Xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế như SA 8000, ISO 14000 áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao và ổn định hơn nữa nó còn giảm được chi phí trong quá trình sản xuất, do vậy sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Giá cả của sản phẩm hàng dệt may Việt Nam xuất vào Mỹ thường có giá cao và phải qua nhiều trung gian nếu hạ thấp được giá thành thì sẽ tăng được sức cạnh tranh. Hệ thống quản lý chất lượng quốc tế được áp dụng không những có lợi cho doanh nghiệp mà còn cho đông đảo người tiêu dùng. Thị trường Mỹ không giống với thị trường trong nước ở đây yếu tố chất lượng là một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Tin tưởng quan hệ Việt Mỹ sẽ phát triển tốt đẹp. Hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng hoà bình độc lập dân tộc tôn trọng luật pháp quốc tế vì sự hoà bình ổn định của khu vực cũng như trên toàn thế giới.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được những thành tựu hết sức to lớn. Chúng ta đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng bởi vì nó là một trong những hình thức kinh doanh cơ bản nhất và là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của quốc gia, xuất khẩu của công nghiệp những năm gần đây đã có nhiều thành tựu to lớn mà một trong những mặt hàng có phần đóng góp không nhỏ trong thành tựu đó chính là mặt hàng dệt may.
Trong những năm trước đây xuất khẩu dệt may Việt Nam sang 1 số thị trường truyền thống như các nước Đông Âu, Liên Xô cũ đã có những thành tựu to lớn. Ngày nay những thị trường này đã bị thu hẹp đáng kể nhưng xuất khẩu dệt may Việt Nam lại đang đứng trước những thị trường tiềm năng mới mà một trong những thị trường đó là Mỹ.
"Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ"
Đề án được chia thành 3 phần chính như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Chương III : Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu
i. khái niệm và các hình thức xuất khẩu
1. Khái niệm và mục đích
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Việc bán hàng hoá của một quốc gia này sang một quốc gia khác đã cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng. Vậy xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Dựa trên cơ sở là sự phát triển hoạt động mua bán hàng hoá trong nước, hơn bao giờ hết xuất khẩu đang diễn ra mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, trong tất cả các ngành các lĩnh vực, dưới mọi hình thức đa dạng phong phú và không chỉ với hàng hoá hữu hình mà còn cả hàng hoá vô hình. Nhưng cho dù thế nào thì mục tiêu của xuất khẩu vẫn nhằm đem lại lợíich cho tất cả các bên tham gia.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
a. Xuất khẩu trực tiếp
Là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đã đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuỳ rủi ro kinh doanh có tăng lên song nhà sản xuất có cơ hội thu lợi nhuện nhiều hơn nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những thông tin về biến động thị trường để có biện pháp đối phó.
b. Xuất khẩu gián tiếp.
Là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dụng. Ưu điểm của nó là doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng, các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương ở nước ngoài. Hơn nữa rủi ro cũng hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Tuy nhiên phương thức này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ, không liên hệ trực tiếp viứu nước ngoài, vì thế nên việc nắm bắt thông tin về thị trường cũng bị hạn chế, dẫn đến chậm thích ứng các biến động của thị trường.
c.Xuất khẩu theo nghị định thư (XK trả nợ)
Đây là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu nhà nước giao cho về một hoặc một số hàng hoá nhất định theo chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí cho nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, tránh sự rủi ro trong thanh toán.
d. Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại. Đặc điểm của loại hình này là hàng hoá không phải vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua được. Do vậy xuất khẩu không cần đích thân ra nước ngoài đàn phán với người mua mà người mua tự tìm đến với họ. Mặt khác doanh nghiệp sẽ tránh được những rắc rối hải quan, khồng phải thuê phương tiện vận chuyển mua bảo hiểm hàng hoá …Nên giảm được lượng chi phí khá lớn. Đồng thời hình thức này cho phép doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao.
e. Gia công quốc tế.
