Với những ưu điểm và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong nước, việc đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này là một điều cần thiết, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế của đất nước. Hiện nay mặt hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào mặt hàng được hưởng ưu đãi của Nhà nước và đang được xây dựng đề án phát triển, đây là một cơ hội thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. Hiện nay Nhật Bản là một trong những thị trường có nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ lớn và cũng là nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lớn nhất của nước ta. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam với những nét độc đáo riêng đã dần dần chiếm được lòng tin từ phía khách hàng Nhật Bản. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất nói riêng xâm nhập thị trường.
Là một doanh nghiệp còn non trẻ, qui mô nhỏ, vì thế thị trường chưa lớn, kim ngạch xuất khẩu còn ít, lợi nhuận còn thấp nhưng với tầm vóc và vị trí như hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
Hy vọng trong tương lai Công ty sẽ luôn giữ được vị thế của mình trên thương trường.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật bản của công ty Mỹ nghệ xuất nhập khẩu và trang trí nội thất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à phân phối, các thương nhân Nhật Bản. Sau hội chợ triển lãm, công ty đã có thêm nhiều hợp đồng lâu dài với các doanh nghiệp Nhật Bản.
Các mặt hàng chủ yếu của công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: gốm sứ mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, gỗ mỹ nghệ, mây tre đan. Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản với hai hình thức chính là xuất khẩu trực tiếp và uỷ thác xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu trực tiếp chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. So với hình thức xuất khẩu gián tiếp, hình thức này thường có lợi nhuận cao hơn và giá cả ổn định hơn. Các mặt hàng xuất khẩu dưới hình thức này là gốm sứ mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ và phần lớn các mặt hàng tạp phẩm. Hình thức xuất khẩu gián tiếp chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, các sản phẩm được xuất khẩu dưới hình thức này là mây tre đan và một phần nhỏ hàng tạp phẩm.
Từ những phân tích trên ta thấy, Nhật Bản là một thị trường lớn của công ty không những trong hiện tại mà hy vọng trong cả tương lai.
1.3. Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản
Có thể nói Nhật Bản là một thị trường khó tính nhất và cũng khó xâm nhập nhất của phần lớn công ty nào muốn xâm nhập vào đó. Đối với công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất, trước khi đi vào sản xuất công ty đã xác định Nhật Bản là thị trường mục tiêu quan trọng vì dù sao Nhật Bản cũng là một nước Châu á, có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá. Văn hoá Nhật Bản mang đậm phong cách á Đông và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản gần đây có nhiều dấu hiệu tích cực và quan trọng hơn là thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ - mặt hàng mà công ty sản xuất và kinh doanh.
Vì Nhật Bản là một thị trường khó tính nên công ty rất thận trọng trong tất cả các khâu xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản.
Bằng những nỗ lực của các cán bộ, công nhân công ty, từ khi thành lập đến nay, đặc biệt là 2 năm gần đây hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường Nhật Bản đã đạt được những hiệu quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, tạo công ăn việc làm thường xuyên và ổn định cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
Ta có thể thấy rõ hơn kết quả kinh doanh của công ty qua các năm qua bảng sau:
Bảng: Hiệu quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
sang thị trường Nhật Bản
Đơn vị: 1000đ
STT
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1
Tổng doanh thu
560.100
689.260
1.010.000
2
Tổng chi phí
546.260
657.660
946.947
3
Tổng lợi nhuận
13.840
29.600
63.026
4
Vốn kinh doanh
720.230
900.760
1.120.950
5
Lợi nhuận/chi phí
2,53
4,50
6,33
6
Lợi nhuận/vốn
1,87
3,29
5,62
2. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
2.1. Những thành tựu mà công ty đã đạt được
2.1.1. Những thành tựu đạt được:
Trong thời gian qua công ty đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, cụ thể là:
-Từ một xí nghiệp hoạt động cầm chừng, các công nhân có khi phải nghỉ việc không lương kéo dài, hoạt động của công ty có khi phải được Tổng công ty bù lỗ thì đến nay đã trở thành công ty làm ăn có lãi và lãi suất của công ty đã không ngừng tăng lên trong các năm: năm 1998 là hơn 120 triệu, năm 1999 là hơn 200 triệu, năm 2000 là hơn 350 triệu, đây là một con số tương đối lớn.
-Hiện nay công ty đã xâm nhập được 7 thị trường khác nhau trên thế giới, đó là: Nhật Bản, Đài Loan, Đức, Pháp, ý, Nga, Tiệp Khắc. Mặc dù còn có nhiều khó khăn, trở ngại vì vốn ít, mới thành lập nên chưa có tiếng tăm, uy tín nhưng công ty đã có cố gắng lớn để trụ vững, ổn định và tạo hướng đi lên nhằm nâng kim ngạch xuất khẩu và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
-Sản phẩm của công ty ngày càng đa dạng, phong phú và có tính thẩm mỹ cao.
-Trước đây công ty còn dựa vào mẫu mã của nước khác và các nhà sản xuất khác trong nước thì đến nay công ty đã có những mẫu mã hoàn toàn mới cho riêng mình, do phòng mẫu của công ty sáng tạo ra. Những sản phẩm của công ty không những đẹp, có thể dùng làm vật trang trí mà còn có thể sử dụng như móc treo, dĩa hoa quả, giá nến, giá để rượu,... Mỗi thị trường đều có những sản phẩm đặc trưng: bộ đồ thiếu nữ mặc kimônô cho thị trường Nhật Bản, các bộ hoa quả nhỏ cho thị trường Đài Loan, bộ đồ magnet cho thị trường Đức.
-Năng suất hoạt động của công ty không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở khâu sản xuất, đây là khâu quan trọng nhất vì nó tạo ra chất lượng sản phẩm, cấu thành giá cả hàng hoá.
Để nâng cao tay nghề của người công nhân, công ty tổ chức các cuộc thi tay nghề hàng năm. Những người có điểm tay nghề cao sẽ được xét thưởng, tăng lương và ký hợp đồng dài hạn, đây là một phương pháp rất có hiệu quả.
2.1.2. Nguyên nhân
Những năm gần đây, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế năm 1997 nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng cao, trong đó có nhu cầu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ và đồ trang trí nội thất. Bên cạnh đó ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đang được chính phủ đưa vào ngành chú trọng quan tâm với các chính sách ưu đãi đặc biệt. Vì thế không chỉ riêng Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất mà hầu hết các công ty kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ những năm gần đây đều gặp nhiều thuận lợi và đạt được hiệu quả cao.
Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất được Tổng công ty thương mại và xây dựng (VIETRACIMEX) hỗ trợ giúp đỡ nhiều về vốn, cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, khách hàng, đặc biệt là trung tâm Việt-Nhật đã cung cấp cho công ty nhiều thông tin về khách hàng, thị trường Nhật Bản.
