Chúng ta cần xác định rõ mô hình thương mại mang tính chất rõ ràng đó là Chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu cụ thể là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ.
Và theo xu hướng tự do hóa thương mại hạn chế bảo hộ mậu dịch đến mức tối đa vì xu hướng này đi ngược với định hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua thiệt khi tiến hành tự do hóa thương mại theo quy định của WTO.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp để hoàn thiện chính sách TMQT của Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2002 của Tổ chức hải quan thế giới) và HS 8 số trong cả khối ASEAN.
Sự thay đổi của hệ thống thuế xuất nhập khẩu.
Năm 1988, luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành.
Năm 1989, Việt Nam thực hiện giảm thuế xuất khẩu và số mặt hàng tính thuế từ 30 xuống 12 và số mặt hàng tính thuế nhập khẩu giảm từ 124 xuống 80 với biên tính thuế tăng từ 5-50% đến 5-120%.
Năm 1991, Việt Nam thực hiện miễn thuế đầu vào đối với hàng xuất khẩu và giảm thuế xuất khẩu gạo từ 10% xuống 1%.
Năm 1992, hệ thống thuế quan hài hoà bắt đầu được áp dụng.
Năm 1993, Việt Nam cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu 90 ngày và bổ sung thuế xuất nhập khẩu đối với hàng đi đường.
Năm 1994, Bộ Thương mại đảm nhận trọng trách đề xuất chính sách thuế xuất nhập khẩu thay Bộ Tài chính.
Năm 1995, Việt Nam công bố danh mục CEPT 1996 và tăng thuế xuất khẩu với 11 mặt hàng.
Năm 1996, Việt Nam công bố danh mục CEPT 1997 và giảm thuế ô tô nhập khẩu.
Năm 1998, mức thuế suất cao nhất (trong CEPT) chỉ còn 60%. Trong năm này, Việt Nam chính thức giới thiệu lộ trình CEPT không chính thức 2006. Việt Nam bãi bỏ áp dụng tính giá nhập khẩu tối thiểu. Quốc hội thực hiện sửa đổi Luật thuế xuất nhập khẩu vào tháng 5 năm 1998 và theo đó kể từ ngày 1 tháng 1 năm1999, thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam bao gồm 3 mức là mức thông thường, mức tối huệ quốc và mức ưu đãi đặc biệt.
Năm 2002, Việt Nam áp dụng tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng ngoại thương, ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu để thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định hàng dệt may ký giữa Việt Nam và EU giai đoạn 2002-2005; ban hành mức giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu không thuộc danh mục mặt hàng nhà nước quản lý giá tính thuế, không đủ điều kiện áp giá theo giá ghi trên hợp đồng, ban hành Nghị định về giá trị tính thuế nhập khẩu theo điều VII của GATT.
Năm 2003, Việt Nam ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất để thực hiện CEPT giai đoạn 2003-2006; bãi bỏ áp dụng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu đối với mặt hàng rượu và đồ uống có cồn, có nguồn gốc từ EU; ban hành biểu thuế ưu đãi thay cho biểu 1998 với xe ô tô đã qua sử dụng và bộ linh kiện ô tô, xăng dầu; ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định buôn bán hàng dệt, may ký giữa Việt Nam và EU cho giai đoạn 2003-2005.
Năm 2004, Việt Nam ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định về thương mại hàng dệt, may ký giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cho giai đoạn 2003-2005; ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện Chương trình thu hoạch sớm EHP theo Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc; sửa đổi thuế suất nhập khẩu một số mặt hàng trong danh mục CEPT 2003-2006.
Năm 2005, Việt Nam thực hiện điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi với một số mặt hàng linh kiện, phụ tùng điện tử; bãi bỏ thuế suất nhập khẩu để áp dụng hạn ngạch với 6 mã hàng; giảm thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng để thực hiện thoả thuận giữa Việt Nam và Thái Lan liên quan đến việc Việt Nam hoãn thực hiện hiệp định CEPT đối với một số mặt hàng phụ tùng, linh kiện xe máy và xe ô tô tải nguyên chiếc; sửa đổi, bổ sung Danh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện CEPT của các nước ASEAN cho các năm 2005 – 2013; ban hành quy trình xét miễn thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu, giảm thuế, hoàn thuế, không thu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Hiện tại, Luật đầu tư mới ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 không gắn liền các ưu đãi về thuế với xuất khẩu một cách cụ thể nữa.
Năm 2006, Việt Nam thực hiện điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với hàng linh kiện, phụ tùng điện tử, và ô tô; cho phép nhập khẩu ô tô cũ kể từ ngày 1 tháng 5 và ban hành mức thuế tuyệt đối đối với việc nhập khẩu ô tô cũ.
Cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong ASEAN
Lộ trình các hàng hoá thực hiện cắt giảm CEPT thể hiện ở các văn bản Nghị định số 78/2003/NĐ-CP ngày 1 tháng 7 năm 2003; Nghị định số 151/2004/NĐ-CP ngày 5 tháng 8 năm 2004; Nghị định số 213/2004/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2004 và Nghị định số 13/2005/NĐ-CP ngày 3 tháng 2 năm 2005.
Theo Hiệp định CEPT, các thành viên Singapore, Thái Lan, Malaysia, Brunei, Indonesia và Philippines hoàn thành cắt giảm thuế xuống còn 0-5% vào năm 2003. Việt Nam thực hiện vào năm 2006. Lào và Myanmar thực hiện vào năm 2008. Campuchia thực hiện vào năm 2010. Bốn nhóm hàng hoá được phân loại bao gồm danh mục cắt giảm ngay, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục nhạy cảm và danh mục loại trừ hoàn toàn. Hàng hoá sản xuất trong ASEAN được hưởng các ưu đãi trong Hiệp định nếu có tối thiểu 40% nội dung ASEAN. Các nước cũng cam kết dỡ bỏ các hạn chế về số lượng đồng thời với việc cắt giảm thuế. Việt Nam đã đưa ra cam kết đầu tiên vào tháng 12 năm 1995. Cam kết ban đầu này bao gồm 1633 hàng hoá thuộc danh mục cắt giảm, 26 hàng hoá thuộc danh mục nhạy cảm, 1189 hàng hoá thuộc danh mục loại trừ tạm thời và 165 hàng hoá thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn giảm.
Danh mục cắt giảm ngay: Tính đến 2006, toàn bộ các mặt hàng trong danh mục TEL đã được đưa vào danh mục cắt giảm IL (loại trừ 13 mặt hàng phụ tùng ô tô, xe máy thì thực hiện bảo lưu).
Danh mục loại trừ tạm thời: Hiện tại, hầu hết các hàng hoá trong danh mục loại trừ tạm thời đã được đưa dần sang Danh mục cắt giảm ngay và đang thực hiện đưa về mức 0-5% vào 2006.
Danh mục nhạy cảm: 26 nhóm hàng hoá trong danh mục này sẽ có mức thuế 0-5% vào 2013.