Là một hình thức kinh doanh, theo đó một bên nhập nguyên vật liệu, hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên kia (bên đặtt gia công) để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (tiền gia công). Đây cũng là hình thức đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở các nước có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú. Bởi vì thông qua gia công, các quốc gia này sẽ có điều kiện đổi mới, cải tiến máy móc thiết bị và kĩ thật công nghệ, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất.
g.Tái xuất khẩu
Là việc xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu về nhưng vẫn chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Hình thức này cho phép thu lợi nhuận cao mà không phải không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị… Chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu này nhất thiết phải có sự góp mặt của 3 quốc gia: nước xuất khẩu – nước NK – nước tái xuất khẩu.
II- Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu.
1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp , mỗi ngành kinh doanh hoạt động trong môi trường và điều kiện cạnh tranh không giống nhau. Hơn nữa, môi trường này luôn thay đổi khi chuyển từ nước này sang nước khác. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu sang nước ngoài, một số doanh nghiệp có khả năng nắm bắt nhanh cơ hội và biến thời cơ thuận lợi thành thắng lợi nhưng cũng không có ít doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thử thách, rủi ro cao vì phải đương đầu cạnh tranh với nhiều công ty quốc tế có nhiều lợi thế và tiềm năng hơn.
Các yếu tố cạnh tranh mà một doanh nghiệp xuất khẩu có thể gặp phải bao gồm:
+ Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng: đó là sự xuất hiện các công ty mới tham gia vào thị trường nhưng có khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường, thị phần của các công ty khác.
+Khả năng mặc cả của các nhà cung cấp: là nhân tố phản ánh mối tương quan giữa nhà cung cấp với công ty ở khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty.
+ Khả năng mặc cả của khách hàng : khách hàng có thể mặc cả thông qua sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.
+ Sự đe doạ của sản phẩm, dịch vụ thay thế: do giá cả của sản phẩm hiện tại tăng lên nên khách hàng có xu hướng tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ thay thế. Đây là nhân tố đe doạ sự mất mát thị trường của công ty.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: trong điều kiện này, các công ty cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khách biệt hoá của sản phẩm hoặc việc đổi mới sản phẩm giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường.
- Các yếu tố VH – XH
Các yếu tố văn hoá tạo nên các loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường là nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng sản phẩm cũng như sự tăng trưởng của các đoạ thị trường mới. Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại ở các quốc gia nên các nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định nên hay không nên tiến hành xuất khẩu sang thị trường đó. Điều này trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của doanh nghiệp đối với môi trường văn hoá nước ngoài.
Trong môi trường văn hoá, những nhân tố nổi nên giữ vị trí cực kỳ quan trọng là nối sống, tập quan ngôn ngữ, tôn giáo. Đây có thể coi như là những hàng rào chắn các hoạt động giao dịch kinh doanh xuất khẩu.
-Các yếu tố kinh tế
Muốn tiến hành hoạt động xuất khẩu thì các doanh nghiệp buộc phải có những kiến thức nhật định về kinh tế. Chúng sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được những ảnh hưởng của những doanh nghiệp đối với nền kinh tế nước chủ nhà và nước sở tại, đồng thời doanh nghiệp cũng thấy được ảnh hưởng của những chính sách kinh tế quốc gia đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình.
Tính ổn định hay không ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia nói riêng, các quốc gia trong khu vực và thế giới nói chung có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường nước ngoài. Mà tính ổn định trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Có thể nói đây là những vấn đề mà doanh nghiệp luôn quan tâm hàng đầu khi tham gia kinh doanh xuất khẩu.
- Các yếu tố chính trị.
Các yếu tố chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ là nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có điều kiện để ổn định và phát triển hoạt động xuất khẩu. Chính vì vậy, khi tham gia kinh doanh xuất khẩu ra thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các quốc gia, ở các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động.
-Các yếu tố luật pháp.
Một trong những bộ phận của nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. Vì vậy trong hoạt động xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm và nắm vững luật pháp luật quốc tế, luật quốc gia mà ở đó doanh nghiệp đang và sẽ tiến hành xuất khẩu những sản phẩm của mình sang đó, cũng như các mối quan hệ luật pháp đang tồn tại giữa các nước này.