Thêm vào đó, công ty có đội ngũ cán bộ, đặc biệt là ban lãnh đạo công ty có năng lực, mạnh dạn đầu tư trên nhiều lĩnh vực, mở thêm nhiều xưởng sản xuất các mặt hàng mà thị trường đang có nhu cầu. Các cán bộ, công nhân viên trong công ty ý thức được những khó khăn ban đầu của công ty nên ra sức tiết kiệm, nhiệt tình sáng tạo. Có thể nói đây là một ưu điểm quan trọng trong cơ chế hiện nay.
2.2. Những mặt còn hạn chế của công ty
2.2.1. Những mặt còn hạn chế của công ty:
-ở khâu sản xuất:
+ Các sản phẩm của công ty còn hạn chế về kiểu dáng, mẫu mã, các mẫu mã của công ty còn phụ thuộc nhiều vào các mẫu mã của các nhà sản xuất khác trong và ngoài nước, hoăc theo mẫu của phía đặt hàng. Những mẫu hàng riêng của công ty còn ít do đó chưa phát huy được hết lợi thế của mình và khó cạnh tranh trên thị trường.
+ Quá trình sản xuất chưa phát huy hết công suất vì phải phụ thuộc vào phía đối tác, đơn đặt hàng. Thêm vào đó là cơ sở và điều kiện sản xuất còn quá sơ sài.
-ở khâu đóng hàng:
Khâu đóng hàng chưa được chú trọng đúng mức, việc đóng hàng đôi khi chưa thật khoa học gây gãy, vỡ, xước, sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Mặt khác, nhiều sản phẩm chưa được gắn bao bì, nhãn mác riêng của công ty nên gây bất tiện cho người tiêu dùng trong việc chọn lựa.
-ở khâu tiêu thụ sản phẩm:
Chiến lược marketing của công ty còn yếu, chưa chú trọng đúng mức vào lĩnh vực này. Công ty chưa có cán bộ chuyên trách về lĩnh vực marketing nên việc nghiên cứu nhu cầu thị trường chưa đi vào thực tế đối với từng loại sản phẩm của công ty.
-Về hình thức xuất khẩu:
Công ty đã coi trọng hình thức xuất khẩu trực tiếp nhưng tỷ trọng loại hình này còn chưa cao. Với hình thức xuất khẩu gián tiếp, công ty không những bị thua thiệt về mặt lợi nhuận mà đôi khi còn bị ép giá do đó hiệu quả thường không cao.
2.2.2. Nguyên nhân:
-Những năm gần đây số lượng các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng nhiều tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty trong và ngoài nước. Đây là một trở ngại cho công ty trong việc ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu.
-Mặc dù được nhà nước khuyến khích ưu đãi cho mặt hàng truyền thống nhưng vì chính sách chung về thuế của nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, cơ cấu thuế phức tạp nên một số mặt hàng nhập khẩu của công ty bị đánh thuế cao gây ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của công ty. Bên cạnh đó cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu còn khá cứng nhắc, thủ tục còn rườm rà gây phiền hà, mất thời gian và nhiều khi bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của công ty. Công ty phải vay vốn với lãi suất cao, trong thời gian ngắn nên thường bị động trong kinh doanh.
-Công tác nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng, vì thế chưa đánh giá được dung lượng của thị trường nước ngoài, nhu cầu của khách hàng nên kim ngạch xuất khẩu sang thị trường nước ngoài đang còn thấp. Công ty chỉ chú trọng việc mở rộng thị trường mà không thâm nhập sâu, đánh giá kỹ từng khu vực thị trường, do đó nhiều đoạn thị trường đã bị mất.
-Mặc dù nhu cầu sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ không phải là nhỏ song nó không phải là mặt hàng thiết yếu. Đời sống của người dân càng cao họ càng khó tính trong việc lựa chọn mặt hàng này. Đòi hỏi các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phải đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, đặc biệt phải có những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, nhiều sản phẩm xuất khẩu phải có sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá phương tây với văn hoá phương đông, nhiều khi phải mang đậm văn hoá của thị trường xâm nhập. Công ty vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đó, nguyên nhân chủ yếu là công ty chưa chủ động đưa ra các biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu thị trường như: Chưa sáng tạo trong sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới.
IV.một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản.
1.Mục tiêu và phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới.
1.1. Mục tiêu:
Nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ ở thị trường Nhật Bản nói riêng và thị trường thế giới nói chung ngày càng tăng. Tuy nhiên việc phát hiện và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của mỗi khu vực thị trường đối với từng loại sản phẩm là công việc khó khăn và thường tốn kém, đây là vấn đề đặt ra cho tất cả các công ty sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Riêng đối với công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất, mục tiêu mà họ đặt ra trong năm tới là:
-Tổng doang thu đạt: 10 tỷ đồng. Trong đó:
+ Sản xuất đạt: 4 tỷ đồng
+ Thương mại dịch vụ: 6 tỷ đồng
-Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt: 8,5 tỷ đồng
-Mở rộng thị trường sang các nước: Hàn Quốc, Anh, Canada, ôxtrâylia.
-Tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh thêm nhiều mặt hàng, đa dạng về mẫu mã và kiểu dáng.
-Quan tâm nhiều hơn đến công tác đời sống, phúc lợi của cán bộ công nhân viên trong công ty. Thúc đẩy phong trào thi đua lao động giỏi, lao động xuất sắc.
1.2. Phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới:
Để đạt được những mục tiêu trên không phải là vấn đề đơn giản của công ty.
Để làm được điều này, công ty đã vạch ra các phương hướng và kế hoạch thực hiện như sau:
1.2.1.Về công tác sản xuất:
-Tiếp tục mở rộng sản xuất với qui mô vừa và nhỏ. Sản xuất nhiều mặt hàng hơn với mẫu mã đẹp, kiểu dáng phong phú. Đặc biệt là với xưởng sản xuất búp bê vải và xưởng gỗ mỹ nghệ, sản phẩm của hai phân xưởng này đều có khả năng xuất khẩu lớn, trong đó thị trường trọng yếu là Nhật Bản. Để làm được điều này đòi hỏi người thiết kế mẫu phải năng động, sáng tạo hơn trong công việc tìm kiếm Mẫu mã.
-Phải phát huy tối đa năng suất lao động ở các xưởng sản xuất. Để làm được điều này đòi hỏi công ty phải thực hiện tốt hơn các khâu cung cấp vật tư, nguyên vật liệu, kiểm tra chặt chẽ các khâu sản xuất, có chính sách khuyến khích công nhân làm việc đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể:
+ Thực hiện thống kê ngay tại xưởng, thống kê về mặt nhân lực, thu nhập, ngày công. Từ đó làm cơ sở cho việc bình bầu, xét duyệt, khiển trách, khen thưởng.