Danh mục loại trừ hoàn toàn: theo điều khoản XX của GATT, đây là những hàng hoá liên quan đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, tính mạng và sức khoẻ của con người và động thực vật, bảo vệ các giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ. CEPT cũng cho phép việc sử dụng danh mục loại trừ hoàn toàn để bảo hộ ngành công nghiệp và doanh thu sản phẩm. Các hàng hoá này bao gồm nhiên liệu, thiết bị thu phát, phương tiện đi lại dưới 16 chỗ ngồi.
Ban đầu, Việt Nam thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan bằng những hàng hoá đã có mức thuế như cam kết. ASEAN hiện đang xem xét lại về danh sách và thực hiện mặt hàng trong danh mục loại trừ hoàn toàn bởi vì việc lựa chọn những ngành ngày không phù hợp với các nguyên tắc của GATT. Việc diễn giải điều XX của GATT cũng có vấn đề bởi vì mọi sản phẩm có thể được liệt kê vào danh sách theo điều này. Một số mặt hàng Việt Nam lựa chọn như thuốc lá, đồ cũ hay ô tô tay lái nghịch,... trên thực tế có phù hợp với điều XX của GATT không? Khi tham gia WTO, Việt Nam phải thực hiện bảo hộ đơn giản, dễ hiểu qua thuế.
Cam kết cắt giảm thuế theo chương trình thu hoạch sớm ASEAN – Trung Quốc
Kể từ ngày ngày 1 tháng 1 năm 2004, Trung Quốc và ASEAN bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế theo chương trình thu hoạch sớm (EHP). Thuế suất bình quân của Việt Nam giảm tới 0% cho các mặt hàng trong chương trình vào 2008.
Chính phủ Việt Nam cũng đã công bố Nghị định 99/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 2 năm 2004 của Chính phủ về ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện Chương trình thu hoạch sớm theo Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc.
Tiếp theo, Bộ Tài chính có Thông tư 16/2004/TT-BTC ngày 10 tháng 3 năm 2004 hướng dẫn thi hành Nghị định 99. Danh mục và lộ trình cắt giảm thuế của Việt Nam được đính kèm cùng Nghị định.
Cam kết cắt giảm thuế theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Đối với thương mại hàng hoá, Việt Nam cam kết giảm thuế nhập khẩu hàng nông nghiệp và công nghiệp từ Hoa Kỳ. Ngược lại, hàng hoá của Việt Nam sẽ chỉ chịu mức thuế suất bình quân 4,9% thay vì mức 35% (thuế suất không ưu đãi MFN). Hàng năm, Hoa Kỳ vẫn xem xét lại quy chế MFN đối với Việt Nam. Thuế nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ được áp theo mức thuế MFN. Hạn ngạch dệt may hiện vẫn đang được Hoa Kỳ áp dụng đối với Việt Nam vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO.
Cam kết cắt giảm thuế trong WTO
Hiện tại Việt Nam chưa hoàn thành đàm phán gia nhập đối với WTO nên những cam kết cắt giảm thuế trong WTO chưa được chính thức công bố. Tuy nhiên, quá trình đàm phán với Hoa Kỳ đã cho thấy Việt Nam đang phải đưa ra những điều kiện cao hơn các thành viên cũ. Cụ thể là mức thuế suất nhập khẩu trung bình của Việt Nam phải thấp hơn mức thuế suất nhập khẩu trung bình mà các thành viên mới của WTO thực hiện trong các bản chào (trước đó). Trên thực tế, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của nhiều đối tác khi đưa mức thuế suất nhập khẩu trung bình từ 22% xuống còn 18%.
Theo thoả thuận trong đàm phán song phương Hoa Kỳ - Việt Nam đạt được vào ngày 31 tháng 5 năm 2006 thì Việt Nam sẽ giảm thuế từ 15% trở xuống cho tới 94% các sản phẩm xuất khẩu của Hoa Kỳ, giảm 50% thuế đánh vào ô tô và 19% thuế đánh vào linh phụ kiện ô tô, giảm 56% thuế đối với phần lớn xe máy và giảm 32% thuế đối với linh kiện xe máy. Thuế trong lĩnh vực nông nghiệp giảm từ mức trung bình 27% xuống còn 15% trở xuống. [91]
1.2.2. Thuế gián tiếp
Thuế gián tiếp tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận và thuế VAT. Năm 1990, Việt Nam ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận và áp dụng thuế suất đặc biệt với một nhóm hàng như xe máy và xe du lịch. Năm 1995, Việt Nam thực hiện giảm các mức thuế doanh thu từ 18 xuống 11. Năm 1996, thuế tiêu thụ đặc biệt dành cho ô tô nhập khẩu tăng từ 80% lên 100%. Năm 1998, thuế tiêu thụ đặc biệt được sửa đổi (tăng thuế xe máy nội địa, tăng thuế với hàng xa xỉ). Năm 2000, Việt Nam quy định chi tiết thi hành luật thuế giá trị gia tăng tại Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2000. Năm 2003, một lần nữa, thuế tiêu thụ đặc biệt được sửa đổi (14 hàng hoá và dịch vụ chịu thuế này). Việt Nam cũng thực hiện miễn thuế VAT với hàng chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, quá cảnh và hàng xuất khẩu. Năm 2005, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô trong nước được đề xuất nâng lên cho bằng với thuế tiêu thụ đặc biệt của ô tô nhập khẩu (50% đối với xe dưới 5 chỗ ngồi).
1.3. Thực trạng hoàn thiện các công cụ phi thuế quan của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Việc áp dụng các công cụ phi thuế quan là một thực tế nhưng hiện tại chưa có một thống kê nào ở Việt Nam về các công cụ này. Theo WTO, để xem xét việc một biện pháp có phải là biện pháp phi thuế không thì biện pháp đó phải làm hạn chế thương mại. Phần dưới đây sẽ xem xét việc vận dụng hệ thống các công cụ phi thuế quan tại Việt Nam.
1.3.1. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp bằng ngân sách nhà nước tại Việt Nam được chính thức chấm dứt vào năm 1989.
Việt Nam hiện đang duy trì Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thưởng kim ngạch, thưởng thành tích. Các nội dung này đều đang được sửa đổi ở Việt Nam. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ này được sử dụng để hỗ trợ phần lãi vay ngân hàng để thu mua nông sản xuất khẩu; dự trữ hàng nông sản theo chỉ đạo của Chính phủ; hỗ trợ có thời hạn một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh và thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Sự tồn tại của Quỹ này phù hợp với các quy định của WTO vì giá trị thưởng vài ngàn đôla cộng với bằng khen là giá trị nhỏ. Hiện tại mức thưởng đối với các sản phẩm thô chưa qua chế biến và mức thưởng đối với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao chưa khác biệt nhiều.