Nói một cách khác khái quát, luật pháp cho phép doanh nghiệp được quyền kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề, và dưới hình thức nào. Ngược lại, những mặt hàng, lĩnh vực nào mà doanh nghiệp bị hạn chế hay không được quyền kinh doanh. Như vậy, luật pháp không chỉ chi phối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên chính quốc gia đó mà còn ảnh hưởng đến cả các hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
-Các yếu tố khoa học công nghệ
Các yếu tố khoa học công nghệ có quan hệ khá chặt chẽ với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Ngày nay, nhờ có sự phát triển như hũ bão của khoa học, công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp chuyên môn hoá cao hơn, quy mô sản xuất kinh doanh tăng lên, có khả năng đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô. Ttừ đó, doanh nghiệp có thể chống chọi được với sự cạnh tranh gắt trên thị trường quốc tế.
2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc doanh nghiệp là một trong các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung hoạt động xuất khẩu nói riêng. Nó được hiểu như là nền văn hoá của tổ chức doanh nghiệp, được hình thành và phát triển cùng với quá trình vận hành doanh nghiệp. Nền văn hoá doanh nghiệp bao gồm nhiều yếu tố cấu thành: triết lý kinh doanh, tập quán, thói quen, truyền thống, phong cách sinh hoạt, lễ nghị được duy trì sử dụng trong doanh nghiệp.
Tất cả các yếu tố này đã tạo nên bầu không khí, một bản sắc và tinh thần đặc trưng riêng cho từng doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào có nền văn hoá phát triển cao thì sẽ có khí thế làm việc hăng say, đề cao sự sáng tạo, chủ động trung thành. Ngược lại, một doanh nghiệp có nền văn hoá thấp sẽ là sự bàng quan, bất lực hoá đội ngũ lao động của doanh nghiệp.
Do các nhân tố bên trong có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nên ngày nay hầu hết mọi doanh nghiệp đều chú trọng đầu tư đến những yếu tố này.
Các yếu tố bên trong bao gồm:
- Ban lãnh đạo doanh nghiệp: đây là bộ phận đầu não của doanh nghiệp. Ban lãnh đạo là người đề ra mục tiêu, xây dựng những chiến lược, kiểm tra giám sát việc thực hiện các kế hoạch. Vì vậy, trình độ quản lý của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: một cơ cấu tổ chức phù hợp sẽ phát huy được trí tuệ của các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh tập thể đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định, truyền tin và thực hiện sản xuất kinh doanh nhanh chóng hơn nữa, với cơ cấy tổ chức đúng đắn sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt giữa các bộ phận, từ đó có thể giải quyết kịp thời mọi vấn đề nảy sinh.
-Đội ngũ cán bộ công nhân viên: Hầu hết các doanh nghiệp đều nhấn mạnh tầm quan trọng của những nhân viên có năng lực và trình độ trong việc đạt các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì các hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi đã có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về thị trường, đối tác, phương thức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng… muốn vậy, doanh nghiệp phải có được đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu luật pháp quốc tế, có khả năng phân tích, dự báo những biến đổi của thị trường, thông thạo các phương thức thanh toán quốc tế, có nghệ thuật giao dịch đàm phán kỹ kết hợp đồng.
- Các nguồn lực khác: đấy là ht cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như:
+ Văn phòng làm việc
+ Hệ thống nhà xưởng, nhà kho cùng các thiết bị vận tải.
+ Máy móc thiết bị.
+ Tình hình tài chính của doanh nghiệp.
III. Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang mỹ
1. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu.
-Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường ngắn nhất để khắc phục nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên muốn có được điều này phải cần một số vốn lớn để nhập khẩu hàng hoá, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại, nguồn vốn này có thể lấy từ nhiều nguồn như : đầu tư nước ngoài vay nợ, viện trợ … Nhưng nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là thu từ xuất khẩu. Có thể khảng định rằng xuất khẩu quyết định quy mô tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu xuất khẩu và sản xuất thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH-HĐH phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới là một tất yếu đối với nước ta. Có thể nhìn nhận theo hai hướng khác nhau về tác động của xuất khẩu đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sản xuất.