+ Mở sổ theo dõi vật tư, công cụ, dụng cụ tại xưởng.
+ Tiếp tục tổ chức thi tay nghề ở các bộ phận còn lại để kiểm tra tay nghề của công nhân và xếp lương khoán cho từng bộ phận.
+ Tổ chức thi thợ giỏi.
-Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu bằng cách tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ với các khách hàng nước ngoài truyền thống. Để làm được điều này thì bên cạnh việc phải giao hàng đúng yêu cầu về chất lượng, giá cả, mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng, đúng thời hạn, giá cả hợp lý ... công ty còn có thể có các chánh sách ưu tiên như: hạ giá, khuyến mại.Để có thêm nhiều khách hàng mới công ty phải đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị hàng hoá, tham dự thêm nhiều hội chợ triển lãm, đặc biệt là các hội chợ quốc tế.
-Mở rộng hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực: Đầu tư kinh doanh kho bãi, đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, thương mại và xây dựng (kinh doanh xuất nhập khẩu các thiết bị giao thông vận tải, dịch vụ vận tải).
-Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu, áp dụng linh hoạt các hình thức xuất khẩu trong kinh doanh đồng thời chú trọng đến việc nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu trực tiếp.
-Mở rộng liên doanh, liên kết với các cơ sở làm ăn có uy tín, kinh nghiệm trong sản xuất để cùng sản xuất hàng xuất khẩu, do đó có thể chủ động trong việc đảm bảo hàng xuất khẩu.
1.2.2. Về công tác tổ chức:
Công tác tổ chức, sắp xếp cán bộ được đưa lên hàng đầu. Muốn phát triển cần phải có bộ máy lãnh đạo và hệ thống quản lý hoàn chỉnh:
-Sắp xếp và kiện toàn lại các vị trí lãnh đạo và hệ thống cán bộ phòng ban có nghiệp vụ giỏi.
-Lựa chọn các cán bộ có năng lực, trách nhiệm và có đạo đức phẩm chất tốt vào các vị trí then chốt.
-Tiếp tục mở rộng tổ chức công ty, thành lập các xí nghiệp trung tâm với qui mô gọn nhẹ nhưng hiệu quả.
-Xét duyệt ký hợp đồng lao động ngắn hạn, dài hạn cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
-Triệt để tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
-Thường xuyên tổ chức vận động, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ công nhân viên toàn công ty có ý thức trách nhiệm và tinh thần tập thể.
2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản.
2.1.Về phía nhà nước.
Hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay được Nhà nước xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Để thúc đẩy cũng như đảm bảo cho các mặt hàng chủ lực được phát triển một cách bền vững, Nhà nước đã đề ra các chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nói chung và mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng phát triển. Cụ thể :
a.Chính sách đối với các làng nghề.
Nghề thủ công truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu là ở các làng nghề. Để các ngành, nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển hoạt động sản xuất-kinh doanh, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau :
Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước là các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất-kinh doanh của mình để tranh thủ khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai.
Cần phân loại làng nghề với những tiêu chí phù hợp, trong đó làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống được khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ với mức cao hơn.
b.Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Do đặc điểm và khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ như : cơ sở sản xuất kinh doanh các loại hàng này chủ yếu là các đơn vị nhỏ, vốn ít, hàng hoá thường là loại kồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán và vận chuyển, giao hàng.. Vì Vậy Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia các hội chợ , triển lãm quốc tế.
Cần thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như “ Việt nam Square “ tại Osaka , Nhật Bản .. Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. Đồng thời Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư xây dựng hai trung tâm lớn trong nước chuyên để trưng bày , giao dịch mua bán và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Cần vận dụng linh hoạt các phương thức bán hàng để mở rộng thị trường xuất khẩu. Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng này theo phương thức bán hàng trả chậm, phương thức gửi bán hoặc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
c. Chính sách đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ.
Hiện nay một phần đáng kể hàng thủ công mỹ nghệ được bán cho khách nước ngoài, chủ yếu là khách du lịch tại các cửa hàng miễn thuế thu ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc bán thu bằng đồng Việt nam. Nguồn thu về du lịch quốc tế của ta ngày càng lớn thì hàng thủ công mỹ nghệ cung ứng cho nhu cầu này ngày càng nhiều dưới dạng các vật phẩm tiêu dùng hoặc các vật lưu niệm. Vì Vậy, Nhà nước cần chính thức công nhận hàng hoá sản xuất trong nước tiêu thụ theo phương thức nêu trên là hàng xuất khẩu tại chỗ và có chính sách khuyến khích thích hợp.
d. Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, mây, tre, lá,..thì cần áp dụng một số chính sách-biện pháp sau :
_Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các Bộ, ngành và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa phương mình quản lý, đề nghị ưu tiên giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ và cải tiến thủ tục giao hạn mức để tránh phiền hà đối với doanh nghiệp.
_Đối với các nguyên liệu khác như song mây, tre, lá,.. thì Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu. Nhà nước tổ chức , xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung ứng cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khâủ như nguyên liệu gỗ , nguyên liệu cho các ngành sản xuất gốm sứ .. Vì các cơ sở sản xuất thường không đủ khả năng vốn và kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp naỳ.
e. Một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
Chính phủ cần thành lập một tổ chức chuyên trách việc quản lý và hỗ trợ nhằm phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Tổ chức đó có thể là : “Trung tâm hỗ trợ phát triển ngành nghề truyền thống” trực thuộc Bộ công nghiệp hoặc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoặc một trung tâm hoạt động độc lập theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ.
Cùng với việc tổ chức các cơ quan chuyên trách của Nhà nước, đề nghị sớm cho thành lập các Hiệp hội ngành thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường sự phôi hợp giữa các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, nhất là tổ chức sáng tạo mẫu hàng với sự hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại, cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước.
2.2.Về phía công ty.
a. Nâng cao chất lượng hoạt động tạo nguồn hàng thủ công mỹ nghệ cho xuất khẩu.
* Nguồn sản xuất:
Công ty mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu do đó khâu sản xuất đóng vai trò rất quan trọng vì đây là khâu tạo ra chất lượng, kiểu dáng, hình thái, của sản phẩm. Nhật Bản là một thị trường khắt khe và khó tính nhất trong việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm, do đó khâu sản xuất càng đóng vai trò quan trọng hơn. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động và phương pháp tổ chức sản xuất. Để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, công ty phải chú ý các điểm sau ở khâu sản xuất:
-Kiểm tra nghiêm ngặt các quy trình công nghệ sản xuất, bất kỳ một công đoạn sản xuất nào bị bỏ qua đều có thể ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, vì vậy cần đảm bảo các sản phẩm đều được qua đủ các công đoạn sản xuất.
