Quá trình phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Trong điều kiện hoàn cảnh nước ta hiện nay KCN, KCX đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế; KCN, KCX thật sự đã trở thành nam châm thu hút vốn đầu tư của cả nước. Các KCN, KCX đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hoá công nghệ, tăng cường khả năng tổ chức quản lý sản xuất và quản lý nhà nước.Việc ra đời các KCN, KCX đã thự sự thổi một luồng sinh khí mới vào bức tranh phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong giai đoạn mới.
Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo thì sự đóng góp này có vai trò rất to lớn tạo vào quá trình phát triển kinh tế, thực hiện hiệu quả mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc dân.
Để các Khu Công nghiệp tập trung thực sự là một bộ phận không thể thiếu được trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư, tiến hành cải cách luật, chính sách; cải thiện cơ sở hạ tầng và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư. Với lòng nhiệt huyết, tinh thần sáng tạo và ham học hỏi, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, yếu kém chúng ta có thể hy vọng được rằng những khó khǎn, vướng mắc sẽ được giải quyết kịp thời để các Khu Công nghiệp của chúng ta tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa xứng đáng với những ưu ái mà nhà nước đã dành cho nó và xứng đáng là đầu tàu cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN – KCX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uối tháng 6 năm 2007, cả nước đã có 148 KCN - KCX với tổng diện tích trên 32.000ha, trong đó 90 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động và 58 khu công nghiệp đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Không chỉ tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, các KCN - KCX đã chuyển dần sang nhiều vùng địa bàn như Long An , Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương nhằm tận dụng lợi thế và tiềm năng của các địa phương
2.Thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN, KCX
KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước.
Việc áp dụng các chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, các KCN ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Số dự án ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5 năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005 là 1.377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 - 2001.
Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16.843 triệu USD.
Thực tế đã chứng tỏ, nguồn vốn nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển KCN 16 năm qua là hết sức quan trọng. Cùng với nguồn lực từ bên ngoài, chúng ta còn đặc biệt coi trọng phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Nếu như trong 5 năm 1991 - 1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các KCN, thì đến 5 năm 2001 - 2005 thu hút được 1870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng.
Tính đến 7/2007, các KCN cả nước đã thu hút được gần 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 24,2 tỷ USD và trên 2.700 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 136 nghìn tỷ đồng (chưa kể các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 976 triệu USD và trên 41 nghìn tỷ đồng).
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt 53,5%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 70%.
Chỉ tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2007, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KCX đạt 2.891 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước, tăng hơn 2 lần so với 7 tháng đầu năm ngoái
Quy mô vốn trung bình của dự án đầu tư trong nước là 1,709 triệu USD/dự án, chiếm tỉ trọng vốn 28,3% tổng vốn đầu tư vào KCN, KCX còn dự án đầu tư nước ngoài là 4.67triệu USD/dự án, chiếm 71,7%
Con số cuối cùng về thu hút FDI trong năm 2006, theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vào khoảng 10 tỷ USD, trong đó vốn cấp mới là 7,5 tỷ USD, còn lại là vốn đăng ký bổ sung. Và trong tổng vốn đăng ký cấp mới cho 797 dự án, riêng các khu công nghiệp và khu chế xuất trong cả nước đã chiếm tới 48,6% tổng vốn đăng ký.
Trong 10 dự án có quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006 phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD.
Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này.
Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD
3.Hạn chế và nguyên nhân tồn tại
a. Hạn chế của các KCN, KCX
Những thành tựu phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Trong thời gian qua KCN, KCX đã thể hiện vai trò không thể thay thế của mình trng quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước. Tuy nhiên do mới thành lập và phát triển trong 1 thời gian chưa được lâu chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm và thiếu cơ sở vật chất nên các KCN, KCX của chúng ta còn bộc lộ một số khuyết điểm, cản trở sự phát triển bền vững của nước ta. Cụ thể ở một số mặt như sau:
Về phân bố
Thời gian qua chúng ta đã thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật cho các KCN. Điều này vô hình chung đã hình thành nên các KCN, KCX có chức năng tương tự nhau ở các địa phương dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo “phong trào”, làm cho hiệu quả sự dụng vốn đầu tư thấp, không khai thác được lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các KCN, KCX. Không chỉ những thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, mà nhiều tỉnh, thành đang rơi vào “một cuộc đua” thành lập, thu hút đầu tư vào KCN, KCX. Nhiều tỉnh khá “hào phóng” trong việc cắt đất nông nghiệp để thành lập KCN, KCX, đồng thời đưa ra những chính sách ưu đãi riêng, chấp nhận dùng ngân sách địa phương bù lỗ. Hậu quả là, ưu đãi lớn, nhưng các KCN, KCX của cả nước mới chỉ lấp đầy khoảng trên 60%. Có những KCN, KCX đã được rào lại nhưng chưa sử dụng, đất bỏ hoang, trong khi nông dân thiếu đất trồng trọt vì đất đó đã được quy hoạch thành đất công nghiệp.
