Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, không có sự cạnh tranh nên những rủi ro kinh doanh không được quan tâm, trú trọng đến. Do vậy nhiều yếu tố then chốt trong hoạt động quản lý NH, bao gồm hầu hết các yếu tố trong hoạt động quản lý rủi ro không được chú ý thích đáng, các hoạt động của mỗi chi nhánh nngân hàngđược thực hiện theo những chỉ thị nghiệp vụ chính xác nhằm đảm bảo sự hoạt động thống nhất và nhất quán từ trên xuống tận cơ sở. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được xem như là yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Người ta khẳng định rằng, NH phải đối phó với các rủi ro từ mọi nguồn gốc, trong đó rủi ro tín dụng gắn với hoạt động chính của NH. NHVN chưa phát triển, chưa ốn định, hành lang pháp lý chưa đầy đủ, hợp lý và thống nhất, trình độ cán bộ còn thấp do vậy rủi ro tín dụng trong thời gian qua trở nên rất bức bách, vấn đề nợ quá hạn là vấn đề đáng được quan tâm nhất hiện nay cần được giải quyết. Nhà nước và ngành NH cũng đã sớm có những biện pháp khắc phục và xử lý, nên đã hạn chế, giảm bớt được phần nào tình trạng nợ quá hạn này, tuy nhiên vẫn còn có nhiều khó khăn và bất cập. Hy vọng rằng trong thời gian tới, nhà nước cũng như hệ thống NH có những chính sách, những biện pháp hiệu quả hơn để giải quyết triệt để tình trạng trên để nhằm làm lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống NHTM, thúc đẩy hệ thống NHTM ngày càng phát triển hơn góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước.
55 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp xử lý và hạn chế nợ quá hạn trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện được, mà kết quả của cuộc kiểm tra đó chỉ là để rút kinh nghiệm hoặc là sửa chữa qua loa vì nó đã qua. Việc thanh tra kiểm tra nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của đơn vị nhằm hạn chế thiệt hại trong công tác tín dụng là cần thiết, nhưng cũng cần tránh phiền hà vì có khi hết đoàn nọ đến đoàn kia nối tiếp xuống đơn vị sẽ tạo ra sự căng thẳng và mệt mỏi cho đơn vị...
Ngay trong bản thân các ngân hàng thương mại thiếu sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại chỗ đối với cán bộ thừa hành và cán bộ quản lý điều hành nghiệp vụ tín dụng. Nhiều ngân hàng chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ tín dụng, chỉ đạo thực hiện quy trình chưa nghiêm, kém hiệu lực và còn nhiều sơ hở, thậm chí có những sai phạm.
Nói tóm lại, trình độ nhận thức và năng lực quản lý tín dụng của cán bộ ngân hàng còn có những biểu hiện của sự yếu kém do đó đã dẫn đến rủi ro tín dụng, nợ quá hạn ngày càng tăng.
ChươnG III :
Những bất cập và khó khăn trong việc giảI quyết và xử lý nợ quá hạn trong hệ thống NHTM
I- Những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết và xử lý nợ tồn đọng trong hệ thống NHTM hiện nay:
1- Thực trạng giải quyết và xử lý nợ tồn đọng trong các NHTM VN hiện nay:
Trong thời gian gần đây, khi đánh giá về tình hình kinh tế và đề ra định hướng phát triển đối với lĩnh vực ngân hàng, Đảng và chính phủ thường nêu lên thực trạng nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng và định hướng khẩn trương để có biện pháp xử lý thực trạng này. Trong chương trình củng cố hệ thống ngân hàng VN ký giữa IMF, WB với chính phủ VN cũng có nội dung về giải quyết nợ quá hạn của các ngân hàng. Ngay từ năm 1998, thủ tướng chính phủ đã có những quyết định số 243/ QĐ-TTg về chương trình hành động thực hiện nghị quyết TW 6 (lần 1) và nghị quyết số 06 của Bộ Chính Trị, trong đó có nội dung riêng về việc áp dụng các biện pháp làm giảm tỷ lệ nợ khê đọng của các ngân hàng, thực hiện các biện pháp xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp các đơn vị vay mất khả năng trả nợ. Hơn nữa NHNN VN cũng đã rất nỗ lực, không ít lần dự thảo thông tin liên tịch với các bộ, các ngành có liên quan về việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ và mới đây là dự án thành lập tổ chức mua bán nợ tồn đọng của các ngân hàng VN. Mặc dù vậy trong năm 1999 tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng giảm không đáng kể, và vẫn chưa có gì để đảm bảo rằng tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng giảm xuống trong thời gian tới. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng trên là do các văn bản pháp luật liên quan đến xử lý nợ tồn đọng của các NHTM còn bất cập so với thực tế và chưa đồng bộ, nhất quán. Cho nên trong quá trình xử lý nợ quá hạn, các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc và thiếu sự hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời của các bộ, các nghành có liên quan. Cụ thể có các nguyên nhân chính sau:
2- Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nợ tồn đọng hiện nay:
+ Công tác thi hành án còn chậm. Sự ách tắc về xử lý nợ tồn đọng của các NHTM được thể hiện rõ qua từng vụ việc cụ thể mà điển hình là vụ việc xử lý tài sản để thu nợ trong vụ án Epco – Minh Phụng. Theo bản án quyết định có hiệu lực của toà án thì phần lớn số tiền, tài sản phải thu để trả nợ ngân hàng là khoảng 3.696.500 triệu đồng; 47,470.057 USD và 445,5 lượng vàng SJC. Song đến nay số tiền thu được chi trả cho các ngân hàng thông qua việc thi hành án là khoảng 77.597 triệu VNĐ và 42,6 lượng vàng. Số tài sản thế chấp phải giao cho các ngân hàng quản lý, khai thác, phát mại để thu hồi trong đó có 254 hạng mục tài sản gồm nhà xưởng, kho tàng, văn phòng, nhà ở. Trên cơ sở tính toán số tiền trên mà các tổ chức, cá nhân phải trả cho ngân hàng theo bản án, quyết định có hiệu lực nói trên của toà án, các chuyên gia kinh tế cho rằng các ngân hàng không có khả năng thu đủ số tiền 3.696 tỷ VNĐ sau khi đã khấu trừ tài sản thế chấp (là khoản hải thu sau khi đã giao toàn bộ danh mục 254 đơn vị tài sản thế chấp). Chỉ tính số tiền mà 5 bị cáo Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, Nguyễn Tấn Phúc, Nguyễn Ngọc Bích, Phạm Nhật Hồng phải thi hành án đã lên tới 3.357 tỷ đồng chưa kể các án phí và các tài sản khác, trong khi các bị cáo này đã phải chịu hình phạt tử hình hoặc trung thân và toàn bộ tài sản đã được tính vào các khoản nợ ngân hàng. Do vậy số tiền phải thu còn lại trên 3618 tỷ VNĐ rất khó có khả năng thi hành.
Thực tế mặc dù bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật và đã có đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng (người được thi hành án), nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa tổ chức thi hành với lý do bản án, quyết định của toà án chưa rõ ràng hoặc những lý do khác. Do đó ngân hàng phải chờ cơ quan thi hành qua đề nghị toà án giải thích rõ bản án, quyết định có hiệu lực để dễ tổ chức thi hành. Thời gian chờ đợi này phải kéo dài đến hàng tháng thậm chí phải chờ đợi đến nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án. Vì vậy việc ngân hàng thu hồi nợ thông qua công tác thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của toà án là rất chậm.