-Xử lý kỹ nguyên vật liệu cả trước và sau khi sản xuất vì chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc rất nhiều vào việc xử lý nguồn nguyên vật liệu. Thực tế cho thấy, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói chung khá độc đáo, đẹp, mang tính thẩm mỹ cao. Tuy nhiên khi xuất sang nước bạn, trải qua thời gian vận chuyển dài với những điều kiện khí hậu khác nhau làm cho hàng hoá bị xuống cấp nhanh chóng mà nguyên nhân chính là do quy trình xử lý, chế biến nguyên liệu chưa tốt. Đặc biệt là đối với hàng mây tre đan, nếu không xử lý tốt các khâu phơi sấy thì các sản phẩm này rất rễ bị mốc. Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất không trực tiếp sản xuất sản phẩm này mà thường huy động từ các nguồn sản xuất khác nên công ty phải lưu ý vấn đề này với các cơ sở sản xuất trước khi gom hàng.
-Công ty cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao tay nghề cho công nhân. Công nhân phải có sự hiểu biết về các yếu tố cấu thành sản phẩm cũng như nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý sai lầm, kiểm tra và khắc phục sản phẩm do mình làm ra. Bên cạnh đó công ty cần đầu tư thêm máy móc, thiết bị mới cho các cơ sở sản xuất, áp dụng công nghệ mới để có những sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, đa dạng độc đáo, tránh tình trạng nhái lại hoặc rập khuôn theo mẫu mã hàng hoá đã quen thuộc trên thị trường gây nên tình trạng nhàm chán cho khách hàng. Để nâng cao tay nghề cho công nhân, một yếu tố khác không kém phần quan trọng đối với công ty là phải chuyên môn hoá hơn nữa khâu sản xuất. Sỡ dĩ như vậy là vì hiện nay ở công ty các công nhân chưa phải hoàn toàn mỗi nhóm công nhân nắm mỗi công đoạn sản xuất mà cứ ở khâu nào cần thì tập trung phần lớn công nhân làm việc ở công đoạn đó, như thế công nhân không thể tập trung chuyên sâu tay nghề vào một lĩnh vực và dễ tạo ra sự không đồng đều giữa các sản phẩm. Chuyên môn hoá các công đoạn sản xuất sẽ làm tăng năng suất lao động và các công nhân sẽ dần quen tay nghề, họ trở nên điêu luyện hơn và vì thế sản phẩm sẽ đẹp hơn.
-Để nâng cao chất lượng sản phẩm, bên cạnh việc trang bị thêm máy móc, công nghệ tiên tiến, công ty cần phải tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng, điều kiện sản xuất cho các phân xưởng vì đây là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Hiện nay điều kiện sản xuất của công ty được trang bị sơ sài.
Đối với khâu đóng gói sản phẩm, đây là khâu không những để bảo vệ hàng hoá mà còn để giới thiệu, quảng cáo công ty và các sản phẩm của công ty với người tiêu dùng, tạo nên tính thẩm mỹ cho sản phẩm. Theo các chuyên gia kinh tế, một trong những yếu tố tạo nên tính cạnh tranh của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc ở các thị trường, đặc biệt là thị trường Nhật Bản là do hàng hoá của Trung Quốc có bao bì, nhãn mác đẹp hơn hẳn hàng hoá các nước khác -đây là điểm công ty cần phải lưu ý hơn khi xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản. Tuy nhiên không phải tất cả các sản phẩm của công ty đều có thể đóng gói một cách riêng lẻ được vì có những sản phẩm to kềnh càng như: đồ mây tre đan, sắt mỹ nghệ, đôn sứ, chậu cảnh ... những hộp này chỉ được đóng trực tiếp vào các hộp các-tông lớn để thuận tiện cho việc bốc dỡ, vận chuyển và bảo vệ sản phẩm. Riêng đối với các mặt hàng tạp phẩm, quà lưu niệm, để xuất khẩu sang Nhật Bản công ty cần phải thận trọng hơn trong việc đóng gói sản phẩm. Mỗi sản phẩm trước khi cho vào túi ni lông nhỏ đều được bọc bởi một lớp xốp đặc biệt, sau đó các túi ni lông sẽ được đóng vào một hộp các-tông nhỏ, các hộp các-tông nhỏ sẽ được đóng vào một hộp các-tông lớn. Có thể nói đây là một quá trình khá công phu và tốn kém nhưng nó chỉ đảm bảo sự an toàn cho sản phẩm chứ không phát huy được tính tự quảng cáo của sản phẩm và người tiêu dùng nhiều khi không muốn mua sản phẩm vì sản phẩm không có nhãn mác. Nên chăng các sản phẩm này phải được đóng gói có nhãn mác và ký hiệu trước, sau đó mỗi sản phẩm được đóng gói này được đem bọc vào lớp xốp, còn các khâu sau tiến hành tương tự. Như thế nhà nhập khẩu sau khi bóc tất cả các bọc bảo vệ xong thì sản phẩm vẫn còn được đóng gói trong một túi có nhãn mác, ký hiệu. Điều này làm cho sản phẩm trang trọng, lịch sự hơn và khách hàng sẽ nhớ được tên sản phẩm cũng như tên công ty. Còn đối với các sản phẩm không đóng riêng biệt được, để tránh gãy, xước, vỡ, công ty nên chàn một lớp xốp chắc chắn xung quanh hộp các-tông, như thế trong hành trình vận chuyển sản phẩm sẽ bảo đảm an toàn hơn.
* Nguồn mua từ các cơ sở sản xuất khác:
Mặc dù đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu ( khoảng 20% ) nhưng lại có vai trò rất quan trọng đó là đáp ứng được nhu cầu của phía khách hàng về những sản phẩm không phải do công ty sản xuất ra và bổ xung vào nguồn hàng xuất khẩu khi công ty chưa kịp sản xuất. Vấn đề đặt ra cho công ty là cần có phương thức thu mua hợp lý, bên cạnh đó còn phải tạo mối quan hệ với các cơ sở sản xuất đảm bảo bình đẳng, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Biện pháp để chủ động nguồn hàng và đảm bảo được chất lượng sản phẩm đó là ứng trước vốn cũng như các máy móc, thiết bị cần thiết. Phần lớn các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là các cơ sở nhỏ, thiếu vốn, công nghệ thủ công do vậy chất lượng hàng hoá nhiều khi không bảo đảm. Vì vậy nếu được cấp vốn và các trang thiết bị cần thiết, các cơ sở sẽ chủ động hơn trong việc mua nguyên vật liệu chất lượng cao, ổn định và tăng được năng suất lao động cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh đó, hàng hoá được công ty đặt mua từ đầu nên không sợ bị “ tranh mua “ bởi các công ty khác trong nước.
