Trong điều kiện môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, các quy luật kinh tế , quy luật cạnh tranh đóng vai trò chủ đạo và quyết định tới mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Khi mà mỗi doanh nghiệp tham gia trong môi trường kinh doanh đều bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Và nền kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà có sự mở cửa và hội nhập kinh tế , theo xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế hiện nay . Đã đặt các doanh nghiệp vào tình thế luôn lấy cạnh tranh làm điều kiện sống còn trong kinh doanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam , muốn tồn tại và phát triển phải nhận thức được những khó khăn , những điều kiện sống còn đó trong hoạt động của mình . Để giành ưu thế trong cạnh tranh và thực hiện thành công các mục tiêu trong kinh doanh của mình .Các doanh nghiệp cần phải có các chính sách cạnh tranh cụ thể và hữu hiệu , phải nhận thức được và sớm thực hiện chiến lược cạnh tranh cho mình.
Để phát triển được phương thức quản trị chiến lược trở thành vũ khí lợi hại cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh , để có thể xây dựng thành công chiến lược cạnh tranh . Cẩn phải có sự thực hiện từ hai phía , chính phủ cần thực hiện các giải pháp hữu hiệu , thiết thực tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh . Đồng thời , với các doanh nghiệp cần nhanh chóng kiện toàn và hoàn thiện xây dựng chiến lược cạnh tranh cho mình , nhằm duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh của mình trong kinh doanh .
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạch định chiến lược cạnh tranh tại các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ sở quan trọng để doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình .
2.4. Hoạch định chiến lược kinh doanh là yêu cầu khách quan của doanh nghiệp .
Như trên đã phân tích vế vai trò và lợi ích quan trọng mà chiến lược đem lại cho doanh nghiệp . Những lợi ích thiết thực đó sẽ giúp cho doanh nghiệp đương đầu với những biến động đầy phức tạp của môi trường kinh tế và sức ép ngày càng gê gớm của môi trường cạnh tranh . Hay nói cách khác việc xây dựng chiến lược kinh doanh trở thành một yêu cầu bức thiết khách quan của doanh nghiệp .Để hiểu rõ điều này, sau đây ta sẽ xem xét một số nguyên nhân được xuất phát từ hai nhân tố chính là môi trường kinh tế và bản thân doanh nghiệp.
a. Những nguyên nhân từ môi trường kinh tế.
Những tác động từ môi trường kinh tế là một yếu tố quan trọng góp phần tác động lên yêu cầu của doanh nghiệp về xây dựng chiến lược kinh doanh bởi các nguyên nhân chính sau đây:
-Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường.
Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay khác hẳn với môi trường kinh doanh trong nền kinh tế bao cấp trước đổi mới, trước đây. Hiện nay khi Đảng và nhà nước ta thực hiện phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường . Do đó các phần tử của nó sẽ phải tuôn theo một cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Các quy luật kinh tế, qui luật giá trị, qui luật giá cả, qui luật cạnh tranh được coi trọng và là nến tảng cho sự vận động của nền kinh tế . Các doanh nghiệp được hoạt động trong một môi trường mới với những thuận lợi, những thời cơ, cơ hội lớn . Tuy nhiên cũng phải đương đầu với vô số áp lực mới, với các quy luất nghiệt ngã của cạnh tranh, đó là nắm được thời cơ thì vượt qua, phải hứng chịu các hiểm hoạ thì suy yếu . Đó là qui luật của kẻ mạnh thì chiến thắng kẻ yếu sẽ phải thất bại.
- Yếu tố cạnh tranh từ nước ngoài, trở thành một nhân tố trong nền kinh tế. Nó trở thành một tác nhân quan trọng ảnh hưởng tới các doanh nghiệp trong nước .
Do xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá của thế giới, và đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước . Nhằm phát triển nền kinh tế trong nước, khắc phục những yếu kém về công nghệ, khoa học, sự khan hiếm về nguồn tài chính và để phát huy nguồn lực trong nước.Tuy nhiên xu hướng này lại là khó khăn của các nước có nền kinh tế non trẻ, các nước còn có nền kinh tế yếu kém và năng lực cạnh tranh còn thấp . Bởi các doanh nghiệp nước ngoài có thế mạnh về công nghệ, về tài chính và khoa học quản lý hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước, đồng thời họ cũng có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh hơn hẳn các doanh nghiệp bản địa. Đã đẩy các doanh nghiệp trong nước vào tình thế cạnh tranh khó khăn hơn.
Chính những thực tế đó mà các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại, phát triển, không muốn thất bại ngay tại sân nhà và tận dụng được lợi thế của xu hướng khu vực hoá, hiện đại hoá này đòi hỏi họ phải thay đổi chính mình .Phải có tầm nhìn trong cạnh tranh, phải hoàn thiện khoa học quan trị doanh nghiệp, phải xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh đúng đắn .
- Cạnh tranh trở thành điều kiện sống còn của doanh nghiệp . Bởi cạnh tranh hiện nay là qui luật chủ đạo của nền kinh tế thị trường hiện đại. Cạnh tranh đã trở thành yếu tố không thể không có trong thị trường, nó ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt hơn bao giờ hết . Cạnh tranh là bài toán khó khăn cho các doanh nghiệp cần phải tính toán nếu không muốn thất bại và để phát triển . Cạnh tranh là chứa đứng yếu tố thất bại, nhưng nếu không có cạnh tranh sẽ không có sự phát triển. Các doanh nghiệp luôn tâm niệm trong mình một qui luật đầy nghiệt ngã rằng, kẻ mạnh thì sẽ chiến thắng, còn kẻ yếu thì sẽ bị diệt vong. Chính vì vậy nó đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn lấy cạnh tranh làm nền tảng, phương hướng cho mọi hoạt động của mình . Vì vậy các doanh nghiệp phải tạo ra cho mình một năng lực vượt trội để qua mặt các đối thủ của mình . Phải luôn tìm kiếm những lỗ hổng, những điểm yếu của đối thủ để chiếm lĩnh lấy .
Và để làm được điều đó, doanh nghiệp nhất thiết phải xây dựng cho mình một phương thức quản trị hiện đại . Phải phân tích được, nắm bắt được xu hướng biến đổi của nền kinh tế,của môi trường kinh doanh trong ngành .Phải có tầm nhìn dài hạn và xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với năng lực doanh nghiệp, với tình hình cạnh tranh và phải chứa đựng những yếu tố tham vọng và táo bạo .
-Môi trường kinh tế ngày càng biến động bất thường. Đó là đặc điểm của nền kinh tế hiện đại . Khi mà các tác nhân tác động tới nền kinh tế ngày càng xuất hiện nhiều với mức độ tác động mạnh mẽ . Và hiện nay tất cả các hoạt động của xã hội loài người đều có tác động hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp tới hoạt động của nền kinh tế.
