềm năng trong nông nghiệp cần được khai thác
Tài nguyên thiên nhiên nước ta còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác như: đất đai, mặt nước, khí hậu, cây trồng, vật nuôi… trong đó có nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta còn nhiều tiềm năng to lớn chưa được khai thác cả về chiều rộng lẫn như chiều sâu.
Về chiều rộng: chúng ta còn nhiều tiềm năng mở rộng diện tích trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển nông nghiệp toàn diện, khai thác các vùng đất phẳng, đất dốc, mặt nước, tận dụng các điều kiện tiểu khí hậu của từng vùng để tăng tổng sản lượng nông nghiệp .
Về chiều sâu: chúng ta còn nhiều tiềm năng để tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng năng suất sinh học, tăng năng suất lao động nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp, tăng giá trị nông sản, tăng tỷ suất nông sản hàng hoá, giảm giá thành nông sản… Chúng ta còn nhiều tiềm năng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một nền nông nghiệp bền vững về kinh tế và môi trường sinh thái. Như vậy, để khai thác tiềm năng này đòi hỏi phải có vốn đầu tư và chính sách đầu tư hợp lý để khuyến khích tăng cường đầu tư trong nông nghiệp.
2. Mục tiêu, phương hướng đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001-2005.
Trong giai đoạn này, chúng ta chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, phát triển bền vững, từng bước hiện đại hoá trên cơ sở áp dụng công nghệ sạch có khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong giai đoạn này tập trung đầu tư có trọng điểm cho sản xuất lương thực, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tham gia mạnh m ẽ vào thị trường lương thực thế giới. Tập trung tăng cường đầu tư cho các mặt hàng chúng ta có lợi thế, những mặt hàng chủ yếu hướng ra xuất khẩu, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường khu vực và thế giới. Các mặt hàng này chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả cao cấp, dầu thực vật, lâm sản và thuỷ sản. Phải tăng cường đầu tư thoả đáng cho việc phát triển sản xuất các loại sản phẩm thay thế nhập khẩu như đường, thức ăn chăn nuôi, sản phẩm chăn nuôi… nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của dân cư và tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Cần tăng cường đầu tư phát triển các ngành mũi nhọn như thuỷ sản vì đây là ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu lớn nhất nước ta. Phấn đấu thực hiện thắng lợi chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng.
Để phát triển nông nghiệp, song song với nó là phải phát triển nông thôn. Phải phát triển mạnh công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nông thôn, quan tâm thoả đáng đến xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt…
Như vậy, trong giai đoạn này chúng ta đầu tư để nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp. Đầu tư vào nông nghiệp để hướng vào xuất khẩu, phải đầu tư phát triển công nghiệp ở các vùng trọng điểm, các ngành trọng điểm. Đầu tư được điều chỉnh theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế tham gia sản xuất nông nghiệp.
ii. giải pháp tăng cường đầu tư vào nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
Thực trạng về đầu tư vào nông nghiệp những năm qua đã cho thấy, mặc dù nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung thì đầu tư vào nông nghiệp chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao, còn mất cân đối. Vì vậy trong giai đoạn này và giai đoạn tiếp theo đòi hỏi phải tăng cường đầu tư vào nông nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả. Để làm được điều này phải có những giải pháp để thu hút đầu tư nhiều hơn nữa vào nông nghiệp. Các nguồn vốn cần thu hút để đầu tư vào nông nghiệp là: nguồn vốn nước ngoài, nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn trong nước là các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn của các tổ chức tín dụng trong nước, vốn từ dân cư… Theo dự báo, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn thời kỳ này duy trì tỷ lệ khoảng 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng khoảng 3,5% so với bình quân thời kỳ 1996 - 2000. Như vậy để tăng cường đầu tư vào nông nghiệp phải chú ý xin nêu một số giải pháp sau đây:
* Lãi suất: cần chú ý đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Có nhiều chủ trương cho rằng, nên tăng lãi suất huy động, nhưng tăng lãi suất huy động thường đi kèm theo với tăng lãi suất cho vay. Thực tế cho thấy, các đối tượng đi vay trong nông nghiệp chủ yếu là những hộ nghèo, thu nhập thấp. Do vậy mà các ngân hàng và quỹ tín dụng rất ít khách hàng đến vay khi thực hiện chủ trương này. Bởi vậy chủ trương này chưa thu hút được đầu tư vào nông nghiệp, thậm chí còn giảm đầu tư vào nông nghiệp từ các hộ, các tổ chức muốn đầu tư vào nông nghiệp. Như vậy lãi suất trong giai đoàn này cần phải thực hiện là:
-Giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay
-Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng.
-Xử lý lãi suất linh hoạt đối tượng cho vay
* Thời hạn cho vay vốn: tăng nguồn vốn vay dài hạn và trung hạn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn bằng việc tập trung các nguồn vay dài hạn của chương trình 327, quỹ quốc gia tạo việc làm và nguồn vốn dài hạn của nước ngoài vào các kênh ngân hàng, đảm bảo cơ cấu cho vay 30% vốn vay dài hạn và 70% vốn vay trung hạn và ngắn hạn.