Mặt khác nhiều trường hợp cơ quan thi hành án đã tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của toà án và giao tài sản cho ngân hàng tự xử lý để thu hồi nợ, nhưng các ngân hàng không thể tự xử lý được những tài sản đó vì hồ sơ pháp lý của tài sản đó chưa đầy đủ. Để hoàn thiện được hồ sơ pháp lý của tài sản, thì ngân hàng không chỉ mất nhiều công sức và tiền bạc mà còn gặp không ít những rắc rối và phiền toái. Chẳng hạn như theo ông Trần Kim Hoà, trưởng phòng ban quản lý và khai thác tài sản của ICB, thì có những giấy tờ về tài sản đã được cơ quan công chứng nhà nước tại TP. Vũng Tàu chứng nhận, nhưng cơ quan công chứng nhà nướcTP. Hồ Chí Minh lại không công nhận mà yêu cầu ICB đề nghị NHNN phối hợp với bộ tư pháp cùng giải quyết. Theo các chuyên gia ngân hàng thì sở dĩ nhiều tài sản đảm bảo nợ vay được giao từ các vụ án chưa hoàn thiện các hồ sơ pháp lý là do trong khoảng thời gian dài, nước ta buông lỏng việc quản lý đất đai và công tác xây dựng. Cho nên hầu hết nhà ở và quyền sử dụng đất thế chấp của khách hàng vay đều chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp. Thực tế cho đến nay số người được cấp giấy chứng nhận quyền sử đất còn rất ít chiếm khoảng 15% trên dân số cả nước. Do đó khi được giao những tài sản này, ngân hàng không thể xử lý để thu hồi vốn theo quy định của pháp luật được. Vì vậy việc sử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng cần có sự quan tâm thích đáng của chính phủ và sự hỗ trợ giúp đỡ của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các ngành có liên quan.
+ Quy định về trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro còn nhiều bất cập.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp vay đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và không còn hoạt động kinh doanh nữa, nhưng ngân hàng vẫn không được sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong những trường hợp đó. Bởi theo quy định của quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của thống đốc NHNN thì một trong những điều kiện để tổ chức tín dụng được sử dụng dự phòng sử lý rủi ro là khi khách hàng vay bị giải thể hoặc phá sản. Mặt khác nếu căn cứ vào quy định của luật phá sản hiện hành thì các doanh nghiệp nói trên đã đủ điều kiện để toàn án ra quyết định tuyên bố phá sản. Nhưng thực tế thì thi hành luật phá sản doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nên cho đến nay, ít doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Theo số liệu không chính thức của ngành toà án thì kể từ khi luật phá sản có hiệu lực cho đến nay (gần 8 năm), toà án tại thành phố Hà Nội và TP. HCM – Nơi có số doanh nghiệp lớn nhất trong cả nước mới chỉ tuyên bố phá sản dưới 20 doanh nghiệp. Chính vì vậy một số chuyên gia pháp luật cho rằng thực tế nhiều doanh nghiệp “chết” mà không được “chôn”. Sự tồn tại trên giấy tờ của các doanh nghiệp này đã buộc các ngân hàng phải tính lãi, không được khoanh nợ, xoá nợ và không được sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro. Hậu quả là nợ quá hạn của các ngân hàng ngày càng cao. Trong khi thực tế doanh nghiệp vay đã “chết” và không bao giờ có khả năng trả được nợ cho ngân hàng nữa.
+ Hoạt động tín dụng còn nhiều sơ hở dẫn đến khả năng rủi ro tín dụng khá lớn. Đây là điểm yếu cơ bản nhất hiện nay của các NHTM nói chung và của NHTM cổ phần nói riêng.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất của NHTM cổ phần, NH cần phải làm ra được nhiều lợi nhuận cho các cổ đông, chính vì vậy nhiều tổ chức tín dụng cổ phần đôi khi làm sai cả luật pháp, đạo đức kinh doanh ngân hàng, vi phạm pháp lệnh ngân hàng. Hơn nữa NHTM cổ phần là mô hình mới trong hệ thống NHTM VN. Hiện nay hệ thống này vừa vận hành vừa rút kinh nghiệm để định hình. Do vậy có những sai lệch là điều tất nhiên, nhưng việc phát hiện những sai lệch còn rất chậm, đồng thời việc ban hành các quy định nhằm kịp thời chỉnh sửa những sai lệch đó còn rất chậm chạp. Bản thân ban kiểm sát của các NHTM cổ phần còn yếu kém, thậm chí ban kiểm soát ở một số ngân hàng gần như không có tác dụng. Nếu như tất cả ban kiểm soát của các NHTM cổ phần hoạt động tốt thì không thể có chuyện về vốn cổ phần, chất lượng tín dụng cũng không thể có nhiều tồn tại như vừa qua.
Điểm yếu của các NHTM cổ phần là vi phạm các quy định của pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính về mức tối đa cho một khách hàng vay hay 10 khách hàng vay cao nhất. Tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng thiếu đầy đủ các yếu tố pháp lý, định giá không đúng giá thực tế trên thị trường, khó xử lý khi xảy ra rủi ro hoặc các vấn đề tranh chấp trong khi xử lý thu hồi nợ vay khi các ngân hàng cùng đều tiến hành cho vay. Do đó nợ thu được bằng tài sản xiết nợ đang là gánh nặng không chỉ đối với NHTM quốc doanh mà ngay cả với NHTM cổ phần. Chính vì vậy, Trong tình hình nợ quá hạn, nợ khó thu hồi của các NHTM đang chiếm một tỷ lệ lớn trên báo cáo cân đối, nợ quá hạn chiếm khoảng 15% trong đó NHTM cổ phần chiếm tới 60%, còn NHTM quốc doanh chỉ chiếm 40%.
Trước tình hình này thì tính cộng đồng của các tổ chức tín dụng lại thể hiện một sự yếu kém, chế độ thông tin không được cung cấp và thông báo một cách kịp thời và trung thực nên dẫn đến một số trường hợp cho vay trùng lặp, hoặc có nhiều trường hợp nhân viên tín dụng không nắm đầy đủ được thực trạng tài chính của khách hàng vay vốn nên khả năng thu hồi vốn là rất thấp là điều tất nhiên. Ngay cả chế độ thông tin tín dụng được đăng ký tại CIC chỉ chiếm khoảng 70% tổng dư nợ thực sự của các tổ chức tín dụng.
Phải công bằng mà nhìn nhận rằng, trong thời gian qua, các NHTM đang
trong quá trình chấn chỉnh hoạt động mà trọng tâm là hoạt động tín dụng, nên có nhiều cố gắng nhằm hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh và có nhiều biện pháp để thu hồi, xử lý nợ quá hạn cũ.Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong năm 2001 vẫn đạt tốc độ tăng trưởng tương đối khá,đây là tiền đề quan trọng để cho các ngân hàng có tiền đề để xử lý nợ tồn đọng, cơ cấu lại tài chính. Hơn nữa cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản đã được nhà nước từng bước tháo gỡ, các ngành các cấp bước đầu tạo điều kiện để ngân hàng xử lý thu hồi nợ, thị trường bất động sản chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi đã tạo điều kiện cho công tác khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay tồn đọng của ngân hàng được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn cao, vào những tháng cuối năm 2001 nợ quá hạn của toàn hệ thống NHTM đang ở mức trên dưới 10% tổng dư nợ, đó là không kể những khoản nợ đã được xử lý, tức là đã khoanh và xoá vì lý do bất khả kháng. Hơn nữa trên thực tế số nợ quá hạn của các NHTM, đặc biệt là các NHTM cổ phần lại còn lớn hơn rất nhiều, bên cạnh đó thì công tác xử lý các khoản tồn đọng cũ còn gặp rất nhiều khó khăn và bế tắc, đây cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến cho việc huy động và cho vay của hệ thống NHTM bị hạn chế. Ông Lê Đức Thuý- Thống đốc NHNN đã tuyên bố: “ Từ nay đến năm 2001, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng là tăng cường huy động vốn để đáp ứng cho nhu cầu tín dụng của nền kinh tế”. Mà để đạt được mục tiêu huy động và cho vay đối với nền kinh tế, nhiều chuyên gia NH phân tích rằng, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn ngành ngân hàng là phải xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này thì ngành ngân hàng buộc phải triển khai kiên quyết và khẩn trương đề án cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của hệ thống NHTM nhà nước, đề án về chấn chỉnh và sắp xếp NHTM cổ phần, đề án chấn chỉnh và củng cố, phát triển quỹ tín dụng nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng đến đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM.