Cùng với việc ứng vốn, cần có chế độ thu mua hợp lý. Công ty cần phải tổ chức mạng lưới thu mua hàng, tránh sự hư hao, mất phẩm chất hàng hoá. Bên cạnh đó công ty cần phải xác định được mức giá thu mua hợp lý, đảm bảo được vấn đề lợi nhuận của công ty về cải tiến mẫu mã phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường. Có như vậy công ty mới đảm bảo thực hiện được hợp đồng đúng thời hạn với chất lượng đảm bảo, nâng cao uy tín của công ty.
* Nguồn liên doanh, liên kết:
Bên cạnh việc thu mua hàng theo phương pháp kể trên, để thực hiện được các hợp đồng có giá trị lớn mà khả năng tập trung hàng vượt khỏi khả năng của công ty, công ty nên thực hiện các biện pháp liên kết với các cơ sở sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong nước. Cụ thể mối quan hệ này là công ty sẽ giao một phần hợp đồng mà tự mình không thực hiện hết được cho các đơn vị liên kết và ngược lại, cônh ty sẽ thực hiện một phần hợp đồng của đơn vị liên kết khi họ không có khả năng thực hiện toàn bộ hợp đồng. Sự liên kết này có thể phát huy được lợi thế của các bên, phối hợp lẫn nhau giữa các đơn vị trong lĩnh vực xuất khẩu, khắc phục tình trạng thừa thiếu năng lực kinh doanh xuất khẩu của công ty như hiện nay. Bên cạnh đó các cơ quan trong nước còn có thể thông tin và hợp tác với nhau về giá cả, tránh được tình trạng tranh giành thị trường dễ bị khách hàng ép giá, vừa có khả năng mở rộng thị trường kinh doanh, mở rộng quan hệ bạn hàng vừa khai thác được mọi tiềm năng, nguồn lực của mình và năng lực sản xuất, xuất khẩu của các đơn vị liên doanh liên kết.
b. Đẩy mạnh công tác marketing:
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty kinh doanh nào cũng phải quan tâm đến công tác marketing. Với công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất thì công tác này còn có ý nghĩa quan trọng hơn trong quá trình phát triển của công ty vì công ty chuyên sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, thị trường của công ty chủ yếu ở nước ngoài.Tuy nhiên công tác marketing vẫn đang là khâu yếu nhất của công ty trong thời gian qua nên hiệu qủa hoạt động chưa cao. Trong thời gian tới công ty cần hoàn thiện công tác này để có thể mở rộng được thị trường xuất khẩu cũng như để tăng doanh thu hàng nội địa. Cụ thể là:
* Thành lập một phòng marketing hoặc chỉ định một hoặc nhiều cán bộ làm công tác này:
Có thể là do công ty mới được thành lập, qui mô còn nhỏ, cơ cấu chưa ổn định nên chưa có phòng marketing nhưng thực tế đây là một hoạt động không thể thiếu được trong bất cứ công ty kinh doanh sản xuất nào. Hiện nay công tác marketing được giao cho phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và phòng kế hoạch sản xuất và ban giám đốc công ty cũng có trách nhiệm trong công tác này. Như thế công việc này là trách nhiệm của nhiều người nhưng thực ra nó hoàn toàn như bị thả nổi vì chưa có ai thực sự đi sâu vào lĩnh vực này. Những thông tin về thị trường hiện nay mà công ty thu thập được chủ yếu qua các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, truyền hình ..., qua các cơ quan Nhà nước: Bộ thương mại, phòng thương mại và công nghiệp ... qua các bạn hàng trong và ngoài nước. Các thông tin này thường là khái quát, chung chung và mang tính vĩ mô, vì thế áp dụng các thông tin này vào công ty không phải lúc nào cũng đúng. Các thông tin được coi là sát thực với công ty nhất là thông tin từ phía bạn hàng nước ngoài, các cửa hàng, đại lý, bạn hàng trong nước cung cấp vì những người này trực tiếp đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng nhưng có điều phải lưu ý rằng các thông tin này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của người cung cấp thông tin: trình độ hiểu biết, sự nhanh nhạy, nhiệt tình, khả năng tài chính, lĩnh vực hoạt động ... Riêng ở thị trường nước ngoài, 1-2 khách hàng ở mỗi thị trường thì các thông tin này cũng không thể phản ánh hết đặc điểm thị trường đó đối với hàng thủ công mỹ nghệ vì các khách hàng này đều có qui mô hoạt động nhỏ và nó cũng phụ thuộc vào tình hình, khả năng của khách hàng này. Điều này có thể lý giải được tại sao kim ngạch xuất khẩu của công ty sang các thị trường không lớn và nó không tăng nhanh giữa các năm mà biến động khá thất thường, tỷ lệ tăng trưởng cũng thấp.
* Tập trung nghiên cứu thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường Nhật Bản:
Trong thời gian hoạt động công ty chưa chú trọng đến việc nghiên cứu và phân đoạn thị trường, đây chính là điểm sơ hở của công ty. Riêng đối với thị trường Nhật Bản công ty có lợi thế hơn so với các thị trường khác là Nhật Bản đang có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, đồng thời Nhật Bản và Việt Nam có những nét văn hoá rất tương đồng. Công ty đặc biệt là tổng công ty có liên kết liên doanh với Nhật Bản để kinh doanh trên nhiều lĩnh vực do đó công ty có phần nào được giúp đỡ trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên việc nghiên cứu thị trường công ty vẫn chưa thực sự chủ động, các thông tin về thị trường Nhật Bản phần lớn do phía bạn hàng, tổng công ty hoặc phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam cung cấp.
Nghiên cứu thị trường để phát hiện ra nhu cầu, dung lượng và cơ cấu của nó. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu: Các yếu tố mang tính toàn cầu, các yếu tố thuộc môi trường kinh tế văn hoá, chính trị, luật pháp, tập quán kinh doanh... để từ đó dự báo được thị trường nước ngoài về tổng nhu cầu, tổng mức nhập khẩu, cơ cấu sản phẩm, xu hướng tiêu thụ sản phẩm sẽ có trong tương lai. Từ đó có thể đưa ra những quyết định chính xác về thị trường.
Theo đánh giá của các chuyên gia làm kinh tế cũng như nhận định của công ty thì nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ là rất lớn và các công ty chưa đáp ứng tối đa nhu cầu này. Tuy nhiên như chúng ta đã biết ngay cả với thị trường nội địa thì nhu cầu cũng rất đa dạng, phong phú và thay đổi nhanh chóng do sự tác động của các nhân tố vĩ mô và vi mô. Vì thế khi mở rộng sự xem xét ra thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng, công ty cần phải nắm được đặc tính của nhu cầu: nhu cầu đó xuất hiện ở đâu, xuất hiện khi nào, qui mô thị trường là bao nhiêu và có tồn tại bền vững không. Để xác định được các tham số này, công ty cần tập trung vào một số vấn đề sau:
-Trào lưu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ xuất hiện trên thị trường. Điều này rất quan trọng trong chiến lược sản phẩm của công ty bởi lẽ khác với các mặt hàng tiêu dùng thông thường, mặt hàng thủ công mỹ nghệ thoả mãn nhu cầu cấp cao hơn đó là thẩm mỹ. Do vậy nhu cầu mặt hàng này phụ thuộc nhiều vào trào lưu của từng thị trường ở từng giai đoạn khác nhau. Đối với thị trường Nhật Bản, vấn đề này cần phải coi trọng hơn vì người Nhật Bản có thói quen hay tiêu dùng theo trào lưu, họ thích mua sắm những gì mà bạn bè, đồng nghiệp đang có.