*Về thị trường vốn: phải phát triển thị trường vốn phù hợp với tình phát triển kinh tế của đất nước. Trong nông nghiệp, hiện nay đã xuất hiên những công trình đòi hỏi vốn đầu tư lớn và từ nhiều nguồn. Như vậy phát triển thị trường vốn (thị trường bảo hiểm, t2 chứng khoán…) sẽ huy động được vốn nhanh, khối lượng lớn, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu trong nông nghiệp. Nhà nước cần có chính sách rõ ràng và chính thức cho phép các thành phần tham gia kinh doanh tiền tệ và vốn trong nông thôn với hình thức đa dạng như: phát triển ngân hàng tư nhân, lập quỹ hội. Tăng vốn trung hạn và dài hạn cho các thành phần kinh tế vay để sản xuất kinh doanh ở nông thôn, đặc biệt là sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên cho các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu các hàng hoá nông nghiệp.
Với việc phát triển thị trường vốn đa dạng sẽ tạo điều kiện cho các hộ, các tổ chức ở các vùng thuân tiện cho việc vay vốn đầu tư vào nông nghiệp
* ổn định và hoàn thiện môi trường đầu tư: Môi trường đầu tư ở đây muốn nói đến luật pháp, các thủ tục hành chính, tình hình chính trị, an ninh… phải tiếp tục hoàn thiện và giảm những phiền hà về thủ tục hành chính, tăng cường tính linh hoạt của luật pháp trong nền kinh tế hiện nay, đảm bảo an ninh ở nông thôn để giảm rủi ro và giảm chi phí khi các nhà đầu tư đầu tư vào nông nghiệp. Đơn giản hoá tôi đa thủ tục hành chính, tạo cơ chế một cửa cho các nhà đầu tư.
*Tiếp tục hoàn thiện một số chính sách khác
a.Chính sách ruộng đất: Cơ sở của chính sách này là luật đất đai. Do vậy phải nghiên cứu, tổng kết các nội dung trong luật để xây dựng cơ sở vững chắc cho việc hoàn thiện, nhanh chóng đưa luật vào cuộc sống. Đặc biệt phải quan tâm tới các quyền sử dụng, thế chấp, thừa kế, chuyển đổi, chuyển nhượng. Phải nâng cao tiến độ cấp giấy phép sử dụng đất cho nông dân để nông dân có thể dùng giấy đó làm tài sản thế chấp vay vốn tại các ngân hàng. Nhanh chóng quy hoạch và công bố rộng rãi các vùng đất chuyên canh để giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích kinh tế khác nhau. Quy định cụ thể trách nhiệm của người nhận ruộng về cải tạo, tu bổ và nâng cao năng suất đất đai. Quy định mức đền bù, loại đất được thuê, giá đất thuê. Nhanh chóng thể chế hoá 5 quyền sử dụng đất thuộc luật đất đai để tạo sự yên tâm cho nông dân và các tổ chức kinh tế đầu tư vào nông nghiệp.
b.Chính sách giá cả và thuế: Để tăng cường đầu tư vào nông nghiệp, nhà nước phải có chính sách ưu đãi, nhất là vấn đề miễn giảm thuế nông nghiệp vì thuế là vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi nhuận, mục đích cuối cùng của người sản xuất. Cần xác định mức thuế hợp lý và ổn định trong thời gian dài, có thể áp dụng các loại thuế riêng biệt: thuế tài nguyên - đất đai và thuế doanh thu. Chính sách miễn giảm thuế nông nghiệp sẽ làm cho thu nhập của nông dân tăng lên, người sản xuất nông nghiệp sẽ có tích luỹ cần thiết để tồn tại và tái đầu tư trong tương lai. Tuy thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, nhưng ở Việt Nam phần lớn dân số là nông thôn và về cơ bản thuần nông là chính, các ngành nghề phi nông nghiệp kém phát triển, cơ sở hạ tầng nông thôn lạc hậu làm cho sự lưu thông hàng hoá, thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp chậm phát triển và từ đó mà tích luỹ nội bộ ngành nông nghiệp càng bị hạn chế, nên sự cần thiết là phải giảm tối đa thuế nông nghiệp cho người nông dân. Và phần thuế thu được phải để lại 100% cùng với sự đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước nhiều hơn nữa để tái đầu tư cho nông nghiệp, nhất là cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Bởi vậy mới khuyến khích đầu tư vào khu vực nông nghiệp ngày càng nhiều hơn và hiệu quả hơn.
c. Chính sách khuyến nông: Khuyến nông là một trong những biện pháp khuyến khích, giúp đỡ người nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp để thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu cây trồng nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai. Chính sách khuyến nông sẽ góp phần nân cao thu nhập của nông dân, tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư vào nông nghiệp sẽ nhiều hơn và hợp lý hơn. Tuy vậy, vấn đề đặt ra với chính sách này là: Các chính sách phải được thực hiện đến nơi đến chốn, tránh tình trạng gây lãng phí vốn và dư luận trong dân chúng.