Có thể nói rằng, việc xử lý thu hồi nợ quá hạn đang vướng mắc ngay từ hệ thống văn bản luật, pháp lệnh... đến các văn bản khác thấp hơn, vướng ngay từ cách thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan pháp lý. Bên cạnh các khoản nợ khó thu hồi và phải trông chờ vào các cơ chế pháp lý thì vốn tồn đọng của các ngân hàng còn nằm trong các tài sản mà ngân hàng đã nhận để gán nợ, trừ nợ. Có những tài sản đã thuộc sở hữu của ngân hàng, có tài sản ngân hàng chỉ quản lý để chờ phát mại. Có những tài sản có thể khai thác được và có những tài sản không thể khai thác được, mà ngày càng giảm giá và xuống cấp, các tài sản này chủ yếu là bất động sản. Các tài sản này nếu không được chuyển hoá thành tiền thì các ngân hàng sẽ không có vốn kinh doanh, chi phí tăng, lợi nhuận sẽ giảm. Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến khó tiêu thụ, chuyển hoá các tài sản này thành tiền có thể khái quát như sau:
Các tài sản ngân hàng nhận gán nợ, xiết nợ có giá quá cao, cao hơn giá thị trường.
Việc làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua rất khó khăn và phức tạp. Tâm lý từ phía xã hội e ngại, không thích tài sản bị xiết nợ, bắt nợ.
Nhiều tài sản không có giấy tờ sở hữu hợp pháp.
Có nhiều tài sản bị tranh chấp vì người vay thế chấp cho nhiều chủ nợ.
Có những tài sản bán được nhưng không đủ tiền thu gốc, lãi. Người vay xin trả gốc trước còn lãi treo lại hoặc xin miễn lãi.
Nhiều nơi chi phí cho việc phát mại tài sản khá nhiều không biết hạch toán như thế nào…
Nói tóm lại, đối với các tài sản tồn đọng ngân hàng đang nắm giữ thì bản thân thị trường hiện nay đang rất khó hấp thụ.
Tổ chức mua bán nợ tồn đọng của NHNN có mục tiêu là giải phóng vốn tồn đọng nằm trong các khoản nợ khó đòi (Có tài sản đảm bảo hoặc không có tài sản đảm bảo) và các tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản gán xiết nợ mà các ngân hàng đang nắm giữ. Nếu chỉ dừng lại ở mức chuyển các khoản nợ khó đòi, các tài sản tồn đọng từ ngân hàng sang tổ chức này thì không giải quyết được gì nhiều, mới chỉ giúp cho các ngân hàng dành công sức cho các hoạt động kinh doanh mới. Nếu không có giải pháp để tổ chức này thu hồi được nợ thì thực chất chỉ là chuyển nợ từ chỗ này sang chỗ khác, chuyển tiền từ túi này sang túi kia. Mà thu hồi được nợ thì một nghị định thành lập tổ chức này không giải quyết được các vướng mắc đã trình bày ở trên.
Như vậy, xuất phát điểm của xử lý nợ tồn đọng là phải xây dựng được một cơ chế pháp lý để bảo vệ được quyền của ngân hàng trong hợp đồng tín dụng một cách có hiệu quả. Đồng thời bên cạnh đó phải có các biện pháp kích thích thị trường bất động sản, có các giải pháp khuyến khích việc mua các tài sản tồn đọng của ngân hàng như: Đơn giản về thủ tục, giấy tờ, ưu đãi về thuế, lệ phí....
+ Lãi xuất nợ quá hạn không phù hợp với xu hướng tự do hoá và không có căn cứ khoa học.
Một xu hướng được đánh giá cao trong chính sách lãi suất của NHNN qua 7 năm tiến hành đổi mới là tự do hoá lãi suất. Cùng với quá trình tự do hoá lãi suất, các NHTM được mở rộng quyền tự định đoạt các mức lãi suất của mình. Diễn biến của quá trình tự do hoá lãi suất ở nước ta như sau:
Trước 1992: NHNN quy định các mức lãi suất cho vay và các mức lãi xuất tiền gửi cụ thể cho từng đối tượng.
1992-1995: NHNN quy định mức lãi xuất cho vay tối đa và các mức lãi xuất tiền gửi. Trong giới hạn đó NHTM được quyền quyết định biểu lãi suất cho vay cụ thể, mềm dẻo, linh hoạt theo nhu cầu của thị trường.
Từ 1/1/96: NHNN chỉ còn quy định lãi xuất cho vay tối đa và mức chênh lệch tối đa giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất tiền gửi cụ thể do các NHTM quyết định căn cứ vào cung và cầu về vốn trên thị trường. Rất đáng tiếc rằng quy định về lãi xuất nợ quá hạn lại không tuân theo xu hướng tự do hoá mà ngược lại, từ tháng 10/1996, nó trở thành quy định cứng nhắc, lãi suất nợ quá hạn là những con số cụ thể. Như vậy có nghĩa là từ chỗ trước kia các NHTM ở chừng mực nào đó có quyền định đoạt mức lãi suất nợ quá hạn tuỳ từng trường hợp, từng đối tượng khách hàng thì nay các ngân hàng TM phải áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn thống nhất đối với tất cả các khách hàng có nợ quá hạn. Điều này thể hiện sự thu hẹp quyền tự quyết của các NHTM, tình hình này là đi ngược với xu hướng tự do hoá lãi suất.
+ Quy định lãi suất nợ quá hạn hiện hành là thiếu căn cứ khoa học. Liệu có cơ sở gì để giải thích được vì sao lãi suất nợ quá hạn lại được xây dựng trên cơ sở 150% lãi suất bình thường cùng loại hay 150% mức trần lãi suất cho vay cùng loại? Tại sao lại không phải ở mức 130% hay 160%? Phải chăng đây là con số mà ở thời điểm lịch sử nào đó nó được đưa ra một cách ngẫu nhiên và rồi theo kinh nghiệm, nó được lưu lại ở hết quyết định này rồi đến các quyết định khác. Một chỉ tiêu trong văn bản pháp quy, như mức lãi suất nợ quá hạn trong quyết định về lãi suất của NHNN, mang tính pháp luật và có vai trò điều chỉnh hoạt động kinh tế trong một phạm vi nhất định. Vì vậy không thể để nó tồn tại một cách tình cờ. Đã đến lúc cần phải xây dựng chỉ tiêu này mà xuất phát từ nội dung kinh tế của nó.
Những quy định, chính sách về lãi xuất nợ quá hạn hiện hành để lại những vướng mắc trong thực tiễn:
Với quy định hiện hành thì định kỳ các NHTM phải tính toán lãi
không thu được của tất cả các khoản nợ quá hạn và hạch toán ngoại bảng. Hiện nay nợ quá hạn trong hệ thống NHTM là vấn đề lớn và phức tạp, ở các NHTM quốc doanh hiện nay còn tồn tại rất nhiều khoản cho vay theo chỉ đạo của chính phủ không thu hồi được từ thời bao cấp. Tổng các khoản nợ quá hạn loại này ở riêng ngân hàng ngoại thương bằng với số vốn được cấp, vốn bổ sung và các quỹ của ngân hàng ngoại thương. Ngoài ra do từ trước tới nay chưa có cơ chế trích lập quỹ từ chi phí để bù đắp rủi ro tín dụng nên ở các NHTM xảy ra tình trạng lãi thu được thì vẫn thực hiện nộp vào ngân sách, trích lập các quỹ, chia lợi nhuận cổ phần... Song lại tồn tại những khoản tín dụng rủi ro quá hạn. Thực chất những khoản cho vay nêu trên là những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi và chưa có biện pháp tháo gỡ. Bản thân sự tồn tại trong thời gian dài những khoản nợ này hết sức phi lý, vì vậy việc kiên trì áp dụng mức lãi xuất quy định để tính lãi những khoản nợ không có khả năng thu hồi lại càng phi lý hơn. Hiện nay việc các NHTM định kỳ buộc phải tính lãi không thu được của những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi theo quy định lãi suất nợ quá hạn hiện hành là hoàn toàn hình thức và vô nghĩa.