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa .
Trong khi nước ta còn chậm phát triển, sản xuất nói chung còn chưa đủ cho tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động dựa vào sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu mãi mãi nhỏ bé, tăng trưởng thấp. Từ đó, sản xuất và chuyển dịch cơ cấu sẽ diễn ra rất chậm chạp .
Hai là: Coi thị trường mà đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng là để tổ chức sản xuất. Điều này tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà nó thể hiện ở chỗ :
+Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển .
+ Xuất khẩu tạo khả năng để mở rộng thị trường tiêu thụ .
+Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng để đưa vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào Việt Nam để công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước .
+Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về mặt giá cả cũng như chất lượng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn thay đổi để thích ứng với thị trường .
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải tiến đời sống nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại .
2. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam
Như chúng ta đã biết, ngành dệt may có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân bởi vì nó vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng nội địa lại vừa là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của quốc gia nhờ việc xuất khẩu những sản phẩm của ngành .
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 thị trường trên thế giới và tính đến năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 1700 tr USD đứng thứ 3 sau dầu thô và nông sản . Cho đến nay ngành dệt may đã có quan hệ buôn bán với 200.000 công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực và giờ đây hàng dệt may Việt Nam lại có thêm thị trường Mỹ rộng lớn, sức mua cao.
Trong tương lai gần ngành may sẽ còn phát triển không ngừng và sẽ đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân.
Chương II
thực trạng xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường mỹ
i. Vài nét về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thời gian qua .
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh nhưng lợi nhuận thực tế thu được lại nhỏ, ước tính chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Và tính riêng giá trị vải nhập để sản xuất gia công hàng may mặc đã lên tới trên dưới 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, chưa kể đến các loại phụ liệu may khác mà Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công.
Giác độ khác, tuy với Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ giúp hàng dệt may Việt Nam vào thị trường này được hưởng giảm thuế suất nhập khẩu, từ 45% trước đây xuống còn 15% (thuế tính trên giá trị hàng hoá, chứ không tính riêng phần giá trị gia công , vẫn lo ngại rằng sắp tới sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO thì đây sẽ là đối thủ rất mạnh trong canhj tranh về giá hàng hoá bán buôn trên thị trường quốc tế.
Do chưa phải là thành viên WTO nên hàng dệt may Việt Nam đang chịu hai bất lợi lớn so với các nước xuất khẩu là thành viên WTO, còn bị hạn chế bằng hạn ngạch theo các hiệp định song phương kể cả sau năm 2001 (thời điểm chế độ kiểm soát nhập khẩu hàng dệt may bằng hạn ngạch được bãi bỏ hoàn toàn cho các nước thành viên của WTO); chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn ở nhiều thị trường, do các nước phát triển sẽ tăng cường những loại hàng rào phi thuế quan khác để hạn chế bớt việc nhập khâủ sản phẩm từ những quốc gia đang phát triển. Do vậy, từ cơ sở của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, đích đênsawps tới phải là gia nhập WTO. Có như vậy mới giúp được khả năng xuất khẩu sản phẩm dệt - may với số lượng lớn trong tương lai.
Quy hoạch phát triển đến năm 2010.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2005
2010
+ Kim ngạch xuất khẩu
Tr.USD
2.000
3.000
4.000
- Hàng may
Tr.USD
1.630
2.200
3.000
- Hàng dệt
Tr.USD
370
800
1.000
+ Sản lượng
+ Vải lụa thành phẩm
Tr.m
800
1.330
2.000
- Sản phẩm dệt kim
Tr.SP
70
150
210
- Sản phẩm may
Tr.SP
350
480
720
- Sản phẩm may qui chuẩn
Tr.SP
580
780
1.200
II- Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang mỹ.