Sự biến động đó còn là hậu quả của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá.Của sự phát triển như vũ bão của khoa học, của tri thức loài người . Khi mà hệ thống kinh tế khu vực và thế giới ngày càng trở thành một thể thống nhất, có sự liên hệ mật thiết với nhau thì sự bất ổn của hệ thống đó ngày càng lớn .Chỉ cần một mắt xích trong hệ thống có sự biến động thì sẽ ngay lập tức ảnh hưởng tới các mắt xích còn lại đồng thời tác động lên sự ổn định của hệ thống .
Vì vậy mà các doanh nghiệp luôn phải đương đầu với một mối hiểm hoạ từ sự biến động của môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường ngành. Dù rằng từ hiểm hoạ đó sẽ là những cơ hội cho doanh nghiệp hoặc sẽ là mối đe doạ của doanh nghiệp thì họ vẫn luôn phải tính tới và cần nắm lấy nó . Đây cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự tồn tại về một phạm trù được gọi là khoa học quản trị chiến lược, cho một hoạt động không thể không có tại doanh nghiệp đó là xây dựng chiến lược kinh doanh .
b. Những yêu cầu nội tại của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi đứng trước một môi trường kinh tế mới chứa đựng nhiều nhân tố mới và phức tạp . Đồng thời môi trường kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng trở nên vô cùng phức tạp, biến đổi khôn lường thì doanh nghiệp nảy sinh rất nhiều những yêu cầu mới sau đây:
- Muốn có một cái nhìn tổng quan và dài hạn về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp . Đây là một đòi hỏi bức thiết và quan trọng của doanh nghiệp . Để nắm bắt được những thông tin quan trọng có giá trị cao, nhắm bắt được những cơ hội và nhìn thấy sớm những mối hiểm hoạ .Từ đó có phương hướng hành động và các quyết định có lợi cho mình trong hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp muốn đánh giá được chính xác năng lực cạnh tranh của mình và thấy rõ vị thế của mình trên thị trường . Từ đó có những quyết định nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh của mình , nhằm chiếm ưu thế trước các đối thủ trong kinh doanh.
-Doanh nghiệp muốn xác định rõ hướng đi của mình trong quá trình phát triển đầy sóng gió . Đó là vì nếu xác định được một hướng phát triển đúng đắn cho mình cho khoảng thời gian tương lai sẽ là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp luôn vững vàng về hướng phát triển của mình .Và từ đó sẽ có được các chính sách, các quyết định đúng đắn để thực hiện được cho đúng con đường đã chọn . Để đối phó với những sự biến động của môi trường bên ngoài. Vì nếu không xác định cho mình một hướng đi nhất định, thì khi đứng trước sự biến động, sự thay đổi từ bên ngoài sẽ làm cho doanh nghiệp bị giao động và mất phương hướng hoạt động . Sẽ dẫn đến các quyết định được đưa ra lại trái ngược nhau gây tác động ngược . Nó làm cho doanh nghiệp lãng phí về mặt thời gian và nguồn lực không cần thiết. Và làm cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng lúng túng không tìm thấy lối thoát cho mình khi gặp phải những khó khăn bất ngờ.
- Một điều quan trọng nữa là doanh nghiệp luôn có nhu cầu sử dụng được tối đa nguồn lực có hạn của vào hoạt động kinh doanh với một hiệu quả cao. Muốn nắm bắt được nhanh các thời cơ, tận dụng được các cơ hội và vượt qua các mối đe doạ, trước các đối thủ . Đó là điều quan trọng mà doanh nghiệp chỉ bằng một nguồn lức hạn chế của mình để đi tới thành công mà tiêu tốn ít nguônf lực nhất và không gây ra một lãng phí nào . Điều mà trong hoàn cảnh cạnh tranh khắc nghiệt hiện nay không cho phép tồn tại ở các doanh nghiệp muốn thành công trong kinh doanh.
- Doanh nghiệp mong muốn được chủ động và trở nên linh hoạt, có khả năng thay đổi và thích nghi với những biến động của điều kiện kinh doanh hiện nay . Khi mà hơn bao giờ hết, chỉ có một điều mà các doanh nghiệp biết chắc đó là sự thay đổi, khi mà cả số lượng và mức độ của những thay đổi tác động đến các doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng . Và vì vậy chiến lược được xây dựng sẽ giúp cho doanh nghiệp tập trung thích ứng một cách tốt nhất đối với những thay đổi trong dai đoạn dài .
Như vậy, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan trên đây có thể kết luận được rằng.Việc xây dựng một chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, và là một yêu cầu khách quan của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
3.Quy trình hoạch định chiến lược.
Quy trình tám bước hoạch định chiến lược kinh doanh .
- Bước 1: Nghiên cứu những quan điểm những mong muốn ban lãnh đạo
- Bước 2: Phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh.
- Bước 3: Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường kinh doanh.
- Bước 4: Phân tích và đánh giá thực trạng của doanh nghiệp .
- Bước 5: Tổng hợp phân tích và đánh giá thực trạng của doanh nghiệp.
- Bước 6: Xây dựng các mục tiêu chiến lược,các phương án chiến lược.
- Bước 7:So sánh đánh giá và tiến hành lựa chọn những phương án chiến lược tối ưu.
- Bước 8: Tổ chức thực hiện bằng các chương trình kế hoặch.
Sơ đồ: các bước thực hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp
Phân tích môI trường kinh doanh
Phân tích và dự báo về môI trường kinh doanh
Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môI trường kinh doanh
Phân tích nội bộ doanh nghiệp
Đánh giá và dự báo thực trạng doanh nghiệp
Tổng hợp đánh giá thực trạng
Các quan điểm mong muốn kỳ vọng của lãnh đạo doanh nghiệp
Hình thành các phương án chiến lược
So sánh đánh giá và lựa chọn chiến lược tối ưu
Xác định các nhiệm vụ nhằm thực hiện chiến lược lựa chọn
II. thực trạng năng lực cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
1. đặc điểm nền kinh tế việt nam hiện nay.
1.1. Nền kinh tế việt nam thời kỳ trước đổi mới, 1986.
Với đặc điểm nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp , kéo dài trong một thời gian từ năm 1955 đến những năm đầu thập niên 80. Do tư tưởng nóng vội và nhận thức sai lầm về xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội , chúng ta đã vội vàng thực hiện phương thức sản xuất Xã Hội Chủ Nghĩa xoá bỏ các hình thức sở hữu tư nhân , duy trì nền kinh tế với hai hình thức sở hữu đó là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân , với hai hình thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Với đặc điểm nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Tạo nên nền kinh tế với các đặc trưng sau đây:
+ Nền kinh tế chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là , sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân với hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
+ Các quy luật kinh tế không được coi trọng việc trả lời cho các câu hỏi , sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai ? sản xuất như thế nào ? không phải xuất phát từ thị trường mà nó được quyết định bởi các chỉ tiêu pháp lệnh do cơ quan quản lý kinh tế quyết định hoàn toàn thoát ly khỏi thị trường .
+ Quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế bị triệt tiêu, bởi các doanh nghiệp không được phép tự ra các quyết định sản xuất , không cần phải tính toán , xem xét các yếu tố đầu vào đầu ra của sản xuất. Đặc điểm vận hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là thực hiện các chỉ tiêu giao nhận .
Chính việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế , đã làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đưa nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng chầm trọng , khả năng sản xuất trong nước giảm xút nghiêm trọng ,cung không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng trong nước , nền kinh tế phải nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu trong khi trong nước có khả năng sản xuất được như : lương thực , lạm phát cao và tình trạng thiếu việc làm trở nên chầm trọng .
Đứng trước thực trạng nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng chầm trọng , yều cầu đặt ra là phải có sự đổi mới nhanh nhằm đưa nền kinh tế ra thoát khỏi khủng hoảng và phát triển . Phải thực sự cởi trói cho các doanh nghiệp , để họ thực hiện các quyết định kinh doanh của mình theo sự đòi hỏi của sản xuất, bởi chính khả năng sản xuất tại các doanh nghiệp là yếu tố quyết định tới việc giải quyết khủng hoảng của nền kinh tế của chúng ta hiện nay.
1.2 Đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Trước những khủng hoảng của nền kinh tế , nhận thức được những sai lầm trong tư duy , quản lý kinh tế. Đảng và nhà nước ta đã thực hiện bước đổi mới quan trọng trong tư duy về kinh tế , trong quản lý kinh tế . Mà đã được khởi đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 của Đảng . Từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Sự đổi mới này ngay lập tức tạo nên một diện mạo mới , sự phát triển mới của nền kinh tế . Sự vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vốn dĩ là yêu cầu , đòi hỏi khách quan của nến kinh tế. Nó đã tạo ra một môi trường kinh tế mới với những đặc trưng của nền kinh tế thị trường . Các quy luật kinh tế được coi trọng , môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn . Các tế bào của nền kinh tế thực sự vận động trong một cơ chế mới , sản xuất và kinh doanh trong điều kiện áp lực cạnh tranh gay gắt .
Nền kinh tế đổi mới của nước ta đã thực sự trở thành một khâu , một mắt xích trong hệ thống kinh tế khu vực và kinh tế thế giới . Nó là kết quả của đường lối mở cửa và hội nhập nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Đây cũng là yếu tố nhằm hoàn thiện hơn môi trường kinh tế Việt Nam , nhưng nó cũng đặt nền kinh tế vào một áp lực mới đó là phải đương đầu với sự cạnh tranh của thế giới , với tính chất cạnh tranh gay gắt hơn nhiều . Điều này đòi hỏi nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải năng cao năng lực cạnh tranh khu đương đầu với xu thế khu vực hoá , quốc tế hoá nền kinh tế.
Sự đổi mới kinh tế không chỉ dừng lại ở cấp quản lý , vận hành nền kinh tế ở cấp quản lý kinh tế. Mà nó còn là sự đổi mới tại chính các doanh nghiệp . Cơ chế kinh tế mới đã tạo ra khả năng tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế mới . Đồng thời chính cơ chế mới này , cũng buộc các doanh nghiệp phải đổi mới chính mình . Đặc biệt trong xu hướng phát triển của môi trường kinh doanh hiện nay , khi mà cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là quy luật chủ đạo của sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Phương thức kế hoạch hoá theo mô hình của Liên Xô cũ , đã không còn phù hợp nữa . Mà điều kiện môi trường kinh doanh mới đòi hỏi phải có mô hình kế hoạch hoá mới phù hợp với điều kiện mới trong kinh doanh . Đó là mô hình kế hoạch hoá bao gồm hệ thống kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp tại các doanh nghiệp cho phù hợp với môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Trong điều kiện kinh doanh hiện nay , khi mà môi trường kinh tế đã phát triển theo đúng đặc điểm của nó , với đầy đủ các yếu tố , các qui luật kinh tế tác động tới doanh nghiệp . Khi mà các doanh nghiệp phải thực sự đương đầu với môi trường kinh doanh . Thì yêu cầu đòi hỏi các nhà quản trị phải có phương thức quản trị mới , quản trị theo chiến lược . Phương thức quản trị này ngày càng được các doanh nghiệp coi trọng và coi đó là phương tiện giúp doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình.
2. Thực trạng môi trường cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
2.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia,
Được hình thành và là tổng hợp khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong một quốc gia và được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo gia tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới. Đối với nước ta, Nghị quyết Đại hội Đảng IX nêu rõ “Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu…” Thực vậy, theo “Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2002” của Diễn đàn kinh tế thế giới (Xem bảng 1), năng lực cạnh tranh quốc gia việt Nam cho tới nay luôn có thứ hạng thấp.
Bảng 1: Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam năm 2002
Quốc gia hay lãnh thổ
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng - GCI
Chỉ số năng lực tăng trưởng vi mô - MICI
2001
2002
2001
2002
Số quốc gia, lãnh thổ được xem xét
Singapo
Đài Loan
Hồng Kông
Hàn Quốc
Malayxia
Thái Lan
Trung Quốc
Philippin
Việt Nam
Inđônêxia
(75)
4
7
13
23
30
33
39
48
60
64
(80)
4
3
17
21
27
31
33
61
65
67
(75)
9
21
18
37
38
43
43
62
53
55
(80)
9
16
19
23
26
35
38
61
60
64
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới “Báo cáo về năng lực cạnh tranh quốc tế 2002
Đã nhiều năm nay, Năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam có 3 đặc điểm chính sau:
Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam luôn có thứ hạng ở mức thấp và có xu hướng đi xuống: 1) Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng - GCI đứng thứ 65/80 nước, giảm 5 bậc so với năm 2001 (60/75 nước); và 2) Chỉ số năng lực cạnh tranh vi mô - MICI đứng thứ 60/80 nước giảm 7 bậc so với năm 2001 (53/75 nước).
Việt Nam cùng Philippin và Inđônêxia (là 2 nước cùng tham gia APTA nhưng Inđônêxia có tiềm lực kinh tế ở thời điểm hiện nay mạnh hơn và có chung với nước ta về cơ cấu hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu mục tiêu). Hai nước tạo thành nhóm ở tốp dưới trong các nước tham gia APTA và trong tổng số các nước vùng lãnh thổ được xem xet trong bản Báo cáo hàng năm với năng lực cạnh tranh cách nhau trung bình 5 bậc. Điều này làm cho cuộc chạy đua giữa các nước với nhau và giữa các nước tham gia APTA ngày càng gia tăng trong điều kiện thời hạn thực hiện đầy đủ các cam kết APTA đang đến gần, thời hạn của Việt Nam vào năm 2006.
Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, trực tiếp đối với Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam á, nhưng có năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện liên tục và có khoảng cách ngày càng xa với Việt Nam: chỉ số GCI của Trung Quốc xếp thứ 33/80 nước, tăng 6 bậc so với năm 2001 (39/80 nước) và chỉ số MICI đứng thứ 38/80 nước, tăng 5 bậc so với năm 2001 (43/80 nước).