-Thu nhập của dân cư: Do mặt hàng thủ công mỹ nghệ không phải là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu nên đôi khi nhu cầu về mặt hàng này tỏ ra không bức thiết lắm đối với người tiêu dùng. Nhu cầu ( có khả năng thanh toán ) đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ có thể sẽ không xuất hiện ở tầng lớp dân cư có thu nhập thấp.
-Tình trạng gia đình: Đa số các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ cho nhu cầu gia đình như bàn, ghế, tủ, móc treo, giá mắc áo ... vì thế nghiên cứu tình trạng gia đình của tầng lớp dân cư sẽ giúp cho công ty phát hiện được nhu cầu tiêu dùng về từng loại sản phẩm để có thể thay đổi cho phù hợp.
Để nghiên cứu thị trường một cách tỉ mỉ và toàn diện, công ty cũng cần phải phân loại nhu cầu đối với từng loại sản phẩm khác nhau để có thể đáp ứng được tối đa. Có thể dựa vào các tiêu thức sau để phân chia:
-Thu nhập của tầng lớp dân cư: mức thu nhập quyết định đến hành vi tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ. Thu nhập càng cao thì yêu cầu đối với mặt hàng này càng cầu kỳ, đòi hỏi sản phẩm phải có tính thẩm mỹ cao.
-Trình độ văn hoá của tầng lớp dân cư: những tầng lớp dân cư có trình độ văn hoá cao họ yêu cầu những sản phẩm mới lạ, màu sắc phong phú và có tính thẩm mỹ. Tầng lớp này thường là những người hướng dẫn hành vi tiêu dùng đối với tầng lớp dân cư có trình độ thấp hơn, tạo ra các làn sóng tiêu dùng gọi là “mốt “.
Sau khi nghiên cứu thị trường, công ty phải tiến hành đẩy mạnh xâm nhập vào thị trường đó. Để đẩy mạnh hơn nữa việc xâm nhập vào các thị trường nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng, công ty cần phải thực hiện các biện pháp sau:
-áp dụng các biện pháp thích hợp để giữ vững thị trường khách hàng truyền thống. Nghiên cứu để hình thành các cam kết với các khách hàng có quan hệ buôn bán thường xuyên với công ty nhằm đảm bảo lợi nhuận cho cả hai bên khi tiến hành giao dịch.
-Thường xuyên cải tiến mặt hàng, mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng hoá. Ngoài ra công ty cần tổ chức tốt mạng lưới phân phối và xây dựng hệ thống hỗ trợ bán hàng hợp lý ở thị trường nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc mua sắm của khách hàng.
-Cần tận dụng tham gia hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế. Trưng bày sản phẩm phải được tổ chức theo dạng đa dạng hoá sản phẩm với Mẫu mã, màu sắc hấp dẫn, chất lượng cao. Với các hội chợ triến lãm quốc tế, cần xây dựng kế hoạch trước hàng năm để có đủ thời gian cần thiết nghiên cứu thị trường và chuẩn bị mọi mặt cho được chu đáo nhằm mang lại hiệu quả thiết thực.
-Thường xuyên củng cố mối quan hệ với các cơ quan ngoại giao, thường vụ, văn phòng đại diện, các tổ chức làm công tác đối ngoại và thương mại ở Việt Nam và nước ngoài để tìm kiếm khách hàng. Trong đó cần quan tâm giải quyết công tác đối ngoại như gửi thư chúc mừng năm mới, tặng quà nhân ngày lễ kèm theo catalogue để giới thiệu hàng.
* Đẩy mạnh việc giới thiệu sản phẩm dưới nhiều hình thức: quảng cáo, chào hàng qua mạng, tham dự các hội chợ triển lãm, giới thiệu và bày bán ở các trung tâm du lịch ...
Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất mới được ra đời do đó các sản phẩm của công ty ít được biết đến, đặc biệt là khách hàng nước ngoài. Vì đây là một loại hàng đặc biệt-hàng xa xỉ phẩm nên không thể quảng cáo, giới thiệu như tất cả các loại hàng khác. Đối với thị trường trong nước ta thấy sản phẩm của công ty có hai đối tượng tiêu dùng chính đó là: những người trung lưu ở thành thị và các học sinh, sinh viên. Đối với những người trung lưu thì nhu cầu của họ là các đồ trang trí nội thất đắt tiền, sang trọng và mang tính thẩm mỹ cao: bàn ghế, lọ hoa đắt tiền, giá và móc treo ... để giới thiệu các sản phẩm này, công ty nên mở các cửa hàng lớn để trưng bày và bán sản phẩm này. Đối với đối tượng là học sinh, sinh viên thì nhu cầu của họ là các đồ tạp phẩm, đồ lưu niệm ... các sản phẩm này thường nhỏ, xinh xắn và ít tiền. Để giới thiệu các sản phẩm này công ty nên mở các cửa hàng gần khu vực trường học hoặc có thể có các chương trình tài trợ nhỏ, bổ ích cho các trường hoặc có thể đăng tin quảng cáo nhỏ, dễ thương kèm theo những hình ảnh đẹp các sản phẩm của công ty lên các trang báo dành cho lứa tuổi này...
Đối với thị trường nước ngoài, công ty phải đẩy mạnh việc chào hàng qua mạng Internet. Hiện nay công ty đã sử dụng phương thức này nhưng còn hạn chế, công ty chỉ gửi thư chào hàng và các catalogue đến các khách hàng quen để giới thiệu các sản phẩm mới chứ chưa hoặc ít gửi đến khách hàng lạ. Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả hơn, công ty nên tìm địa chỉ của các nhà kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ hoặc các nhà nhập khẩu các mặt hàng có liên quan trên mạng internet hoặc ở các thông tin khác nhau sau đó lần lượt gửi các thư chào hàng kèm theo catalogue với nhiều sản phẩm đẹp, giá cả hấp dẫn thì chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng mới tìm đến công ty.