1. Quy mô và nhịp độ xuất khẩu.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã tăng trưởng không ngừng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (đứng thứ 2 sau dầu thô). Mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoàng tải chính khu vực song kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn tăng trưởng đều, đạt 1,45 tỷ USD trong năm 1998, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 đạt khoảng 1,9 tỷ USD. Tuy nhiên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ - một thị trường tiềm năng lớn - còn rất nhỏ, chỉ đạt 26,4 triệu USD năm 1998, 48 triệu USD năm 1999 và 60 triệu USD năm 2000.
2. Các hình thức xuất khẩu.
Từ khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi mới (từ năm 1989), giá trị xuất khẩu hàng dệt may có tăng lên. Trong đó ngành may có mức độ tăng cao hơn ngành dệt. Ngành dệt may đã chuyển từ thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu sang thị trường phương Tây và châu á. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may hiện nay của Việt Nam bao gồm thị trường có quota và phi quota. Thị trường EU là thị trường xuất khẩu có Quota dệt may Việt Nam bắt đầu xâm nhập thị trường này từ năm 1993 khi hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết và có hiệu lực cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt vào thị trường EU tăng lên hàng năm. Thị trường xuất khẩu phi Quota được mở rộng mạnh trong những năm gần đây. Nhật Bản là thị trường phi Quota lớn nhất. Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc là những nước nhập khá nhiều hàng dệt của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu hàng dệt may sang Nga và các nước Đông Âu nhưng chủ yếu dưới hình thức đổi hàng và thanh toán nợ
Đối với thị trường Mỹ, sản phẩm của ngành dệt may xuất khẩu vào thị trường này có xu hướng tăng nhưng không ổn định. Phần lớn xuất khẩu là hàng may mặc.Bắc Mỹ là một thị trường lớn của thế giới, kim ngạch nhập hàng dệt may hàng năm gần 40 tỷ USD. Dẫn đầu xuất hàng dệt may sang Mỹ là Trung Quốc rồi đến các nước ASEAN. Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ còn rất khiêm tốn. Năm 1994 Mỹ nhập khẩu 2,3 triệu USD sợi và quần áo đứng thứ 19 trong số những nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ và chiếm 0,05 thị phần thị trường Mỹ (nguồn Bộ Thương mại Mỹ). Sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chiếm chủ yếu là quần áo, chiếm tới 98%. Còn hàng sợi dệt còn rất nhỏ. Thị trường Mỹ là một thị trường mới đối với các mặt hàng Việt Nam chính vì vậy mà đã phần nào tác động vào kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và của hàng dệt may nói riêng.
3. Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu.
Mặc dù thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ lớn hơn cả EU, song lâu nay Việt Nam mới xuất khẩu được một số loại vải thô, vải cotton, dệt kim... sang Nhật, Canada, EU với kim ngạch không đáng kể, chủ yếu là gia công và xuất khẩu hàng may mặc, trong đó, mặt hàng áo Jacket luôn chiếm đến 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may đi EI. Nhưng thị trường Mỹ luôn đòi hỏi cập nhật về chất lượng, mẫu mã, chủng loại.
III- Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ.
Nguyên nhân chủ yếu là do hiện nay hàng dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ vẫn phải chịu thuế suất rất cao. Tại Hội thảo "Xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ", do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Công ty Công nghệ Việt - Mỹ và Công ty XNK dệt may, cùng với sự hợp tác của Công ty Luật Russin & Vecchi và Công ty Luật White & Case phối hợp tổ chức ngày 6/11/2000 tại Hà Nội, luật sư Ellen Kerrigan Dry thuộc Công ty Luật Russin & Vecchi cho biết Mỹ có các luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, có hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) và hiện nay đã có trên 10 quốc gia được hưởng GSP khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Cũng cần phải nói rõ rằng các sản phẩm được miễn thuế phải thoả mãn yêu cầu là hàng được xuất khẩu từ chính nước được hưởng GSP và được chế biến toàn bộ sản phẩm hay ít nhất là trên 30% giá trị tăng tại chính các nước này. Trong khi đó, hiện nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng ưu đãi GSP. Việc ưu đãi trên chỉ được thực hiện sau khi Việt Nam đạt được quy chế tối huệ quốc với Mỹ và là thành viên của WTO và IMF.