+ Pháp luật không phù hợp: Như chúng ta đã biết, quan hệ tín dụng của NH với khách hàng là quan hệ hợp đồng, khi khách hàng vay vốn không trả nợ đúng hạn tức là hợp đồng bị vi phạm, việc giải quyết thu hồi nợ lúc này mang tính chất xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Khi người vay không tự nguyện trả nợ thì buộc ngân hàng phải sử dụng công cụ pháp luật để giải quyết.
Theo quy định của pháp luật thì chỉ có một số cách thức, thủ tục nhất định. Các thủ tục đựơc xác định theo các mối quan hệ của ngân hàng và khách hàng:
+ Nếu quan hệ của ngân hàng và khách hàng là quan hệ hợp đồng kinh tế thì việc giải quyết theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
+Nếu quan hệ tín dụng là hợp đồng dân sự thì việc giải quyết theo quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
+ Nếu quan hệ tín dụng liên quan đến tội phạm thì việc giải quyết theo quy định của bộ luật tố tục hình sự.
+Nếu khách hàng vay lâm vào tình trạng phá sản thì quan hệ tín dụng được giải quyết theo quy định của luật phá sản.
Cả 4 trường hợp này cơ quan có thẩm quyền phán quyết đều là toàn án, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thì việc thi hành án do cơ quan thi hành án thực hiện. Ngoài các thủ tục trên, việc giải quyết bằng thủ tục hành chính đã được chính phủ quy định qua việc thành lập ban thanh toán công nợ trong thời điểm trước đây. Đây chỉ là biện pháp mạng tính chất tình thế trong một thời điển lịch sử nhất định.
Ví dụ: Số liệu nợ quá hạn trong hệ thống NHTM của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Chỉ tiêu
Tỷ lệ
1. Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế
2.118.409
Nợ quá hạn, trong đó:
400.747
18,92%
+ NQH dưới 6 tháng
8.873
0,42%
+ NQH 6 tháng đến 1 năm
2.389
0,11%
+ NQH trên 1 năm
37.919
1,78%
+ Nợ chờ xử lý
11.856
0,6%
+ Nợ được chính phủ khoanh
339.710
16,04%
Tài sản xiết nợ chưa bán được
(Đã hoạch toán giảm dư nợ)
150.000
Qua số liệu trên ta có một số nhận xét như sau:
+ Tổng số nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước là 334,12 tỷ kể cả nợ khoanh, chiếm 85,8% tổng nợ quá hạn trên địa bàn và đang ở mức bằng 30,4% so với tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước, trong đó có một số đơn vị có nợ quá hạn 100%.
+ Hầu hết số nợ quá hạn tồn đọng tại các NHTM hiện nay là các khoản nợ khó đòi phát sinh từ những năm 1995 trở về trước, chưa được các cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đúng mức, mặc dù chính phủ và ngành ngân hàng cũng đã có những chủ trương hỗ trợ các NHTM giải quyết các nợ tồn đọng để làm trong sạch hoạt động tín dụng ngân hàng. Có thể nói áp lực của xã hội đang đòi hỏi ngành ngân hàng nhanh chóng khắc phục, xử lý nhanh để giảm thấp số nợ quá hạn. Tuy nhiên trong cơ chế hiện nay thì đây là một vấn đề khá phức tạp, nan giải, không thể chỉ ngày một ngày hai mà có thể xử lý dứt điểm được và cũng không thể nội thân ngành ngân hàng có đủ khả năng giải quyết xử lý các trường hợp:
Đối với các khoản nợ quá hạn cũ từ những năm trước của các doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp kinh tế đảng, tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế tập thể HTX... do cơ chế hiện nay phải tự giải tán, giải thể, hiện vẫn còn treo nợ tại các ngân hàng chậm được các cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý triệt để nhằm giúp cho các ngân hàng giảm được số nợ trên để tiếp tục tái tạo nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với các khoản nợ cho vay thanh toán công nợ của ngân hàng để các
doanh nghiệp thanh toán công nợ trong tổng kê khai thanh toán công nợ toàn quốc, đến nay thực chất đã quá hạn ( khoảng trên 50 tỷ đồng ), có những doanh nghiệp hiện nay không còn hoạt động ( giải thể, phá sản hoặc tự giải tán ) nhưng vẫn chưa có chủ trương của các cấp có thẩm quyền có những biện pháp xử lý dứt điểm.
Đối với những khoản nợ được chính phủ cho khoanh theo các thông tư
liên bộ 11/TT-LB, 03/TT-LB ( khoảng 339,7 tỷ đồng ) đến nay phần lớn đã quá thời hạn, hầu hết các doanh nghiệp có nợ đều rơi vào tình trạng phá sản, tự giải tán, giải thể không có khả năng trả nợ, nhưng cũng chưa được các cấp và các nghành liên quan cho phép xử lý, đã làm cho nguồn vốn cho vay của ngân hàng trên địa bàn bị đọng khá nhiều.
Việc xử lý phát mại các tài sản như xiết nợ, gán nợ bằng đất đai, nhà cửa
của các NHTM vẫn còn là vấn đề nan giải vì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu tan băng. Hiện nay còn nhiều ngân hàng còn tồn đọng với khối lượng lớn nhà, đất xiết nợ (Khoảng 50 tỷ đồng) đã quá lâu ngày không xử lý được, vừa đọng vốn trong kinh doanh, vùa tốn chi phí quản lý, vùa mất giá do tài sản xuống cấp.
Các thủ tục liên quan đến phát mại tài sản thế chấp và tài sản nhận gán
nợ, nợ xiết hiện nay vẫn còn quá nhiều khê liên quan đến nhiều ban ngành, thời gian xử lý cũng kéo dài làm hạn chế lớn đến tốc độ xử lý, thu hồi nợ của ngân hàng.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn mới đang phát sinh tăng. Bên cạnh những khoản tồn đọng cũ chưa được xử lý nêu trên thì các NHTM đang đứng trước một thực tế là: Mặc dù đã có sự thận trọng trong công tác đầu tư mở rộng tín dụng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn mới tại một số ngân hàng hiện nay đang phát sinh tăng, thậm chí có những ngân hàng nợ quá hạn mới lên đến 17%.
Theo báo cáo hàng năm năm 2000 của ngân hàng ngoại thương Vietcombank thì tình hình nợ và xử lý nợ của ngân hàng như sau:
Nợ khoanh và nợ chờ xử lý
1999
2000
-Nợ khoanh:
1.395.864
1.317.016
+Nợ khoanh cho vay ngắn hạn
1.109.086
1.085.550
-Nợ khoanh cho vay trung hạn
144.306
154.441
+ Nợ khoanh cho vay dài hạn
51.136
49.460
+ Nợ cho vay các nghiệp vụ khác.
91.336
27.565
-Nợ chờ xử lý
1.296.701
1.299.727
+ Nợ chờ xử lý đã có tài sản xiết, gán nợ
916
716
+ Nợ có tài sản thế chấp liên quan đến vụ án
1.295.785
1.299.011
-Tổng nợ khoanh và nợ chờ xử lý
2.692.565
2.616.743
-Nợ NH nhà nước được khoanh
110.567
110.594
-Nợ khó đòi đã xử lý
130.901
295.594
Qua bảng trên ta thấy tình hình công tác xử lý và giải quyết nợ tồn đọng ở NH ngoại thương Vietcombank có hiệu quả đáng kể tổng nợ khó đòi đã xử lý tăng lên gấp hơn 2 lần so với năm 1999. Tuy nhiên tổng nợ khoanh và nợ chờ xử lý có giảm nhưng giảm còn thấp.
