Đề án Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam

Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vai trò của thị trường chứng khoán trong việc huy động vốn cho doanh nghiệp. Đề xuất những giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam trong đó trọng tâm là huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Những đề xuất giải pháp này đều xuất pháp từ thực trạng những tồn tại cũng như những ưu thế của thị trường chứng khoán nước ta hiện nay. Khi xác định nhu cầu vốn để đáp ứng cho các doanh nghiệp phải được tính toán trên cơ sở khoa học, một cách hợp lý và có tính khả thi để từ đó chính sách huy động vốn đề ra là thiết thực, hiệu quả. Những giải pháp huy động vốn đề ra được cân nhắc mối quan hệ giữa huy động các nguồn vốn trong nước và các nguồn vốn ngoài nước có chiến lược cho cả thời kỳ dài, nhưng từng giai đoạn cụ thể lại có những chiến thuật mềm dẻo để huy động tối đa các nguồn vốn đó phục vụ tối ưu nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hat trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp và cả đối vối toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của các khoản vay, đó là chi phí lãi vay. sẽ được tính tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm chi phí này có thể “ ẩn ” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. 3. Vốn các doanh nghiệp chiếm dụng lẫn nhau. Bên cạnh các nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay ngân hàng, các doanh nghiệp cũng thường xuyên tranh thủ vốn của nhau. Thông qua các hợp đồng kinh tế được kí kết giữa các doanh nghiệp vốn từ doanh nghiệp này được chuyển thành vốn của doanh nghiệp khác trong thời gian nhất định. Các doanh nghiệp kí kết hợp đồng mua bán nguyên vật liệu, sản phẩm … với nhau. Doanh nghiệp mua sẽ phải chuyển tiền cho doanh nghiệp bán. Cứ như vậy vốn được luân chuyển qua lại giữa các doanh nghiệp. Trên đây đã khái quát được cơ bản phần nào những lý luận và vai trò vốn với các doanh nghiệp. Như vậy vốn là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất trong xã hội. Đó là giá trị mà doanh nghiệp phải ứng ra cho hoạt động kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn. Tìm kiếm các nguồn vốn đểđáp ứng nhu cầu đó là một trong những mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp trong thời gian hiện nay. Phần II. GiảI pháp huy động vốn cho Doanh nghiệp việt nam I. Thực trạng chính sách huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam. 1. Chính sách huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn trước 1986: đây là thời kì bao cấp còn nặng nề. Nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước 100% cơ sở vật chât kỹ thuật. Vốn của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ này dựa vào hai nguồn chính: ngân sách nhà nước cấp phát và vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp. Đến giai đoạn 1986 – 1990: Giai đoạn này,nhà nước đã xoá dần bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, đối với các cở sở, ngành sản xuất có hiệu quả, thời gian thu hồi vốn nhanh thì chuyển dần sang cơ chế đầu tư qua tín dụng nhà nước. Giai đoạn từ 1991 đến nay: Nhà nước thực hiện không đầu tư cho các doanh nghiệp kể cả một số những doanh nghiệp trong ngành then chốt. Đối với những doanh nghiệp quan trọng được ưu đãi thì hằng năm được nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch vay vốn tín dụng đầu tư của nhà nước với lãi suất thấp. Bây giờ nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp đóng vai trò như một chủ đầu tư. Nhờ đổi mới chính sách, thời gian qua doanh nghiệp đạt được một số thành tựu,sản xuất gia tăng, cơ chế thông thoáng, quy mô ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên không phải là không có những tồn tại. Tình hình quản lý và sử dụng vốn cho khu vực kinh tế quốc doanh không khả quan do số vốn bình quân một doanh nghiệp là rất nhỏ. Số vốn của doanh nghiệp nhà nước lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đã ít, công nợ lại nhiều, số vốn phải trả của doanh nghiệp nhà nước thường cao hơn rất nhiều số vốn của doanh nghiệp. Vấn đề nan giải nhất với các doanh nghiệp vẫn là vấn đề thiếu vốn. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô vốn còn quá nhỏ nên muốn làm việc gì cũng khó khăn. Hầu hết các doanh nghiệp thiếu vốn trung và dài hạn nhưng tỉ lệ vốn vay trung và dài hạn thấp kể cả trong nước và ngoài nước. Hơn nữa vốn huy động nhiều khi không được sử dụng đúng mục đích, khi vay vốn còn chưa tính đến chi phí sử dụng vốn vay vì do nhà nước vẫn còn chính sách ưu đãi về lãi suất nên sử dụng vốn vay kém hiệu quả do các doanh nghiệp còn chưa cố gắng, nỗ lực hết mình, còn dựa dẫm vào nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong trạng thái thiếu vốn nghiêm trọng các doanh nghiệp nhà nước nhất là những doanh nghiệp nhà nướcđịa phương không có khả năng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng suất. Do vậy mà tình hình công nợ và khả năng thanh toán của khu vực doanh nghiệp này còn chưa được tốt. Các khoản nợ phải trả chiếm khoảng 70% - 80% vốn kinh doanh của doanh nghiệp và gần gấp hai lần số nợ phải thu. Vấn đề bảo toàn và phát triển vốn ít được nhà nước coi trọng và chưa thực sự được quan tâm nhiều nên hậu quả với doanh nghiệp là vốn mất dần, thất thoát tài sản và hiệu quả sử dụng thấp. 2. Thực trạng về huy động vốn của kinh tế tư nhân. Tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tăng lên nhanh chóng sau khi luật doanh nghiệp mới có hiệulực thi hành. Hàng loạt các doanh nghiệp mới được thành lập, tuy nhiên thành phần kinh tế này còn gặp nhiều khó khăn như vốn ít, máy móc thiết bị lạc hậu, cũng do vốn ít nên không có điều kiện nhiều để đầu tư hiện đại hoá, quy mô sản xuất nhỏ bé, thị trường tiêu thụ còn nhỏ hẹp. Chúng ta vẫn còn thiếu một khung pháp lý đồng bộ nhất quán phù hợp cho kinh doanh tư nhân phát triển. Nhu cầu về vốn của khu vực kinh tế này là khá lớn nhưng còn nhiều hạn chế: Từ vay tín dụng ngân hàng nhưng khó tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt với ngân hàng quốc doanh do các điều kiện tín dụng còn rất ngặt nghèo. Phát hành chứng