Ngay tại Hà Nội, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho tới thời điểm này đã thành lập 6 KCN tập trung với mô hình chủ đầu tư rất đa dạng, gồm các hình thức liên doanh (KCN Thăng Long, Nội Bài, Sài Đồng A), doanh nghiệp nhà nước (KCN Sài Đồng B), công ty 100% vốn nước ngoài (KCN Hà Nội- Đài Tư). Thế nhưng, thực tế chỉ có 3 KCN đi vào hoạt động, đón các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh (KCN Thăng Long, Sài Đồng B, Nội Bài). Các KCN còn lại chưa triển khai được hoặc chậm triển khai do một số nguyên nhân như chủ đầu tư không có năng lực tài chính, thiếu kinh nghiệm xây dựng hạ tầng kỹ thuật nội bộ. Hay để thu hút các dự án đầu tư vào các KCN, Thái Nguyên thực hiện ưu đãi đầu tư vào KCN Sông Công đối với các dự án tham gia lấp đầy 30 ha đất công nghiệp đầu tiên, dự án xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên, dự án trả trước trên 90% tiền thuê lại đất và phí sử dụng hạ tầng, dự án sử dụng trên 100 lao động địa phương. Dự án nào đáp ứng đủ 5 điều kiện ưu đãi đầu tư thì được hưởng ưu đãi tối đa là giảm 90% tiền thuê lại đất trong 4 năm và miễn phí sử dụng hạ tầng trong 7 năm...Có thể nói, việc thành lập các KCN, KCX là chủ trương đúng đắn, nhưng tình trạng “ganh đua” giữa các địa phương, với những ưu đãi “xé rào” để thu hút đầu tư, làm ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước là một thực tế đáng báo động. Điều đáng nói là, nhiều địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX có nguồn gốc từ ngân sách Trung ương, nên nếu các tỉnh cứ tiếp tục dùng ngân sách bù lỗ để thu hút đầu tư vào KCN, KCX thì rốt cuộc ngân sách Trung ương phải è lưng ra... gánh nợ.
Hơn nữa, giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa ăn khớp với nhau. Nhiều quy hoạch đã được duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng thì địa phương lại thay đổi quy hoạch về diện tích, ranh giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ, ảnh hưởng xấu đến thu hút nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX .
Tỉ lệ lấp đầy
Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2005 cả nước có 130 Khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích 26.520 ha do Chính phủ quyết định thành lập. Ngoài ra, còn có trên 200 cụm công nghiệp do Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành lập với tổng diện tích 13.991 ha và trên 10.000 ha đất các khu kinh doanh tập trung khác. Tổng cộng cả 3 hạng mục, “ngốn” hết 50.511 ha đất nông nghiệp, phần lớn bờ xôi, ruộng mật, làm ăn dễ dàng, giao thông thuận lợi. Tại nhiều địa phương, đặc biệt là các khu đô thị lớn, hàng loạt dự án được phác thảo, toàn những ý tưởng tốt đẹp, song vì nhiều lý do dự án không triển khai được, hoặc triển khai chậm, “treo” ngắn thì một vài năm, dài thì, có khi hơn cả chục năm; có những dự án triển khai không hiệu quả để lại nỗi xót xa, tiếc nuối cho hàng ngàn, hàng vạn nông dân khát khao một mảnh đất để trồng trọt. Thiếu việc làm ắt dẫn đến nghèo đói và theo đó là các tệ nạn xã hội phát triển, tệ nạn cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút năm sau nhiều hơn năm trước.Theo thống kê của Bộ Tài nguyên – Môi trường: Tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX trên toàn quốc chỉ đạt 50%; nghĩa là còn 50% diện tích đất bỏ trống trong tình trạng để cho cỏ mọc. Hiện có 12 KCN, KCX với tổng diện tích 2000 ha được thành lập từ trước năm 1998, song đến nay tỷ lệ lấp đầy vẫn chưa “quá bán”.
Một vài ví dụ điển hình như là khu chế xuất Hải Phòng có quy mô 150 ha, thành lập từ năm 1997, nhưng đến nay chỉ cho thuê được 1 ha. Cũng tại Hải Phòng, Khu công nghiệp Nomura với diện tích 153 ha, thành lập từ năm 1994, nay mới cho thuê được 39 ha. Như vậy, hơn 10 năm qua Hải Phòng đã bỏ trống 263 ha đất trong KCN, KCX . Thủ đô Hà Nội cũng không chịu thua, Khu công nghiệp Đài tư, Daewoo Hanel quy mô trên 200 ha, thành lập từ những năm 1995 – 1996 nhưng đến nay mới cho thuê được 5 ha. Hà Nội vốn là thành phố được xếp vào hàng “4 Đ”: đất đai đắt đỏ. Vậy mà, chỉ mới qua 2 dự án, 195 ha đất đã bị bỏ trống cả chục năm nay. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, khu công nghiệp Mỹ Xuân B1 quy mô 226 ha thành lập từ năm 1996, nay cũng mới cho thuê được 20 ha.