+ Đối với các khoản nợ khó đòi, hậu quả của những năm bao cấp trước đây, dự kiến sẽ được xử lý bằng nhiều biện pháp như: Thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản, dùng quỹ dự phòng để xoá nợ, hỗ trợ vốn của chính phủ và ban hành các quy chế quản lý và giám sát tín dụng chặt chẽ hơn nũa. Với những giải pháp này NH ngoại thương Vietcombank hy vọng rằng sẽ làm sạch được bảng tổng kết tài sản, tách biệt hoạt động xử lý nợ tồn đọng khỏi hoạt động cấp tín dụng mới, qua đó tối đa hoá được tỷ lệ thu hồi nợ tồn đọng và góp phần giảm thiểu được rủi ro tín dụng mới.
Chỉ tiêu
Sốdư 12/2000
Sốdư 12/2001
% so với năm 2000
+ Nợ quá hạn khó đòi
+ Nợ khoanh
+ Nợ chờ xử lý
+ Nợ cho vay do bảo lãnh
Tổng số
377
1317
1300
287
3281
143
1379
268
266
2056
-62,0%
4,7%
-79,4%
-7,4%
-37,3%
Như vậy qua bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng năm 2002 việc xử lý nợ tồn đọng của NH ngoaị thương đã có những bước tiến đáng kể. Tại thời điểm 31/12/2001 tổng số nợ tồn đọng là 2056 tỷ đồng, giảm 37,3% so với cuối năm 2000. Tỷ lệ nợ tồn đọng trong tổng dư nợ trong năm qua giảm từ 21,0% xuống còn 12,5%.
+ Về tình nợ quá hạn 2001 là 312 tỷ đồng, giảm mạnh sau khi được xử lý gần 200 tỷ nợ quá hạn khó đòi, hiện chỉ còn chiếm khoảng 1,9% trên tổng dư nợ, thấp xa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nợ quá hạn khó đòi trên 360 ngày là 234 tỷ đồng, giảm 12,5% so với cuối năm 2000.
Hầu hết các chi nhánh nhỏ trừ 3 chi nhánh là Hà Tĩnh, Nha Trang và Đắc Lắc có tỷ lệ nợ quá hạn tương ứng là 13,8% 12,5% và 9,5%.
Trong khi đó số dư nợ khoanh vào 31/12/2201 là 1379 tỷ VNĐ, chiếm 8,4% trong tổng số dư nợ của toàn hệ thống và tăng 4,7% so với năm 2000. Số dư nợ chờ xử lý vào cuối tháng 12/2001 là 268 tỷ đồng, giảm 1032 tỷ đồng so với cuối năm 2000, trong đó khoảng 960 tỷ đồng được xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro. Số dư nợ cho vay do bảo lãnh là 266 tỷ đồng, giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2000. Nợ cho vay do bảo lãnh được xử lý bằng dự phòng rủi ro khoảng 25 tỷ đồng.
+ Về tình hình khai thác tài sản xiết nợ và tài sản thế chấp: Tài sản xiết nợ tập trung ở 4 chi nhánh là SGD, HCM, Vũng Tàu và Nha Trang với giá trị tương đương là 246,1 tỷ đồng. Trong năm 2001, việc xử lý tài sản xiết nợ đã có nhiều tiến bộ. Số dư tài sản xiết nợ giảm 9.240 triệu đồng. Trong khi công ty AMC chưa được thành lập, công ty đầu tư khai thác tài sản được giao quản lý và khai thác một số tài sản như Khách sạn EPCO, Hải âu..., số dư thu khai thác trừ chi phí trong năm chỉ là 761 triệu đồng.
Mặc dù ban lãnh đạo đã đề ra nhiệm vụ phải tiến hành tổng kết đánh giá hoạt động khai thác tài sản, một mặt rút đúc, phổ biến kinh nghiệm trong hệ thống, mặc khác kiến nghị NHNN và các cơ quan chức năng tiếp tục tháo gỡ các vướng mắc, và xây dựng về quy chế xử lý, khai thác tài sản, song cho đến nay hai việc này chưa được triển khai.
Đề án xử lý nợ tồn đọng của NH ngoại thương đã được NHNN chấp thuận và trình chính phủ phê duyệt, bước đầu được triển khai tốt thể hiện là trong năm 2001 đã thực hiện xử lý được 1.185 tỷ nợ xấu bằng dự phòng rủi ro tín dụng trong đó khoảng 500 tỷ VNĐ và 40 triệu USA. Tính đến thời điểm 31/12/2001 tổng doanh số cho vay của toàn hệ thống là 44.350 tỷ VNĐ, trong đó tổng doanh số thu nợ đạt 43.475 tỷ và tổng dư nợ cho vay đạt 16.475 tỷ VNĐ. Nếu không kể nợ khoanh, nợ chờ xử lý và nợ cho vay bắt buộc, thì tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của NH ngoại thương chiếm 1,9% tức là 321 tỷ và nếu kể cả các loại nợ này thì tổng nợ xấu của NH ngoại thương chiếm 13,5% so với tổng dư nợ, tức là 2.225 tỷ.
- Phương hướng nhiệm vụ của năm 2002 của NH ngoại thương Vietcombank là:
+Tích cự xử lý nợ tồn đọng theo lịch trình của đề án “Xử lý nợ tồn đọng” được NHNN phê duyệt. Tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm trong việc khai thác tài sản, kiến nghị với các cơ quan chức năng tháo gỡ những vưỡng mắc còn tồn tại, xây dựng những quy chế về xử lý, khai thác tài sản, kiến nghị các cơ quan chức năng tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại. Xây dựng những quy chế về xử lý, khai thác tài sản, tào điều kiện để cho công ty AMC đẩy mạnh hoạt động và phát huy tác dụng nhằm sớm thu hồi nợ. Nhiệm vụ đề ra là: Tỷ lệ nợ quá hạn / Tổng dư nợ: < 2% trong đó tỷ lệ nợ tồn đọng / Tổng dư nợ: < 5%.
Chương IV :
Giải pháp xử lý và hạn chế nợ quá hạn trong hệ thống NHTM VN hiện nay.
I-Giải pháp xử lý, giải quyết nợ quá hạn trong hệ thống NHTM:
Hiện nay có nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau về giảm thấp nợ quá hạn:
Trước hết có ý kiến cho rằng phải tăng cho vay để giảm nợ quá hạn. Việc tăng dư nợ có kết quả là giảm tỷ lệ nợ quá hạn chứ không giảm thấp nợ quá hạn đã phát sinh.
Mặt khác lại có ý kiến cho rằng: Cho vay mới để họ trả nợ quá hạn. Việc làm này vừa không đúng quy định mà lại chỉ là giảm thấp thời điểm và hậu quả sẽ nặng nề hơn.
Cũng có những ý kiến cho rằng: Xiết nợ tất cả các tài sản thế chấp, cầm cố hoặc vật tư, hàng hoá hình thành từ vốn vay. Biện pháp này tính khả thi phải xem xét nhiều khía cạnh như: Ngân hàng có đủ vốn để mua lại không, nếu mua tất cả thì nợ quá hạn giảm thấp nhưng khối tài sản này có đưa vào kinh doanh được không và có hiệu quả không.
Trong quá trình sử lý nợ quá hạn NHTM thông thường đã áp dụng các biện pháp:
Làm hồ sơ đề nghị khoanh, xoá nợ theo hướng dẫn của liên bộ: Loại nợ này làm theo từng đợt, yêu cầu hồ sơ phải đầy đủ, chính xác và quá trình làm cũng hết sức phức tạp. Nhiều nơi chính quyền không nhất trí xác nhận xoá nợ mà chỉ đề nghị khoanh. Hơn nữa biện pháp này không thích hợp với các ngân hàng thương mại tự huy động vốn để cho vay vì thâm hụt vào vốn.
áp dụng các biện pháp phát mại tài sản thế chấp, cầm cố: Đây là biện pháp thực thu được vốn, lãi nhưng cũng rất gian nan, vất vả và tốn kém.
NHTM mua tài sản xiết nợ. Biện pháp này dùng rất hạn chế, chủ yếu là gỡ việc truy tố cán bộ ngân hàng.