khoán: phần lớn các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân chưa đủ điều kiện để phát hành chứng khoán. Các doanh nghiệp tư nhân còn phải đi vay nặng lãi, vấn đề vốn đặt ra với các doanh nghiệp tư nhân là rất khó khăn. 3. Đánh giá các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam 3.1. Vốn ngân sách nhà nước. Trước đây ngân sách nhà nước đã cấp vốn một cách tràn lan cho các ngành, khu vực kinh tế mà nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhà nước cung ứng vật tư, tiền vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, cơ chế phân phối vốn theo kiểu tập trung bao cấp. Mọi nhu cầu vốn đã được nhà nước đáp ứng nên các doanh nghiệp thường có tâm lý ỷ lại, không chịu cố gắng nâng cao năng suất, chất lượng mở rộng sản xuất nên đa số dẫn đến kết quả các doanh nghiệp sản xuất không có hiệu quả. Trong thực tế, nhiều khi nhà nước không đáp nhu cầu vốn cho doanh nghiệp làm cho ngân sách nhà nước luôn căng thẳng ở mức quá sức chịu đựng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường đã dần dần xoá bỏ chế độ bao cấp vốn cho các doanh nghiệp qua ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp phải độc lập, tự chủ, không còn dựa dẫm quá mức vào ngân sách nhà nước cấp nữa. Vốn đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những khâu xung yếu nhất nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, mở rộng các ngành, các vùng các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến cả quốc gia, dân tộc chủ yếu là đầu tư cho các công trình giao thông công cộng: xây dựng cầu,đường … trên cơ sở đó giải quyết các vấn đề xã hội và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, khắc phục nguy cơ bị quá tải khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Với mục đích đó vốn của nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho: Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: hệ thống điện, nước, giao thông, thuỷ lợi, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học …. Đầu tư vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, công nghệ mới đem lại lợi ích cho quốc gia Đầu tư khai thác các loại tài nguyên, nhiên vật liệu quan trọng: dầu khí, than, thép, xi măng, phân bón …. Đầu tư cho quốc phòng để sản xuất những sản phẩm thuộc lĩnh vực quốc gia Đầu tư cho các dự án giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống núi đồi trọc, đánh bắt hải sản, một số cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản và dịch vụ xuất khẩu …. Vốn đầu tư tập trung từ kênh ngân sách nhà nước bao gồm 2 phần: phần cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nướcvà phần tín dụng đầu tư ưu đãi. Ngân sách nhà nước chỉ cấp phát cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội không có hoặc khó có thể thu hồi vốn trực tiếp nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi. Một phần vốn được chuyển thông qua hình thức tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi: chính phủ cho vay với lãi suất thấp, ổn định với thời gian tương đối dài. Hiện nay nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước tỷ trọng đã giảm dần so với trước kia. Việc nhà nước đầu tư từ ngân sách chỉ nhằm vào những ngành mũi nhọn, các lĩnh vực mang tính chất định hướng cho chiến lược phát triển kinh tế chung tạo nền tảng cho tất cả các ngành, vùng ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa. Đó mới chỉ là những ngành, vùng kinh tế trọng điểm được ngân sách nhà nước đầu tư, vậy còn rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, ngoài quốc doanh rất khó huy động vốn từ ngân sách nhà nước. Với các doanh nghiệp này huy động vốn qua ngân sách nhà nước không phải là một nguồn chủ yếu mà thông qua các nguồn khác. 3.2. Vốn tự bổ sung tích luỹ của các doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một yếu tố không thể thiếu. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nỗ lực phấn đấu hơn để tạo cho mình một hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo ra được nhiều lợi nhuận thì mới có điều kiện tự bổ sung cho quỹ vốn của mình. Hiện nay các doanh nghiệp làm ăn đang trên đà hiệu quả, với nhiều doanh nghiệp đang thành công trên thương trường nên nguồn vốn có được từ lợi nhuận để lại giữ một vai trò đáng kể trong việc huy động thêm vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng còn không ít các doanh nghiệp gặp khó khăn, làm ăn chưa có hiệu quả nên vốn từ nguồn này không đáng kể, các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào nguồn đi vay. 3.3. Thực trạng huy động vốn tín dụng ngân hàng. Thông thường khi thiếu vốn hầu hết các doanh nghiệp đều nghĩ ngay đến việc đi vay. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng và vốn tín dụng thương mại là rất cần thiết, quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp: các ngân hàng đáp ứng được số lượng vốn lớn, thường xuyên cho doanh nghiệp. Với xu hướng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước giảm dần và cho vay các thành phần kinh tế khác đã tăng dần lên, thể hiện sự bình đẳng hơn về chính sách cho vay và sự quan tâm của nhà nước và phát hiện các thành phần kinh tế khác. Tuy vậy, nhiều quy định tín dụng ngân hàng đã hạn chế việc cho vay với các doanh nghiệp. Hầu như chỉ có các doanh nghiệp lớn, có uy tín mới đủ điều kiện và khả năng để vay ngân hàng một cách dễ dàng. Nhưng đa phần ở nước ta là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy định về hạn mức cho vay còn hạn chế, khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp tư nhân, các hộ nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Về điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế các rủi ro thông qua một hệ thống các biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp cung cấp những báo cáo tàichính và thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp khó vay vốn Ngân hàng hơn, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện tín dụng của Ngân hàng nên đã không vay được vốn kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất. Về các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu các doanh nghiệp đi vay phải có đảm bảo tín dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ …do đó các doanh nghiệp cần tính toán rất nhiều khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: khi một doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây ra những vấn đề khó khăn gì quá lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp, điều này cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “ kiểm soát ” Lãi suất vay vốn: khi vay vốn ngân hàng doanh nghiệp phải chịu một lãi suất nhất định. Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Mặt khác phần lớn các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ thấp nên hạn chế khả năng cho vay. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn còn rất thấp, thủ tục cho vay còn rườm rà. Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu cho vay ưu đãi các doanh nghiệp tư nhân ít khi được tiếp cận. Trong lúc vẫn còn thuộc tình trạng bao cấp đối với một số doanh nghiệp nhà nước như khoanh nợ, giãn nợ, chuyển vốn vay thành vốn ngân sách, gây mất bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân không có kiến thức quản lý, không có trình độ chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp không đủ khả năng xây dựng được dự án phát triển kinh doanh và xây dựng dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng theo quy định. Với những thủ tục và điều kiện tín dụng như trên còn gây cản trở khó khăn rất nhiều cho doanh nghiệp khi tiến hành vay vốn, nhiều khi không đáp ứng được kịp thời chu kì sản xuất kinh doanh, làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. 3.4. Nhận đầu tư liên doanh với nước ngoài, vay nước ngoài. Các nguồn vốn ngoài nước chúng ta huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua rất đa dạng và phong phú, đã từng qua các năm, điển hình là các nguồn vốn: - Vốn đầu tư bằng hình thức tự phát triển chính thức (ODA) tăng dần qua các năm gần đây và việc tập trung chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kĩ thuật, xã hội. Những năm qua ở Việt Nam đã nhận được cam kết ODA lên tới gần 10 tỷ USD trong đó Nhật Bản, ngân hàng thế giới và ngân hàng châu á là ba nhà tài trợ lớn nhất. Do khơi thông mối quan hệ với các tổ chức tài chính đặc biệt với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nước công nghiệp phát triển nên nguồn vốn tài trợ đã tăng nhanh chóng. Nhờ có nguồn vốn này đã góp phần bù đắp thiếu hụt ngân sách, mở rộng và tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật xã hội, đã và đang xây dựng một loạt công trình quan trọng phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng tăng lên nhanh. Tỷ trọng đầu tư vào các công trình công nghệ chiếm khoảng 40% tổng số vốn theo dự án trong đó 60% là đầu tư chiều sâu. Địa bàn đầu tư phân bổ rộng lớn hơn trên các vùng. Trong nguồn đầu tư từ nước ngoài được huy động từ các tổ chức khác nhau vào các nước trong đó có Việt Nam thì nguồn vốn trực tiếp của nước ngoài thường chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng … Mặc dù hình thức đầu tư trực tiếp vào Việt nam là hình thức đầu tư mới xuất hiện khi có luật đầu tư nước ngoài ra đời nhưng tốc độ vốn đầu tư tăng hàng năm bình quân trên 60% so với hình thức viện trợ phát triển chính thức ODA. Công cuộc hợp tác đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam mới thực hiện nhưng đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư tăng nhanh chóng do công cuộc mở cửa, hợp tác giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể song so với nhu cầu phát triển kinh tế vẫn còn chưa đáp ứng được. Nếu so với khu vực sẽ thấy nguồn vốn nước ngoài thu hút vào Việt Nam đã tăng nhưng còn rất thấp. Nước ta còn đang rất thiếu vốn mà khả năng thu hút vốn và quy mô nguồn vốn còn nhỏ bé so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. 3.5. Vốn huy động trong dân cư qua thị trường chứng khoán (TTCK). 3.5.1. Tìm hiểu chung về TTCK. TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,trao đổi các loại chứng khoán, Chứng khoán được hiểu là các loại giấy hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. TTCK không giống thị trường hàng hoá thông thường khác hàng hoá của TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói, bản chất của TTCK thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao nhất của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.Trên TTCK doanh nghiệp phải thu hút vốn đầu tư bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu bán cho công chúng. 3.5.2. Vai trò của TTCK đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. * Vai trò thứ nhất: TTCK với việc tạo ra công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế. Với vai trò này, TTCK sẽ giúp doanh nghiệp huy động tập trung mọi nguồn vốn trong xã hội thành nguồn vốn to lớn có khả năng tài trợ dài hạn cho các mục tiêu đầu tư phát triển theo chiều sâu cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh. - Nhìn ra thế giới, ở Hàn Quốc, TTCk đã đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế trong hơn 30 năm cho tới thập kỷ 90. TTCK Hàn Quốc lớn mạnh đứng hàng thứ 13 trên thế giới, với tổng giá trị huy động là 160 tỷ đô la Mỹ, đã góp phần tạo mức tăng trưởng kinh tế đạt mức bình quân 9%/năm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 là trên 10000 USD - ở nước ta, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá sản xuất, đòi hỏi một lượng vốn khổng lồ tài trợ cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Vấn đề là phải tăng nhanh mức huy động vốn thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và mở rộng thị trường vốn bằng những hình thức: tiền gửi tiết kiệm dài hạn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu kể cả phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế … để từng bước mở rộng TTCK. - Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng công nghệ mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi. Trên thực tế TTCK, tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải tới tất cả các nhà đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các loại chứng khoán.Chỉ những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhân được vốn với chi phí rẻ trên thị trường. * Vai trò thứ hai của TTCK đối với doanh nghiệp là tạo môi trường thuận tiện cho doanh nghiệp phát triển cũng như tạo điều kiện và động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả cao hơn. - TTCK tạo ra sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính. - Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của TTCK cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư vốn từ nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực trong trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. - Thật vậy, TTCK tạo ra một kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư phát triển. Mặt khác với nghĩa vụ phải công khai thông tin khi phát hành chứng khoán ra công chúng buộc doanh nghiệp phải làm ăn đàng hoàng hơn, có hiệu quả hơn để thu hút các nhà đầu tư. Hơn nữa qua thông tin của các công ty khác trên TTCK giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về đối thủ của mình để từ đó có chiến lược cạnh tranh thích hợp. * Vai trò thứ 3 của TTCK: TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai.Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh, cho phép các doanh nghiệp đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như phân bổ các nguồn lực của họ. * Vai trò thứ 4: TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở lên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng lên theo. TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. * Vai trò thứ 5: Giúp các doanh nghiệp phát hành các loại trái phiếu và cổ phiếu trên TTCK quốc tế, huy động được những khoản vốn đầu tư của nước ngoài mà không bị ràng buộc về mục đích sử dụng vốn. Việc mở cữa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn tăng cường nguồn vốn đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước. - Hàn Quốc, Singgapore, Thái Lan, Malayxia là những minh chứng điển hình về việc tận dụng các cơ hội do TTCK đem lại. Tuy nhiên chúng ta cũng phải xem xét các tác động tiêu cực có thể xảy ra như việc tăng cung tiền quá mức; áp lực của lạm phát, vấn đề chảy máu vốn, hoặc sự thâu tóm của người nước ngoài trên TTCK. * Vai trò thứ 6: Nếu không có TTCK thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả ở cách xa nhau chẳng hạn Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh không biết nhau. Sở dĩ các doanh nghiệp này biết được nhau và có quan hệ hợp đồng kinh tế với nhau bằng cách đưa chứng khoán của công ty mình lên sàn giao dịch. Như vậy vai trò của TTCK đối với doanh nghiệp thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau, vấn đề là làm thế nào để doanh nghiệp tận dụng tối ưu các vai trò đó. 3.5.3. Thực trạng huy động vốn trên TTCK. Nhìn chung do TTCK mới chỉ được hình thành và phát triển ở Việt Nam, còn đang trong giai đoạn hoàn thiện về tổ chức và hoạt động. Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh và mới đây là trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động đã tạo ra một kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sau 5 năm hoạt động TTCK Việt Nam mới đạt được những kết quả rất khiêm tốn. Với gần 30 công ty niêm yết(chiếm 0,6% GDP), thị trường chưa phát triển, chưa đáp ứng kịp thời với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Do phần lớn quy mô các doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ nên nhiều doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, không đủ điều kiện niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch vì muốn niêm yết chứng khoán doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về vốn điều lệ và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật quy định nên ở nước ta phải chú trọng phát triển thị trường phi chính phủ OTC. Thị trường OTC đóng vai trò của một thị trường thứ cấp, tức là thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn để đầu tư phát triển kinh tế. Chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC bao gồm 2 loại: thứ nhất chiếm phần lớn các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết trên sở giao dịch sang đáp ứng các điều kiện về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC trong đó chủ yếu chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao và có tiềm năng phát triển. Thứ hai là các loại chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC rất đa dạng và có độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam là phải làm thế nào để huy động vốn tốt hơn qua TTCK. Xét tổng thể mọi mặt, thì nguồn vốn tối ưu vẫn là huy động qua TTCK là bởi vì: Như chúng ta đã biết để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế vấn đề vốn luôn được đặt lên hàng đầu. Giải pháp về vốn được xem xét từ nhiều nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, một quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ của nước ngoài dễ đưa đến những tác động tiêu cực về kinh tế, xã hội như: Dễ gây áp lực lạm phát ban đầu khi lượng vốn đầu tư đưa vào doanh nghiệp quá nhiều mà khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng kịp, lượng tiền thừa trong lưu thông sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Sau khi vốn nước ngoài đầu tư, nền kinh tế chưa hoặc vừa mới ổn định lại phải tính đến việc trả nợ do tiền lời phát sinh trên số vốn bằng ngoại tệ cộng với sự chuyển dần lợi nhuận bằng ngoại tệ của họ về nước. Ngoài ra, còn ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền về kinh tế xã hội, các khoản tiền cho vay hay viện trợ đều đi kèm theo những điều kiện ràng buộc về mục đích sử dụng vốn. Do đó một phương thức huy động vốn khác có khả năng khai thác mọi tiềm năng nội lực về vốn cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà không chịu tác động tiêu cực như trên chính là phát triển kênh huy động vốn bằng chứng khoán qua TTCK. TTCK cung cấp các nguồn vốn dài hạn và quan trọng cho chính phủ và doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh Ngày nay ở hầu hết các nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường đều có một thị trường chứng khoán hoạt động hữu hiệu. Lịch sử đã chứng minh sự phát triển chứng khoán gắn bó rất chặt chẽ với sự phát triển của nền