Trên cơ sở khoa học trên tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam.
Một là: Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn.
Hai là: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại
Ba là: Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình.
Bốn là: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Năm là: Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam.
Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
Sáu là: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền tệ chỉ ở vị trí thứ yếu, thị trường trong nước phản ánh đậm nét một nền kinh tế lạc hậu, sức mua rất thấp và tự phát, phân hóa thành hai khu vực kinh tế là khu mậu dịch quốc doanh và khu vực thị trường tự do. Hiện tượng cửa quyền, hách dịch, chủ nghĩa giấy tờ nặng nề, nạn đầu cơ tích trữ, nạn khan hiếm hàng hóa luôn chi phối thị trường. Một lượng tiền phát hành được sử dụng để cấp phát và chủ yếu lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng, làm cho hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt nghiêm trọng, trong khi ngoài thị trường tự do nạn cho vay nặng lãi trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội VN suốt giai đoạn nền kinh tế vận động theo cơ chế bao cấp, mà đậm nét nhất là thời kì từ năm 1977-1989.
Từ năm 1955 đến năm 1975, miền bắc đã thiết lập quan hệ kinh tế- thương mại với trên 40 nước, nhưng chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa. Dó đó, quan hệ tỷ giá của VND chủ yếu với SUR , còn các đồng tiền tự do chuyển đổi khác thì về cơ bản là không được xác lập chính thức.
Bước sang năm 1977, các nước XHCN thỏa thuận thanh toán với nhau băng tiền RUP chuyển nhượng có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam. Đây là đồng tiền tập thể, chỉ tồn tại ở dạng ghi sổ, dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối.
Bức tranh tổng thể nói trên chi phối trực tiếp đến quan hệ kinh tế nói chung và chính sách tỷ giá nó riêng trong suốt giai đoạn từ 1955-1989. Tỷ giá khu vực được chia thành hai khu vực, bao gồm: khu vực1: tỷ giá trong phe XHCN và khu vực 2: tỷ giá ngoài phe XHCN.
Tóm lại, đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, quyết định các chính sách vi mô và vĩ mo theo một kế hoach quy mô tập trung toàn quốc. sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trườn, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của nhà nước về ngoại thương và ngoại hối, do đó tính độc quyền trong việc ban hành và ấn định tỷ giá. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố dịnh do nhà nước độc quyền xác định , không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, VN cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngaọi giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những hiệp định thanh toán được kí kết giữa các nước XHCN với nhau.
Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền VN được định giá quá cao so với đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa so với tỷ gía thị trường làm cho hoạt dộng xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương (lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn.
Bảng tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do VND/USD
Năm
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá thị trường tự do
1985
15
115
1986
81
425
1987
368
1270
1988
3000
5000
1989
3900
4750
1.2. Giai đoạn sau năm 1990
Việt Nam trong thời kì này đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, từ chế độ độc quyền ngoại hối chuyển sang chế độ quản lý thống nhất ngoại hối cho nên chế độ Tỷ giá hối đoái cần có sự thay đôỉ nhằm từng bước gắn liền với cơ chế kinh tế thị trường.
Tỷ giá hối đoái đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách tài chính- tiền tệ quốc gia, nhà nước chủ trương chỉ áp dụng một loại Tỷ giá trong nền kinh tế.
1.2.1. giai đoạn thả nổi tỷ giá 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây:
Bảng 1:
Tỷ giá và Lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989 – 1993
NĂM
TỶ GIÁ USD/VND
Lạm phát
Giá chính thức nhà nước
Giá thị trường tự do
Tăng/giảm(%)
1
2
3
4
5
1989
4.200
4.570
+8,80
+34,70
1990
6.650
7.550
+13,50
+67,50
1991
12.720
12.550
-0,02
+17,50
1992
10.720
10.550
-0,02
+17,50
1993
10.835
10.736
-0,01
+5,20
(Số liệu lấy từ tài liệu của Tập san Khoa học Ngân Hàng từ số 1.1994 đến số 12.1994 và từ số 1.1995 đến số 5.1995).
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống .Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với giáù của thị trường tự do.
Điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn. Tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
- Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
- Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốt USD làm mất ổn định nền kinh tế.
- Quản lý ngoại tệ của Chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
- Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
→ Vì vậy đến năm 1993, Nhà nước đã "cố định" tỷ giá mà chúng ta sẽ xem xét trong giai đoạn 1993-1996 .
1.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá : 1993-1996
Bảng 2:
Tỷ giá và Lạm phát của Việt Nam qua các năm 1993 – 1996
Năm
Tỷ giá USD/VND
So sánh % năm trước
Tốc độ lạm phát
1
2
3
4
1993
10.835
100%
5,2%
1994
11.050
+1,98%
14,4%
1995
11.040
0%
12,7%
1996
11.606
+0,18%
4,5%
(Số liệu lấy từ Tập san Khoa Học Ngân Hàng tháng 7.1995 đến tháng 12.1995, và từ số 1.1996 đến tháng 12.1996 và từ tháng 1.1997 đến tháng 12.1997).
Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiều, nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua bảng số liệu trên (bảng 2) chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khá dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua đối nội của VND, kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài(1993-1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu, đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 3:
Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (Đơn vị tính: triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
So sánh
1
2
3
4=3-2
1993
2.985
3.924
-939
1994
4.054
8.825
-1.771
1995
5.448,9
8.155,4
-2.706,5
1996
7.255
11.143
-3.888
(Số liệu lấy từ nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn của UBND Thành Phố HCM qua các năm 1996-1997-1998).
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993-1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995, 3,8 tỷ USD 1996.
1.2.3. Giai đoạn thả nổi có điều tiết từ năm 1997-1999
Năm 1997, đặc biệt là vào nửa cuối năm, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam Á bùng nổ, buộc các nước này phải tiến hàng phá giá mạnh đồng nội tệ.
So với giai đoạn trước đây, tỷ giá VND/USD trong thời kì khủng hoảng biến động khá phức tạp, có xu hướng tăng nhanh, đồng thời đột biến theo những cơn sốt giá ngọai tệ. tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh tăng đều liên tcụ, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch.
Sau khi thị trường đã đi vào ổn định, ngày 25 tháng 2 năm 1999, NHNN đã công bố tỷ giá giao dịch bình quân lien ngan hàng thay cho việc công bố tỷ giá chính thức. tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh từ 12976 VND/USD lên 13885 VND/USD (tăng 7%), trên cơ sở đó giảm biên độ giao động xuống còn +0,1%. Trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN thông báo, các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch không vượt quá 0,1% so với mức tỷ giá này. Điều này thực sự đã thay đổi về cơ chế quản lý điều hành tỷ giá, tạo quyền chủ động cho các NHTM tự quy định mức tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác ngoài USD. Liên tục đến năm 2000, cùng với các biện pháp phát triển của ngoại tệ, với cơ chế điều hành tỷ giá tỷ giá mới, sức mua của VND được phản ánh tương đối khách quan so với ngoại tệ, tạo điều kiện chủ động hơn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảovai trò kiểm soát của nhà nước.
Nhìn chung, tỷ giá thời kỳ 1997-1999 diễn biến phức tạp với xu hướng USD lên giá mạnh, nguyên nhân khiến USD lên giá gồm:
- Xu thế lên giá chung của USD so với các ngoại tệ khác trên trường quốc tế.
- Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ, đồng tiền của hầu hết các nước Đông Nam Á đều giảm mạnh so với đồng USD.
- Tình hình cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng.
- Cầu ngoại tệ tăng do xuất hiện nhu cầu ngoại tệ để thanh toán các L/C nhập hàng trả chậm.
- Giá vàng trong nước trên thị trường thế giới có sự chênh lệch ngày càng lớn, dẫn đến tình trangh mua vét ngoại tệ để nhập vàng về bán trong nước.
- Do tâm lý mất giá VND, nên xu hướng dịch chuyển từ VND sang USD để bảo toàn giá trị.
2. Những diễn biến quan trọng của tỷ giá hối đoái từ 2/1999 đến nay:
Tháng 2 năm 1999, với sự ra đời của quyết định 64/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của VN có bước cải cách triệt để hơn. Từ tháng 2/1999 về trước, cơ chế điều tỷ giá ở VN là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch có lúc đến ( +,-)10%. Nhưng bắt đầu từ 25/2/1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó,từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên (+,-_ 0,25%. Đây là buớc cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu của thị trường, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Dưới cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết NHNN đã không chủ quan trực tiếp ấn định, không công bố tỷ giá chính thức, mà thay vào đó là chỉ “ thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Mà tỷ giá liên ngân hàng lại có do nhu cầu trên thị trường liên ngân hàng quyết định.
Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh theo nguyên tắc:
Tỷ giá kinh doanh = TGBQLNH(1+/- 0,0025)
Suy ra: tỷ giá bán ra (max) =TGBQLNH(1+0,0025)
Tỷ giá mua vào (min) = TGBQLNH (1- 0,0025)
Ở đây, yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng TGBQLNH . Bên cạnh đó tỷ giá không được tự do biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng, mà thay vào đó sự biến động chỉ trong giới hạn (+/- 0,25%) so với tỷ giá giao dịch trước đó.
Tỷ giá cố định trong suốt một ngày giao dịch , bất chấp những thay đổi đột biến trong quan hệ cung cầu ngoại tệ vượt ra ngoài biên độ dao động cho phép. Ngòai ra ngân hàng còn sử dụng một hệ thống các công cụ để tác động lên tỷ giá, như: trực tiếp mua vào bán ra trên thị trường ngoại hối, sử dụng biện pháp kết nối, tăng giảm lãi suất…
Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết của Việt Nam hiện nay vẫn chưa có tính linh hoạt cao do các yếu tố sau:
- Trước hết, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam còn rất sơ khai. Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quá nhỏ bé, ước gần khoảng gần 300 triệu USD/ tháng, chiếm khoảng 22% tổng doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối. Với tỷ trọng thấp như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam khác xa so với thị trường quốc tế, nơi mà thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng tới 85%. Do đó, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường, thậm chí có ngày không phát sinh giao dịch nào.