Quy trách nhiệm cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo chi nhánh nơi cho vay. Có nơi cán bộ ngân hàng bồi thường số nợ, lãi không thu được do lỗi chủ quan gây ra, có nơi ghi nợ cho cán bộ ngân hàng liên quan để thu nợ quá hạn.
Có nơi tiếp tục cho vay để người vay tiếp tục sản xuất kinh doanh tạo nguồn trả nợ cả cũ và mới.
Căn cứ vào thực trạng nợ quá hạn thì trong các NHTM cần tiếp tục thực
hiện các biện pháp sau:
Các chi nhánh nơi cho vay bằng mọi biện pháp phải tích cực chủ động
thu hồi nợ bằng:
Bán các tài sản thế chấp đã đủ hồ sơ và thủ tục.
Bổ sung hồ sơ còn thiếu để có thể phát mại tài sản thế chấp.
Giải quyết việc tranh chấp để có thể phát mại tài sản thế chấp.
Bán nhanh số vật tư sản phẩm chờ bán và tài sản hình thành từ vốn vay.
Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Tác động với các tổ chức tín chấp và các cơ quan xác nhận để cùng với khách nợ tìm nguồn trả nợ hoặc làm hồ sơ thủ tục đề nghị xử lý theo quy định hiện hành.
Đối với những người vay không thuộc diện nêu trên thì cần tiếp tục phân tích rõ trong trường hợp để có những biện pháp thích hợp.
Việc bán tài sản nên làm theo 3 cấp độ: Động viên người vay tự bán, có sự can thiệp hoặc có sự cưỡng chế của chính quyền, cuối cùng mới khởi kiện ra pháp luật. Để thực hiện việc bán tài sản, phải tranh thủ được sự chỉ đạo bằng văn bản của UBND tỉnh, huyện đến cấp xã và các cơ quan có liên quan. Chỉ đạo thu nợ quá hạn khó đòi cần phải có những biện pháp tình thế nên ngân hàng tỉnh chủ động xây dung phương án và trình bày với lãnh đạo địa phương, cơ quan pháp luật để tạo được sự đồng tình và chỉ đạo.
Đối với những khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả, có khả năng trả và có ý thức trả nhưng cần phải có thời gian thì phải xem xét việc gia hạn, giãn nợ theo chỉ thị 09. Trường hợp vay ngắn hạn nhưng đã đưa vào mục đích trung dài hạn, nay kiểm tra vốn sử dụng có hiệu quả cũng được xem xét điều chỉnh nợ, giãn nợ. Các trường hợp trên, khách hàng phải có đơn trình bày lý do và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền trước khi tổ chức tín dụng xác minh, thẩm định.
Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã giải thể, ngừng hoạt động, tự tan giã thì đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo cho lập hồ sơ và trình lên bộ xin xử lý theo thông tư 03.
Đối với các trường hợp có thừa kế, có tín chấp, có xác nhận: Yêu cầu người thừa kế hợp pháp thực hiện nghĩa vụ.
Cần kiểm tra, phân loại để có hướng xử lý thích hợp, động viên người vay trả và những người cộng trách nhiệm đồng hỗ trợ trả nợ.
Nếu người tín chấp hoặc xác nhận có dùng tài sản để đảm bảo thì động viên họ để trả nợ kể cả việc giải quyết tài sản đó. Cần làm rõ trách nhiệm trong mỗi quan hệ, tiếp tục đầu tư mới để tạo điều kiện và hỗ trợ thu nợ quá hạn.
Đối với khách hàng: Cần phân loại làm 2 loại:
Nếu do gặp khó khăn hoặc làm ăn thua lỗ nhưng vẫn còn điều kiện sản xuất kinh doanh và có ý thức trả nợ thì xem xét việc gia hạn nợ như nêu trên. Trường hợp có phương án kinh doanh đảm bảo hiệu quả được tổ chức tín dụng xem xét duyệt cho vay mới.
Trường hợp người vay trây ỳ thì làm việc với chính quyền để buộc họ phải tìm cách trả nợ kể cả bán tài sản, khi cần thiết thì khởi kiện ra pháp luật.
Để thưc hiện các biện pháp giảm thấp nợ quá hạn, các tổ chức tín dụng cần có những quy định như:
- Có quy chế miễn giảm lãi tiền cho vay được thống đốc NHNN đã phê duyệt.
- Hướng dẫn việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp khoản chênh lệch thu thiếu.
- Chi hoa hồng cho các bên thu nợ khó đòi.
- Tạm dừng thu phí sử dụng vốn đối với số nợ không còn khả năng thu và tài chính của chi nhánh đó quá khó khăn.
- Tiếp tục chỉnh sửa các quy định để khai thông việc đầu tư tạo tâm lý yên tâm trả nợ cũ.
Việc xử lý nợ tồn đọng còn liên quan đến nhiều cấp nhiều nghành và cơ chế của nhà nước. Chính vì vậy để có thể hạn chế và xử lý có hiệu quả tình trạng nợ quá hạn thì nhà nước và các bộ các nghành có liên quan cần thực hiện:
* Thiết lập cơ chế pháp lý đồng bộ, thống nhất: Có thể nói rằng việc xử lý và thu hồi nợ quá hạn đang vướng mắc ngay từ các văn bản luật, pháp lệnh... đến các văn bản khác thấp hơn, vướng ngay từ cách thức tuân thủ luật của các cơ quan pháp lý. Như việc đầu tiên cần làm để xử lý thu hồi nợ quá hạn là Nhà nước và NHNN cần thiết lập nhiều văn bản quy định về hoạt động kinh doanh ngân hàng, thiết lập một cơ chế pháp lý, khắc phục được những bất cập hiện hành trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản và thi hành án...Cơ chế pháp lý này phải phù hợp với các đặc trưng, yêu cầu của hoạt động tín dụng. Về hình thức thì cơ chế pháp lý mới phải có hiệu lực cao, tầm luật do quốc hội ban hành, chỉ có như vậy mới giải quyết được các tồn tại hiện nay. Ngay khi đã có những quy định phù hợp về trình tự, thủ tục thu nợ cũng chưa đủ, kèm theo phải là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để của các cơ quan nhà nước, của toàn xã hội.
* Phân loại nợ để xử lý: Nợ quá hạn ở các ngân hàng có nhiều nguyên nhân khác nhau, về hình thức là người đi vay không trả được nợ hoặc chưa trả được nợ. Do vậy để thực thi biện pháp giải toả nợ quá hạn các ngân hàng phải tiến hành thống kê, phân loại các khoản nợ quá hạn này và phân tích theo nhiều tiêu thức khác nhau như:
+ Nợ có thể đòi được và nợ không thể đòi được.
+ Nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan ( tức là không phải lỗi của
ngân hàng mà do bất khả kháng và thay đổi cơ chế của chính phủ hay do khách hàng ) và lỗi do nguyên nhân chủ quan ( tức là do điều hành của lãnh đao, do trình độ nghiệp vụ của cán bộ…)
+ Hoặc phân theo thời gian: dưới 6 tháng là nợ quá hạn thông thường,
từ 6 tháng đến 12 tháng là nợ quá hạn có vấn đề cần đặc biệt chú ý, và nợ trên 12 tháng là nợ khó đòi.
Trong đó đối với từng loại nợ có thể đòi được hoặc không thể đòi được và của các đối tượng khác nhau thì có những biên pháp riêng cụ thể cho phù hợp. Ví dụ như đối với nợ không thể đòi được của các doanh nghiệp nhà nước dã giải thể thì kiến nghị chính phủ xử lý giải quyết bằng quỹ phòng ngừa rủi ro. Nếu chưa có quỹ phòng ngừa rủi ro thì chờ khi nào trích được quỹ phòng ngừa rủi ro thì xử lý....
Nếu phân loại theo nguyên nhân thì ta có thể xử lý theo trách nhiệm chủ quan và xử lý theo trách nhiệm của khách hàng.
- Xử lý trách nhiệm chủ quan:
Người gây ra phải tạm ngừng công tác để thu nợ.
Buộc bồi thường theo trách nhiệm dân sự.
Xử lý hành chính.
Truy cứu theo pháp luật.