Việt Nam hiện đã có Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 (Quyết định số 279/2005/QĐ- TTg) ngày 3 tháng 11 năm 2005. Theo Quy chế này, Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng một khoản tài chính lấy từ các nguồn như Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, đóng góp của doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp các công tác về thông tin thương mại và tuyên truyền xuất khẩu, thuê tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm, thực hiện đào tạo kỹ năng xuất khẩu khẩu, tham gia hội chợ triển lãm.
Kể từ năm 2003, Bộ Thương mại thực hiện chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Năm 2003 có 184 đề án chương trình mục tiêu với sự tham gia của 24 đơn vị chủ quản. Năm 2004 có 143 đề án với 28 đơn vị chủ quản và năm 2005 có 176 đề án với 34 đơn vị chủ quản [64]. Các hoạt động xúc tiến thương mại trọng điểm đã thu hút hơn 1000 lượt doanh nghiệp tham gia hội chợ, khảo sát thị trường nước ngoài, tham dự các lớp đào tạo và tập huấn. Trong 3 năm 2003-2005, các hiệp hội như Hiệp hội điện tử (VEIA), Hiệp hội da giày (LEFASO), ... đã thông báo các chương trình thực hiện xúc tiến thương mại hàng năm tới các đơn vị thành viên. Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm được các hiệp hội truyền tải rộng rãi tới các doanh nghiệp thành viên cũng việc lựa chọn doanh nghiệp tham gia vào chương trình đảm bảo tính quảng bá nhưng không dàn trải và lựa chọn các doanh nghiệp thực sự có tiềm năng để ưu tiên trợ giúp.
1.3.2. Hạn ngạch
Các quy định này bao gồm hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu.
Việt Nam thực hiện giới hạn hàng hoá xuất khẩu ở một số công ty vào năm 1990.
Hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng với 7 nhóm hàng vào năm 1995, 6 mặt hàng vào năm 1996. Đến năm 1997, vì lý do cân đối nên Việt Nam tăng số lượng mặt hàng nhập khẩu bị kiểm soát bằng hạn ngạch. Đến năm 2004, Việt Nam bãi bỏ hệ thống hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, năm 2005, Việt Nam thực hiện bãi bỏ thuế nhập khẩu đối với 6 mã hàng để thực hiện quản lý bằng hạn ngạch.
Hạn ngạch xuất khẩu gạo được Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng thực hiện. Năm 1995, hạn ngạch xuất khẩu chỉ còn áp dụng với một mặt hàng là gạo.
Hạn ngạch xuất khẩu ban đầu áp dụng với các hàng dệt may vào thị trường EU, Nauy và Canada. Kể từ năm 1992, Việt Nam bắt đầu thực hiện hạn ngạch xuất khẩu dệt may trong khuôn khổ Hiệp định khung với Liên minh châu Âu. Hạn ngạch này được Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp cùng thực hiện. Bởi vì Việt Nam chưa phải là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới nên Việt Nam không được hưởng các quy định của Hiệp định đa sợi (MFA) và Hiệp định về hàng may mặc (ATC). Năm 2005, Việt Nam đề xuất EU bỏ hạn ngạch xuất khẩu dệt may với một số chủng loại hàng.
1.3.3. Hạn ngạch thuế quan
Hiện nay, Việt Nam chuyển sang thực hiện quản lý chuyên ngành thông qua hệ thống giấy phép con do các cơ quan được uỷ quyền cấp phép (Ngân hàng Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Công nghiệp, Bộ Quốc phòng). Trong khuôn khổ WTO, Việt Nam được áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ). Đây là công cụ mới đối với Việt Nam. Ban đầu hạn ngạch thuế quan được áp dụng đối với 7 mặt hàng là thuốc lá nguyên liệu, muối, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, sữa nguyên liệu chưa cô đặc, ngô hạt và trứng gia cầm. Tính đến hết năm 2005, số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch thuế quan đã giảm từ 7 xuống 3 mặt hàng là sữa và kem chưa cô đặc hoặc đã pha thêm đường hoặc chất ngọt khác; ngô, xơ bông chưa chải thô hoặc chưa chải kỹ; phế liệu bông (kể cả phế liệu sợi và bống tái chế). Như vậy, số mặt hàng được điều chỉnh bằng hạn ngạch thuế quan còn quá nhỏ bé so với các quốc gia như Hoa Kỳ và Thái Lan.
1.3.4. Tín dụng xuất khẩu
Những quy định về trợ cấp tín dụng xuất khẩu được ghi rõ trong Quyết định 133/2001/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2001 về Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Quy định này rất chặt chẽ về đảm bảo tiền vay và tình hình tài chính.
Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của Quỹ Hỗ trợ phát triển hiện tại chỉ tập trung vào hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn chứ không tập trung vào xuất khẩu trung và dài hạn. Về điều kiện cho vay, nếu doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng cho vay, có hợp đồng xuất khẩu, có phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ, có tài sản đảm bảo tiền vay tối thiểu trị giá 30% thì được xem xét cho vay. Việc cho vay tín chấp được chấp nhận nhưng tương đối khó khăn. Các doanh nghiệp được Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm tới 85% số vốn cho vay của Quỹ trong giai đoạn 2000-2004). Các doanh nghiệp không nắm được thông tin và thủ tục vay vốn (quy định về thế chấp, quy định về có hợp đồng xuất khẩu mới được vay vốn) [61].
1.3.5. Quy định về tỷ lệ nội địa hoá
Việt Nam ban hành Luật đầu tư nước ngoài từ năm 1987. Hai trong những điều khoản mà nhà đầu tư nước ngoài cần cam kết là tỷ lệ nội địa hoá và tỷ lệ xuất khẩu/doanh thu. Các doanh nghiệp trong ngành điện tử, ô tô, xe máy là những doanh nghiệp được quan tâm nhiều nhất. Hiện tại, Việt Nam đã xác định không quy định tỷ lệ nội địa hoá đối với hàng hoá sản xuất tại Việt Nam bởi vì quy định này không phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Các doanh nghiệp trong các ngành điện tử, ô tô, xe máy khi thực hiện nhập khẩu được quyền lựa chọn về cách tính thuế (thuế thông thường hoặc thuế nội địa hoá).
Trong khuôn khổ ASEAN, chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN quy định việc áp dụng thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các hàng hoá có 40% hàm lượng ASEAN. Đây là quy định không bắt buộc nhằm khuyến khích các doanh nghiệp phát triển thương mại và đầu tư trong nội bộ ASEAN.
1.3.6. Các biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp
Việt Nam hiện chưa có kinh nghiệm với việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hàng hoá của nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Quy định về chống bán phá giá và trợ cấp bắt đầu được đưa vào trong Luật thuế xuất nhập khẩu (sửa đổi) của Việt Nam từ năm 1998. Hiện tại, các quy định về chống bán phá giá được quy định tại Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ban hành vào tháng 5 năm 2004. Các quy định về chống trợ cấp hàng nhập khẩu được điều chỉnh tại Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ban hành tháng 5 năm 2002.