- Thực tế cho thấy, do tình trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên, nên các NHTM phải áp dụng tỷ giá giao dịch kịch trần cho phép,(tức bằng TGBQLNH +0,25%)
- Tỷ giá được công bố có giá trị trong suốt một nhgày làm việc. Như vậy, nếu có trong ngày có sự thay đổi lớn về cung cầu thì các NHTM không có đieùe kiện thay đổi tỷ giá cho phù hợp.
- Trong thời gian đầu, NHNN chỉ quy định biên độ giao động một chiều( tối đa là +0,1%). Điều này tạo tâm lí cho các thành viên tham gia thị trường là tỷ giá VND chỉ có thể tăng, nên NHNN phải khống chế tăng, còn khả năng tỷ giá giảm là rất khó xảy ra, nên NHNN không cân quy định chiều giảm. Điêu này tạo tâm lý đầu cơ, ưa chuộng ngoại tệ vì nó chỉ có thể tăng. Một thực tế là, các NHTM luôn kinh doanh với tỷ giá kịch trần, do đó, nếu NHNN có quy định sàn tỷ giá thì cũng không có ý nghĩa thực tế. Tuy nhiên, để hạn chế tâm lí và để tỷ giá được linh hoạt hơn. NHNN đã quy định biên độ hai chiều, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch lên +/-0,25%.
3.Thực trạng diễn ra trong thời gian gần đây của tỷ giá trên thị trường
Lạm phát đang là một vấn đề nóng bỏng hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Và như chúng ta thấy: Lạm phát - Tỷ giá hối đoái – Lãi suất: là một cái vòng luẩn quẩn đang bao lấy kinh tế Việt Nam.
Việc Quốc hội Mỹ thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính nước này trị giá 700 tỷ USD, đồng thời với việc ngân hàng trung ương nhiều nước bơm hàng trăm tỷ USD để bình ổn thị trường tài chính khiến không ít người lo ngại thị trường ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Đã có những ý kiến cho rằng, trong bối cảnh thị trường ngoại tệ bấp bênh trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, Việt Nam nên phá giá VND để giảm thâm hụt cán cân thương mại, giảm áp lực phụ thuộc vào vốn nước ngoài. Nhưng ngược lại, cũng có ý kiến bảo vệ quan điểm nên để VND biến động theo cung cầu thị trường. Vậy Ngân hàng Nhà nước áp dụng những cơ chế điều hành, quản lý tỷ giá ra sao để bình ổn và phát triển kinh tế Việt Nam?
* Theo các chuyên gia tài chính ngân hàng, mặc dù tỷ giá hối đoái về mặt nguyên tắc không dựa vào riêng một đồng tiền nào, mà dựa vào rổ tiền tệ, nhưng thực tế 80 - 90% cán cân thanh toán của VN bằng USD. Tình trạng USD hóa nền kinh tế đã và đang diễn ra, tuy mức độ USD hóa đã giảm xuống (từ 31% xuống 23% trong năm 2003). Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước, thanh toán thương mại quốc tế và vấn đề quản lý nợ nước ngoài, cũng như huy động đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam đều được xác định trên cơ sở USD. Hệ thống tiền tệ "cột chặt" vào đồng USD nên khó có thể giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của đồng USD.
→Theo bối cảnh đó của nền kinh tế Việt Nam chúng ta sẽ đề cập nhiều hơn đến những vấn đề phát sinh từ tỷ giá và chính sách tỷ giá hối đoái giữa VND và USD.
Điểm qua những giai đoạn tỷ giá không ổn định, tăng mạnh hoặc giảm mạnh, lãi suất VND và USD ngược chiều thì thị trường tiền tệ đối mặt với sự bất ổn. Đơn cử, năm 1997 - năm mà nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tiền tệ Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lãi suất VND có xu hướng giảm, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xảy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD/tổng tiền gửi tăng từ 33% năm 1997 lên 41% năm 2001; ngược lại, khoản vay bằng ngoại tệ/tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ 31% xuống 21%.
Xu hướng ngược lại diễn ra trong năm 2007 và quý I/2008, VND lên giá do vốn nước ngoài vào nhiều, lãi suất VND tăng cao, lãi suất USD giảm nên có hiện tượng chuyển dịch từ ngoại tệ sang VND, tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi giảm từ 25,9% năm 2006 xuống 21,5% vào tháng 4/2008, trong khi đó vay bằng ngoại tệ lại tăng từ 21% lên 23%. Nhưng từ tháng 5/2008 đến nay, thị trường ngoại tệ có diễn biến ngược lại, huy động ngoại tệ tăng nhanh, tín dụng ngoại tệ có xu hướng giảm mạnh, nguyên nhân chính là do vào thời điểm giữa tháng 5, tỷ giá VND/USD đảo chiều (VND mất giá mạnh). Những diễn biến bất thường trên thị trường ngoại tệ có thể gây mất cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, từ đó nền kinh tế Việt Nam bị chao đảo nghiêm trọng.