Hiệu quả đầu tư
Dù đã trải qua 16 năm hình thành và phát triển, nhưng các KCN, KCX chỉ thực sự mới phát triển mạnh trong khoảng 10 năm gần đây. Tuy doanh thu và xuất khẩu của các khu công nghiệp này tốc độ tăng bình quân lên đến 31,9% / năm ở thời kì 2001-2005, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Các doanh nghiệp này có mức doanh thu/ lao động bình quân ở mức khá cao, trên 15.000USD/ người; mức xuất khẩu/ lao động cũng đạt mức trên 7.000 USD/người. Tuy nhiên, những năm gần đây cả hai chỉ tiêu này đều có xu hướng giảm dần
Doanh thu và kim ngạch xuất khẩu của các khu công nghiệp Việt Nam
TT
chỉ tiêu
ĐVT
1996
2000
2002
2004
2005
1
Doanh thu KCN
Triệu USD
500
3350
5600
1187
13425
-
tốc độ tăng trưởng
%
100
112
124.4
115.5
120
2
Xuất khẩu KCN
Triệu USD
421
2170
3200
4949
6137
-
Xuất khẩu KCN/ Tổng giá trị XK cả nước
%
5
14,98
19,36
19
20
3
Số lao động luỹ kế
1000 người
201
370
706
953
-
Tăng tương đối
%
-
45,1
38,16
35,00
4
Doanh thu/ lao động
1000 USD/ng
16,67
15,14
15,85
14,09
5
Xuất khẩu/ lao động
1000USD/ ng
10,8
8,65
7,01
6,44
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Bộ Kế hoạch - Đầu tư
Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư chưa phong phú.
Trong những năm gần đây, xu hướng đầu tư vào khu công nghiệp KCN, KCX của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập . Hầu hết các dự án hoạt động trong các KCN, KCX đều là các dự án công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da giày … Còn các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng hay những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi vì nếu không thu hút và phát triển được những ngành đòi hỏi công nghệ cao thìnước ta khó tránh khỏi tụt hậu vàvẫn là thị trường gia công cho nước ngoài. Hơn nữa, cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng đang nổi lên nhiều vấn đề đáng chú ý, đó là: 1- Trong những năm đầu phát triển các KCN, KCX , nguồn vốn đầu tư vào chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhưng trong những năm gần đây, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm sút. Quy mô bình quân của một dự án có chiều hướng năm sau thấp hơn năm trước. Thực tế này cho thấy, các KCN, KCX ở nước ta vẫn chưa đủ sức hấp dẫn những nhà đầu tư từ các công ty lớn, xuyên quốc gia, nắm những công nghệ gốc, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. 2- Mặc dù có trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, nhưng phần lớn là từ các nước châu Á (chiếm gần 80%), còn những quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ - những nước có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, hiện có vị trí khá khiêm tốn trong cơ cấu đầu tư vào khu vực này.còn th
Lao động trình độ cao
Hiện nay, đang tồn tại một nghịch lý trong việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong KCN, KCX . Các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển một lực lượng lớn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao, có kỷ luật lao động tốt, thế nhưng đa số lực lượng lao động ở các địa phương không đáp ứng được những yêu cầu này. Theo số liệu điều tra, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương có KCN, KCX chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, không quen với môi trường lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại của các doanh nghiệp trong KCN, KCX . Số lao động có trình độ đại học và trên đại học trong các khu công nghiệp, khu chế xuất chỉ chiếm 4,5% tổng số lao động, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm 31%, lao động giản đơn chiếm tới 60%. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương có KCN, KCX vẫn ở mức cao, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu lao động.
b. Nguyên nhân
Qui hoạch thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các tỉnh trong 1 vùng kinh tế. Qui hoạch còn mang tính hình thức, chất lượng qui hoạch thấp.
Thứ nhất, quy hoạch các KCN, KCX chưa tính hết những điều kiện cần thiết, những căn cứ làm cơ sở để quy hoạch. Tình trạng các tỉnh, các địa phương đua nhau xây dựng KCN để “ lót ổ”, “ trải chiếu”cho các nhà đầu tư còn diễn ra khá mạnh mẽ nhưng kết quả lại không như mong muốn gây lãng phí lớn. Hậu quả là thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một vùng trong khi khăn năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật và xã hội cho các KCN, KCX, dự án vẫn chờ, người dân mất đất thất nghiệp, đồng vốn kém hiệu quả
Thứ hai công tác qui hoạch chưa giải quyết tốt quan hệ giữa quy hoạch- kế hoạch và thị trường, dẫn đến tình trạng coi trọng mặt này, xem nhẹ mặt kia.
Thứ ba, việc xác định vị trí địa lý quy hoạch khu công nghiệp thiếu chính xác. Vì vậy không khai thác được hết tiềm năng thế mạnh về lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ. Đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường, đến khi khắc phục hậu quả gây lãng phí và hết sức tốn kém.
Thứ tư, quy hoạch khu công nghiêp chưa định rõ từ đầu về quy mô và loại hình. Trên cơ sở đó, xác định giới hạn, phạm vi mặt bằng tổ chức không gian kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội. Tình trạng hiện nay một số khu công nghiệp phải điều chỉnh lại quy hoạch, đặc biệt là thiếu các dịch vụ cần thiết cho người lao động
Thứ năm, đường lối chiến lược, định hướng phát triển kinh tế đã được xác định nhưng thiếu hướng dẫn cụ thể bằng các văn bản có tính pháp quy. Cơ chế, chính sách đối với KCN, KCX chậm đổi mới. Năng lực cán bộ quy hoạch chưa đáp ứng đươc yệ cầu phát triển của các KCN, KCX , phân công, phân cấp chưa rõ ràng, hiệu quả quản lý của bộ máy thấp……
Công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế
Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lý KCN các địa phương đã xây dựng được mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan một cửa, một đầu mối” nhằm hỗ trợ nhà đầu tư toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai dự án, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở trong và ngoài nước. Song trên thực tế, công tác này chưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước đồng thời chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này. Xúc tiến đầu tư trước hết thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, mà trực tiếp là của các ban quản lý KCN. Nhưng do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có lồng nội dung giới thiệu và vận động đầu tư vào các KCN đã được thành lập do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng KCN, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng KCN, trước hết là của chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN.
Nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động đầu tư còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền luật pháp, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động theo từng đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Hoạt động vận động đầu tư tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại của Việt Nam ở nước ngoài còn hết sức hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và kinh phí tổ chức; thiếu sự kết hợp giữa hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại với vận động ĐTNN; các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Tài liệu tuyên truyền đầu tư chưa đầy đủ và không được biên soạn, phổ biến bằng phương tiện hiện đại nên không thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư.
Hệ thống thông tin về kinh tế, luật pháp, chính sách, đặc biệt là thông tin cơ hội và đối tác đầu tư chưa đầy đủ và trong một số trường hợp còn thiếu chính xác, độ tin cậy thấp. Điều này không chỉ làm hạn chế hiệu quả hoạt động tuyên truyền, vận động đầu tư mà còn gây nhiều khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tìm hiểu thị trường và xác định cơ hội, đối tác đầu tư.
Vừa qua, việc xử lý đối với một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành chưa được tốt, đặc biệt cuối năm 2005 đã xảy ra các cuộc bãi công tự phát ở một số KCN thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ, thêm vào đó việc phản ánh về hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã gây không ít hoài nghi về chính sách nhất quán và thiện chí của Nhà nước ta, tác động không tốt tới việc vận động, thu hút vốn ĐTNN trong bối cảnh hiện nay.
Thủ tục hành chính còn quá rườm rà, phức tạp. Các chính sách, luật lệ tính ổn định còn chưa cao, còn thường xuyên thay. Luật qui định còn thiếu rõ ràng, tính minh bạch, công khai còn hạn chế trong khi đó việc ban hành các nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn còn quá chậm, nhiều ban, bộ ngành cùng nhau ra luật gây sự chồng chéo và khó khăn cho nhà đầu tư
- Đền bù, giải toả mặt bằng còn nhiều bất cập, hạn chế, vừa phức tạp, vừa tốn nhiều thời gian, tiền bạc. Nhiều KCN, KCX còn phải mất 2 -3 năm mới đền bù giải toả xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN, KCX .
- Cơ sở hạ tầng công nghệ còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế nên chưa đáp ứng được sự đòi hỏi và yêu cầu của các nhà đầu tư. Cơ sở hạ tầng ngoài đường rào KCN, KCX thiếu đồng bộ(kém hơn so với CSHT trong KCN, KCX ). Các KCN, KCX đến nay việc xây dựng cơ sở hạ tầng còn sơ sài, nhiều khu vẫn chưa có khu xử lí nước thải, chưa cung cấp đầy đủ nước sạch cho doanh nghiệp sản xuất, hệ thống giao thông ngoài hàng rào không thuận tiện, điện không ổn định…Cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào thường xây dựng chậm hơn so với việc xây dựng hạ tầng kĩ thuật trong hàng rào. Ví dụ như một số KCN, KCX ở Hà Nội việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào như xây dựng đường giao thông, hệ thống thoát nước… luôn phụ thuộc vào quy hoạch phát triển của thành phố, nên thường chậm hơn so với tiến độ xây dựng hạ tầng kĩ thuật trong khu công nghiệp.
CHƯƠNG III- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KCN, KCX TRONG THỜI GIAN TỚI Ở VIỆT NAM
1.Kinh nghiệm của nước ngoài thu hút đầu tư vào KCN, KCX
Để tạo môi trường thu hút đầu tư hấp dẫn hơn, ngoài những khu kinh tế mở hay khu kinh tế, Thái Lan không ngừng tìm tòi, áp dụng các mô hình mới. Thí dụ như ở 2 khu công nghiệp (KCN) của tập đoàn Amata là Amata Nakorn và Amata City, chính quyền Thái Lan cho thiết lập các khu mậu dịch tự do hay khu tự do. Những người sống trong khu mậu dịch tự do (free trade zone) trong một KCN có thể được mua hàng nhập khẩu miễn thuế. Khu tự do (free zone) thì chỉ dành cho hàng hóa và nguyên vật liệu. Hàng hóa, vật liệu từ nước ngoài đem vào khu tự do không cần đóng thuế. Chúng được dùng vào việc sản xuất, chế biến... để rồi được xuất khẩu lại. Nhà nước Thái Lan thu tiền kho chứa cũng như các phí liên quan đến việc chuyên chở, các thủ tục giấy tờ... Khác với khu mậu dịch tự do, trong khu tự do không có người ở. Các khu tự do thường nằm gần sân bay hoặc cảng nước sâu quốc tế để hàng hóa xuất - nhập khẩu được triển khai nhanh chóng.