Bên cạnh trở ngại thuế quan, để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Mỹ, hàng dệt may Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của các hãng sản xuất Mỹ và các nước xuất khẩu truyền thống vào thị trường này như: Trung Quốc, ấn Độ, Băngladet và các nước Nam Mỹ, đặc biệt là Trung Quốc đang có nhiều thế mạnh. Một bất lợi nữa là trong số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì hàng dệt may phải chịu mưchính sách thuế phí rất cao, gần gấp 2,5 lần so với các nước khác. Thêm nữa, cũng cần phải nói lên một thực tế rằng chất lượng hàng dệt may của Việt Nam chưa cao nên đã gặp rất nhiều khó khăn khi thâm nhập vào thị trường Mỹ.
Chương III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường mỹ.
I- Giải pháp từ phía Nhà nước.
Dù trước mắt còn nhiều khó khăn, bất lợi, nhưng cần khẳng định rằng trong tương lai gần khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất lớn và nhu cầu của thị trường này cũng rất lớn. Do vậy, ngay từ bây giờ các Công ty sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp chiến lược để hướng tới và thâm nhập thị trường Mỹ. Theo đó, các giải pháp hàng đầu là: đổi mới và sử dụng công nghệ tiên tiếp, sắp xếp lại quá trình quản lý và sản xuất theo hướng gọn nhẹ và linh hoạt, đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý; tổ chức hệ thống thông tin kịp thời về nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị trường, mà một trong các phương pháp tiếp cận là ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiến độ tham gia thương mại điện tử, tiếp thị sản phẩm, chủ động trong khâu vận chuyển, đơn giản hoá thủ tục, lành mạnh hoá tài chính; thiết lập đầu mối thương mại và chuẩn bị đối tác kinh doanh trên thị trường Mỹ. Theo các chuyên gia kinh tế, để tối ưu hoá lợi nhuận từ xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tìm kiếm các hợp đồng để trở thành nhà thầu cung cấp thay vì làm gia công. Ký hợp đồng thầu cung cấp cho các Công ty bán lẻ sẽ là phương án tối ưu đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam. Xu hướng tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài của Công ty bán lẻ và chuyển dịch sản xuất sang các nước có chi phí nhân công thấp của các nhà sản xuất Mỹ hiện nay sẽ là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác và tiếp cận thị trường Mỹ dễ hơn; các cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội các nhà sản xuất hàng may mặc Việt Nam cần có vai trò tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin và tìm kiếm thị trường, giới thiệu đối tác coh các doanh nghiệp, Hiệp hội cần đóng vai trò cơ quan điều phối trên cơ sở tự nguyện, điều tiết số lượng và mức giá giữa các doanh nghiệp xuất khẩu để tránh tình trạng cạnh tranh nội bộ, gây thiệt hại cho chính các doanh nghiệp.
Trên thực tế, hiện nay nhiều Công ty dệt may của Việt Nam đã có những chương trình tăng tốc độ đầu tư để chuẩn bị nguồn hàng, nhằm khi có qui chế quan hệ bình thường giữa Việt Nam và Mỹ thì đã có sẵn nguồn hàng và thị trường. Đặc biệt có một số Công ty thuộc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam như: Dệt Thành Công, Dệt Việt Thắng, May Thăng Long, Dệt Hà Nội, Dệt Thắng Lợi... đã chấp nhận bán hàng vào Mỹ với giá hoà vốn, thậm chí chịu lỗ một chút, nhằm tạo hệ thống bán hàng trước ổn định để chờ đến khi có quan hệ bình thường sẽ đẩy mạnh hoạt động. Bên cạnh đó, Tổng Công ty Dệt may Việt Nam cũng đang tích cực xây dựng kế hoạch tiếp thị vào thị trường Mỹ với 5 chương trình cụ thể gồm: tích cực củng cố, qui hoạch và đầu tư thêm các dây chuyền sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài đã quen làm ăn với thị trường Mỹ để sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ, tích cực tìm kiếm khách hàng và xây dựng hệ thống xuất khẩu đi Mỹ một cách nhanh chóng và hiệu quả, xây dựng trang Web nhằm tiếp thị và thu nhập thông tin thị trường Mỹ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam qua Mỹ nhằm xúc tiến, chào hàng và mở rộng quan hệ với các đối tác Mỹ. Ngoài ra, Tổng Công ty cũng xác định những mặt hàng có ưu thế cạnh tranh vào Mỹ, xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế như: SA 8000, ISO 14000 và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ kinh doanh nhằm chuyển đổi từ may gia công sang bán FOB để tránh nhiều rủi ro. Mục tiêu lớn là phấn đấu sau ba năm khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua, Việt Nam phải xuất khẩu vào Mỹ được 1 tỷ USD hàng dệt may.
Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong toàn ngành thì vấn đề quan trọng nhất là vai trò của chính phủ Việt Nam trong việc đàm phán với chính phủ Mỹ nhằm xoá bỏ mọi rào cản như đã nêu trên. Theo đó, chính phủ nên khuyến khích hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất thấp đối với các Công ty mạnh dạn xâm nhập vào thị trường Mỹ khi hàng Việt Nam chưa được hưởng đầy đủ, bình đẳng những ưu đãi từ GSP và NTR nhằm xây dựng hệ thống phân phối và mở rộng thị trường tiêu thụ, nhằm tạo tiền đề tốt cho sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu và khẳng định tên tuổi, uy tín cùng sức cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt - may tại thị trường Mỹ nói riêng và trên thị trường quốc tế nói chung.
Ii. giải pháp từ phía các doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc xâm nhập thị trường Mỹ.
Thị trường Mỹ đã mở ra một cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam xâm nhập. Nhưng cơ hội này không tự bản thân nó đến dễ dàng với ta mà đòi hỏi mỗi chúng ta phải chủ động tìm kiếm. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp thuộc ngành khác nói chung từ trước đến nay đã quen với cơ chế xin cho, cơ chế này đã gây cho doanh nghiệp những bước đi không chủ động. Các doanh nghiệp luôn luôn trông chờ vào các chính sách của nhà nước mà những chính sách này thì thay đổi rất chậm chạp. Bởi vậy để có thể thành công trên thị trường Mỹ - một thị trường vô cùng linh hoạt thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực rất lớn. Chủ động ở đây còn bao hàm cả vấn đề nguyên vật liệu. Nếu chúng ta quá lệ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu ở một số ít thị trường thì khi có những biến động trên thị trường như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn rất nhiều trong sản xuất vì đa số ngành may Việt Nam sử dụng sợi vải nhập khẩu từ nước ngoài. Cần tiến tới giảm bớt khoảng cách giữa ngành dệt và may để ngành dệt có thể sản xuất nguyên vật liệu cung cấp cho ngành may. Chủ động đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng đội ngũ làm công tác thị trường năng động và vững mạnh, lập các văn phòng giao dịch tại các thành phố lớn tại Mỹ để đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, chọn các kiốt phân phối và tiêu thụ, tăng cường quảng cáo khuyếch trương nhằm nâng cao uy tín nhãn hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường Mỹ.
2. Tìm hiểu kỹ hệ thống luật pháp phức tạp của Mỹ.
Để triển khai quan hệ kinh tế – thương mại với Mỹ một cách có hiệu quả, trước tiên cần hiểu rõ luật pháp của Mỹ và cách thức điều hành hoạt động kinh tế đối ngoại Mỹ.