* Hiện nay, theo các chuyên gia, VND đang được định giá cao hơn giá trị thực của nó do lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của 17 đối tác thương mại chính. Nhiều chuyên gia cho rằng, việc neo VND so với USD khiến nhập khẩu tăng mạnh, xuất khẩu chịu thiệt, trong khi Việt Nam đang cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại Việt Nam lại cho thấy, xuất nhập khẩu đều tăng mạnh. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 1 dưới đây:
Hình 1: (Tỷ giá đồng nội tệ/USD tại mỗi thời điểm)/(tỷ giá đồng nội tệ/USD tháng 1-2005. (Nguồn: Dragon Capital)
Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình 3. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD).
Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó (Hình 2).
Hình2 : Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia
Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu.
Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem Hình 1) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng 22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt).
Thế nhưng nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động. Có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã quá đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững.
* Với khái niệm phản thân của mình, George Soros [Giả kim thuật Tài chính, The Alchemy of Finance, tr.27-45 và 69-80] gợi ý cách suy nghĩ thực tiễn hơn nhiều: Tỷ giá hối đoái mạnh (trong trường hợp của chúng ta tức là để VND lên giá) sẽ kiềm chế lạm phát: lương ổn định và giá các mặt hàng nhập khẩu rớt (đáng tiếc tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng ở ta quá nhỏ phản ánh chính sách “thay thế nhập khẩu” vẫn rất thịnh hành). Theo ông, (tr.69-70) nếu các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu lớn (mà ở nước ta là như vậy) thì một nước vẫn có khả năng cạnh tranh bất chấp sự lên giá liên tục của đồng nội tệ như Tây Đức của các năm 1970 là một ví dụ.
Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ông gọi một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious circle) khi đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle) khi điều ngược lại xảy ra.
Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả so với USD, xem Hình 1), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.
Việc nới lỏng biên độ tỷ giá vừa qua chỉ có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia của Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang tính hành chính và đã không có hiệu quả và không thể trì hoãn việc cải tổ chính sách tỷ giá.
Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và giữ vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ càng cao.
Vì vậy nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát.
Qua những phân tích trên ta dễ dàng nhận thấy: Không thể dùng các biện pháp hành chính, không thể áp trần lãi suất vì làm như vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi suất phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại tình trạng USD hóa và chế độ tỷ giá hối đoái.
Những tháng đầu năm 2008 , cung ngoại tệ trên thị trường tăng mạnh, tỷ giá xuống quá thấp. Đến ngày 21/3/2008, tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng do Ngân Hàng Nhà Nước công bố chỉ còn 15.990 VND/USD, giảm tới 15 VND/USD so với ngày 20/3/2008 và giảm gần 100 VND/USD so với thời điểm đầu năm 2008; tỷ giá mua bán của Ngân Hàng Thương Mại với doanh nghiệp cũng chỉ còn 15.830 – 15.840 VND/USD, giảm 1,5% so với đầu năm 2008…
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạn chế mua ngoại tệ của Ngân hàng thương mại và từ đó NHTM cũng hạn chế mua ngoại tệ của doanh nghiệp. Trước sức ép đó của thị trường, mới đây, NHNN đã cho phép NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) thực hiện thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ theo tỷ giá thoả thuận với doanh nghiệp.
Hiện nay nhiều NHTM cũng có văn bản kiến nghị NHNN cho họ được phép thực hiện cơ chế thoả thuận nói trên. Trước tình hình đó, từ trung tuần tháng 3/2008, Vụ quản lý ngoại hối NHNN có văn bản yêu cầu các NHTM có nhu cầu mua bán ngoại tệ tiền mặt thì gửi hồ sơ về NHNN kèm dự thảo quy trình thực hiện.
Như vậy dự kiến sẽ có nhiều NHTM được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận và khả năng NHNN sẽ nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá từ +/-1% hiện nay lên +/-1,25% hoặc +/-2,0%, thậm chí +/-3% - 9% như một số ý kiến đã đưa ra. Nếu thực tế diễn ra như vậy thì tỷ giá sẽ linh hoạt hơn, phản ánh sát diễn biến của thị trường theo hướng tiến tới cớ chế thả nổi về tỷ giá.
Một trong số 19 biện pháp kiềm chế lạm phát được Thủ tướng Chính phủ đưa ra mới đây có chỉ đạo NHNN thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường. Điều đó có nghĩa là tỷ giá phải được diễn biến linh hoạt trên cơ sở cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. NHNN không neo giữ tỷ giá cứng nhắc cộng với biên độ giao dịch tỷ giá của NHTM với khách hàng quá chật hẹp là +/-0,75% như trong năm 2007 và trước đó.
Vì vậy từ thực tế kinh nghiệm áp dụng thí điểm tại Eximbank, việc NHNN cho triển khai rộng rãi cơ chế tỷ giá thoả thuận cũng là việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về biện pháp kiềm chế làm phát. Khi đó tỷ giá giảm làm cho hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu chuyển vào Việt Nam rẻ hơn, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu thì khó khăn hơn.