- Xử lý trách nhiệm của khách hàng:
Do kinh doanh thua lỗ có thể áp dụng các biện pháp phục hồi sản xuất để có nguồn trả nợ.
Do sử dụng sai mục đích, cố ý lừa đảo, bị phá sản thì buộc xử lý tài sản
thế chấp, cầm cố và các biện pháp pháp luật.
*Cần nhanh chóng thành, hoàn hiện những điều kiện và quy chế
hoạt động của công ty mua hay công ty quản lý tài sản AMC.
Mục tiêu của AMC là tối đa hoá việc xử lý các khoản nợ khó đòi tồn đọng, nhằm giảm thiểu chi phí của việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, đồng thời góp phần ổn định hệ thống ngân hàng và ổn định nền kinh tế. Với mục tiêu đó thì chắc năng của AMC là quản lý và thanh lý tài sản có là những các khoản nợ không sinh lời của ngân hàng, phục hồi càng nhiều càng tốt để thu hồi được giá trị tối đa từ các nguồn lực đã trao cho AMC. Vì vậy AMC được giao những thẩm quyền và kỹ năng đặc biệt để hoàn thành sứ mệnh trong một thời gian ngắn bằng cách mua, quản lý, tài trợ... nhằm tối đa hoá giá trị của các khoản nợ, tài sản để bán thu hồi lại vốn. AMC không tồn tại mãi mãi, khi nó đạt được mục tiêu là chấm dứt hoạt động (Thông thường khoảng 7-10 năm).
Trong vòng gần hai thập kỷ gần đây nhiều nước đã lâm vào tình trạng nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng tăng lên cao hoặc hệ thống ngân hàng tài chính gặp khủng hoảng, và họ đã phải chọn phương án thành lập công ty quản lý tài sản AMC. Trong điều kiện hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn diễn ra bình thường, nợ quá hạn thấp thì không cần thiết phải thành lập AMC, nhưng nếu tình hình ngược lại thì AMC là một giải pháp khả dĩ và hữu hiệu để xử lý hoặc ngăn ngừa. Ngày nay, ngoài giải pháp AMC chưa ai tìm thấy có lối thoát nào thông minh hơn. Trên toàn cầu từ Trung Quốc đến Anh, Mỹ đành phải chấp nhận AMC như một giải pháp cứu cánh.
ở VN, NHNN đã cho thành lập công ty AMC, nhưng các điều kiện và quy chế hoạt động của AMC còn nhiều vướng mắc và bất cập về cả nguồn vốn, điều kiện mua bán nợ, quy chế tài chính của AMC và nhất là khi nào bị thua lỗ thì phải xử lý như thế nào. Vì vậy việc củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động của AMC là cần thiết để tối đa hoá việc xử lý các khoản nợ khó đòi tồn đọng trong hệ thống NHTM hiện nay.
* Sử dụng cơ chế lãi suất phạt quá hạn để buộc người vay phải bù đắp thiệt hại gây ra cho ngân hàng do không thực hiện đúng thời hạn trả nợ. NHNN trong việc quy định lãi suất nợ quá hạn cho các NHTM không nên can thiệp quá sâu vào quyền tự quyết trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như hiện nay.
* Về lãi suất nợ quá hạn: Nhìn chung thì lãi suất nợ quá hạn bao gồm lãi suất bình thường và lãi suất phạt quá hạn, trong đó lãi xuất phạt quá hạn cần được định ra một cách độc lập trong từng tình huống cụ thể dựa trên những căn cứ sau đây:
Mức độ thiệt hại dự tính gây ra cho ngân hàng khi người vay không thực hiện thời hạn trả nợ đã thỏa thuận.
Khoản tiền phạt cần phảithu để cảnh tỉnh người vay tránh để xảy ra nợ quá hạn, đồng thời ngăn chặn sự lạm dụng, sử dụng tiền vay vượt thời hạn thoả thuận ngoàI mong muốn của ngân hàng.
Sử dụng cơ chế lãi xuất phạt quá hạn để buộc người vay bù đắp thiệt hại gây ra cho ngân hàng do không thực hiện đúng thời hạn trả nợ là rất hợp lý. Khi đã cho vay thì bất cứ ngân hàng nào, dù đang trong tình trạng thiếu vốn hay dư thừa vốn đều mong muốn là thu được nợ, lãi đúng hạn. Bởi vì chỉ khi đó hoạt động tín dụng mới kết thúc, ngân hàng mới thực hiện được mục đích của mình. Chính vì vậy cần đặt ra khoản tiền phạt đối với nợ quá hạn và nó phải là một căn cứ để định ra lãi xuất phạt quá hạn. Để việc phạt tiền phát huy được tác dụng răn đe ngăn ngừa người vay không trả đúng nợ đúng hạn thì mức tiền đặt ra trong từng trường hợp cụ thể phải hợp lý, đúng mực. Vì vậy, việc xem xét và phân loại các nguyên nhân gây nợ quá hạn là hết sức cần thiết.
Ngân hàng không nên can thiệp quá sâu vào quyền tự quyết hoạt động của các NHTM, tức là không nên quy định mức lãi xuất nợ qúa hạn cho các NHTM, bởi vì một khi NHNN đã mở rộng quyền tự chủ cho các ngân hàng TM tự quyết định các mức lãi xuất cho vay và lãi xuất tiền gửi thì không có lý do gì để lại áp đặt mức lãi xuất nợ quá hạn. Chủ trương hạn chế đến mức thấp nhất nợ quá hạn phải được các NHTM nhất quán từ lúc giải quyết cho vay chứ đâu phải thông qua sự kiểm soát lãi xuất nợ quá hạn của NHNN.
*Tạm thời sử dụng quỹ rủi ro tín dụng nhằm bù đắp các khoản vay cho vay quá hạn không thu hồi được.
* Xử lý nợ tồn đọng cần có sự phối hợp đồng bộ của các bộ các ngành có liên quan.
Xử lý nợ tồn đọng không nên chỉ coi là việc của nội bộ nghành ngân hàng, mà đây là vấn đề quốc gia, do vạy nó đòi hỏi sự quan tâm nỗ lực của các cấp, các ngành. Ngay cả ở các nước đã phát triển như Mỹ, Thuỵ điển..., thì vấn đề nợ tồn đọng của các ngân hàng cũng được coi là vấn đề của quốc gia và nhà nước đã ban hẳn luật để xử lý vấn đề này.
II- Một số biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm giảm thấp nợ quá hạn.
Chấn chỉnh hoạt động tín dụng ngân hàng, gần đây đã trở thành câu nói cửa miệng của các ngân hàng. Chấn chỉnh hoạt động tín dụng tức là xem xét lại công tác tín dụng từ khâu chấp hành nguyên tắc cho vay, điều kiện cho vay, kiểm tra trước và sau khi vay, công tác nâng cao khả năng thu hồi cả gốc và lãi...để nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng, đảm bảo làm trong sạch bảng tổng kết tài sản và lành mạnh hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy để giảm thấp nợ quá hạn cũng cần phải nâng cao chất lượng tín dụng trong các ngân hàng, cần phải thực hiện phòng chống rủi ro.
Để phòng chống được rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thì trước tiên nhà nước cần xem xét chấn chỉnh lại chính hoạt động của các doanh nghiệp.
+ Bản thân nội bộ các ngân hàng:
*Trong các tổ chức tín dụng cần phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, phải coi trọng tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm toán cả nội bộ và bên ngoài. Về vấn đề đào tạo cán bộ. Trước đây ở VN đầu tư cho việc đào tạo cán bộ ngân hàng theo chuyên ngành dọc, nay cần phải đào tạo theo chuyên ngành ngang, cần phải đào tạo kiến thức tổng hợp, cán bộ tín dụng cần phải hiểu rộng và nắm vững nghiệp vụ ngân hàng, nhưng phải hiểu rõ được kinh doanh thương mại và nắm chắc kiến thức pháp luật ….có như vậy mới phòng chống rủi ro được. Hoặc là tuyển chọn những sinh viên giỏi xuất sắc trong các trường đại học kinh tế, thương mại, pháp lý… sau đó đưa đi đào tạo chuyên ngành tài chính ngân hàng trước khi bố trí công việc cụ thể tại ngân hàng.