kinh tế các nước như TTCK Anh quốc (1773), TTCK Đức (1778), TTCK Mĩ (1792), TTCK Thuỵ Sĩ (1876), TTCK Nhật (1878), TTCK Pháp (1801). Các TTCK các quốc gia mới nổi trong khu vực cũng đóng góp tích cực và sự phồn vinh của nền kinh tế đang phát triển như: TTCK Hồng Kông (1946), TTCK Inđônêxia (1952), TTCK Nam Triều Tiên (1956), TTCK Đài Loan, Thái Lan (1962), TTCK Malaixia, Singapore (1963) TTCK có ý nghĩa quan trọng như một van điều tiết hữu hiệu trong các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn là nơi diễn ra quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu về vốn và tài sản vô cùng thuận lợi, là môi trường cho việc đa dạng hoá các chủ thể sở hữu về vốn tại các doanh nghiệp. Mặt khác, TTCK giúp Chính phủ thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ, khuyến khính công chúng tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách tích cực qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Qua bức tranh tài chính của doanh nghiệp trong thời gian qua đã nói lên thực trạng thiếu vốn gay gắt của các doanh nghiệp. Việc phát hiện và phân tích những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân trong chính sách huy động vốn của doanh nghiệp chính là cơ sở khoa học cho những giải pháp về vốn cho doanh nghiệp trong thời gian tới. Vấn đề vốn cấp thiết vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp để khơi tăng nguồn vốn cho mình. II. Các giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam 1. Một số quan điểm có tính định hướngcho các giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Để nâng cao hiệu quả huy động vốn,góp phần tích cực hơn vào quá trìnhđẩy mạnh đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong thời gian tới, cần quán triệt các quan điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, khai thác mọi nguồn lực về vốn qua nhiều kênh. Kết hợp chặt chẽ giữa việc mở rộng và tăng nhanh tốc độ huy động các nguồn vốn trong nước với việc tăng cường huy động vốn nước ngoài, trong đó vốn trong nước đóng vai trò quyết định. Sự kết hợp huy động vốn trong nước và vốn nước ngoài, trong đó vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn nước ngoài có vai trò quan trọng, đã được thừa nhận là giải pháp tối ưu trong chiến lựoc tạo vốn không chỉ đối với nước ta, mà còn là kinh nghiệm về sự thành công của nhiều nước trong khu vực Đông Nam á. ở nước ta việc huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển sẽ tận dụng và phát huy tiềm năng vềvốn, lao động, đất đai, tài nguyên…của đất nước,của các doanh nghiệp và của dân cư,giảm bớt sự lệ thuộc vào các điều kiện của người cho vay.Chính việc huy động vốn này sẽ tạo ra nguồn lực nội sinh phù hợp với qui luật vận động và xu hướng phát triển của sự vật, tạo điều kiện tốt hơn để đón nhận cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài. Tuy nhiên đứng trước thực trạng thu nhập còn thấp,khả năng tích luỹ còn hạn chế của nền kinh tế nước ta,việc thừa nhận vốn nước ngoài đặc biệt là với đầu tư trực tiếp nước ngoài, có vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm,tiếp thu công nghệ và trình độ quản lí hiện đại, đạt được lợi ích cao về nguồn vốn ngoại tệ, có điều kịên khai thác các nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao nhưng đòi hỏi vốn lớn,ví dụ như:công nghiệp dầu khí. Thứ hai, thực hiện triệt để chính sách tiết kiệm,nâng cao khả năng tích luỹ cho đầu tư phát triển, khuyến khích đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn đầu tư huy động từ tiết kiệm của nước tacòn rất hạn chế.Vấn đề quan trọng nổi bật trông việc huy động vốn ở nước ta hiện nay là phải quán triệt và áp dụng chính sách tiết kiệm triệt để dể nâng cao khả năng tự tích luỹ vốn cho các doanh nghiệp. Đối với nước ta hướng tiết kiệm tập trung chủ yếu vào tiết kiệm chi tiêu của chính phủ và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Việc lãng phí và thất thoát đáng kể của khu vực này đã làm hạn chế rất nhiều cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước.Bên cạnh việc mở rộng đầu tư bằng việc tăng cừơng huy động các nguồn tiết kiệm, để đảm bảo vốn cho đầu tư, việc khuyến khích tự đầu tư của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, không kể hình thức sở hữu của nó, kể cả các xí nghiệp có quy mô vừa và nhỏ và kinh tế hộ gia đình sẽ góp phần quan trọng vào việc mở rộng đầu tư nâng cao tổng sản phẩm đầu ravà sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho huy động các nguồn tiết kiệm. Thứ ba, huy động vốn phải gắn với việc tổ chức và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện thị trường chứng khoán. Thứ tư, huy động vốn phải gắn chặt với yêu cầu sử dụng có hiệu quả các loại vốn. Huy động vốn chính là việc tạo ra tiền đề cần thiết cho quá trình phát triển mặc dù đó là một thách thức lớn lao, buộc các nước đang phát triển trong đó có nước ta phải vượt qua,nhưng chưa phải là điều kiện đủ cho sự phát triển bền vững.Nói cách khác là tích luỹ vốn trong mọi trường hợp đều không được coi là loại thuốc thần kì để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp mà việc sử dụng nguồn vốn đó như thế nào cho hiệu quả còn quan trọng hơn nhiều.Đó cũng chính là lí do giải thích vì sao nhà doanh nghiệp với lượng vốn đầu tư như nhau có doanh nghiệp tồn tại đứng vững trên thị trường , lại có những doanh nghiệp phải đi vào con đường phá sản - Đó là về vấn đề về hiệu quả sử dụng. Thứ năm,tạo môi trường thông thoáng, đảm bảo tính chủ động của doanh nghiệp trong tiến hành huy động vốn theo nhu cầu. Thứ sáu,hệ thống các giaỉ pháp phải thống nhất, ổn định minh bạch, rõ ràng đảm bảo cho doanh nghiệp huy động và sử dung vốn có hiệu quả. 2. Giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam Làm thế nào để huy động được một cách tối ưu các nguồn vốn là bài toán đặt ra không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn cả với cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy cần có sự nỗ lực, kết hợp của cả doanh nghiệp và Nhà nước thì việc huy động vốn cho doanh nghiệp mới đạt hiệu quả cao. 2.1. Phát triển kênh huy động vốn cho doanh nghiệp trên TTCK. Một trong những tồn tại nổi cộm góp phần kìm hãm sự phát triển của TTCK Việt Nam trong 5 năm qua là việc thiếu hàng hoá. Sau nửa thập kỷ hoạt động, thị trường chỉ thu hút được 30 doanh nghiệp niêm yết, với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết chỉ đạt trên 1700 tỷ đồng, một con số quá nhỏ so với số lượng vài nghìn doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Kết quả điều tra mới đây của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước(UBCKNN) về mức độ quan tâm của doanh nghiệp đến TTCK cho thấy việc thu hút doanh nghiệp tham gia TTCK là không đơn giản. Trong số 248 doanh nghiệp được hỏi ý kiến, chỉ hơn 50% (139 doanh nghiệp) có ý định niêm yết trong đó chỉ có 30 doanh nghiệp dự kiến niêm yết sớm. Còn theo phản ánh của các công ty chứng khoán, số doanh nghiệp đã được họ tư vấn đều tỏ ra chưa chắc chắn về khả năng niêm yết của mình. Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do nhận thức của các doanh nghiệp về TTCK còn rất mơ hồ. Việc coi TTCK là một kênh huy động vốn vẫn còn là khái niệm mới mẻ khi phần lớn doanh nghiệp vẫn nhờ cậy được hệ thống ngân hàng và hình thức ưu đãi vốn khác. Một nguyên nhân nữa làm không ít doanh nghiệp “ngán” sàn là tâm lý sợ phải công bố thông tin. Việc kiểm toán và công bố thông tin định kỳ về tình hình kinh doanh là “nỗi niềm” của không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn chưa quen với cách làm ăn chuẩn hoá. Do vậy muốn thuyết phục các doanh nghiệp lên sàn thì phải cho họ thấy được lên sàn được lợi gì, được ưu đãi ra sao, có hứa hẹn tương lai gì và nếu không lên thì thua thiệt ra sao. Vì thế cần phải có chính sách để doanh nghiệp niêm yết khỏi bị thiệt thòi trong việc công bố thông tin. Bộ tài chính cần cải tiến lại công tác công bố thông tin vì thông tin từ doanh nghiệp là căn cứ quan trọng nhất trong quyết định mua, bán của nhà đầu tư. UBCKNN nên khuyến khích các doanh nghiệp công bố báo cáo kết quả kinh doanh hàng tháng thay vì hàng quý như hiện nay, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.Bộ tài chính,UBCKNN cần yêu cầu minh bạch ngay cả trong các công ty chưa niêm yết. Có như vậy doanh nghiệp niêm yết đỡ bị thua thiệt và điều đó sẽ thu hút các doanh nghiệp khác tham gia TTCK. Bộ tài chính cần có quy định cưỡng chế các doanh nghiệp cổ phần phải thực hiện kiểm toán và công bố thông tin. Thực hiện được điều này sẽ tạo ra sự bình đẳng, minh bạch hơn trong hoạt động của các doanh nghiệp. Yêu cầu kiểm toán bắt buộc giúp doanh nghiệp quen dần với môi trường công khai hoá, minh bạch từ đó doanh nghiệp không còn lý do để né tránh hay chậm trễ tham gia TTCK. Một giải pháp nữa để huy động vốn cho doanh nghiệp là phát triển thị trường OTC. Thị trường này rất thuận lợi và đa dạng trong việc mua bán chứng khoán. Cơ chế xác lâp giá trên thị trường này bằng hình thức thương lượng và thoả thuận song phương giữa người mua và người bán là chủ yếu. Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC là linh hoạt và đa dạng. Do phần lớn các giao dịch mua bán trên thị trường OTC được thực hiện trên cơ sở thương lượng và thoả thuận nên phương thức thanh toán trên thị trường OTC linh hoạt giữa người mua và người bán tạo thuận lợi cho việc huy động vốn dễ dàng và nhanh chóng. Để khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn qua kênh phát hành chứng khoán nhiều hơn nữa, chúng ta cần có những chính sách ưu đãi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp như: giảm chi phí niêm yết, phí kiểm toán, giảm chi phí phát hành, giảm thuế thu nhập của doanh nghiệp sử dụng vốn tài trợ bằng chứng khoán. Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp niêm yết bằng việc ưu đãi về thuế theo hướng mức độ ưu đãi phụ thuộc vào khung thời gian doanh nghiệp tham gia niêm yết. Khuyến khích các doanh nghiệp là các công ty cổ phần hoá đã được niêm yết tới phát hành trái phiếu và cổ phiếu để thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua các loại chứng khoán được thanh toán bằng ngoại tệ. 2.2. Các giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghịêp nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo kênh huy động vốn mới có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhà nước. Từ năm 1992 chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được cụ thể hoá cả về mục tiêu và giải pháp thực hiện. Mục tiêu nhất quán của cổ phần hoá là tiến hành chuyển các doanh nghiệp thuôc sở hữu nhà nước sang hình thức hoạt động của công ty cổ phần để huy động thêm vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển, mở rộng nâng cao hiêu quả sản xuất kinh doanh Sau hơn 10 năm thực hiện tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp đã có rất nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chuyển thành công ty cổ phần. Khảo sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có thể khẳng định đa phần làm ăn có hiệu quả: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước tích luỹ vốn…. đều tăng. Nhìn lại tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều thuận lợi và hạn chế. Thuận lợi: Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất nhiều, trong khi người dân ngày tin tưởng vào các chính sách phát triển kinh tế của đất nước nên đưa tiền ra đầu tư ngày càng nhiều. Do vậy mà nguồn vốn huy động trong dân cư có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Mặt khác cổ phần hoá là phù hợp với chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước ta. Trong lúc lãi suất gửi tại các ngân hàng thương mại hiện nay đang có chiều hướng đi xuống nên mất đi tính hấp dẫn của tiền gửi tiết kiệm. Người dân bắt đầu chú ý nhiều tới việc đầu tư vào các hình thức sinh lợi khác trong đó nhất là đầu tư vào cổ phiếu. Vấn đề tư tưởng của cán bộ lãnh đạo hay của người lao động trong doanh nghiệp lo sợ mất quyền lợi hay trông chờ vào một chính sách ưu đãi hơn là hạn chế, đầu tiên đáng ngại nhất làm cản trở việc cổ phần hoá doanh nghiệp. Công nợ tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước cũng là một khó khăn với tiến trình cổ phần hoá. Vấn đề định giá doanh nghiệp cũng còn nhiều vướng mắc do chưa tính đúng, tính đủ, thiếu chính xác