Không những vậy, cơ chế thoả thuận về tỷ giá giữa doanh nghiệp và NHTM còn khắc phục được những bất hợp lý trong thực tiễn hiện nay. Bởi vì từ ngày 10/3/2008, NHNN đã nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá của các NHTM với khách hàng được tăng từ +/-0,75% lên +/-1,0%, nhưng do diễn biến của thị trường, các NHTM và doanh nghiệp đã "lách luật" bằng việc thoả thuận với nhau một mức phí với nhiều tên gọi khác nhau, như: phí “quản lý ngoại tệ tiền mặt“, phí “kiểm đếm ngoại tệ tiền mặt”, phí thu đổi ngoại tệ,... phổ biến ở mức khoảng 2%. Do đó thực tế tỷ giá của doanh nghiệp bán cho NHTM còn thấp hơn rất nhiều tỷ giá danh nghĩa. Hoặc thực tế tỷ giá NHTM mua USD của doanh nghiệp thấp hơn 3% so với tỷ giá do NHNN công bố, chứ không phải 1% như quy định.
Kể từ ngày 10/3/2008 khi áp dụng biên độ giao dịch tỷ giá +-1,0%, NHTM cổ phần Đông Á cũng chính thức đưa ra mức biểu phí từ 1,7% - 2,4% trên số USD mà khách hàng bán cho ngân hàng. Mặc dù niêm yết như vậy nhưng thực tế biểu phí áp dụng phổ biến là 2,3% - 2,4%, tính ra tỷ giá NHTM CP Đông Á mua vào chỉ có 15.497 VND/USD, tương đương tỷ giá mua vào trên thị trường tự do. NHTM CP phát triển nhà TPHCM cũng công khai việc khấu trừ thêm 2% trên tỷ giá khi khách hàng bán USD cho ngân hàng.
Một số NHTM còn thực hiện mức phí cao hơn các NHTM nói trên. Cụ thể như ngày 12/3/2008, tỷ giá mua vào thấp nhất theo đúng biên độ của NHNN là 15.860 VND/USD, nhưng sau khi trừ đi phí quản lý tiền mặt ngoại tệ thì tỷ giá thanh toán lại cho khách hàng của ACB chỉ còn 15.460 VND/USD, chỉ bằng 96,5% tỷ giá liên ngân hàng do NHNN công bố, tức tương ứng thấp hơn 3,5%, thay cho mức 1,0% theo quy định, như vậy phí ở đây là 2.5 %.
Tỷ giá thực tế thanh toán cho khách hàng của NHTM CP Đông Nam Á là 15.241 VND, với mức phí tương ứng khoảng 3,9%. Không chỉ có các NHTM cổ phần, mà nhiều chi nhánh NHTM Nhà nước cũng vượt rào lách luật. Cụ thể như tỷ giá thực tế sau khi khấu trừ phí thanh toán cho khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT là 15.495 VND/USD, tương đương với mức phí 2,3%; của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là 15.310 VND/USD, mức phí tương đương 3.5 %; …
Một phương thức khác là các NHTM lách luật bằng việc ký hợp đồng hoán đổi ngoại tệ, tức là doanh nghiệp chuyển đổi USD của mình cần bán sang euro, yên Nhật, hay bảng Anh,.. để bán cho NHTM, bởi vì NHNN không quy định biên độ đối với các loại ngoại tệ đó.
Do đó, với diễn biến thực tế của thị trường nói trên thì việc NHNN cho phép NHTM và doanh nghiệp thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận là hợp thức hoá hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường hiện nay. Nhưng NHNN liệu có cho phép đồng loạt các NHTM thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận hay không thì còn chờ đợi.
Cơ chế mới này sẽ thay thế cho cơ chế hàng ngày NHNN công bố tỷ giá liên ngân hàng còn các NHTM thì thực hiện việc mua bán ngoại tệ cho khách hàng trong phạm vi biên độ không hợp lý.
Đồng thời nếu tất cả các NHTM đều được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận thì có thể sẽ gây sốc cho thị trường, tạo ra phản ứng xấu của lãi suất và tín dụng như đã từng xảy ra đối với biện pháp thắt chặt tiền tệ thời gian qua của NHNN. Nhưng nếu không cho tất cả các NHTM được phép thực hiện thì sẽ nảy sinh tình trạng so bì giữa các NHTM. Để phù hợp với thực tiễn có lẽ NHNN sẽ mở rộng thêm đối tượng NHTM được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận trên cơ sở các điều kiện được đưa ra như kinh nghiệm, trình độ cán bộ, quy mô vốn, rủi ro trong lịch sử, uy tín… của NHTM đó. Dự báo NHNN sẽ có lộ trình cho phép các NHTM thực hiện cơ chế tỷ giá thỏa thuận.
Cơ chế tỷ giá thoả thuận cũng giúp giải toả được tình trạng các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ rất lớn nhưng không bán được cho NHTM hiện nay, nhưng có lẽ sẽ làm cho tỷ giá giảm thấp hơn, hay đồng Việt Nam sẽ lên giá mạnh. Mặc dù vậy có lẽ thị trường sẽ tự điều chỉnh, sau khi giảm. Tỷ giá sẽ dừng lại và lên xuống hàng ngày theo đúng quan hệ cung cầu và theo đúng nguyên tắc thị trường. Giữa NHTM và doanh nghiệp thực sự bình đẳng trong giao dịch mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc thuận mua, vừa bán, doanh nghiệp không bị ép buộc bởi tỷ giá khi mua ngoại tệ hay bán ngoại tệ.