2.2. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,
Có thể được hiểu là khả năng tồn tại , duy trì hay gia tăng lợi nhuận và dịch vụ của các doanh nghiệp. Giữa năng lực cạnh tranh quốc gia với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ, nhân quả với nhau. Về tổng thể, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng nhìn chung có quy mô nhỏ và có tiềm lực yếu. Thực vậy, cả nước hiện nay có tới 97,8% tổng doanh nghiệp có quy mô dưới 300 lao động và 95,6% tổng số doanh nghiệp khoảng 18 tỷ đồng (tương đương 1,2 triệu USD) – tức hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp có quy mô lớn chỉ chiếm vài phần trăm, riêng loại có 1.000 lao động trở lên chiếm 0,6% và loại có vốn 500 tỷ đồng trở lên chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp. Với tiềm lực đó sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế. Điều này được chứng minh qua 2 nhóm chỉ tiêu đánh giá sau:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp ở mức thấp (xem bảng 2) nên việc tích lũy để phát triển và phòng chống rủi ro cũng thấp.
Bảng 2: Một số chỉ tiêu về hiệu quả SX - KD của doanh nghiệp
chỉ tiêu hoạt động
Kết quả
Doanh nghiệp
Nhà nước
Tập thể
Tư nhân
Có vốn ĐTNN
1.Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%)
2.Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (%)
3.Nộp ngân sách/doanh thu (%)
5,45
5,28
8,42
4,41
4,23
8,81
4,06
3,39
3,02
1,51
0,85
2,98
8,87
13,51
14,42
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, số 23 ngày 22-2-2002
Khả năng chiếm lĩnh thị trường của đa số các doanh nghiệp là yếu. Ví dụ đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp (xem bảng 3): (1). Khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa: 26,9% giành được ưu thế chiếm lĩnh thị trường: 58,8% chiếm lĩnh thị trường nhưng chưa vững chắc: 14,3% hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước; (2). Khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp: 23,8% đã xuất khẩu; 13,7% có triển vọng sẽ xuất khẩu và 62,5% hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu.
Bảng 3: Tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp phân theo khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu (năm 1998)
Toàn ngành công nghiệp
Chia ra
Khai thác
Chế biến
SX năng lượng
Tổng số
1. Khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa
- Giành được ưu thế
- Chua vững chắc
- Không có khả năng cạnh tranh
2. Khả năng xuất khẩu
- Đã xuất khẩu
- Triển vọng sẽ xuất khẩu
- Không có khả năng xuất khẩu
100,0
26,9
58,8
14,3
23,8
13,7
62,5
100,0
28,9
59,2
11,9
15,9
14,4
69,7
100,0
26,3
59,2
24,3
24,3
13,8
62,9
100,0
85,2
13,6
2,5
2,5
1,2
96,3
III. Thực trạng hoạch định chiến lược cạnh tranh tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và các giải pháp phát triển hoạch định chiến lược cạnh tranh.
Quản trị chiến lược là một phương thức quản trị chiến lược mới , và khoa học . Đã được áp dụng và thực thi trong các doanh nghiệp trên thế giới từ những thập niên 60 . Tuy nhiên , đối với các doanh nghiệp Việt Nam ,do đặc điểm nền kinh tế thị trường còn non trẻ , các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc tiếp cận phương thức quản trị mới này . Và thực tế áp dụng còn có sự khác biệt lớn giữa các loại hình doanh nghiệp .
1. Thực trạng hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1 Đối với mô hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với loại hình doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài . Do đó các doanh nghiệp này là các nhà đầu tư nước ngoài đã có một quá trình phát triển lâu dài với cơ chế thị trường cạnh tranh . Họ có nhiều kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp , trong cạnh tranh với quy luật của cơ chế thị trường . Họ sớm có những phương thức quản trị theo chiến lược.
Khi đầu tư tại Việt Nam , họ đã xây dựng cho doanh nghiệp mình phương thức quản trị hiện đại và khoa học . Các doanh nghiệp luân có chiến lược kinh doanh rõ ràng và chiến lược cạnh tranh cụ thể.
Thực tế , sự thành công của các doanh nghiệp này tại thị trường việt nam là rất lớn , chỉ một số ít doanh nghiệp ro mắc sai lầm trong chiến lược của mình .Còn phần lớn họ đã thu được kết quả kinh doanh khả quan và phát triển mạnh tại Việt Nam . Một ví dụ điển hình đó là công ty liên doanh Hon Da Việt Nam đã rất thành công bởi chiến lược thị trường hướng vào người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thị trường tiêu thụ tại nông thôn , với chiến lược cạnh tranh nhờ chi phì thấp và đa dạng sản phẩm kinh doanh của mình .
Việc hoạch định chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp này luân được xác định một cách cụ thể và rõ ràng . Họ luôn xác định được cho mình một thị trường mục tiêu rõ ràng với chiến lược về sản phẩm và giá cả hợp lý . Vừa lôi kéo được khách hàng và dành được ưu thế trước các đối thủ cạnh tranh của mình.
1.2 Hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước với đặc điểm là doanh nghiệp vốn đầu tư của nhà nước . Và với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế , các doanh nghiệp này kinh doanh trong các ngành nghề có vai trò quan trọng ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế và có vai trò tạo động lực phát triển và ổn định của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước thường có quy mô tương đối lớn và có năng lực về vốn đầu tư, và nhân lực mạnh hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác .
Trước đây mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh , luôn được thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch mang tính mệnh lệnh. Các kế hoạch trong sản xuất kinh doanh này được xây dựng mang tính chất là hệ thống các chỉ tiêu được áp dụng cho các doanh nghiệp theo hình thức giao , nhận. Hoàn toàn không được tính toán bởi các nhu cầu thiết thực của thị trường , các doanh nghiệp hoàn toàn không phải đương đầu với cạnh tranh trong kinh doanh, mà họ chỉ có nghĩa vụ phải thực hiện các chỉ tiêu được giao.