khoa học ….. Ngoài những hạn chế trên cũng còn một số những vướng mắc khác như vấn đề thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp, việc các cơ quan quản lý nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá, việc thiếu thông tin khi phát hành cổ phiếu cũng làm cản trở tiến trình cổ phần hoá. Đứng trước những thuận lợi và những hạn chế đó, để việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành nhanh chóng trong thời gian tới cần có biện pháp: Hoàn chỉnh cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề và văn bản pháp lý bao giờ cũng là vấn đề thiếu sót mỗi khi một hình thức mới xuất hiện. Hiện nay, cơ chế chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp của nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá so với dự kiến còn rất ít. Trong 6 tháng đầu năm 2005, số lượng doanh nghiệp Nhà nước hoàn thành sắp xếp, chuyển đổi sở hữu mới chiếm khoảng 20%. Tiến độ cổ phần hoá đang diễn ra rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do sự lúng túng trong việc thực hiện các quy định mới về cổ phần hoá. Không ít địa phương tổ chức xuống tận doanh nghiệp xem xét lại giá trị tài sản, trong khi đối với các doanh nghiệp tự xác định giá trị tài sản, địa phương chỉ cần tổ chức hội đồng để thẩm định, phê duyệt. Vấn đề định giá doanh nghiệp rất khó khăn, nhất là với các tổng công ty vì muốn xác định được giá trị doanh nghiệp thì phải xác định được tất cả các doanh nghiệp thành viên, các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Định giá doanh nghiệp thông qua các tổ chức tư vấn định giá độc lập là một trong những phương pháp chuyên nghiệp để đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy, các tổ chức có chức năng định giá trong danh sách do Bộ tài chính công bố có vẻ như chưa lấy được lòng tin từ người sử dụng dịch vụ, tính thiếu chuyên nghiệp của một số tổ chức tư vấn này đã bị coi là một trong những nguyên nhân quan trọng làm chậm tiến độ cổ phần hoá. Vì vậy, Bộ tài chính cần đánh giá lại năng lực của các tổ chức tư vấn định giá. Bộ tài chính cần công bố danh sách các công ty chứng khoán, công ty kiểm toán, tổ chức có chức năng định giá tốt để các doanh nghiệp lựa chọn, không cần đấu thầu như trước sẽ được coi như một bước rút ngắn thủ tục. Nhiều địa phương, doanh nghiệp phải tự mình làm “thuốc thử” chất lượng của các tổ chức tư vấn. Tổ chức nào cũng tự quảng cáo rất nhiều về kinh nghiệm, bộ máy làm việc, giá cả đưa ra hấp dẫn nhưng nhiều khi không nắm chính xác các quy định nên gây nhiều phiền phức. Bộ tài chính cần có sự xem xét lại nghiêm túc chất lượng các danh sách đã công bố Cần có sự đồng bộ nhất quán giữa các văn bản pháp lý, cũng như việc thực hiện các văn bản pháp lý này phải công bằng với các doanh nghiệp đã cở phần hoá hay đang trong quá trình cổ phần hoá để làm động lực thúc đẩy nhanh cổ phần hoá. Bên cạnh đó việc xử lý công nợ cho các doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hoá tình hình hoá tài chính khi cổ phần hoá là vấn đề bức thiết hiện nay. Trong vấn đề định giá doanh nghiệp đề nghị bổ xung thêm phần gía trị tương lai của doanh nghiệp, bổ sung giá trị quyền sử dụng đất. Chúng ta cũng cần xem xét cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sữa đổi, bổ sung và hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, cần phải cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện có được chuyển thành công ty cổ phần và cho phép thành lập mới các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hình thức công ty cổ phần.Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng khả năng huy động vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với Việt Nam, do đặc trưng của nền kinh tế, do chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cổ phần hoá được coi là giải pháp cơ bản của sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Điều này được lý giải bởi sự hoá thân đầy đủ của cổ phần hoá vào trong những yêu cầu, những đặc trưng của sự phát triển đất nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. 2.3. Tăng cường sử dụng vốn sẵn có. Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tốt vì công ty phát huy được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì vịêc để lại lợi nhuận có liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần. Các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Việc huy động vốn của doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa khi đồng vốn được sử dụng một cách có hiệu quả. Vì vậy cần phải nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn sẵn có, tranh thủ tối ưu nguồn vốn tự có trong các doanh nghiệp để giảm thiểu chi phí đi vay. Để vốn sắn có hoạt động thực sự có hiệu quả doanh nghiệp cần: Đẩy nhanh hệ số quay vòng vốn. Một đồng vốn cho một thời gian luân chuyển được nhiều lần thì đồng vốn đó sử dụng sẽ có hiệu quả. Để đạt được điều này doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lý bằng cách lựa chọn mặt hàng phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình, thường xuyên hạch toán sao cho đồng vốn bỏ ra sẽ đem lại lợi nhuận tối ưu nhất. 2.4. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút mạnh mẽ vốn ngoài nước cho đầu tư phát triển. Muốn cạnh tranh thắng lợi trong việc gọi vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải tạo ra môi trường thuận lợi cho nguồn vốn đã thu hút, huy động có hiệu quả. a. Đối với doanh nghiệp. Trong quá trình thu hút vốn thì vấn đề trở ngại nhất ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp là sức cạnh tranh vì sức cạnh tranh của doanh nghiệp của chúng ta còn rất yếu.Vì thế việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá của chúng ta là một vấn đề hết sức cấp thiết và phải được coi là một trong những giải pháp cơ bản có ý nghĩa quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt Nam. Để làm được điều này chúng ta cần thực hiện một số vấn đề sau: Một là: Cần đổi mới và hiện đại hoá công nghệ bởi đây là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu quyết định đến khả năng cạnh tranh. Hiện nay, công nghệ của chúng ta vẫn còn lạc hậu 30- 50 năm so với công nghệ của các