Riêng với thị trường Nhật Bản, giới thiệu sản phẩm qua quan hệ cá nhân (nhất là được một người có uy tín giới thiệu) có hiệu quả hơn nhiều so với gửi thư chào hàng hoặc gửi mẫu mã, catalogue qua bưu điện.
c. Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty:
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường, đặc biệt là thị trường Nhật Bản thì điều trước tiên phải làm đó là nâng cao chất lượng sản phẩm.Ngoài ra công ty cần có thêm các biện pháp sau:
* Đa dạng hoá sản phẩm:
Như đã đề cập ở trên, thị trường Nhật Bản có đặc điểm là thị hiếu tiêu dùng thường thay đổi theo mùa và thị hiếu này không tồn tại lâu trong một thời gian dài. Vì vậy việc cung cấp hàng hoá sang Nhật Bản thường mang tính đa dạng với số lượng không nhiều về một chủng loại. Nếu không chịu đổi mới mẫu mã, làm cho đa dạng hoá sản phẩm tiêu thụ thì việc mất đi vị thế trên thị trường này là một điều tất yếu. Ngay cả màu sắc của sản phẩm cũng cần phải được thay đổi trong tình điều kiện khác nhau của thời tiết.
Khi tiến hành đa dạng hoá sán phẩm, công ty có thể theo các chỉ tiêu sau:
-Đa dạng hoá theo giá sản phẩm: Với các mặt hàng khác nhau thì giá cả được định ra khác nhau. Những mặt hàng nào đòi hỏi tay nghề cao, kỹ năng kỹ xảo thì giá cao. Bên cạnh đó cũng phải có những sản phẩm đơn giản, giá thấp hơn để đáp ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư có thu nhập thấp hơn.
-Đa dạng hoá theo chất lượng sản phẩm: Một số sản phẩm cùng loại có thể sản xuất với các nguyên liệu chất lượng khác nhau.
-Đa dạng hoá theo màu sắc: màu sắc của hàng thủ công mỹ nghệ cần phải phục vụ thị hiếu của mọi tầng lớp dân cư. Thanh niên thường thích dùng những gam màu mạnh trong khi đó tầng lớp trung niên lại những sản phẩm màu sắc trầm, trang nhã.
-Đa dạng hoá theo tuổi: hàng thủ cônng mỹ nghệ có thể phục vụ nhu cầu thẩm mỹ của mọi tầng lớp dân cư, mọi nhu cầu tiêu dùng.
-Đa dạng hoá theo mẫu mã: công ty cần nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều sản phẩm mẫu mã phong phú, tránh tình trạng rập khuôn theo các mẫu mã có sẵn trên thị trường.
Để tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, công ty cần phải nghiên cứu kỹ về khả năng tài lực, vật lực của công ty, đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường với chi phí kinh doanh thấp nhất và phát huy tối đa tiềm lực của công ty. Khi tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, công ty cần phải xem xét kinh doanh mặt hàng nào có lợi hơn cả để có chính sách, biện pháp kinh doanh hợp lý. Bởi vì đa dạng hoá sản phẩm là để hạn chế rủi ro nhưng để thắng trong kinh doanh phải tìm được mặt hàng nào độc đáo cho riêng mình.
* Xây dựng chính sách giá cả hợp lý:
Giá cả là một trong những yếu tố quyết định tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Giá cả hợp lý là mức giá phù hợp với nhu cầu về sản phẩm và mức giá trên thị trường. Giá quá cao sẽ làm cho sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ chậm, có khi bán không được và giá quá thấp thường có lãi ít và đôi khi cũng làm khách hàng ngờ vực về sản phẩm của công ty.
Giá cả tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất sản phẩm của công ty cũng như giá của đối thủ cạnh tranh. Đối với một số sản phẩm của công ty tương tự như của đối thủ cạnh tranh thì ngoài việc dựa vào chi phí sản xuất sản phẩm, vấn đề giá cả của đối thủ cạnh tranh phải được xem xét kỹ lưỡng hơn bao giờ hết vì khách hàng thường có tâm lý khảo giá trước khi mua. Một số mặt hàng được coi là độc đáo riêng của công ty thì lúc này công ty tự do áp dụng các chinhs sách giá linh hoạt, định giá trên cơ sở chi phí sản xuất và quan hệ cung cầu trên thị trường sao cho đảm bảo có lãi suất và tiêu thụ được nhiều hàng hoá. Việc định giá còn phụ thuộc vào điều kiện giao hàng trong từng trường hợp bán hàng cụ thể, giá bán có thể bao gồm cả tiền mua bảo hiểm.
Nghiên cứu xác định giá cả trong hoạt động xuất khẩu là một nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành một cách thường xuyên, đặc biệt là các sản phẩm đồng nhất với đối thủ cạnh tranh. Công ty tự sản xuất ra hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu do đó có lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khác như: chủ động được giá và có thể hạ giá thành sản phẩm bằng các biện pháp thay đổi công nghệ, tăng năng suất lao động, chủ động được nguồn hàng ... Tuy nhiên trong việc định giá công ty cần phải thu thập đủ các thông tin cần thiết cho các quyết định về giá. Ngoài ra công ty cũng cần phải xác định mục tiêu của chính sách giá đưa ra là tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường hay vì một mục tiêu khác.
* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh:
Có câu “ biết người biết ta, trăm trận trăm thắng “ vì vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh bất cứ công ty nào cũng phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh về các mặt để xác định được điểm mạnh,điểm yếu của họ và từ đó có chiến lược phù hợp cho mình.
Việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh dựa vào các yếu tố sau:
-Sản phẩm của đối thủ cạnh tranh: Dù đều là mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhưng sản phẩm được sản xuất bởi các cơ sở sản xuất khác nhau nên chất lượng sẽ khác nhau ở quy trình sản xuất và bảo quản. Tuy nhiên về cơ bản là dựa trên sự học hỏi Mẫu mã của nhau để chế tạo ra sản phẩm. Trong nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, công ty cần học hỏi thêm các Mẫu mã cũng như tìm hiểu những điểm yếu của họ để từ đó có thể đưa ra các sản phẩm của mình có tính ưu việt hơn.
-Về thị trường của đối thủ cạnh tranh: Thực chất là việc xác định thị phần của họ. Qua nghiên cứu này công ty có thể xác định lượng tiêu thụ và uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
-Chính sách marketing của đối thủ cạnh tranh: Thông qua việc nghiên cứu này công ty sẽ xác định sản phẩm chiến lược của công ty, đưa ra các chính sách marketing phù hơp cho mình, khơi dậy tiềm năng của thị trường và có thể thu hút khách hàng của đối thủ cạnh tranh thành khách hàng của mình.