* Khác với diễn biến trong quá khứ, khi NHNN chủ động cho đồng VND mất giá khoảng 1% so với USD, diễn biến tỷ giá hiện nay ngày càng phức tạp hơn nhiều.
Tỷ giá giao dịch thực tế thường chạm mức biên độ trong thời gian gần đây, điều này phản ánh cung cầu ngoại hối có nhiều biến động phức tạp và tỷ giá chính thức chưa theo kịp với thị trường.
Diễn biến tỷ giá biến động mạnh kể từ cuối năm 2007. Khi đó đồng VND lên giá mạnh và tỷ giá giao dịch luôn chạm sát biên dưới của mức dao động tỷ giá cho phép. Nguyên nhân của việc tăng giá này là các nguồn vốn nước ngoài đặc biệt là vốn FII liên tục đổ vào Việt Nam, dẫn đến cung cầu ngoại tệ lệch về phía VND. Đồng VND lên giá càng hấp dẫn đầu tư nước ngoài đổ vốn vào Việt Nam. Ngay cả khi thị trường cổ phiếu không hấp dẫn, thị trường nợ với trái phiếu vẫn tỏ ra vô cùng hấp dẫn khi nhà đầu tư kỳ vọng đồng VND lên giá sẽ có lợi cả lãi suất và giá trị chênh lệch khi quy đổi ngược trở lại USD.
Tuy nhiên VND lên giá đã làm cho thâm thụt thương mại bắt đầu tăng mạnh. Nhập siêu tăng tốc trong khi tốc độ nguồn vốn đổ vào đang giảm dần. Kết cục là đã dẫn tới một điểm gặp nhau mà tại đó nguồn vốn đổ vào không theo kịp thâm hụt thương mại và các nghĩa vụ trả nợ.
Các dòng vốn đổ vào không theo kịp với đà tăng của thâm hụt thương mại, cùng với hiện tượng đầu cơ là nguyên nhân giải thích cho sự đảo chiều của xu hướng tỷ giá vào cuối tháng 03/2008.
Khi xu hướng tỷ giá đảo ngược được hình thành thì giới đầu cơ ngay lập tức chuyển vốn sang hướng ngược lại và càng làm trầm trọng hóa vấn đề. NHNN buộc phải can thiệp và đã không ngừng bán USD ra để bình ổn thị trường. Tình hình tỷ giá được giữ ổn định trong vòng khoảng 1 tháng thì áp lực tăng tỷ giá lại tăng mạnh trở lại. Áp lực cầu USD và giá USD tăng từng ngày trên thị trường chợ đen đã dẫn tới những lo ngại thực sự về khả năng phá giá VND.
Sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ lên tới đỉnh điểm khi tỷ giá chợ đen bắt đầu bùng nổ vào những ngày đầu tháng 6/2008 khi giá trị giao dịch thực tế có lúc lên tới trên 19.000VND/USD.
Áp lực tăng tỷ giá một phần còn do những hợp đồng kỳ hạn không chuyển giao (NDF) giao dịch tại Singapore được lấy làm tham chiếu, có những lúc tỷ giá được ấn định lên tới trên 24.000 VND/USD cho một NDF 12 tháng. Trong lúc NHNN vẫn tiếp tục duy trì tỷ giá chính thức ở mức thấp khoảng 16.000 VND/USD nhưng hạn chế bán ngoại tệ ra thị trường, cơ chế 2 tỷ giá được hình thành: 1 tỷ giá niêm yết chính thức, 1 tỷ giá ngoài chợ đen. Điều đáng nói là các giao dịch thực tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được thực hiện chủ yếu với tỷ giá ngoài chợ đen, ngay cả việc mua ngoại tệ được thực hiện tại các ngân hàng thương mại (tính cả phụ phí sẽ tương đương với giá chợ đen).
Các lo ngại về sự mất giá của VND dẫn tới niềm tin của nhà đầu tư sụt giảm và có nhiều người cho rằng Việt Nam có thể dẫn tới khủng hoàng tiền tệ tương tự như Thái Lan 1997.
Ngoại hối theo quy định, đó là vàng và các loại ngoại tệ. Từ đầu năm 2008 đến nay, thị trường ngoại hối quốc tế có những biến động lớn. Giá vàng thường xuyên dao động với biên độ cao, tăng cao hay giảm mạnh đột ngột, trên các thị trường giao dịch chủ chốt. USD biến động bất thường so với một số loại ngoại tệ mạnh khác. Lãi suất USD, EURO, JPY,...ổn định ở mức thấp. Trong điều kiện thị trường ngoại hối nước ta đang hội nhập với thị trường quốc tế (từ giữa năm 2001 lãi suất USD đã được tự do hoá) Việt Nam phải nhập khẩu tới 95% nhu cầu vàng tiêu thụ trong nước,...Do đó mọi diễn biến về tỷ giá và giá vàng trên thị trường quốc tế lại có biến động đáng kể và nó tác động tức thời đến thị trường nước ta.