Một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện đang bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tại nước ngoài.
Việt Nam không thuộc nhóm quốc gia bị kiện phá giá nhiều nhất trên thế giới. Tính đến 30 tháng 6 năm 2006, Việt Nam bị kiện phá giá 22 lần, trong đó năm 2005 bị kiện 7 lần, 2004 bị kiện 7 lần, 2002 bị ba lần và một lần vào các năm 1997, 1999 và 2000. Canada, Hoa Kỳ, EU và Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ là các quốc gia đã kiện Việt Nam bán phá giá trong giai đoạn 1995-2005. Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra basa, bật lửa gas, tôm., xe đạp, đèn huỳnh quang, bột sắn, ô xít kẽm, chốt cài bằng thép không gỉ.
Bảng. Số vụ kiện Việt Nam bán phá giá
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng
Số vụ
1
0
1
1
0
3
0
7
7
2
22
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2007). Số liệu 2006 tính đến ngày 30 tháng 6.
Canada kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và tỏi. Thuế chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48 CAD/kg. EU kiện Việt Nam về giày dép, bột ngọt, xe đạp, đèn huỳnh quang, giày mũ da, chốt cài bằng kẽm. Mức thuế chống phá giá đối với bột ngọt là 16,8%. Riêng đối với mặt hàng giày dép, EU đã không đánh thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác là Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan. Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas. Thuế chống phá giá là 0.09 EUR/chiếc. Hoa Kỳ kiện Việt Nam về cá tra, cá basa; tôm. Thuế chống phá giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Gạo của Việt Nam đã từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với biên phá giá là 9,7% nhưng sau đó Columbia quyết định rằng Việt Nam đã không gây thiệt hại về vật chất với việc sản xuất gạo của Columbia nên không áp dụng thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam [161].
Nghiên cứu điểm số 1. Vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa của Việt Nam.
Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ khoảng 1,6 tỷ đô la hàng dệt may, giày dép, tôm, cá tra, cá basa và nhập khẩu khoảng 500 triệu đô la phân bón, vải cotton, máy bơm từ thị trường Hoa Kỳ vào năm 2002. Thị trường Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 136 ngàn tấn (300 triệu pound) cá tra, cá basa mỗi năm. Sau khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết, cá tra, cá basa của Việt Nam dành được một thị phần đáng kể tại Hoa Kỳ với sự tham gia của 52 doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Trước năm 2001, Hoa Kỳ là nhà nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về cá tra và cá basa. Năm 2001 và 2002, Hoa Kỳ nhập khẩu lần lượt là 13.500 tấn và 18.300 tấn tương đương với 38,3 triệu đô la và 55,1 triệu đô la cá tra, cá basa từ Việt Nam. Hoa Kỳ chiếm 30% xuất khẩu cá tra, cá basa đã chế biến của Việt Nam và Việt Nam chiếm khoảng 20% thị phần 600 triệu cá tra, cá basa đông lạnh Hoa Kỳ. Việc xuất khẩu cá tra, cá basa đi khắp thế giới giúp Việt Nam giải quyết việc làm cho khoảng 300.000 đến 400.000 lao động [153].
Vụ kiện cá tra, cá basa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu từ 28 tháng 6 năm 2002 và đã kết thúc với phần thắng thuộc về phía Hoa Kỳ. Những người nông dân nuôi cá ở miền Nam nước Hoa Kỳ kiện những người nông dân nuôi cá tại Việt Nam về việc bán phá giá cá tra, cá basa tại thị trường Hoa Kỳ. Mức thuế chống phá giá mà DOC áp dụng đối với Việt Nam là từ 38% đến 64%.
Cá tra, cá basa của Việt Nam bị nông dân Hoa Kỳ cho rằng được nuôi trong những điều kiện không đảm bảo về vệ sinh bao gồm nguồn nước nuôi cá không sạch và bị nhiễm các chất hoá học.
Bên cạnh đó, Hoa Kỳ cho rằng Nhà nước Việt Nam thực hiện trợ cấp đối với các sản phẩm cá tra, cá basa. Phương thức mà Hiệp hội cá tra, cá basa (CFA) của Hoa Kỳ đã thực hiện trong vụ tranh chấp với Việt Nam là gây sức ép bắt các nhà xuất khẩu Việt Nam phải thay đổi tem dán để phân biệt cá của Việt Nam với cá của Hoa Kỳ. Sau đó, CFA kiện Việt Nam đã phá giá cá tra, cá basa trên thị trường Hoa Kỳ.
1.3.7. Quy định về mua sắm của chính phủ
Năm 1990, các tổng công ty xuất nhập khẩu phải đăng ký nhóm hàng hoá xuất nhập khẩu với các cơ quan quản lý nhà nước. Các lệnh cấm nhập khẩu áp dụng thường nhằm vào việc cân đối thị trường trong nước chứ không nhằm vào việc phải thực hiện mua sắm trong nước bằng nguồn vốn từ ngân sách. Chẳng hạn, lệnh cấm nhập khẩu đường vào năm 1997, cấm nhập khẩu rượu vào năm 1998. Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp FDI vẫn phải trình kế hoạch nhập khẩu và phê duyệt của Bộ Thương mại hoặc cơ quan được uỷ quyền. Tính đến năm 2005, Việt Nam vẫn ban hành danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu và cấm nhập khẩu. Hiện nay, các lệnh cấm này không trực tiếp dẫn đến việc khoản mua sắm của chính phủ phải thực hiện trong nước.
Trong Luật Thương mại (chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006), không có quy định nào về mua sắm công. Tuy nhiên, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật đấu thầu. Luật này áp dụng với các dự án sử dụng 30% vốn ngân sách nhà nước trở lên. Các quy định của luật này nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả mua sắm của Chính phủ.
1.3.8. Các biện pháp hành chính
Trước năm 1988, các biện pháp hành chính của Việt Nam chủ yếu để phục vụ công tác kế hoạch hoá chứ không được sử dụng như một công cụ của chính sách thương mại quốc tế [114]. Sau năm 1988, các biện pháp hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể chia thành ba nhóm: các quy định với doanh nghiệp; kiểm soát hàng hoá; và kiểm soát các giao dịch hàng hoá. Các quy định này ngày càng thông thoáng hơn để tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam không duy trì các quy định với doanh nghiệp khi thực hiện thương mại quốc tế. Theo Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1998, các doanh nghiệp trong nước không cần phải xin giấy phép khi thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp FDI được quyền xuất khẩu các hàng hoá không nằm trong giấy phép đầu tư. Năm 2000, các doanh nghiệp FDI khi nhập khẩu vẫn phải trình kế hoạch nhập khẩu và đợi phê duyệt của Bộ Thương mại hoặc cơ quan được uỷ quyền. Kể từ năm 2001, mọi doanh nghiệp đều được xuất nhập khẩu mọi loại hàng hoá trừ các hàng hoá bị cấm xuất, cấm nhập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Việc kiểm soát hàng hoá được thực hiện thông qua các lệnh cấm, hạn ngạch và các quy định về hàng hoá quản lý theo chuyên ngành.