-Giá cả của đối thủ cạnh tranh: Giá cả phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường, đều này là hiển nhiên. Vì thế ngoài việc dựa trên chi phí sản xuất, công ty cũng cần nghiên cứu giá cả của đối thủ cạnh tranh để đưa ra các mức giá thích hợp đối vơí từng loại sản phẩm, đảm bảo tính cạnh tranh của công ty.
d. Duy trì củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thống đồng thời tích cực tìm kiếm bạn hàng mới:
“ Có được khách hàng đã khó, giữ được khách hàng càng khó hơn “, vì vậy để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản nói riêng và thị trường quốc tế nói chung,đồng thời với việc tìm kiếm bạn hàng mới công ty phải thường xuyên củng cố mối quan hệ với khách hàng quen thuộc.
Để giữ được khách hàng cũ công ty cần phải:
-Tìm hiểu kỹ hơn về thị trường này, nghiên cứu những biến động có ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng để có các chính sách sản phẩm hợp lý.
-Giá cả cần linh động hơn, cần khuyến mại, giảm giá với khách hàng quen, nhất là khách hàng lớn.
-Cần thiết có sự tin tưởng nhau giữa các bên, sự tin tưởng này sẽ giúp đảm bảo được mối quan hệ tiến triển tốt đẹp.
-Cần giữ được chữ tín trong kinh doanh, không vì lợi ích trước mắt mà làm mất uy tín của mình trên thương trường. Các doanh nghiệp Nhật Bản đòi hỏi các bạn hàng Việt Nam phải lưu ý một số vấn đề như : cần bỏ đi thói quen cam kết vội khi nhận đặt hàng , nói sẽ làm được nhưng sau đó không thực hiện được,când có trách nhiệm trong vấn đề hàng vỡ, hàng kém phẩm chất; cần xác nhận với khách hàng rõ ràng rồi hãy tiến hành, tránh tình trạng tự ý quyết định những vấn đề chưa rõ ràng.
Để mở rộng quan hệ với khách hàng mới, ngoài việc tăng cường công tác marketing quốc tế, tích cực tham gia hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế ... những hoạt động này khá tốn kém với một công ty có qui mô nhỏ như công ty hiện nay nhưng đây là một hoạt động không thể thiếu được nếu công ty muốn xâm nhập thị trường. Để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh, hạn chế rủi ro thì công ty cần nắm được các vấn đề liên quan đến bạn hàng, cụ thể:
-Tìm hiểu tư cách pháp nhân của bạn hàng, tìm hiểu tư cách pháp nhân của người chị trách nhiệm trước hoạt động của công ty.
-Quy mô của doanh nghiệp bạn, uy tín của họ trên thương trường.
-Thực trạng kinh doanh của bạn hàng - xét trên khía cạnh về vốn, cơ sở vật chất, khả năng thanh toán và khả năng tín dụng.
-Hiệu quả của mối quan hệ giữa công ty và bạn hàng so với khả năng của công ty.
Bằng các biện pháp thích hợp để giữ bạn hàng truyền thống đồng thời tăng cường hợp tác kinh doanh, mở rộng thị trường với khách hàng mới trên cơ sở thận trọng trong tìm hiểu về bạn hàng. Điều này giúp công ty có được thị trường tiêu thụ ổn định và ngày càng mở rộng, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh.
e. Hoàn thiện tốt công tác tổ chức trong công ty:
Do công ty mới được thành lập nên cơ cấu của công ty chưa được ổn định, gây không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản. Như đã đề cập ở các phần trước, hiện nay công ty chưa có cán bộ chuyên trách về lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Để hoạt động có hiệu quả hơn công ty nên khắc phục vấn đề này càng sớm càng tốt. Thứ hai là cán bộ của các phòng ban đang còn thiếu, đặc biệt là phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, do đó có tình trạng nhiều cán bộ phải phụ trách nhiều lĩnh vực và làm không đúng nghiệp vụ. Để làm ăn lâu dài với thị trường Nhật Bản công ty nên cử một cán bộ chuyên trách về lĩnh vực này sẽ làm cho hai bên hiểu rõ phong cách làm việc của nhau hơn. Ngoài ra công ty nên có các chính sách khuyến khích các cán bộ công nhân viên làm việc có hiệu qủa hơn, đặc biệt là có các chính sách thưởng, phatj thích đáng: thưởng cho những ai sáng tạo ra những mẫu mã đẹp, lạ và được khách hàng chấp nhận, cho những ai tìm được khách hàng, đối tác mới ... đồng thời cũng cần có những hình thức phạt đối với những ai làm việc lười biếng, không hoàn thành tốt công việc được giao.
Phần III
kết luận
Với những ưu điểm và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong nước, việc đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này là một điều cần thiết, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế của đất nước. Hiện nay mặt hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào mặt hàng được hưởng ưu đãi của Nhà nước và đang được xây dựng đề án phát triển, đây là một cơ hội thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. Hiện nay Nhật Bản là một trong những thị trường có nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ lớn và cũng là nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lớn nhất của nước ta. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam với những nét độc đáo riêng đã dần dần chiếm được lòng tin từ phía khách hàng Nhật Bản. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất nói riêng xâm nhập thị trường.
Là một doanh nghiệp còn non trẻ, qui mô nhỏ, vì thế thị trường chưa lớn, kim ngạch xuất khẩu còn ít, lợi nhuận còn thấp nhưng với tầm vóc và vị trí như hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
Hy vọng trong tương lai Công ty sẽ luôn giữ được vị thế của mình trên thương trường.
Một lần nữa em xin cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Duy Bột đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Mục lục
Phần I - mở đầu 1
Phần II - Nội dung 2
I-một số vấn đề về hàng thủ công mỹ nghệ và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 2
1.Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ 2
2.ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 4
II-tổng quan về nhu cầu nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường nhật bản 5
1.Khái quát về thị trường Nhật Bản 5
2.Đặc tính và thái độ của người tiêu dùng Nhật Bản về hàng thủ công mỹ nghệ 7
3.Tập quán kinh doanh và những qui định về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản 9
4.Điều cốt yếu dẫn đến thành công tại thị trường Nhật Bản về kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ 11
III-thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty 13
1.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 13
1.1.Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta 13
1.2.Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 15
1.3.Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 16
2.Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty 17
2.1.Những thành tựu mà công ty đạt được 17
2.2.Những mặt còn hạn chế của công ty 18
IV-một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường nhật bản 20
1.Mục tiêu và phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới 20
2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 22
2.1.Về phía Nhà nước. 22
a.Chính sách đối với các làng nghề. 22
b. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. 22
c.Chính sách đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ. 23
d.Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. 23
e.Một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. 24
2.2.Về phía công ty. 24
a.Nâng cao chất lượng hoạt động tạo nguồn hàng thủ công mỹ nghệ 24
b.Đẩy mạnh công tác marketing. 27
c.Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty 30
d.Duy trì, củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời tích cực tìm kiếm bạn hàng mới 32
e.Hoàn thiện tốt công tác tổ chức trong công ty 33
Phần III- Kết luận 34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35222.doc