Sau khi thực hiện đổi mới trong công tác quản lý doanh nghiệp , nhà nước không còn trực tiếp tham gia vào quyết định sản xuất của các doanh nghiệp . Mà tạo ra một cơ chế tự chủ, độc lập trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm phát huy khả năng và động lực trong kinh doanh của họ , và thực hiện kinh doanh có hiệu quả. Từ bước đổi mới này của nhà nước đã thực sự cởi trói cho các doanh nghiệp , đồng thời tạo ra một không khí mới , một nhân tố tác động đến môi trường kinh doanh của nước ta . Các doanh nghiệp ngay lập tức đã có những đổi mới trong quản trị , và hoạt động kinh doanh của mình . Họ đã nhanh chóng tiếp thu những khoa học quản lý mới , nhằm năng cao khả năng sản xuất kinh doanh và làm ăn có lãi. Với thế mạnh của mình là có quy mô lớn , có thế mạnh về vốn và nguồn nhân sự trong doanh nghiệp, họ đã xây dựng cho doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và các chiến lược cạnh tranh cụ thể. Từ sự đổi mới này , đã có rất nhiều các doanh nghiệp làm ăn có lãi , đóng góp cho ngân sách lớn , giải quyết được một lượng lớn nhu cầu việc làm của xã hội và khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Tuy vậy không phải doanh nghiệp nào sau khi thực hiện cơ chế quản lý mới của nhà nước , cũng thực hiện kinh doanh một cách hiệu quả . Vẫn có doanh nghiệp đã rất lúng túng , không tìm ra được hướng đi cho mình, năng lực cạnh tranh không được cải thiện và làm ăn ngày càng kém hiệu quả , đi đến thua lỗ . Họ bị lâm vào tình trạng như vậy , không phải vì trong ngành kinh doanh không tăng trưởng hay khó khăn về vốn , hay không được hưởng các chính sách ưu đãi của chính phủ . Mà sự thất bại đó bắt đầu từ nguyên nhân của sự kém năng động , không thực hiện sự đổi mới , không có một hướng đi nhất quán trong kinh doanh . Không xây dựng cho mình được một chiến lược kinh doanh cụ thế và chiến lược cạnh tranh không được xây dựng hoặc là các quyết định về cải thiện năng lực cạnh tranh trong kinh doanh mắc những sai lầm không phù hợp với điều kiện trong kinh doanh của mình.
Như vậy thực tế cho thấy rằng đã có một số các doanh nghiệp đã xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh nhằm đương đầu với sự cạnh tranh của môi trường kinh doanh vì mục tiêu trong kinh doanh và phát triển doanh nghiệp . Nhưng cũng còn một khối lượng lớn các doanh nghiệp đã không thực sự bắt nhịp được với sự phát triển của môi trường kinh doanh , không áp dụng được những phương thức quản trị hiện đại cho doanh nghiệp của mình , không đáp ứng được đòi hỏi của doanh nghiệp . Nguyên của hiện tượng này thì có nhiều , nhưng trong đó có nguyên nhân là từ thói quan làm việc theo cơ chế cũ , các nhà quản trị không thực sự năng động và ý thức trách nhiệm trong quản lý nguồn vốn từ nhà nước còn kém. Đây chính là một trong những lý do cho chương trình cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay của chính phủ. Ngay từ năm 2001 , Nghị quyết trung ương 3 đã yêu cầu chấm rứt tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp , cụ thể hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ; phân định rõ quyền quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp . Và khi chính phủ thực hiện được chương trình này sẽ tạo ra cho nền kinh tế những nhân tố mới , sẽ tạo ra một tác động lớn tới yếu tố cạnh tranh của môi trường kinh doanh này, đại đa số các doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hoá , và do đó sẽ tạo ra một lực lượng tham gia hoạt động kinh tế trở nên năng động hơn và thực sự sẽ hoạt động có hiệu quả hơn trước . Các doanh nghiệp này sẽ có những đổi mới trong hoạt động quản trị của mình , với mục tiêu đạt được hiệu quả trong kinh doanh .Nó sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của khoa học quản trị theo chiến lược tại Việt Nam , lúc đó các doanh nghiệp sẽ phải có sự quan tâm và nghiên cứu một cách chu đáo trong công tác xây dựng chiến lược cạnh tranh cho mình . Nhằm phù hợp với tình hình của môi trường cạnh tranh và nếu không muốn những thất bại , bởi các đối thủ cạnh trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Bởi hiện nay lực lượng kinh tế tư nhân của Việt Nam đang có những cơ hội phát triển rất mạnh sau khi chính phủ có những chính sách tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân , đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ , đồng thời hiện nay Việt Nam được coi là một trong 4 nước có sức hấp dẫn đầu tư lớn nhất trên thế giới sau : Trung Quốc , Thái Lan và Mỹ (Theo điều tra của Ngân hàng hợp tác quốc tế công bố 9-4-2004) , từ đặc điểm này có thể thấy rằng các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối đầu với một sức canh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp từ nước ngoài dù là doanh nghiệp liên doanh hay là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
1.3 Hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Mặc dù loại hình doanh nghiệp này mới thực sự tham gia vào hoạt động kinh tế sau thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường . Song nó lại có một tốc độ phát triển mạnh về số lượng và qui mô doanh nghiệp , nó lại là mô hình doanh nghiệp trong nước có sự năng động trong đổi mới mạnh mẽ nhằm thích nghi với môi trường kinh doanh tại Việt Nam và tìm cách thâm nhập vào thị trường Quốc tế có sức cạnh tranh lớn như thị trường ; Mỹ , Nhật và thị trường EU . Đó là nhành thành quả rất khả quan của các doanh nghiệp Việt Nam . Tuy vậy , năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn được đánh giá là yếu . Bởi năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là không đồng đều và các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao lại rất ít, đồng thời thực tế thị lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp lại chủ yếu dựa vào nguốn nguyên liệu rẻ và giá nhân công thấp . Trong khi khoa học trong xây dựng lợi thế cạnh tranh còn rất hạn chế .
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này , có đặc điểm là tính năng động cao hơn , các chủ doanh nghiệp có toàn quyền ra các quyết định kinh doanh của mình , họ có lòng đam mê trong kinh doanh với động lực lập nghiệp làm giàu cao . Mô hình doanh nghiệp này là hình thức bỏ vốn trực tiệp của chủ đầu tư , và vì vậy họ luôn có tinh thần trách nhiệm cao với nguồn vốn của doanh nghiệp và chịu hậu quả trực tiệp từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Đây là động lực trực tiếp , khiến các chủ doanh nghiệp luôn phải tính tới khả năng kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình nếu không muốn nhận thấy những thất bại , và bị loại khỏi cuộc trơi.
Thực tế thì tại các doanh nghiệp có qui mô lớn , cũng đã có những chiến lược cạnh tranh cho mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và đối đầu với các đối thủ cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường , thu hút khách hàng và thực hiện các mục tiêu trong kinh doanh của mình . Hoạch định chiến lược cạnh tranh được các loại hình doanh nghiệp như ; công ty cổ phần , công ty trách nhiệm hữu hạn , chú trọng hơn và đã thực hiện cho mình một chiến lược canh tranh cụ thể. Tuy vậy không phải tất cả các loại hình doanh nghiệp này tại Việt Nam đều đã nhận thức được vai trò của hoạch định chiến lược kinh doanh và có khả năng thực hiện được chiến lược kinh doanh cho mình do còn hạn chế về nhận thức , về tài chính và về con người để hoạch định chiến lược kinh doanh .