+ Cấm xuất, cấm nhập: Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hiện tại được Bộ Thương mại ban hành hàng năm. Lệnh cấm nhập khẩu ở giai đoạn 1995-1998 có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước như cấm nhập khẩu xe máy và linh phụ kiện xe máy cũ.
+ Các quy định về cân đối nền kinh tế: Một số mặt hàng như phân bón, xi măng, kính xây dựng, đường, giấy, thép, rượu chịu sự điều chỉnh liên bộ (Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ chuyên ngành khác) về số lượng nhập khẩu để đảm bảo cân đối nền kinh tế cho đến năm 1998. Bên cạnh đó, quy định về giới hạn mức tiêu dùng không vượt quá 20% giá trị xuất khẩu của năm trước đó cũng được áp dụng đến năm 1997.
+ Quản lý bằng giấy phép thông qua các bộ chuyên ngành: Theo quy định tại Nghị định 89/CP ngày 15 tháng 12 năm 1995, Bộ Công nghiệp quản lý giấy phép nhập khẩu phế liệu kim loại, Ngân hàng nhà nước quản lý thiết bị và máy móc ngân hàng, Bộ Tài chính quản lý các hàng hoá viện trợ, ... Năm 2001, Việt Nam ban hành danh mục hàng hoá thuộc 7 chuyên ngành quản lý với các hình thức quản lý gồm quy định điều kiện hoặc tiêu chuẩn, chứng nhận hợp chuẩn, giấy phép khảo nghiệm, chỉ định doanh nghiệp được phép nhập khẩu, phê duyệt nội dung, cấp giấy phép nhập khẩu, hồ sơ nguồn gốc hay cấm xuất cấm nhập. Đến năm 2006, một số hàng hoá vẫn tiếp tục được quản lý chuyên ngành. Việt Nam thực hiện minh bạch hoá thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu đối với các mặt hàng quản lý theo chuyên ngành.
Việt Nam xoá bỏ giấy phép đối với hàng hoá gia công vào năm 1998. Năm 2001, việc xuất khẩu không hạn chế ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh song việc nhập khẩu phải theo ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh. Hiện nay, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều không phải theo ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh.
1.4. Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Tại Việt Nam, việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế do Bộ Thương mại chủ trì. Về mặt bản chất, việc xây dựng và thực hiện chính sách thương mại quốc tế đang được thực hiện tại Việt Nam (như đã phân tích ở các phần trước) song về mặt tên gọi, Bộ Thương mại hiện không sử dụng thuật ngữ “chính sách thương mại quốc tế” để chỉ các chính sách công cụ và biện pháp mà Bộ sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam. Các văn bản được coi là chiến lược và quy hoạch về phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam phải kể đến bao gồm chính sách xuất nhập khẩu và chính sách hội nhập. Ngoài ra, những nội dung trong chính sách thương mại nội địa cũng có liên quan tới các hoạt động thương mại quốc tế.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thương mại được quy định tại Nghị định 29/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 1 năm 2004. Theo nghị định này, các cục, vụ, viện liên quan trực tiếp tới việc hoạch định và thực hiện chính sách thương mại quốc tế ở Việt Nam là Vụ xuất nhập khẩu, Vụ Thị trường Châu Á – Thái Bình Dương, Vụ Thị trường châu Âu, Vụ Thị trường châu Hoa Kỳ, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ Pháp chế, Cục Quản lý thị trường, Cục Quản lý cạnh tranh, Cục xúc tiến thương mại và Viện Nghiên cứu Thương mại trong đó Vụ Chính sách thương mại đa biên là vụ trực tiếp tham gia vào việc hoạch định và đàm phán thương mại của Việt Nam với các tổ chức quốc tế.
Phần “Tổ chức thực hiện” trong Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn2006-2010 của Bộ Thương mại đề xuất đưa vấn đề về đẩy mạnh phối hợp giữa các bộ, ngành, hiệp hội ngành hàng như là biện pháp quan trọng nhất trong việc thực hiện. Tuy nhiên, việc đề xuất này nằm trong khuôn khổ thực hiện đề án do Bộ Thương mại đề xuất. Bộ Công nghiệp cũng đã có đề xuất tương tự khi đệ trình Chính phủ phê duyệt đề án liên quan đến nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm công nghiệp. Hai Bộ đều nhận thấy rõ ràng phải phối hợp nhưng ai là đầu mối thực hiện thì lại là vấn đề chưa giải quyết. Hơn nữa, nhận thức về công việc phối hợp thực hiện mới chỉ chủ yếu tập trung ở thời điểm bắt đầu triển khai và thời điểm sơ kết, tổng kết. Công việc này cần được chú trọng thực hiện trong suốt quá trình thực hiện các nhiệm vụ, công việc được giao cho các bộ ngành.
Bộ Thương mại được Chính phủ giao thường trực và đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
Về cơ chế phối hợp, chính sách thương mại quốc tế chỉ là một trong số các chính sách kinh tế xã hội của quốc gia nên nó không thể đặt ngoài hay đặt cao hơn các chính sách kinh tế xã hội khác. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và các bộ ngành như Bộ Công nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang đóng vai trò quan trọng cùng với Bộ Thương mại trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam.
Quy chế làm việc của Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế được quy định tại quyết định số 118/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 8 tháng 7 năm 1998 và quyết định số 20/QĐ-UBQG của Chủ tịch uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế ban hành ngày 19 tháng 2 năm 2003. Uỷ ban có trách nhiệm kiểm tra, chỉ đạo, theo dõi, chủ trì, phối hợp cơ quan liên quan trong quá trình Việt Nam tham gia và hoạt động trong các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực.
Hàng năm hoặc trên cơ sở yêu cầu của Uỷ ban, các Bộ ngành phải báo cáo công tác triển khai và kết quả thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên nghiên cứu của công ty McKinsey, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN đã quyết định năm 2004 là năm ký kết Hiệp định khung về hội nhập ngành của ASEAN trên 11 lĩnh vực. Chiến lược hội nhập của Việt Nam ở giai đoạn hiện nay là dựa trên những kinh nghiệm hội nhập ngành trong quá khứ để đưa ra một lộ trình hội nhập trong các cuộc đàm phán song phương và mở rộng ASEAN. Riêng đối với Trung Quốc, Bộ Thương mại cân nhắc kỹ càng hơn các thế mạnh và ngành mạnh của Trung Quốc như ô tô, xe máy, dệt may. Hai điều được các nhà hoạch định chính sách thương mại ở Việt Nam quan tâm là các ngành của Việt Nam đang được bảo hộ cao và tình hình buôn lậu từ Trung Quốc. Nếu hàng hoá Trung Quốc vẫn tiếp tục tràn vào Việt Nam một cách phi pháp thì việc bảo vệ các nhà sản xuất trong nước không có tác dụng.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về lộ trình hội nhập 11 ngành của ASEAN được ban hành vào tháng 3 năm 2005. Bộ Thương mại có trách nhiệm truyền tải thông tin tới các Bộ khác. Do tình hình đàm phán vẫn đang tiếp tục diễn ra cho nên việc truyền tải thông tin và quảng bá thông tin này tới các đơn vị liên quan vẫn chưa được thực hiện. Thực tế, có rất ít các chuyên viên của các bộ khác biết về công tác triển khai này.