Ở thị trường trong nước, giá bán vàng trên thị trường tự do của các Công ty và cửa hàng kinh doanh vàng bạc tư nhân cũng liên tục được điều chỉnh tăng lên xuống theo sát diễn biến giá vàng thị trường quốc tế, tuy rằng tính đổi theo tỷ giá ra VND thì giá vàng trong nước có độ trễ nhất định và giá vàng trong nước vẫn có khuynh hướng khá cao so với giá vàng thế giới (có khi chênh lệch đến 170.000/chỉ vàng).
Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do giao dịch mua bán tại các cửa hàng vàng bạc tư nhân được cấp phép làm bàn đại lý thu đổi cho các ngân hàng thương mại, phản ánh một phần diễn biến của thị trường cũng được điều chỉnh linh hoạt hàng ngày. Còn tỷ giá mua bán của các ngân hàng thương mại với khách hàng cũng đã được điều chỉnh linh hoạt theo tỷ giá công bố của NHNN, theo cung cầu ngoại tệ và theo diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế.
Kèm theo đó mức độ mất giá khá lớn của USD so với EURO và GBP, một loạt ngoại tệ lại lên giá so với USD, đồng Việt Nam mất giá khá nhiều so với các loại ngoại tệ chủ chốt
Nguyên nhân trực tiếp là Mỹ và đồng minh liên tục tham chiến và châm mồi cho các cuộc chiến. Kèm theo đó là việc quân đội Mỹ lại sa lầy sau cuộc chiến (như tại Iraq). Những bất ổn tại các khu vực nóng trên thế giới, USD suy yếu, … làm cho nhu cầu vàng tăng lên.
Đồng USD mất giá nguyên nhân chủ yếu do chính sách duy trì đồng Dollar yếu của nước này. đồng thời do tình hình nền kinh tế Mỹ chưa mấy khả quan, tăng trưởng chưa như mong đợi, tỷ lệ thất nghiệp cao, sức mua chưa được cải thiện, số lính Mỹ bị thiệt mạng tại Iraq thường xuyên diễn ra, chi phí quân sự của Mỹ cho các khu vực nóng trên thế giới tiếp tục là gánh nặng cho thâm hụt ngân sách,...Thâm hụt thương mại giữa Mỹ và EC, Trung Quốc. Khủng bố diễn ra một số nơi trên thế giới đồng dollar yếu. Cùng với các diễn biến đó càng làm cho người ta đổ xô vào mua vàng nhiều hơn, làm cho giá vàng tăng lên.
* Trước những diễn biến đó, Việt Nam đã đưa ra một số biện pháp tiêu biểu là:
- Trong tháng 6/2008 NHNN đã có 2 bước đi quan trọng liên quan tới việc điều hành tỷ giá, đó là điều chỉnh tỷ giá tham chiếu và nâng biên độ tỷ giá cho phép từ +/-1% lên +/-2%. Cả 2 bước thay đổi này đều có mục đích là làm cho tỷ giá phản ánh sát với thị trường hơn. Chính sách về tỷ giá này được đưa ra cùng với chính sách nới lỏng trần lãi suất trong tháng 6 là dấu hiệu rất tích cực phần nào đã lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư.
Khi NHNN có thể bán USD cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với tỷ giá niêm yết, kênh chính thức được khai thông, và do vậy làm giảm cầu USD trên thị trường chợ đen, chênh lệch giá USD giữa thị trường chợ đen và giá chính thức do đó đã giảm xuống nhanh chóng; giúp tỷ giá đi dần vào quỹ đạo ổn định.
- Nới biên độ tỷ giá VND/USD lên +/-3% : Ngày 06/11/2008, Thống đốc NHNN quyết định cho phép các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ ±3%. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 07/11/2008.
Quyết định này của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện để tỷ giá điều chỉnh linh hoạt hơn, phản ánh sát tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, góp phần hạn chế nhập siêu và khuyến khích xuất khẩu, bảo đảm tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế.
Như vậy, trong vòng 8 tháng, NHNN đã điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá 2 lần. Lần đầu nới biên độ từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008. Lần thứ hai, NHNN ra quyết định tăng biên độ tỷ giá từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, ngay sau đợt sốt USD khi "đồng bạc xanh" này đã có lúc lên tới 19.200 đồng.
Tạm thời, tỷ giá ngoại tệ từ nay đến cuối năm 2008 sẽ được duy trì trong khoảng từ 17.000 - 17.200 VND, do thâm hụt thương mại của Việt Nam đang dần dần vào thế ổn định và mức thâm hụt thương mại từ giờ đến cuối năm sẽ cơ bản được thu hẹp lại. Ngoài ra, khi nền kinh tế khó khăn như hiện nay thì nhập khẩu cũng không hiệu quả và với việc giảm thâm hụt thương mại như hiện nay cầu ngoại tệ sẽ giảm đi, tỷ giá ngoại tệ sẽ không thể chạy nhanh được hơn thế”, đại diện BNP cho biết.