nước ASEAN. Vì thế chúng ta phải đổi mới, phải hiện đại hoá công nghệ và cần lựa chọn công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất trình độ tay nghề người lao động. Chúng ta có thể thực hiện việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ bằng cách nhập khẩu các máy móc thiết bị từ bên ngoài đồng thời phải nghiên cứu để tự thiết kế và cải tiến cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, khuyến khích và tận dụng hết khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật công nghệ trong và ngoài nước. Chúng ta cần hợp tác và cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo ra các máy móc thiết bị rẻ và có hiệu quả. Có như thế các nhà đầu tư nước ngoài mới có cớ sở để đầu tư nhiều vào doanh nghiệp Việt Nam, mới ký kết nhiều hợp đồng liên doanh liên kết. Hai là: Chúng ta cần phải nâng cao chất lượng và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Lao động của nước ta có trình độ tay nghề còn thấp, tác phong làm việc chưa nghiêm túc làm cho các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa hoàn toàn yên tâm khi rót vốn vào cho doanh nghiệp ở ta. Vì thế, vấn đề sống còn buộc chúng ta phải nâng cao chất lượng và quản lý nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp thông qua việc tạo ra sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp. Muốn làm được như vậy chúng ta phải có chiến lược đào tạo hợp lý, đưa ra được chế độ lương, thưởng khoa học nhằm khuyến khích người lao động hăng say làm việc và sáng tạo. Ba là: Các doanh nghiệp cần phải chủ động và nhạy bén trong việc tìm kiếm thông tin về môi trường kinh doanh trong và ngoài nước thông qua các hiệp hội cũng như các tổ chức xúc tiến. b. Đối với Nhà nước. Nhà nước cần phải tiếp tục cải tiến các loại thủ tục, cải tiến hệ thống pháp lý cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì tuy đã ban hành nhiều văn bản pháp lý cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài nhưng pháp luật của chúng ta chưa đồng bộ, vẫn còn thiếu và chồng chéo. Việc vận động xúc tiến còn tản mạn, mạnh ai nấy chạy nên các nhà đầu tư tốn thời gian tìm tòi, thương lượng, cơ quan thẩm định cũng khó xử lý. Nhiều dự án chậm được cấp giấy phép do có những ý kiến khác nhau của các cơ quan hữu quan về tài chính, mục tiêu và địa điểm của dự án. Nhiều tổ chức tự đặt ra những thủ tục phiền hà để thu hút lệ phí gây khó khăn cho các nhà đầu tư làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Vì vậy, bộ kế hoạch và đầu tư cần có sự kết hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng trong việc quản lý, điều hành, giám sát, để thực sự tạo môi trường thông thoáng, công bằng để hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Trên đây là một số những giải pháp cơ bản nhất do chiến lược huy động với các doanh nghiệp Việt Nam. Hy vọng đó sẽ là những giải pháp hữu hiệu mà các doanh nghiệp có thể áp dụng trong thời gian tới đối với từng doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh doanh riêng của mỗi doanh nghiệp. Kết luận Những nội dung đã đề cập trong đề án, từ các vấn đề lý luận cơ bản về vốn, nguồn tạo vốn của doanh nghiệp tới thực trạng chính sách huy động vốn của doanh nghiệp hiện nay. Tất cả đều với mục đích cuối cùng là tìm ra những giải pháp huy động vốn tốt nhất cho doanh nghiệp Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những nội dung đã nghiên cứu ở trên, đề án đã nêu bật được một số khía cạnh: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về vốn nguồn vốn nói chung với mọi loại hình doanh nghiệp. Đánh giá thực trạnh tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp trong thời gian qua. Qua đánh giá này rút ra được những thành tựu, những bài học và những khiếm khuyết của chính sách huy động vốn đối với doanh nghiệp để nhằm đưa ra những giải pháp cho phù hợp tập trung vào: Đánh giá thực trạng về hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, phân tích được các diễn biến tình hình cho vay tới các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh để thấy được xu hướng tích cực và bình đẳng hơn trong việc cho vay hỗ trợ vốn đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn nhiều hạn chế gây cản trở trong hoạt động tín dụng ngân hàng đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tìm hiểu nguyên nhân của nó chính là cơ sở cho những kiến nghị để hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vai trò của thị trường chứng khoán trong việc huy động vốn cho doanh nghiệp. Đề xuất những giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam trong đó trọng tâm là huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Những đề xuất giải pháp này đều xuất pháp từ thực trạng những tồn tại cũng như những ưu thế của thị trường chứng khoán nước ta hiện nay. Khi xác định nhu cầu vốn để đáp ứng cho các doanh nghiệp phải được tính toán trên cơ sở khoa học, một cách hợp lý và có tính khả thi để từ đó chính sách huy động vốn đề ra là thiết thực, hiệu quả. Những giải pháp huy động vốn đề ra được cân nhắc mối quan hệ giữa huy động các nguồn vốn trong nước và các nguồn vốn ngoài nước có chiến lược cho cả thời kỳ dài, nhưng từng giai đoạn cụ thể lại có những chiến thuật mềm dẻo để huy động tối đa các nguồn vốn đó phục vụ tối ưu nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai. Danh mục tàI liệu tham khảo 1. Frederic S.Min-Shkin, tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, nhà xuất bản khoa học kĩ thuật 2001. Lê Hoàng Hải, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2001, thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản tài chính năm 2001. TS. Lưu Thị Hương. Giáo trình tài chính doanh nghiệp. Nhà xuất bản Giáo dục năm 1998. PGS. TS.(Nguyễn Văn Nam – Vương Trọng Nghĩa) Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Tài chính 2002. Từ điển thuật ngữ kinh tế học NXB từ điển Bách Khoa 2001. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính 2001. TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình ngân hàng thương mại. Báo đầu tư chứng khoán số 293,294. MụC LụC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35727.doc
Tài liệu liên quan