Các doanh nghiệp nhà nước có tiếng nói quan trọng trong việc quyết định lộ trình hội nhập và đàm phán hội nhập. Tuy nhiên, đây lại là khu vực kém hiệu quả nên ngay cả khi thực hiện bảo hộ, lợi ích thu được cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu. Câu chuyện về bảo hộ các ngành mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia lại là một câu chuyện khác. Các ngành mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được lựa chọn thường là những ngành được bảo hộ cao [110]. Ban đầu Chính phủ Việt Nam cam kết thực hiện bảo hộ lâu dài song do sức ép hội nhập, việc bảo hộ các ngành này ngày càng giảm (ô tô, xe máy, thép).
Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 47/2004/CT-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2004 về các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Bộ Công nghiệp là cơ quan dự thảo chỉ thị này với mong muốn phối hợp giữa các Bộ khi thực hiện hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, hiện tại các cơ quan bộ và ngang bộ tại Việt Nam đều thực hiện quản lý ngành theo chức năng, nhiệm vụ được chính phủ giao. Những vấn đề nêu ra trong Chỉ thị của Chính phủ đã được các bộ thực hiện trên thực tế do đó tác dụng của Chỉ thị không lớn. Nói cách khác, các công cụ thuế quan và phi thuế quan đã không được vận dụng để thực hiện Chỉ thị này.
Thứ hai là vấn đề phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhằm đạt các mục tiêu về nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp chế tao và tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI.
Xuất khẩu của Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu với các sản phẩm chủ yếu sử dụng công nghệ thấp và sử dụng nhiều lao động. Các nhà đầu tư hướng về xuất khẩu thích lựa chọn các khu chế xuất và khu công nghiệp làm nơi xây dựng cơ sở sản xuất. Trên giác độ chính sách thương mại quốc tế, về thủ tục hành chính, doanh nghiệp FDI hướng vào xuất khẩu gặp ít khó khăn hơn các doanh nghiệp FDI hướng vào thay thế nhập khẩu. Về cơ sở hạ tầng, không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp tại Việt Nam đều mong muốn một hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu tốt hơn (đường xá, cảng, điện, nước).
Cụm từ “công nghiệp chế tạo”, “công nghiệp chế biến, chế tác” và “công nghiệp chế biến” được sử dụng đồng thời tại Việt Nam19. Nếu sử dụng cụm từ “công nghiệp chế biến” thì tỷ trọng công nghiệp chế biến trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp là 83,2% vào năm 2005 [4]. Nếu sử dụng cụm từ “công nghiệp chế tạo”20 hay “chế biến, chế tác” thì tỷ lệ này sẽ chỉ khoảng 50%. Dệt may, giày dép là những lĩnh vực xuất khẩu chủ lực. Các ngành dây và cáp điện, linh kiện điện tử máy tính, sản phẩm nhựa, một số sản phẩm cơ khí chế tạo (ô tô, xe máy, máy động lực, máy nông nghiệp, đóng và sửa tàu thuyền, xe đạp phụ tùng, ...) được Bộ Công nghiệp Việt Nam coi là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới [5].
Đầu tư của khu vực FDI vào Việt Nam cần phân biệt (i) các ngành FDI hướng vào xuất khẩu và (ii) các ngành FDI tập trung khai thác thị trường nội địa. Martin và cộng sự [51] cho rằng xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng dựa trên sự tăng lên nhanh chóng của khu vực FDI. Nghiên cứu của nhóm tác giả cũng đề cập đến việc dòng vốn FDI ban đầu đổ vào những ngành nội địa được bảo hộ như bất động sản, khách sạn và công nghiệp nặng (ô tô, sắt thép và xi măng) dưới hình thức liên doanh. Một trong những động lực khuyến khích xuất khẩu là việc tự do hóa hơn các quy định về đầu tư nước ngoài từ cuối thập kỷ 1990. Khi bảo hộ nhập khẩu giảm xuống cũng là lúc mà xuất khẩu tăng nhanh hơn.
Để thúc đẩy xuất khẩu, các công cụ thuế quan và phi thuế quan cần tập trung bảo hộ những sản phẩm cuối cùng chứ không phải những sản phẩm trung gian. Tuỳ theo ngành, các công cụ thuế quan cần được áp dụng một cách linh hoạt.
Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam còn lúng túng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp ở khu vực thay thế nhập khẩu. Mặc dù các chính sách, cơ chế cho xuất nhập khẩu đã thông thoáng hơn và rõ ràng hơn theo hướng hướng vào xuất khẩu song các ngành ở khu vực thay thế nhập khẩu như ô tô, điện tử, thép còn thể hiện nhiều bất cập ở công tác điều hành như biểu thuế xuất nhập khẩu và các chính sách hỗ trợ khác. Chẳng hạn, vấn đề thuế trong ngành công nghiệp điện tử hay vấn đề tính tỷ lệ nội địa hoá trong ngành ô tô. Một số doanh nghiệp trong ngành công nghiệp điện tử kiến nghị với chính phủ về thuế đầu vào có nguồn gốc ASEAN và ngoài ASEAN. Các doanh nghiệp này mong muốn được nhập khẩu các đầu vào từ nguồn tốt nhất trên thế giới chứ không phải chỉ trong ASEAN. Các doanh nghiệp trong ngành ô tô lại mong muốn áp dụng tính tỷ lệ nội địa hoá theo quy định của ASEAN chứ không phải theo quy định của Việt Nam.
Báo cáo vào tháng 4 năm 2006 của Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) về công nghiệp phụ trợ cho thấy việc việc liên kết giữa khu vực trong nước với các nhà đầu tư Nhật Bản trong ngành xe máy tương đối chặt chẽ. Mối liên kết này tương đối thấp ở ngành ô tô và đang tăng dần lên ở ngành điện tử.
Để phát triển các mối liên kết ở các ngành công nghiệp này, Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện hàng loạt các biện pháp như tăng cường nhận thức và kỹ năng thực hiện QCDM (Quality – Cost – Delivery – Management); chính sách thuế hợp lý; môi trường chính sách ổn định; phát triển nguồn nhân lực. Chính sách thuế cho đầu vào và đầu ra của sản xuất cần được rà soát để hợp lý hoá [156].