Một đặc điểm lớn của hoạch định chiến lược kinh doanh tại các doanh nghiệp là . Không phải mọi chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp đều được hoạch định bởi một lực lượng chức năng có chuyên môn và có tính chất chuyên nghiệp . Nó có thể chỉ dừng lại chỉ ở trong cách nghĩ về lựa chọn kinh doanh của chủ doanh nghiệp ,ở quyết định của chủ doanh nghiệp cho các bộ phận phải thực hiện , hoặc đó chỉ là một chiến lược bắt trước các doanh nghiệp khác . Do đó các chiến lược cạnh tranh đó không thực sự tạo ra một lợi thế cho doanh nghiệp trước các đối thủ hoặc luôn đi theo các doanh nghiệp đó . Khi các chiến lược không được hoạch định một cách khoa học , không được phân tích một cách cẩn thận nhằm sử dụng những lợi thế mà doanh nghiệp có , tân dụng những thời cơ và phù hợp với đặc điểm của môi trường kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không đạt được những kết quả như mong muốn với việc tiết kiệm các chi phí nâng cao hiệu quả trong kinh doanh .Đồng thời có thể sẽ nhận lại những thất bại trong kinh doanh.
Một thực tế nữa là hiện tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ , mặc dù các doanh nghiệp này có số lượng rất lớn , theo cuộc điều tra các cơ sở kinh tế , hành chính và sự nghiệp đến thời điểm 1-7-1995 , cả nước có 23708 doanh nghiệp thì doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 87,8% . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có một ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế nó góp phần thu hút được nguồn vốn đáng kể trong xã hội , thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế , góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế không những trong nông nghiệp mà còn trong toàn bộ nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Đồng thời đóng góp đáng kể cho xuất khẩu và giải quyết được một khối lượng lớn lực lượng lao đông cho xã hội.Tuy vậy khả năng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này lại gặp rất nhiều khó khăn , họ thường lúng túng trước những biến động lớn của môi trường kinh doanh và thường đi theo con đường cạnh tranh không lành mạnh nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình. Do các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế trong nguồn vốn , trong nhận thức về khoa học quản trị hiện đại .
Họ không lập hoặc, không thể lập chiến lược cạnh tranh cho mình vì . Trước hết họ thường không có một bộ kế hoạch hoá , và cụ thể là bộ phận chức năng làm chiến lược . Các doanh nghiệp này thường do ông chủ doanh nghiệp trực tiếp quản lý điều hành doanh nghiệp , họ thường nghĩ rằng mình có chiến lược trong đầu cộng với một đội ngũ kinh doanh và sản xuất giỏi là đủ . Và một đặc điểm quan trọng nữa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu thông tin , không có đủ nhân viên để theo dõi tình hình cạnh tranh trên thị trường , chưa áp dụng công nghệ thông tin , đặc biệt là Internet , để tổng hợp , phân tích thông tin về thị trường trong nước và trên thế giới . Các doanh nghiệp này cũng chưa đến sự giúp đỡ của nhiều tổ chức hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam và tận dụng các nguồn thông tin và phương pháp quản lý mà các tổ chức này cung cấp . Thêm nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không có nguồn tài chính mạnh để mua thông tin từ các công ty nghiên cứu thị trường . Chính vì thế mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường đi sau các tập đoàn các công ty lớn về việc phát triển các ý tưởng kinh doanh và các sản phẩm , cũng như các phương thức sản xuất và phân phối , tiêu thu sản phẩm.
Tóm lại việc thiếu chiến lược kinh doanh , chiến lược cạnh tranh không có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ làm ăn thua lỗ , hay gặp phải thất bại tức thời . Nhưng nếu không có chiến lược cạnh tranh cụ thể ,các doanh nghiệp dù làm ăn khấm khá nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn , nhất là khi phải đối mặt với các cơ hội đầu tư mới , phải ra các quyết định quan trọng về nhân sự , tài chính , tổ chức … chủ doanh nghiệp sẽ trở nên lúng túng không biết các quyết định của mình có đúng không , có khả năng mang lại lợi nhuận hay không. Và thật là nguy hiểm khi mà môi trường có tính cạnh tranh cao như hiện nay ,sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn có cả sự tham gia của yếu tố cạnh tranh từ nước ngoài.
Để cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế , đặc biệt cụ thể là đối với các doanh nghiệp . Chính phủ và doanh nghiệp cần phải có những giải pháp hữu hiệu và cấp bách , khi mà thời điểm thực hiện lộ trình gia nhập AFTA và WTO đang đến gần , nhằm đảm bảo cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp khi mà chúng ta phải mở cửa nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực , khi mà chính phủ sẽ phải xoá bỏ các hàng rào bảo hộ doanh nghiệp trong nước trước đây.
2. Giải pháp cho việc thúc đẩy hoạch định chiến lược cạnh tranh tại doanh nghiệp .
2.1 Các giải pháp từ phía chính phủ.
a. Hoàn thiện , ổn định môi trường chính sách .
Cơ chế chính sách của Việt Nam hiện nay được đánh giá là có sự biến đổi lớn các chính thường xuyên có sự thay đổi .Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp , phải luôn theo dõi và khó lường trước những thay đổi để thích nghi.Vì rằng hoạch định chiến lược luôn được thực hiện cho thời gian tương lai tương đối dài , và vì vậy nếu chính sách kinh tế không ổn định và thường xuyên có sự thay đổi sẽ làm cho xây dựng chiến lược tại doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn ,Và thậm chí là chiến lược được xây dựng không phát huy được vai trò của mình đối với doanh nghiệp mà còn tạo ra thất bại cho doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh của mình ,doanh nghiệp rất muốn được kinh doanh trong điều kiện môi trường pháp luật đầy đủ , thống nhất , đồng bộ và có sự ổn định cao . Đây không chỉ là cơ sở cho việc ra các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp để luôn tân dụng được những cơ hội của môi trường , để đảm bảo cho các quyết định của doanh nghiệp không bị trái với pháp luật quy định . Mà nó còn là điều kiện đảm bảo cho sự an toàn của doanh nghiệp trước những sai phạm của các doanh nghiệp khác xâm hại tới lợi ích của họ hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh .
Đồng thời cho tới thời điểm này thì hệ thống luật pháp điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của nước ta còn chưa đồng bộ , luật cạnh tranh còn chưa đi vào thực tế cuộc sống . Chúng còn thiếu rất nhiều luật , điều này vừa gây khó khăn trong quản lý kinh tế , trong giải quyết các tranh chấp giữa các doanh nghiệp , và khiến các doanh nghiệp rất lúng túng trong các quyết định kinh doanh . Không những thế nó còn gây ra sự không ổn định trong nền kinh tế , không phát huy được năng lực trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp . Do đó một yêu cầu đặt ra là Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng các luật điều chỉnh hoạt động kinh tế còn thiếu , Quốc hội cần sớm thông qua các dự thảo luật , nhằm kiện toàn hệ thống luật , đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kinh doanh , tạo môi trường pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp .
Đồng thời chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa trong công tác cải cách hành chính , công tác quản lý kinh tế hiện nay. Đây là vấn đề đặt ra rất cấp bách cho các nhà quản lý , và là vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay cho tất cả các loại hình doanh nghiệp , nhất là khu vực kinh tế tư nhân . Vì quy trình quản lý kinh tế và thủ tục hành chính cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của doanh nghiệp . Trong điều kiện hoạt động kinh doanh hiện nay, cái mà các doanh nghiệp cần là sự rõ ràng minh bạch , sự thông thoáng trong các thủ tục nó vừa ảnh hưởng đến thời gian , chi phí và tâm lý trong kinh doanh của doanh nghiệp .
Chính sách của nhà nước cũng nên tạo điều kiện và hỗ trợ cho các loại hình doanh nghiệp còn non trẻ ,còn có khó khăn về vốn và phương pháp quản lý. Cần có những chính sách khuyến khích đầu tư , khuyến khích phát triển hơn nữa các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ , trong chế độ , chính sách ưu đãi đầu tư nên có sự phân biệt đối với từng loại hình kinh tế cụ thể , nhất là kinh tế tư nhân , loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ theo từng quy mô, và trình độ phát triển của chúng .
Tóm lại với các giải pháp nhằm ổn định và kiện toàn hệ thống luật pháp , cùng với các chính sách nhằm hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp . Sẽ tạo ra một môi trường pháp lý ổn định tạo tâm lý an tâm cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh , góp phần phát triển và kiện toàn nền kinh tế. Đó là các tác động trực tiếp , đồng thời nó sẽ có tác động gián tiếp tới các quyết định chính sách trong kinh doanh của doanh nghiệp . Nó sẽ tác động lớn tới công tác xây dựng chiến lược kinh doanh , tới hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp . Khi mà các tế bào trong nền kinh tế đều lớn mạnh và bình đẳng trong cạnh tranh , khi mà tâm lý của chủ doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm vào sự ổn định và hoàn thiện của môi trường pháp lý trong kinh doanh .
b. Chính phủ cần kiên quyết xoá bỏ sự ỷ nại vào chính sách bao cấp , bảo hộ của nhà nước.
Sự bao cấp và bảo hộ đó , sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ỷ nại, thiếu năng động trong kinh doanh của doanh nghiệp . Nó làm cho các động lực sản xuất , tinh thần tìm tòi đổi mới , đầy lùi các mối đe doạ và khó khăn khi gặp phải bị triệt tiêu. Khi mà được chính sách bảo hộ , bảo đảm trước những thất bại , những rủi ro trong kinh doanh thì doanh nghiệp ,sẽ không cần phải tính toán tới năng lực cạnh tranh của mình làm gì , và khi đó hoạch định chiến lược canh tranh là việc làm không cần thiết.
Sự xoá bỏ bao cấp , xoá bỏ bảo hộ sẽ tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cả trong cạnh tranh , trong tiếp cận vốn trong tiếp cận các chính sách . Từ đó không chỉ tạo ra sự năng động và tự chủ trong các doanh nghiệp không còn được bảo hộ mà nó còn là nhân tố khuyến khích , tạo tâm lý thoải mái trong kinh doanh của các doanh nghiệp khác . Khiến họ thật sự tâm huyết trong kinh doanh và luôn tìm tòi đổi mới cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy việc kiên quyết xoá bỏ bao cấp , xoá bỏ bảo hộ sẽ thúc đẩy cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải chú trọng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp . Và luôn tìm cách để phát huy lợi thế cạnh tranh của mình.
c. Đẩy mạnh hoạt động bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh .
Hoạt động buôn lậu , sản xuất hàng giả , hàng nhái và vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tất cả những hoạt động này không chỉ gây thiệt hại cho nền kinh tế , gây rối loạn công tác quản lý thị trường . Mà nó có tác động trực tiếp và mạnh mẽ lên bản thân các doanh nghiệp.
Hoạt động buôn lậu không chỉ ảnh hưởng tới an ninh nền kinh tế , ảnh hưởng tới sản xuất trong nước , tới doanh thu của doanh nghiệp mà nó ảnh hưởng rất lớn tới các chiến lược mà các doanh nghiệp trong nước đang theo đuổi , mà điều này thì doanh nghiệp không thể dự báo , cũng như kiểm soát được .Nó sẽ làm cho mọi tính toán chiến lược bị thất bại , các mục tiêu về doanh thu lợi nhuận bị ảnh hưởng , và các chiến lược cạnh tranh khó đo lường được thành công hay thất bại . Nó làm cho mọi nỗ lực trọng việc cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị thất bại, nhất là các chiến lược theo đuổi chi phí thấp , vì hàng nhập lậu luôn có giá bán rẻ hơn nhiều so với hàng hoá được sản xuất trên thị trường.
Đối với hoạt động sản xuất hàng giả , hàng nhái thì tác động của nó không chỉ dừng lại ở việc tác động tới lợi ích người tiêu dùng,mà nó có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới doanh nghiêp . Nó sẽ làm mất uy tín của sản phẩm đối với người tiêu dùng và đó là nguyên nhân dẫn đến mọi nỗ lực của doanh nghiệp trong việc xây dựng lợi thế thu hút người tiêu dùng trước các đối thủ không còn ý nghĩa và do đó chiến lược cạnh tranh mà doanh nghiệp theo đuổi bị thất bại.
d. Tổ chức tốt công tác cung cấp thông tin cho nền kinh tế.
Nắm bắt nguồn thông tin trong kinh tế , của nền kinh tế , của thế giới , của môi trường cạnh tranh là một lợi thế mà doanh nghiệp nào cũng muốn có . Song công tác thu thập thông tin đối với các doanh nghiệp là cực kỳ khó khăn , nhất là cac doanh nghiệp có qui mô và năng lực yếu.
Trước những khó khăn mà doanh nghiệp gắp phải như vậy , chính phủ cần tỏ rõ vai trò của mình là cơ quan giúp đỡ và thực hiện khắc phục những thất bại đó của cơ chế thị trường. Với năng lực của mình trong phân tích và thu thập thông tin , nhất là những thông tin từ nền kinh tế thế giới và khu vực , các thông tin đánh giá , phân tích và dự báo về từng ngành kinh tế , của các nguồn tài chính , nhân lực , khoa học công nghệ . Chính phủ cần phải có hệ thống thông tin các nguồn thông tin đó cho nền kinh tế , cho các doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế mà không mấy doanh nghiệp nào cũng làm được .
Những nguồn thông tin đó là rất quan trọng cho công tác phân tích , dự báo , và tính toán chiến lược của doanh nghiệp . Nó là cơ sở quan trọng cho moi lựa chọn chiến lược , cho hướng đi mà chiến lược cần vạch định , nó sẽ góp phần quyết định tới việc doanh nghiệp nên xây dựng lợi thế cạnh tranh của mình dựa trên những yếu tố nào.
2.2 Các giải pháp từ phía doanh nghiệp.
a. Cần nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của hoạch định chiến lược cạnh tranh tại doanh nghiệp .
Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt hiện nay, khi mà môi trường kinh doanh luôn có nhiều những biến đổi bất ngờ. Và năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không còn quá xa nhau. Không những thế môi trường kinh doanh trong nước còn có sự tham gia của các nhà đầu tư thế thới , khi họ luôn chiếm ưu về các mặt tài chính , khoa học công nghệ sản xuất, và trình độ quản lý trước các doanh nghiệp trong nước . Thì một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước , nếu muốn không bị thất bại và thành công trong kinh doanh , thì phải nhất thiết tiếp cận vời những tiến bộ mới trong quản trị doanh nghiệp . Phải xây dựng một chiến lược cạnh tranh cụ thể và phù hợp vời năng lực của doanh nghiệp . Tất cả các quyết định về sản xuất sản phẩm gì? sản xuất như thế nào, và sản xuất bàng gì? rồi đến xây dựng hệ thống kênh phân phối…. đều phải bắt đầu và thống nhất với chiến lược cạnh tranh đã hoạch định . Nhằm tạo ra một lợi thế trước các đối thủ của mình.
b. Các doanh nghiệp cần xây dựng và kiện toàn hệ thống kế hoạch hoá của mình theo hướng chuyên nghiệp.
Để xây dựng các kế hoạch kinh doanh phù hợp không quá xa vời với thực tế của doanh nghiệp và cũng không làm lãng phí , bỏ mất cơ hội trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời để hoạch định chiến lược tại doanh nghiệp đạt được kết quả cao . Chiến lược được hoạch định thật sự đem lại những thành công cho doanh nghiệp , tạo ra một lợi thế cạnh tranh như mong muốn . Thì doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một lực lượng chức năng làm kế hoạch , hoạch định chiến lược có năng lực và mang tính chuyên nghiệp cao .
Vì rằng , doanh nghiệp không những cần phải xây dựng cho mình các kế hoạch kinh doanh theo năm , quí , tháng và thậm chí là theo tuần , tuỳ thuộc vào đặc điểm , qui mô của doanh nghiệp . Đồng thời công tác hoạch định chiến lược cần được tiến hành một cách liên tục và thường xuyên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , phải luôn có những quyết định trước những biến đổi của môi trường kinh tế và điều kiện cạnh tranh.
Trong việc tổ chức hệ thống kế hoạch hoá , cần chú trọng tới việc tổ chức lực lượng nhân sự cho công tác nghiên cứu nắm bắt thông tin từ môi trường kinh doanh , đây là một bộ phận chức năng có vai trò rất quan trong , ảnh hưởng rất lớn tới quá trình ra các quyết định lựa chọn chiến lược và tới sự thành công của chiến lược . Nếu nguồn thông tin được nắm bắt kịp thời , chính xác và trước các đối thủ khác , thì sẽ tạo ra lợi thế vô cùng lớn trong cạnh tranh . Đồng thới có nguồn thông tin chính xác thì doanh nghiệp sẽ tránh được các lãng phí không cần thiết về mặt thời gian và tài chính , không những thế mà các quyết định được lựa chọn sẽ không phải mắc những sai lầm đáng tiếc.
c. Luôn bám sát thị trường kinh doanh.
Luôn bám sát lấy thị trường kinh doanh của mình , tiến hành thu thập và phân tích thông tin thị trường một cách thường xuyên . Nhằm đánh giá đúng mức tình hình cạnh tranh trên thị trường , đánh giá chính xác năng lực và vị thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Đồng thời thu thập thông tin từ đối thủ cạnh tranh của mình , xem xét xem họ đang làm gì và thành công đến đâu. Vì chính những thành công hay thất bại của các đối thủ cũng chính là nguồn thông tin quý giá cho doanh nghiệp , trong việc nhận thức ra những bài học kinh nghiệm cho mình trong hoạt động kinh doanh . Để tránh đi những sai lầm đáng tiếc ,và tận dụng được những thời cơ.
d. Sử dụng các nguồn thông tin từ các nhà tư vấn trên thị trường.
Trong thực tế hiện nay còn tồn tại hai loại hình doanh nghiệp, không thể thực hiện được hoạch định chiến lược kinh doanh cho mình . Thứ nhất đó là các doanh nghiệp nhỏ, họ không đủ năng lực để tổ chức hoạch định chiến lược cho mình, cũng có những ý kiến nghiên cứu cho rằng các doanh nghiệp này không cần thiết phải tổ chức cho mình một lực lượng chuyên trách về xây dựng kế hoạch và chiến lược . Thứ hai là các doanh nghiệp họ có nhân sự cho việc xây dựng chiến lược cho mình , nhưng năng lực còn hạn chế.
Giải pháp cho tình huống này là hiện nay trên thị trường có nhiều doanh nghiệp tham gia vào việc tư vấn cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực cung cấp thông tin kinh tế , tư vấn về xây dựng kế hoạch và chiến lược cho doanh nghiêp.
Kết luận
Trong điều kiện môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, các quy luật kinh tế , quy luật cạnh tranh đóng vai trò chủ đạo và quyết định tới mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Khi mà mỗi doanh nghiệp tham gia trong môi trường kinh doanh đều bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Và nền kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà có sự mở cửa và hội nhập kinh tế , theo xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế hiện nay . Đã đặt các doanh nghiệp vào tình thế luôn lấy cạnh tranh làm điều kiện sống còn trong kinh doanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam , muốn tồn tại và phát triển phải nhận thức được những khó khăn , những điều kiện sống còn đó trong hoạt động của mình . Để giành ưu thế trong cạnh tranh và thực hiện thành công các mục tiêu trong kinh doanh của mình .Các doanh nghiệp cần phải có các chính sách cạnh tranh cụ thể và hữu hiệu , phải nhận thức được và sớm thực hiện chiến lược cạnh tranh cho mình.
Để phát triển được phương thức quản trị chiến lược trở thành vũ khí lợi hại cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh , để có thể xây dựng thành công chiến lược cạnh tranh . Cẩn phải có sự thực hiện từ hai phía , chính phủ cần thực hiện các giải pháp hữu hiệu , thiết thực tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh . Đồng thời , với các doanh nghiệp cần nhanh chóng kiện toàn và hoàn thiện xây dựng chiến lược cạnh tranh cho mình , nhằm duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh của mình trong kinh doanh .
Danh mục tài liệu tham khảo
1. GS.PTS Vũ Thị Ngọc Phùng ,Th.s Phan Thị Nhiệm ; Giáo trình Chiến lược kinh doanh; NXB Thống kê, 1999.
2. PGS.TS Nguyễn Thành Độ ; Giáo trình Chiến lược và phát triển doanh nghiệp ; NXB Giáo dục ,1996.
3. RAYMOND ALAIN- THéTART ; Chiến lược doanh nghiệp ; NXB Thanh niên, 1999.
4. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số5/2002.
5.Thời báo Kinh tế Sài Gòn số: 2/1/2003 , 24/4/2003.
6. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 297-2/2003 , 304-9/2003.
7. Tạp chí Phát triển kinh tế 11/2002
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35565.doc