d. Chính sách đầu tư vốn của nhà nước : Nông nghiệp -nông thôn là cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển các ngành khác. Do đó, nhà nước cần dành nhiều vốn đầu tư thông qua tín dụng nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân vay để phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhà nước cần điều chỉnh hợp lý các yêu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp. Xoá bỏ tình trạng phân bổ vốn bình quân, dàn đều, tập trung vào các chương trình trọng điểm và các dự án ưu tiên vốn cho các công trình, chương trình, dự án với lãi suất thực sự ưu đãi. Nhưng phải thấy rằng việc cấp phát vốn phải gắn liền với khả năng thu hồi vốn. Mở rộng quyền cho các công ty kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá liên quan tới nông nghiệp và các công ty này phải được phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân cư. Bên cạnh đó phải chú ý tới đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Ngân sách nhà nước chỉ nên tập trung vào cơ sở hạ tâng nông thôn: điện, giao thông, trạm trại … Như vậy, cơ sở hạ tâng nông thôn phát triển dẫn đến lưu thông dễ dàng. Điều này cũng tạo điều kiện để thu hút đầu tư vào nông nghiệp ngày càngg nhiều hơn.
kết luận
Qua thực trạng về đầu tư cho nông nghiệp như đã trình bày chúng ta thấy rằng mặc dù trong nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, nhưng nhìn chung, đầu tư vào khu vực này vẫn còn hạn chế, chưa đúng mức, chưa hợp lý, bởi vậy mà chưa khai thác hết tiềm năng trong nông nghiệp của đất nước. Điều đó cho thấy, nông nghiệp chưa phát triển tương xứng với tiềm năng dồi dào của nó. Vì thế trong giai đoạn tới (2001-2005) cần phải tăng cường đầu tư vào nông thôn. Để tăng cường đầu tư vào nông nghiệp đòi hỏi phải có các chính sách thu hút đầu tư ngày càng nhiều, ngày càngg hợp lý. Đề án môn học đã nêu ra một số giải pháp cơ bản, nhưng với trình độ và kinh nghiệm nên chắc chắc không tránh được những thiếu xót. Vì vậy rất mong được sự chỉ bảo của thầy (cô) để em có thể thấy và khắc phục được những thiếu xót này. Em xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Phần I: những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển nông nghiệp
2
I. Một số quan niệm về đầu tư và đầu tư trong mối quan hệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế
2
1. Các quan niệm về đầu tư và các loại hình đầu tư
2
2. Đầu tư trong mối quan hệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3
II. Sự cần thiết phải tăng cương đầu tư đối với phát triển nông nghiệp
4
1. Vai trò, vị trí, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
4
2. Vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam
8
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư cho nông nghiệp
10
III. Kinh nghiệm đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số nước trên thế giới
11
1. ở các nước châu á Thái Bình Dương
11
2. Đài Loan
11
3. Trung Quốc
12
Phần II: thực trạng về đầu tư cho nông nghiệp ở Việt Nam trước năm 1988 và từ năm 1989 đến nay
13
I. Đầu tư cho nông nghiệp ở Việt Nam từ năm 1988 trở về trước
13
II. Đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 1989-1995
16
1. Thực trạng về đầu tư cho nông nghiệp
16
2. Những tác động của việc đổi mới cơ chế chính sách và cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp
19
III. Giai đoạn từ 1995 đến nay
21
1. Về vốn đầu tư
21
2. Đánh giá về đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 1995 đến nay
22
3. Những thành tựu đạt được trong nông nghiệp dưới tác động của vốn đầu tư trong giai đoạn 1995 đến nay
23
Phần III: Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
26
I. Những tiềm năng trong nông nghiệp cần được khai thác và mục tiêu, phương hướng đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
26
1. Tiềm năng trong nông nghiệp cần được khai thác
2. Mục tiêu, phương hướng đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
26
26
II. Giải pháp tăng cường đầu tư vào nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
27
1. Lãi suất
27
2. Thời hạn cho vay vốn
28
3. Về thị trường vốn
28
4. ổn định và hoàn thiện môi trường đầu tư
28
5. Tiếp tục hoàn thiện một số chính sách khác
28
a. Chính sách ruộng đất
28
b. Chính sách giá cả và thuế
28
c. Chính sách khuyến nông
29
d. Chính sách đầu tư vốn của nhà nước
29
Kết luận
30
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế phát triển tập I + II
2. Kinh tế học của các nước đang phát triển của tác giả:
3. Nghiên cứu lý luận
4. Tạp chí kinh tế và phát triển số 9/1999
5. Tạp chí cộng sản số 6/1998, số 15/8/1998, số 1/1/1999, số 22/11/1998, số 8/4/1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29563.doc