Vấn đề đặt ra là nếu thực hiện bảo hộ ngành công nghiệp phụ trợ thì các nhà sản xuất và lắp ráp không có cơ hội tìm được nguồn cung cấp tốt nhất từ các khu vực trên thế giới. Nếu không thực hiện hỗ trợ các ngành công nghiệp phụ trợ thì Việt Nam khó có thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam mong muốn các doanh nghiệp FDI tìm đầu ra ở thị trường xuất khẩu song các doanh nghiệp FDI có thể theo đuổi các chiến lược khác nhau như tập trung khai thác thị trường nội địa (ô tô, xe máy, điện tử) hay khai thác thị trường nước ngoài (điện tử, dệt may). Ở giai đoạn khi mới vào thị trường, các doanh nghiệp FDI có xu hướng tập trung ở những công đoạn cuối của quá trình sản xuất và phân phối.
2. Đánh giá .
Những Số Liệu Thống Kê Về Thực Trạng Xuất Nhập Khẩu thời gian qua
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu
Tổng số
Chia ra
Cân đối (*)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Triệu đô la Mỹ
1990
5156.4
2404.0
2752.4
-348.4
1991
4425.2
2087.1
2338.1
-251.0
1992
5121.5
2580.7
2540.8
39.9
1993
6909.1
2985.2
3923.9
-938.7
1994
9880.1
4054.3
5825.8
-1771.5
1995
13604.3
5448.9
8155.4
-2706.5
1996
18399.4
7255.8
11143.6
-3887.8
1997
20777.3
9185.0
11592.3
-2407.3
1998
20859.9
9360.3
11499.6
-2139.3
1999
23283.5
11541.4
11742.1
-200.7
2000
30119.2
14482.7
15636.5
-1153.8
2001
31247.1
15029.2
16217.9
-1188.7
2002
36451.7
16706.1
19745.6
-3039.5
2003
45405.1
20149.3
25255.8
-5106.5
2004
58453.8
26485.0
31968.8
-5483.8
2005
69208.2
32447.1
36761.1
-4314.0
2006
84717.3
39826.2
44891.1
-5064.9
Sơ bộ 2007
111243.6
48561.4
62682.2
-14120.8
2.1. Ưu Điểm.
* Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương Việt Nam khá cao qua các năm(trung bình trên 20% năm) và cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất xã hội( cao hơn khoảng 2- 3 lần) Điều đó làm cho quy mô của kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng lên nhanh chóng: năm 1998 kim ngạch xuất nhập khẩu là 1 tỷ USD , năm 2000 là 14 tỷ , năm 2001 là trên 15 tỷ, năm 2002 là 16.5 tỷ , năm 2005 là 32.5 tỷ và năm 2006 là đạt 36 tỷ USD. Những thành quả trên đạt được là do chính sách mở cửa của Đàng và Nhà nước ta trong những năm qua
* Thị trường trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam ngày càng mở rộng và đã chuyển mạnh từ đơn thị trường ra thành đa thị trường .Trước năm 1986 thị trường chủ yếu của ta là Liên Xô và Đông Âu ( chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu).Từ năm 1987 với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà Nước theo hướng đa phương hoá trong quan hệ bạn hàng đa dạng hoá trong các lại sản phẩm như hiện nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 165 quốc gia trên thế giới, trong đó ký hợp đồng thương mại song phương với 72 nước . Các bạn hàng lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản , Đài Loan,Hàn Quốc,Singapore, Trung Quốc , Mỹ , EU …. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO đang và sẽ giúp nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng trong thời gian qua và những năm tới
* Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước xây dựng những mặt hàng quy mô lơn được thị trường hế giới châp nhận : dầu khí, gạo, thuỷ sản, dệt may, giày dép…Việc xầy dựng những mặt hàng trên cho phép chúng ta khai thác những lợi thế so sành của nền kinh tế trong phân công lao động và hợp tác quốc tế
* Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh ,phát huy quyền tự chủ cho các doanh nghiệp ,chuyển từ việc vay nợ nước ngoài để nhập khẩu là chủ yếu sang đầy mạnh xuất khẩu để lấy kim ngạch xuất khẩu trang trải cho nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động ngoại thương
* Cùng với qua trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ,sự tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế và đàm phán gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, cơ chế chính sách của Việt Nam đã được đổi mới mạnh mẽ theo hướng tăng tự do hoá thương mại đầu tư, giảm thiểu mức can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực buôn bán quốc tế. Điều đó đóng góp thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương Việt Nam
2.2. Nhược điểm:
* Quy mô xuất nhập khẩu còn quá nhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
* Cơ cầu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn trong tình trạng lạc hậu,chất lượng thấp,mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh yếu( gần 40% kim ngạch là hàng nông, lâm,thuỷ sản,trên 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là hàng nguyên liệu,hàm lượng khoa học công nghệ thấp, do đó chịu nhiều thua thiệt trong thương mại quốc tế
* Thị trường ngoại thương Việt Nam còn nhiều bấp bênh chủ yếu là thị trường các nước trong khu vực và các thị trường qua trung gian ,còn thiếu những hợp đồng lớn và dài hạn
* Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá luôn thấp hơn kim ngạch nhập khẩu.Cán cân thương mại chưa cân bằng,nhập siêu thường xuyên xảy ra
* Công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn thiếu đồng bộ và nhất quán ,khi thì buông lỏng dễ dãi. Trong hoạt động xuất nhập khẩu , nhiều doanh nghịêp Việt Nam chưa giữ chữ tín với bạn hàng ,nhiều khi giao hàng không đúng chất lượng quy định bị phạt hợp đồng gây hậu quả nghiêm trọng trình độ nghiệp vụ ngoại thương của nhiều cán bộ còn non kém
* Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại đây là vấn đề quốc nạn cần sớm được giải quyết
* Trong cơ chế chính sách đang tiếp tục được đổi mới theo hướng nới lỏng sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực buôn bán quốc tế ,nhưng hiện tại cơ chế chính sách cũng như việc tổ chức thực thi bộc lộ nhiều bất cập
2.3. Nguyên nhân.
* Dù phát triển nhanh nhưng nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển
* Doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với nước ngoài
* Nhà nước chưa tạo ra những môi trường thật sự thuận lơi cho xuất khẩu nhiều quy chế còn chậm đổi mới
* Hoạt động xuất khẩu không chính ngạch tăng,các hoạt động buôn lậu vẫn chưa được ngăn chặn cụ thể.
C3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KTQT
Cải cách chính sách thương mại của Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã đạt được những thành công nhất định nhưng chưa thực sự hoàn chỉnh, sau đây là một số định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hơn nữa:
1. Định hướng
Chúng ta cần xác định rõ mô hình thương mại mang tính chất rõ ràng đó là Chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu cụ thể là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ.
Và theo xu hướng tự do hóa thương mại hạn chế bảo hộ mậu dịch đến mức tối đa vì xu hướng này đi ngược với định hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua thiệt khi tiến hành tự do hóa thương mại theo quy định của WTO.
2. Giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Thứ nhất, xây dựng một nền xuất khẩu mang tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao bằng cách tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và luật lệ của WTO, những cam kết gia nhập của Việt Nam tới toàn xã hội nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội để vượt qua thách thức khó khăn.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi hoạt động xuất khẩu theo hướng kinh tế thị trường, phù hợp với các cam kết của WTO, tạo thuận lợi cho hàng hóa lưu kho trong bãi, trên đường qua cửa khẩu nhằm giảm chi phí tiền bạc, thời gian của doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ ba, tích cực và chủ động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế đầy đủ sâu rộng để tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam. Tăng cường củng cố các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai phá mạnh các thị trường mới ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh cho phát triển xuất khẩu; Mở cửa sớm các thị trường dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tiên tiến, hiện đại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
Thứ tư,tăng cường phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xuất khẩu, đồng thời khai thác hiệu quả hệ thống hạ tầng hiện có phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu.Đẩy mạnh ứng dụng các phương thức thương mại hiện đại, thương mại điện tử, công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động thuận lợi hóa và hỗ trợ việc gia nhập thị trường của khu vực ngoài quốc doanh, khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước cho xuất khẩu, khuyến khích việc liên doanh, liên kết hợp nhất, sáp nhập các doanh nghiệp xuất khẩu để hình thành các tập đoàn xuất khẩu mạnh của Việt Nam.
Thứ sáu, cải tiến việc xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển các chiến lược thị trường và mặt hàng xuất khẩu hiệu quả và khả thi trong thực tiễn. Tiếp tục phát huy vai trò trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài trong việc xúc tiến, quảng bá về thương hiệu của sản phẩm và hình ảnh con người Việt Nam, cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường, kênh phân phối nước ngoài. Thực hiện tốt việc gắn kết giữa bộ, ngành, hiệp hội và các doanh nghiệp, các cơ quan thường trú ở nước ngoài để cung cấp thông tin đầy đủ về thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài.
Thứ bẩy, tiếp tục chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu, chú ý đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, maketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề, nâng cao hiểu biết về luật pháp kinh tế quốc tế quốc tế và của các nước…
Thứ tám, chú trọng xây dựng và tăng cường năng lực ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá, các rào cản kỹ thuật thương mại mới…
Thứ chín, tập trung nỗ lực nhằm đa dạng hóa và nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu thông qua rà soát lại các quy hoạch về vùng nguyên liệu nông sản xuất khẩu, tăng cường đầu tư trang thiết bị, xây dựng kết cấu hạ tầng, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến chất lượng sản phẩm và chú trọng xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm nông, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế.
Cuối cùng, nỗ lưc phát triển các ngành công nghiệp phù trợ cho sản phẩm hàng chế tạo xuất khẩu và công nghệ cao xuất khẩu, tăng cường xúc tiến đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu.
3.2.2. Hoàn thiện chính sách quản lý nhập khẩu phù hợp với nguyên tắc của WTO.
Thứ nhất, bằng biện pháp thuế quan:
Việt Nam cần phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mức thuế quan nhập khẩu đưa ra cần được tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo sản xuất trong nước có thế đứng vững và phát triển khi thực hiện hội nhập WTO đồng thời vẫn đảm bảo nền kinh tế phát triển theo xu hướng mở cửa thị trường và tự do hóa thương mại cụ thể là việc sửa đổi chính sách thuế nhập khẩu phải được tiến hành một cách thận trọng để đảm bảo không gây hụt hẫng nguồn thu ngân sách, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ thời gian để thích nghi với môi trường cạnh tranh.Tuy vậy, chính sách thuế nhập khấu cũng cần có cơ chế bảo hộ có trọng điểm, có thời hạn một số ngành sản xuất trong nước, bảo hộ hữu hiệu đúng hướng cho những ngành có lợi thế cạnh tranh, hay những ngành sản xuất mũi nhọn trong kế hoạch công nghiệp hóa đất nước.
Thứ hai, biện pháp phi thuế quan
Việt Nam phải có những quy định cụ thể hơn về rào cản kỹ thuật như quy định về an toàn và đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng, đặc biệt là nhóm hàng thực phẩm và đồ uống thì bắt buộc nước nhập khẩu phải thực hiện đầy đủ theo quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn của hệ thống HACCP. Đây là biện pháp thể hiện sự tôn trọng với người tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, những quy định về tiêu chuẩn xã hội, tiêu chuẩn SA8000 hay những quy định về bảo vệ môi trường dưạ theo tiêu chuẩn ISO14000 trong đó các nhà sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu về thực hiện trách nhiệm và xử lý ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, những quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa được áp dụng theo tiêu chuẩn IS09000.
Chúng ta có thể tiến hành bảo hộ một số ngành công nghiệp non trẻ trong nước bằng cách đưa ra hạn ngạch nhưng mức hạn ngạch này phải phù hợp với những cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Kết luận
Cải cách chính sách thương mại của Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã đạt được một số kết quả nhưng chưa hoàn chỉnh. Hàng rào thuế quan đã giảm nhanh chóng và quyền kinh doanh thương mại được mở rộng cho tất cả các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Đồng thời Việt Nam đã thoát khỏi thời kỳ định giá cao và dần lấy lại giá trị thực tế của mình. Đây là những nhân tố chủ yếu của tự do hoá thương mại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Xuất khẩu các sản phẩm chế tạo tập trung nhiều lao động, đặc biệt là may mặc, giày dép,hàng nông sản... đã tăng rất mạnh. Việt Nam đang hội nhập dần vào hệ thống sản xuất toàn cầu bởi vì các công ty nước ngoài có thể tìm thấy lợi thế kết hợp giữa chi phí lao động thấp và môi trường đầu tư nước ngoài tự do. Vai trò ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia trong việc tham gia vào hoạt động xuất khẩu phản ánh sự phụ thuộc của Việt Nam ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn duy trì những nhân tố bảo hộ cơ bản. Tỷ lệ thuế quan trung bình là thấp, nhưng chúng vẫn khá cao trong một số loại hàng hoá quan trọng. Chúng có tác dụng bảo hộ thị trường đối với một số ít hàng hoá cơ bản, ví dụ như ôtô, xe máy, hàng điện tử... Các biện pháp phi thuế quan ở mức độ tối thiểu cũng đã được sử dụng để bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước. Quan trọng hơn, trong khi Việt Nam đã giảm dần sự bảo hộ của thị trường hàng hoá trong nước thông qua những cải cách như đã đề cập, thì chúng ta lại tỏ ra rất chậm trễ trong việc nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp và mở cửa thị trường dịch vụ cho các công ty nước ngoài. Điều này cũng gây ra tác động mạnh đối với các công ty nước ngoài về quyền sở hữu trí tuệ và các nguyên tắc khác - vốn không phù hợp với tiêu chuẩn WTO- buộc Việt Nam phải thực hiện để chính thức trở thành thành viên của WTO.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24954.doc