Ngoài việc cải thiện các chính sách liên quan đến hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài đã đầu tư để tạo nên hình ảnh tốt làm an tâm những xí nghiệp dự định đầu tư, kinh nghiệm các nước trong khu vực gồm Thái Lan, Malayxia, Trung Quốc, là luôn có những biện pháp tiếp thị tích cực hơn. Hồi cuối thập niên 1980, thế kỷ trước các lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc và Thái Lan thường xuyên tiếp xúc và đưa yêu cầu cụ thể với những công ty đa quốc gia lớn mà họ muốn đầu tư, đến xây dựng các nhóm cứ điểm công nghiệp. Họ quảng bá điểm khác biệt trong các KCN của đất nước mình, phát huy “giá trị gia tăng” của mình để thu hút đầu tư. Kết quả là hiện nay, ngoại ô Bangkok có một quần thể sản xuất xe hơi và bộ phận xe hơi lớn thứ 3 ở châu á. Còn Malayxia trở thành một trong những trung tâm sản xuất đồ điện gia dụng nhiều nhất thế giới. Trong thập niên 90 thế kỷ XX, có hiện tượng xí nghiệp Nhật chuyển các cơ sở sản xuất từ Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore sang Indonexia, Philipines và nhất là Trung Quốc. Không chỉ ở cấp trung ương, mà các địa phương của Trung Quốc cũng đã rất tích cực trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn thị trấn Đông Hoản gần đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, dù chỉ mới là thành phố nổi từ năm 1990, mà họ đã có văn phòng đại diện ở Tokyo để thu nhập thông tin thị trường và tìm đối tác đến đầu tư.
Giá cho thuê đất rẻ không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư. Theo các chuyên gia Thái Lan, chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Xây dựng KCN trong khu vực nghèo rẻ hơn trong khu vực phát triển, có chí phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn. Nhưng ngược lại, chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng đến khu vực phát triển hơn. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay trên thế giới, có tới 70-75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25-30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. Cuối cùng, điều kiện thu hút đầu tư nền tảng nhất mà Thái Lan và Trung Quốc áp dụng là chính sách thu hút FDI vào các KCN. Thái Lan đã cố gắng giảm thiểu chi phí đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất chi phí lưu thông hàng hóa, nới lỏng chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài... Còn Trung Quốc cũng đã từ bỏ quan điểm “nới lỏng đầu vào , quản lý chặt đầu ra” như một số nước khác, điều mà các nhà đầu tư nước ngoài gọi là “tiền hậu bất nhất”. Bài học kinh nghiệm trong thu hút đầu tư vào các KCN Trung Quốc là “trước cho, sau lấy”. Ngoài ra, tại Trung Quốc, sự phát triển và phân bổ các KCN được thực hiện theo nguyên tắc: lấp đầy và phát triển hiệu qủa các KCN đã có, khi nào các KCN lấp đầy 60-70% diện tích thì mới cho phép triển khai các KCN tiếp theo. Thời gian gần đây, Trung Quốc đã cắt giảm tới 500KCN, nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và lãng phí quỹ đất canh tác. Các hồ sơ xin duyệt và mở rộng các KCN bị chững lại và nhiều nơi đã rút hồ sơ lập KCN mới khỏi danh sách được phê duyệt
2.Định hướng, mục tiêu và triển vọng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian tới
Mục tiêu phát triển chính của các KCN, KCX là tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệip gây ra. Phát triển các KCN, KCX cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Theo Bố Kế hoạch và Đầu tư, việc phát triển các KCN, KCX thời gian tới nhằm vào các mục tiêu cơ bản là:
Hình thành hệ thống các KCN, KCX vừa và nhở tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn;
Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX , phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN, KCX đã được thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN, KCX tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 5.000 km2
Tăng tỷ lệ đóng góp của các KCN, KCX vào tổn giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010
Căn cứ tình hình thực tế, dự báo về tình hình thực hiện và triển vọng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX như sau
Triển vọng đầu tư vào các KCN, KCX hiện nay là khá sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 tiếp tục phát huy hiệu quả và Luật đầu tư chung 2006 được đưa vào áp dụng trong thực tiễn, được đánh gía là có tiềm năng to lớn. Đó là chưa kể nguồn kiều hối với mức tăng trưởng bình quân kỷ lục 22%- giai đoạn 2001-2004
Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn trong việc thu hút đầu tư vào các KCN, KCX trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng(điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô tô.
Dự báo, trong 5 năm tới, tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút mới và vốn tăng thêm dự kiến đạt khoảng 12 tỷ USD, với khoảng 1.550 dự án. Riêng thu hút đầu tư trong nước, dựa trên cơ sở những cải cách về môi trường kinh doanh trong nước và một số dự án có khả năng triển khai như: khí hoá lỏng, điện, phân đạm, thép, dự kiến đạt khoảng 7 tỷ USD, với trên 2.400 dự án mới. Ngoài những khu kinh tế mở, Việt Nam có thể thiết lập các khu mậu dịch tự do hay các khu tự do trong một KCN.