Nước Mỹ có một hệ thống pháp luật phức tạp. Luật của các bang là khác nhau. Có thể lại là trái ngược nhau. ở nước Mỹ có nhiều các hệ thống luật lệ khác nhau. Muốn xuất khẩu hàng vào thị trường Mỹ các nhà doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm tới luật về trách nhiệm sản phẩm (Product Libility Law) quy định nhà sản xuất và người bán hàng phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm có ý gây hại cho người tiêu dùng, hệ thống luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng nhằm đảm bảo cho họ được thông tin đầy đủ về hàng hoá và khi sử dụng hàng thì được bảo hành trong thời gian quy định. Luật chống độc quyền, luật chống phá giá. Bằng cách nào mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm hiểu được những quy định của pháp luật Mỹ đó là thông qua mạng thông tin toàn cầu Internet, qua các văn phòng xúc tiến thương mại. Nói chung Mỹ là nước thể chế hoá chặt chẽ quyền lợi của người tiêu dùng nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh trong một xã hội văn minh.
Trong những năm của thập kỷ 90, ngành dệt may có tốc độ phát triển không ổn định, tốc độ tăng trưởng đạt 13% năm 1994, sau giảm xuống dưới 1% vào năm 1995 và lại tăng lên 14% năm 1997. Tốc độ phát triển không đều nói trên một phần là do sự yếu kém của của ngành dệt trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước của các sản phẩm dệy may Việt Nam so với sản phẩm dệt ngoại, phần khác là do thiếu nguồn vốn nhập trang thiết bị và nguyên liệu cho sản xuất vào những năm 1995 và 1996.
Đặc biệt là tỷ trọng giá trị tổng sản lượng ngành dệt trong GDP có xu hướng giảm dần, chiếm gần 4% GDP năm 1993 xuống còn gần 2% GDP năm 1998 và trong ngành dệt may cũng phản ánh xu hướng này. Mặc dù dệt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong ngành dệt may nhưng tỷ trọng của ngành dệt đã giảm đi rất nhiều từ gần 80% năm 1993 xuống còn 6% năm 1998.
Tình trạng công nghệ lạc hậu đã làm cho ngành dệt không có khả năng đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của nguyên liệu đầu vào cho ngành may, ngành may phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, và như vậy đất nước mất đi nhiều cơ hội cho sản xuất thay thế nhập khẩu trong khâu sử dụng khá nhiều lao động của ngành dệt.
3. Các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế.
Xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế như SA 8000, ISO 14000 áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao và ổn định hơn nữa nó còn giảm được chi phí trong quá trình sản xuất, do vậy sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Giá cả của sản phẩm hàng dệt may Việt Nam xuất vào Mỹ thường có giá cao và phải qua nhiều trung gian nếu hạ thấp được giá thành thì sẽ tăng được sức cạnh tranh. Hệ thống quản lý chất lượng quốc tế được áp dụng không những có lợi cho doanh nghiệp mà còn cho đông đảo người tiêu dùng. Thị trường Mỹ không giống với thị trường trong nước ở đây yếu tố chất lượng là một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Tin tưởng quan hệ Việt Mỹ sẽ phát triển tốt đẹp. Hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng hoà bình độc lập dân tộc tôn trọng luật pháp quốc tế vì sự hoà bình ổn định của khu vực cũng như trên toàn thế giới.
tài liệu tham khảo
1. Thương nghiệp thị trường Việt Nam số 7 - 2000
2. Lao động và xã hội số 1996 ( từ 1-15/8/2002)
3. Thương mại số 10 - 2002.
4. Kinh tế dự báo số 27
5. Thương mại số 18 - 2002
6. Thương mại số 7 - 2002
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I- Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu 2
I- Khái niệm và các hình thức xuất khẩu 2
1. Khái niệm và mục đích 2
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 2
II- Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu 4
1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 4
2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 7
III- Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ 8
1. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu 8
2. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam 10
Chương II- Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ 11
I- Vài nét về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thời gian qua 11
II- Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ 12
1. Quy mô và nhịp độ xuất khẩu 12
2. Các hình thức xuất khẩu 12
3. Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu 13
III- Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ 14
Chương III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 15
I- Giải pháp từ phía Nhà nước 15
II- Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 17
1. Doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc xâm nhập thị trường Mỹ 17
2. Tìm hiểu kỹ hệ thống luật pháp phức tạp của Mỹ 18
3. Các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế 19
Tài liệu tham khảo 20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35308.doc