Nhìn rộng ra, như đã nói ở trên, diễn biến tỷ giá của các đồng tiền khác nhau còn phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. NHTW thực hiện chính sách thả nổi tỷ giá, hay cố định tỷ giá, hoặc kết hợp cả hai. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, như: các nước thuộc khối đồng tiền chung châu Âu, Anh, Nhật Bản,... NHTW thực hiện chính sách thả nổi tỷ giá. Tuy nhiên ngân hàng trung ương cũng sẵn sàng can thiệp khi cần thiết. Ví dụ: Khi đồng Yên lên giá quá cao so với USD, gây bất lợi cho xuất khẩu, Bank of Japan tung đồng Yên ra để mua USD vào. Ngược lại khi đồng Yên mất giá quá lớn so với USD, thì Bank of Japan lại tung USD ra để thu hút Yên về.
Việt Nam thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, cùng với một loạt các công cụ điều tiết khác: Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng bán can thiệp trên thị trường liên ngân hàng, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ, tự do hóa lãi suất của các tổ chức tín dụng với khách hàng nhưng điều chỉnh lãi suất tiền gửi ngoại tệ của tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà nước gửi tại Ngân hàng Nhà nước, linh hoạt lãi suất công cụ Swap hoán đổi ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng,...Song nhìn chung là tỷ giá cả trong các năm qua liên tục biến động một chiều. Tức là VND thường xuyên mất giá so với USD.
Tuy nhiên như đã nói ở trên, nhìn chung tỷ giá chỉ có biến động một chiều, có tác động nhất định đến xuất khẩu, có lợi cho lĩnh vực này, nhưng không có lợi cho nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Trong khi Việt Nam là quốc gia nhập siêu, Nợ nước ngoài của Việt Nam, bao gồm cả nợ của Chính phủ, nợ vốn ODA, nợ của các doanh nghiệp,... cũng ở con số lớn. Đồng Việt Nam liên tục mất giá, hay tỷ giá VND/USD thường xuyên tăng một chiều gây tăng mức nhập siêu, tăng giá hàng xuất khẩu, tăng số nợ nước ngoài và tác động đến tình trạng đầu cơ ngoại tệ của các đối tượng được phép kinh doanh ngoại tệ bởi vì họ luôn kỳ vọng vào việc tỷ giá tăng.
Đồng Việt Nam mất giá lớn so với EURO, JPY và GBP, đây cũng là thị trường xuất nhập khẩu lớn và nguồn ODA lớn của Việt Nam. Song các hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước sang các nước thuộc cộng đồng châu Âu, sang Nhật Bản,... phần lớn được ghi thanh toán bằng USD; trong khi hàng hoá nhập từ khu vực này hoặc là phải thanh toán bằng EURO, JPY, ...hoặc là được các nhà xuất khẩu tính toán theo giá trên cơ sở các đồng tiền đó. Bởi vậy là cho hàng nhập khẩu từ các khu vực đó cũng tăng giá lên.
Việc tăng giá nhập khẩu các mặt hàng vật tư, nhiên liệu, nguyên liệu quan trọng làm tăng giá bán lẻ cho người tiêu dùng, làm tăng chi phí đầu vào, tăng giá thành, trong điều kiện giá bán không tăng, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. đồng thời các khoản nợ vốn vay ODA của Việt Nam được ghi nợ bằng EURO, GBP, JPY cho thấy mức tăng khá khi tính đổi ra đồng Việt Nam.
Tình hình nói trên cho thấy, chính sách điều hành tỷ giá cần được tính toán khoa học và thực tiễn hơn, cân nhắc đầy đủ tới tác động hai chiều của việc VND thường xuyên mất giá với tất cả các loại ngoại tệ chủ chốt ở mức độ khác nhau.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1. Mục tiêu và định hướng của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới
1.1. mục tiêu của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới
- Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
- Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ.
- Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi.
- Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá.
Để đạt được mục tiêu trên cần đưa ra một số định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ
1.2. Định hướng hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau:
Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước.Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá.
Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.
2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tỷ gía hối đoái tại Việt Nam.
Trên cơ sở khoa học trên tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam.
Một là: Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn.
Hai là: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại …
Ba là: Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình.
Bốn là: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Năm là: Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam.
Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
Sáu là: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
Bảy là: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.
Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn.
Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện.
Tám là: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ.
Chín là: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao.
Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo.
Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài.
Mười là: Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại.
Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp.
Mười một: Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt.
Mười hai: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Tôi cho rằng chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới.
Kết luận: Với vai trò rất quan trọng của nó, tỷ giá luôn là vấn đề được đề cập nhiều trong thời buổi hiện nay trên đầy đủ các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các thông tin chúng ta có được chúng ta có thể khẳng định đất nước ta đã có nhiều thành công trong lĩnh vực tỷ giá, quản lý điều hành tỷ giá. Mặc dù đã đạt được nhiều thành công nhưng tình hình tỷ giá ở Việt Nam còn nhiều bất cập, khả năng quản lý điều hành tỷ giá của nhà nước còn nhiều hạn chế vì vậy chúng ta cần thiết phải học tập, nghiên cứu, tìm hiểu thêm để có thể đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ quản lý tỷ giá ở Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
¯
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22159.doc