Phấn đấu đến năm 2010, Việt Nam sẽ cơ bản lấp đầy các KCN (kể cả các KCN mới thành lập), với tổng diện tích 45.000- 50.000 ha. Tới năm 2015, tổng diện tích các KCN sẽ được nâng lên 65.000- 70.000 ha, phấn đấu thu hút thêm 6.500 - 6.800 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 36-39 tỷ USD. Đây là lộ trình để năm 2020, cả nước hoàn thiện cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các KCN đạt khoảng 80.000 ha
3.Giải pháp cho Việt Nam
Qua kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan và nhiều nước khác trên thế giới đã cho chúng ta đã rút ra được bài học cho mình để có thể tăng khả năng thu hút vốn đầu tư hơn nưã vào các KCN, KCX thực hiện được mục tiêu trong thời gian tới mà Đảng, nhà nứoc đã đề ra. Giải pháp tập trung chủ yếu vào 2 vấn đề lớn mà ta còn nhiều yếu kém và hạn chế đó là môi trường đầu tư và công tác xúc tiến đầu tư.
3.1Cải thiện môi trường đầu tư
3.1.1 Nâng cao chất lượng quy hoạch các khu công nghiệp.
- Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khu công nghiệp của các địa phương theo cơ chế triển khai do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gắn kết giữa quy hoạch khu công nghiệp với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch khu đô thị - dân cư, quy hoạch sử dụng đất.
Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển khu công nghiệp phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương theo hướng kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp sau khi được phê duyệt sẽ là căn cứ để các cơ quan, tổ chức và các địa phương sử dụng trong quá trình rà soát, điều chỉnh quy hoạch các vùng và các địa phương.
- Trong quá trình triển khai quy hoạch, chú trọng việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, bao gồm cả ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp.
- Xây dựng các tiêu chí thành lập khu công nghiệp trên cơ sở xem xét toàn diện điều kiện thực tế của các địa phương, cân nhắc toàn bộ các yếu tố môi trường, dân cư, lao động, đất đai, giao thông, tình hình phát triển kinh tế và thu hút đầu tư...
- Rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất khu công nghiệp trên địa bàn cả nước, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cần đảm bảo mức độ sử dụng đất nông nghiệp để chuyển đổi thành đất khu công nghiệp hợp lý, đảm bảo cân đối giữa các ngành kinh tế trên địa bàn.
- Xây dựng khu công nghiệp phải gắn với thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực.
- Về khả năng thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp, trước mắt, tập trung thu hút đầu tư để lấp đầy khu công nghiệp đã được thành lập. Phấn đấu trong vài ba năm tới sẽ thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà ĐTNN, để lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp của các khu đã thành lập. Trừ những dự án gắn kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu và những dự án có yêu cầu đặc biệt, kiên quyết định hướng các dự án sản xuất công nghiệp còn lại đầu tư vào khu công nghiệp. Mặt khác, cần thường xuyên theo dõi, đánh giá các khu công nghiệp đã được thành lập. Đối với các khu công nghiệp triển khai thuận lợi và khu vực còn quỹ đất để phát triển, thì có thể xem xét việc mở rộng khu công nghiệp. Đối với các khu công nghiệp gặp khó khăn trong quá trình triển khai, cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai. Nếu khu công nghiệp không có triển vọng, cần kiên quyết xem xét việc rút giấy phép đầu tư, quyết định phê duyệt dự án hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
3.1.2 Thành lập mới có chọn lọc các khu công nghiệp gắn với mục tiêu phát triển công nghiệp theo vùng.
Khi xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp, cần phải xác định chi tiết cơ cấu công nghiệp, khai thác thế mạnh về nguồn lực tại chỗ của từng vùng, địa phương như vùng nguyên liệu nông lâm nghiệp, khai thác vật liệu xây dựng, điện năng... từ đó có phương hướng tận dụng lợi thế của từng vùng, địa phương. Ưu tiên phát triển khu công nghiệp ở những địa phương có thế mạnh ở một số ngành công nghiệp và phân chia một cách hợp lý mục tiêu thu hút đầu tư giữa các địa phương để hạn chế tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh.
3.1.3 Phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp một cách đồng bộ.
Cơ sở hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan trọng nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN. Vì vậy cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật dịch vụ và xã hội cả trong và ngoài các KCN, KCX vì trên thực tế cho thấy nhiều khi chỉ phát triển mỗi cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp mà không quan tâm chú ý đến phát triển cơ sở hạ tầng bên ngoài thì cũng gây khó khăn và không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư
Các địa phương khi xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp cần có kế hoạch triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên ngoài hàng rào khu công nghiệp một cách đồng bộ so với bên trong khu công nghiệp. Cần phải tính toán đầy đủ và có dự phòng những phát sinh khi xây dựng khu công nghiệp như: chỗ ở cho người lao động, vệ sinh môi trường, an ninh trật tư, tái định cư, các dịch vụ công cộng như trường học, bệnh xá, khu vui chơi giải trí... từ đó có phương hướng xử lý kịp thời, đảm bảo môi trường đầu tư bên trong và bên ngoài khu công nghiệp. Coi việc xây dựng khu công nghiệp gắn chặt với phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật – xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp là tiêu chí bắt buộc khi phê duyệt các dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, cần lồng ghép các chương trình phát triển dân sinh, xã hội trong những khu vực xây dựng khu công nghiệp, đảm bảo hài hoà môi trường bên trong và bên ngoài khu công nghiệp.