*Chúng ta cũng không thể coi thường vai trò người lãnh đạo. Nhiều vụ tiêu cực xảy ra trong ngành ngân hàng thời gian qua, nhiều khoản rủi ro mất vốn, thua lỗ… không phải do cán bộ tín dụng mà lại do chính người giám đốc cố ý làm sai trái gây ra. Trong khi đó hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm tổ chức điều hành về quản lý tài sản, nhất là giám sát tư cách, phẩm chất cán bộ, nhân viên của ngân hàng còn lơi lỏng, chỉ vì tư lợi mà nương nhẹ các nguyên tắc, điều kiện trong nghiệp vụ, dẫn đến những hậu quả xấu. Đặc biệt là những kiến thức về quản lý tài sản nợ, tài sản có, phân tích hoạt động kinh doanh, đánh giá khách hàng, quản lý rủi ro, dự đoán thị trường.
*Do đó để phòng ngừa rủi ro thì ngay từ đầu việc tuyển chọn và bố trí cán bộ tín dụng ở các NHTM phải thực hiện qua sát hạch, phải qua đào tạo đại học, số cán bộ hiện có phải được đào tạo lại, phải thường xuyên thay đổi địa bàn phụ trách cho vay, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và phải có chế độ thu nhập cao hơn cho họ. Kèm theo đó là nâng cao năng lực chuyên môn, quản lý điều hành và phẩm chất của cán bộ lãnh đạo.
*Đối với các khoản đầu tư tín dụng mới, các NHTM cần phải chấp hành tốt các cơ chế, nguyên tắc tín dụng. Trú trọng đến công tác thẩm định đối với tong dự án, tong khách hàng. NH chỉ thực hiện đầu tư vốn khi xác định khách hàng làm ăn có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích và có khả năng trả nợ khi đến hạn. Các NH phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc huy động vốn, cho vay vốn không đúng quy định về thủ tục, nguyên tắc theo các chế độ hiện hành.
*Bên cạnh việc xem xét đầu tư tín dụng mới cho các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ vốn cho sản xuất kinh doanh, các NHTM phải có biện pháp hữu hiệu trong việc theo dõi đôn đốc và cùng các doanh nghiệp tìm biện pháp giải quyết có hiệu quả các khoản nợ quá hạn, nợ tồn đọng cũ.
*Từng đơn vị cơ sở của các NHTM phải có biện pháp phối hợp tích cực và có hiệu quả với các ngành, cơ quan chức năng trong việc hỗ trợ, đôn đốc trong việc thu nợ quá hạn, tập trung xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng và các vụ việc nổi cộm trước đây. Rà soát và có văn bản đề nghị cấp có thêm quyền có biện pháp xử lý, giải quyết dứt điểm đối với tổng khoản nợ tồn đọng nhằm tái tạo lại nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
*Giữa phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro thì lấy phòng ngừa làm chính yếu giống như phòng cháy hơn chữa cháy vậy. Do vậy các NHTM cần trú trọng củng cố và tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong tong đơn vị, cơ sở của mình nhằm phát hiện kịp thời những tồn tại, thiếu sót phát sinh, hạn chế thấp nhất những vi phạm về cơ chế, nguyên tắc tín dụng. Ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi tiêu cực, tham ô để góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng ngân hàng.
*Cần áp dụng một cách triệt để và hợp lý điều 54 khoản I luật các tổ chức tín dụng “Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện ra khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng”. Trên thực tế thì chưa có tổ chức nào sử dụng một cách triệt để điều khoản này vì do tâm lý họ cho rằng đây là một biện pháp quá mạnh có thể làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, từ đó tác động xấu đến nền kinh tế. Tuy nhiên xét trên một giác độ nào đó thì việc chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn đem lại lợi ích cho cả người vay và người cho vay.
*Trên giác độ vĩ mô thì Nhà nước cũng như nghành ngân hàng cần sớm hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển các hình thức bảo hiểm, thành lập các quỹ bảo hiểm tiền gửi, cho phép trích lập quỹ rủi ro theo đúng thông lệ quốc tế. Ngân hàng cũng cần chuyển đổi hoạt động cho vay theo lối cổ điển như hiện nay, song hình thức đồng tài trợ, đồng trợ dự án, cho vay hợp vấn, đầu tư trung dài hạn, thuê mua...vừa đảm bảo phân tán vừa phòng chống rủi ro tín dụng ngay từ nghiệp vụ kinh doanh của mình.
Chương V:
Kết luận
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, không có sự cạnh tranh nên những rủi ro kinh doanh không được quan tâm, trú trọng đến. Do vậy nhiều yếu tố then chốt trong hoạt động quản lý NH, bao gồm hầu hết các yếu tố trong hoạt động quản lý rủi ro không được chú ý thích đáng, các hoạt động của mỗi chi nhánh nngân hàngđược thực hiện theo những chỉ thị nghiệp vụ chính xác nhằm đảm bảo sự hoạt động thống nhất và nhất quán từ trên xuống tận cơ sở. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được xem như là yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Người ta khẳng định rằng, NH phải đối phó với các rủi ro từ mọi nguồn gốc, trong đó rủi ro tín dụng gắn với hoạt động chính của NH. NHVN chưa phát triển, chưa ốn định, hành lang pháp lý chưa đầy đủ, hợp lý và thống nhất, trình độ cán bộ còn thấp do vậy rủi ro tín dụng trong thời gian qua trở nên rất bức bách, vấn đề nợ quá hạn là vấn đề đáng được quan tâm nhất hiện nay cần được giải quyết. Nhà nước và ngành NH cũng đã sớm có những biện pháp khắc phục và xử lý, nên đã hạn chế, giảm bớt được phần nào tình trạng nợ quá hạn này, tuy nhiên vẫn còn có nhiều khó khăn và bất cập. Hy vọng rằng trong thời gian tới, nhà nước cũng như hệ thống NH có những chính sách, những biện pháp hiệu quả hơn để giải quyết triệt để tình trạng trên để nhằm làm lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống NHTM, thúc đẩy hệ thống NHTM ngày càng phát triển hơn góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1- Thị trường tàichính tiền tệ - Miskin.
2- Quản trị rủi ro trong ngân hàng - lê nam tư.
3- Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐHKTQD.
4- Tạp trí thị trường tài chính tiền tệ.
5- Tạp trí ngân hàng.
6- Tạp trí tài chính.
Mục lục
Đề mục
Nội dung
Trang
Lời giới thiệu
1
Chương I
Lý luận chung về nợ quá hạn
3
I-
Một số lý luận chung về nợ quá hạn
3
II-
Khái niệm nợ quá hạn
4
III-
Phân loại nợ quá hạn
5
Chương II
Thực trạng và nguyên nhân nợ quá hạn hiện nay trong hệ thống NHTM VN
8
I-
Thực trạng nợ quá hạn
8
II-
Nguyên nhân nợ quá hạn trong hệ thống NHTM VN hiện nay
11
1-
Nhóm nguyên nhân khách quan
11
2-
Nhóm nguyên nhân chủ quan
17
Chương III
Những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết và xử lý nợ quá hạn trong hệ thống NHTM VN hiện nay.
21
I-
Những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết và xử lý nợ tồn đọng trong hệ thống NHTM VN hiện nay.
21
1-
Thực trạng giải quyết và xử lý nợ tồn đọng trong HTNHTM VN hiện nay.
20
2-
Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nợ tồn đọng hiện nay
22
Chương IV
Giải pháp xử lý và hạn chế nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
36
I-
Giải pháp xử lý, giải quyết nợ quá hạn trong hệ thống NHTM hiện nay
36
II-
Một số biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng làm giảm thấp nợ quá hạn
43
Chương V
Kết luận
45
Tài liệu tham khảo
47
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34039.doc