3.1.4 Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề.
Hiện nay tại các KCN, KCX nhu cầu lao động có trình độ, tay nghề là rất lớn. Theo tính toán số lượng lao động mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp. Trong khi đó tỉ lệ thanh niên thất nghiệp ở các địa phương có KCN, KCX vẫn ở mức cao. Do vậy trước mắt các địa phương, ban quản lí KCN, KCX cần chủ động nhanh chóng kết hợp với các bộ, ngành có liên quan để, nhằm đào tạo trực tiếp công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sản xuất trong KCN, KCX . Còn đối với các doanh nghiệp thì cần phải chủ động tiếp cận các cơ sở đào tạo nghề cho ngừoi lao động trong doanh nghiệp. Về lâu, về dài thì các cơ quan quản lí nhà nước cần phải tổ chức quy hoạch sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề, có cơ chế bồi dưỡng, đào tạo theo nhiều hình thức, phù hợp với nhiều đối tượng học nghề để đáp ứng yêu cầu cho nguồn lao động của các KCN, KCX. Hình thành Quỹ đào tạo nghề chung cho công tác đào tạo lao động cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu công nghiệp nhằm giảm bớt chi phí đạo tạo cho doanh nghiệp, đồng thời góp phần hỗ trợ vào kinh phí đào tạo nghề ở địa phương. Quỹ đào tạo nghề có thể được huy động từ nhiều nguồn, trong đó chú trọng sự đóng góp của các doanh nghiệp - những đơn vị được hưởng lợi từ chương trình này. Mặt khác nhà nước cũng cầncó kế hoạch hỗ trợ nâng cấp trang thiết bị học tập tại các trung tâm đào tạo nghề gắn với địa bàn KCN, KCX, đổi mới chương trình giảng dạy, và phát triển đội ngũ giảng viên dạy nghề; mở rộng nhiều hình thức dạy theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Đồng thời cũng phải tính đến việc sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao sao cho có hiệu quả như các nhà khoa học, quản lý, các du học sinh đang được đào tạo ở nước ngoài.
3.1.5 Cải cách thủ tục hành chính
Xây dựng khung pháp lý thóng nhất và toàn diện, tính chắc chắn trong khung pháp lý và thuế, để việc thực hiện và thi hành nhất quán
Phải có kế hoạch dài hạn để tránh dẫn đến những thay dổi không mong muốn trong các ch ính sách . Minh bạch, công khai để giảm quan liêu. Tăng tinh thần họp tác trong khi giải quyết các vấn đề giữa các cơ qua hành chính
Về thẩm định và cấp phép đầu tư: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” trong thủ tục hành chính xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư. Tiếp tục cải cách và nâng cao chất lượng của bộ máy quản lý khu công nghiệp và phải được thực hiện thường xuyên, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế “xin – cho”, kỷ luật nghiêm khắc những cán bộ, công chức có hiện tượng nhũng nhiễu doanh nghiệp.
Về đất đai: Cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp chứng nhận quyền sử dụng đất và các giao dịch liên quan đên đất đai. Thực hiện dứt điểm các vấn đề về bồi thường và giải phóng mặt bằng; tuyên truyền công khai các chủ trương, định hướng về phát triển khu công nghiệp tại địa phương. Giải quyết cơ chế cho thuê lại đất trong khu công nghiệp sao cho vừa đảm bảo quyền lợi cho Công ty phát triển hạ tầng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khu công nghiệp hoạt động... bố trí quỹ đất cho tái định cư kết hợp với biện pháp nâng cao hiểu biết pháp luật về đất đai, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân có đất nông nghiệp để họ có ý thức hơn về chủ trương phát triển khu công nghiệp.
Về xuất nhập khẩu: Tiến hành nhanh chóng các thủ tục xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu, thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp.
Thường xuyên rà soát các dự án ĐTNN đã được cấp phép trong khu công nghiệp để có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai; xác định xem những khó khăn này là từ phía bản thân doanh nghiệp hay là từ phía các cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý kịp thời.
3.1.6 Phát triển KCN, KCX kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường.
Hoàn chỉnh, nâng cấp, cải tạo các cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp hiện có, giải quyết triệt để vấn đề thu gom và xử lý nước thải từ các khu công nghiệp. Mỗi khu công nghiệp phải có trạm xử lý nước thải, tiến tới xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo tiêu chuẩn tiên tiến, tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường. Thực hiện có hệ thống công tác thu gom, vận chuyển và lưu giữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại; nhanh chóng tìm biện pháp xử lý chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại. Thường xuyên tiến hành phân tích, giám sát chất lượng môi trường tại các khu công nghiệp nhằm đảm bảo xử lý kịp thời các sự cố về môi trường.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trước và sau khi đầu tư vào khu công nghiệp về vấn đề môi trường. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp phải đăng ký đảm bảo về môi trường trước khi đi vào hoạt động.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các khu công nghiệp; có biện pháp thưởng, phạt thích đáng những doanh nghiệp vi phạm pháp luật về môi trường. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các doanh nghiệp và địa phương về bảo vệ môi trường.
3.1.7 Hoàn thiện mô hình tổ chức, quản lý khu công nghiệp.
Cần phải xác định rõ các biện pháp quản lý nhà nước về phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển các khu công nghiệp một cách hài hoà và có hiệu quả và cụ thể hoá theo hướng:
- Phân cấp hơn nữa cho chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm, những vùng thuận lợi trong thu hút đầu tư. Hạn chế sử dụng vốn ngân sách hỗ trợ cho phát triển hạ tầng các khu công nghiệp. Vốn ngân sách hỗ trợ chỉ được sử dụng cho phát triển hạ tầng các khu công nghiệp trong điều kiện đối với những khu công nghiệp có ý nghĩa quyết định đến phát triển kinh tế-xã hội cả nước và của những vừng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn để tạo đà phát triển.
Để thực hiện tốt công tác quản lý phát triển các khu công nghiệp cần phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước nói chung và khu công nghiệp nói riêng, hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các doanh nghiệp đầu tư vào trong các khu công nghiệp. Hệ thống luật pháp, chính sách phát triển khu công nghiệp phải đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thực tiễn và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước hướng tới một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” cho phù hợp với tình hình thực tế.
Cơ chế các bộ, ngành uỷ quyền cho BQL thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng cụ thể hoá, minh bạch hoá các quy hoạch, các văn bản hướng dẫn để tạo thuận lợi cho các BQL trong quá trình thực hiện, mặt khác đảm bảo tính thống nhất quản lý trong khung khổ pháp luật, chính sách chung của nhà nước. Tổ chức bộ máy các BQL cần được xem xét cân nhắc tuỳ theo yêu cầu thực tế và tình hình cụ thể của từng địa phương.
3.2 Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp.
Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn và đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp vừa, nhỏ.
Xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp.
Giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh.
Thực hiện thống nhất, chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Cần thành lập một cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp và các khu vực khác.
Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách nhà nước cho công tác vận động xúc tiến đầu tư; tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào khu công nghiệp để các nhà đầu tư và người dân được biết; cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư vào trong khu công nghiệp.
Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của nước ta ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư đối với từng dự án, từng tập đoàn, từng nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia.
4. Một số giải pháp cụ thể với từng nguồn vốn
4.1 Đối với thu hút đầu tư nước ngoài
Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư.
Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao.
Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam.
Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư.
Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU.
Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB).
Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận.
Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam.
Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN.
4.2 Đối với thu hút đầu tư trong nước
Một là, Nhà nước phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện tốt cơ chế một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN.
Hai là, KCN phải ban hành Danh mục dự án gọi vốn đầu tư vào KCN để mọi thành phần kinh tế trong nước có cơ hội đầu tư. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, cá nhân trong nước đầu tư vào KCN.
Ba là, Nhà nước cần có chính sách thoả đáng để di dời các doanh nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn vào KCN.
Bốn là, ở những KCN thuộc khu vực khó khăn, hoặc KCN gắn với quốc phòng, cần có chính sách định hướng, vận động các tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành mình đầu tư vào KCN .
Đối với KCN vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn, Nhà nước phải có biện pháp, chính sách di chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy..vv.), chế biến nông, lâm sản ở các thành phố và đô thị về các KCN này; đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào KCN loại này.
Năm là, khi thành lập KCN trên địa bàn, đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN cấp tỉnh, doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN trong việc vận động định hướng đầu tư vào KCN tránh tình trạng đầu tư phân tán, không tuân thủ quy hoạch, gây khó khăn cho việc kiểm soát môi trường.
KẾT LUẬN
Quá trình phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Trong điều kiện hoàn cảnh nước ta hiện nay KCN, KCX đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế; KCN, KCX thật sự đã trở thành nam châm thu hút vốn đầu tư của cả nước. Các KCN, KCX đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hoá công nghệ, tăng cường khả năng tổ chức quản lý sản xuất và quản lý nhà nước.Việc ra đời các KCN, KCX đã thự sự thổi một luồng sinh khí mới vào bức tranh phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong giai đoạn mới.
Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo thì sự đóng góp này có vai trò rất to lớn tạo vào quá trình phát triển kinh tế, thực hiện hiệu quả mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc dân.
Để các Khu Công nghiệp tập trung thực sự là một bộ phận không thể thiếu được trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư, tiến hành cải cách luật, chính sách; cải thiện cơ sở hạ tầng và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư. Với lòng nhiệt huyết, tinh thần sáng tạo và ham học hỏi, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, yếu kém chúng ta có thể hy vọng được rằng những khó khǎn, vướng mắc sẽ được giải quyết kịp thời để các Khu Công nghiệp của chúng ta tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa xứng đáng với những ưu ái mà nhà nước đã dành cho nó và xứng đáng là đầu tàu cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang website
khucongnghiep.com.vn
vov.news.vn
mpi.gov.vn
moi.gov.vn
vietnamnet
Báo và tạp chí
Thời báo tài chính
Tạp chí kinh tế phát triển (2/2004)
Báo đầu tư
Nghiên cứu kinh tế số 341 – tháng 10/2006
Nghiên cứu kinh tế số 343 – tháng 12/2006
Kinh tế và dự báo (số 5/2006)
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí Cộng sản số 13 tháng 7 năm 2006
Luận văn của các khoá trên
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36089.doc