Đề án Hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Da giầy Hà Nội

Trên thế giới hiện nay, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Ở nước ta hiện nay xuất khẩu là động lực chính để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Với vai trò đó, Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các thành phần kinh tế hướng về xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu, để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, cạnh tranh là vấn đề tất yếu. Cạnh tranh để tồn tại, phát triển và là động lực phát triển nền kinh tế của mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi Quốc gia. Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Da Giầy Hà Nội chuyên sản xuất và xuất khẩu giầy. Đó là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay. Mặc dù Công ty mới chuyển sang sản xuất và kinh doanh giầy dép trong mấy năm gần đây nhưng Công ty cũng đã tạo cho mình những bước đi ban đầu vững chắc. Những kết quả đạt được hiện tại thật đáng khích lệ so với các công ty khác cùng ngành và sẽ hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho Công ty. Do đó, trong thời gian tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Công ty cần khai thác triệt để những thuận lợi có được và khắc phục những lợi thế cũng như khuyết kém trong cạnh tranh thông qua một số giải pháp chủ yếu như: xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể, tăng cường hoạt động marketing, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Da giầy Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư 2 dây chuyền sản xuất giầy vải xuất khẩu với công suất 1,2 triệu đôi mỗi năm, 01dây chuyền sản xuất giầy nam, nữ với công suất 500 nghìn đôi mỗi năm và Công ty đã giải quyết thêm được việc làm cho 600 lao động. Với những chuyển biến bước đầu như vậy, trong năm 1999 Công ty đã thu nhận được một số kết quả nhất định và tương đối khả quan, để từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh ở các năm 2000, 2001, 2002 và 6 tháng đầu năm 2003. Bảng 1: Tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây. TT Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu (tr.đồng) 12.000 25.410 53.300 60.183 2 Giá trị SX công nghiệp(tr.đồng) 9.000 18.450 23.560 25.535 3 Sản phẩm chủ yếu: (đôi) 405.250 955.000 1.272.400 923.100 + Giầy vải 400.000 800.000 1.000.800 614.750 + Giầy da 5.250 155.000 271.600 308.400 4 Giá trị xuất khẩu (1000USD) 450 1.105 1.501 2.030 5 Số lượng xuất khẩu (đôi) 304.000 630.000 700.000 762.600 6 Giá trị nhập khẩu (1000USD) 269 907 1.740 2.010 Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu Đối với sản phẩm của ngành thuộc da đạt tỷ lệ thấp là do các năm trước đây chủ trương của Bộ và Tổng Công ty da giầy Việt Nam là quy hoạch di chuyển phần thuộc da của Công ty Da Giầy Hà Nội về Vinh, tuy nhiên trong hai năm trở lại đây, công ty đã xuất khẩu được một lượng khá lớn. - Lĩnh vực giầy vải hoàn toàn mới đối với Công ty, nên phải mất nhiều thời gian để đào tạo công nhân tay nghề, và trong thời kỳ sản xuất thử thì sản lượng và chất lượng rất thấp. Trong hai ba năm trở lại đây, nhờ được đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và nâng cao tay nghề công nhân nên sản lượng đã tăng lên đáng kể. - Công ty đã đầu tư hoàn thiện 02 dây chuyền giầy vải và 01dây chuyền da xuất khẩu. Hiện đã và đang phát huy tác dụng. - Công ty cũng đã xây dựng một trung tâm mẫu đủ mạnh và bước đầu làm chủ được toàn bộ quá trình sản xuất từ khâu thiết kế, ra quy trình công nghệ, định mức vật tư, hướng dẫn triển khai sản xuất. - Tuy mới bước vào lĩnh vực sản xuất giầy dép, nhưng Công ty đã tạo dựng được mối quan hệ với nhiều bạn hàng, tạo được thị trường tương đối ổn định, vững chắc cho cả giầy vải và giầy da nam, nữ... sản phẩm của Công ty đã được xuất khẩu đi nhiều nước như: Đức, Pháp, Đài Loan, Hàn Quốc, ý, Anh. - Công ty đã sắp xếp lại, cải tiến bộ máy quản lý Công ty đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ, nhưng hiệu quả. Đặc biệt là đã tạo ra được sự đoàn kết thống nhất cao trong toàn bộ công nhân viên trong Công ty nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Công ty. - Năm 2002, tình hình tài chính của Công ty đã được cải thiện lành mạnh hơn, tình hình sản xuất kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực và có bước tăng trưởng đáng kể so với năm 2001, đạt được sự tăng trưởng đều đặn như các năm trước đã đạt được. Nhiều lĩnh vực mới đã được triển khai và có xu hướng phát triển tốt. Bên cạnh việc sản xuất Công ty đã triển khai mở rộng thị trường nội địa, tính đến hết 6 tháng đầu năm 2003, Công ty đã có hơn 30 đại lý bán và giới thiệu sản phẩm từ Nam ra Bắc. - Năm 2001 là một năm đầy khó khăn thử thách, nhưng với sự thống nhất và quyết tâm cao của lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, Công ty đã vượt qua được khó khăn và thử thách đã tạo ra được một bước ngoặt vô cùng quan trọng, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của Công ty. Cũng trong năm 2001 với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn yêu cầu của khách hàng, Công ty Da Giầy Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO - 9002. - Bước sang năm 2002, Công ty Da Giầy Hà Nội đã có những thuận lợi do năm 2001 để lại. Nhưng năm 2002 là năm có nhiều sự biến động về thị trường giầy dép thế giới và khu vực, nó có tác động một phần không nhỏ đối với Công ty. Mặc dù vậy, trong năm 2002 Công ty vẫn thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Trong các năm 2001, 2002 Công ty đã cho ra đời hàng trăm mẫu mốt, đáp ứng nhanh chóng và kịp thời các yêu cầu của khách hàng chấp nhận và đặt hàng sản xuất trong những năm qua. Đây là điều kiện quan trọng để Công ty thực hiện phương thức mua đứt bán đoạn (FOB) tới 90% phương thức gia công chỉ chiếm 5 - 10% như hiện nay. Mặt khác để chủ động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thời gian qua Công ty Da Giầy Hà Nội đã chú trọng đầu tư xây dựng trung tâm mẫu mốt khá mạnh, với đội ngũ gần 30 cán bộ công nhân viên thiết kế và chế thử mẫu. - Để nắm bắt nhanh chóng, kịp thời các thông tin về thị trường, Công ty đã xây dựng một đội ngũ cán bộ marketing trẻ được đào tạo cơ bản kể cả đối với thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty liên tục tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và Việt Nam tổ chức, Công ty đã xây dựng được cho mình một Website riêng trên mạng Internet để quảng bá sản phẩm của mình, đồng thời tham gia tích cực vào hệ thống bao gồm 40 đại lý bán và giới thiệu sản phẩm của Công ty, trên phạm vi toàn quốc. Sản phẩm của Công ty đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Đức, Anh, ý, Hà Lan, Bỉ, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thuỵ Sỹ, Hy Lạp, Thuỵ Điển, Đan Mạch... Năm 2001 được sự ủng hộ của Tổng Công ty da giầy Việt Nam, Công ty đã đầu tư mới mở rộng sản xuất 5,5 tỷ đồng. Trong đó có 1,5 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản và 4 tỷ đồng cho nhà máy móc thiết bị. Đến nay, Công ty đã có một hệ thống nhà xưởng máy móc thiết bị đồng bộ, sạch sẽ khang trang đạt tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm: 01 xí nghiệp sản xuất giầy vải. 01 xí nghiệp sản xuất giầy da 01 xí nghiệp sản xuất cao su và đế giầy. 01 xí nghiệp cơ điện 01 Xí nghiệp Liên doanh Hà Việt - Tung Shing Như vậy, qua phân tích ở trên, ta thấy tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Da giầy Hà Nội có xu hướng phát triển tốt. 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty: Công ty Da Giầy Hà Nội mặc dù mới chuyển sang sản xuất kinh doanh giầy dép trong 4 năm trở lại đây. Nhưng Công ty cũng đã thể hiện là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có tích luỹ, hoạt động đang có chiều hướng đi lên. Trong những năm gần đây, thị trường giầy dép thế giới và khu vực có rất nhiều biến động như: - Sự mất giá của đồng EURO đã làm ảnh hưởng lớn đến giá cả của giầy dép xuất khẩu vào thị trường EU. Và dẫn tới sản lượng giầy xuất khẩu vào thị trường EU năm 2001 giảm, đặc biệt là giầy vải. Thêm vào đó lượng giầy tồn kho trên thị trường thế giới tăng, dẫn đến cầu về thị trường giầy dép giảm. Bên cạnh đó, Trung Quốc một đất nước với hơn 1 tỷ dân, giá nhân công lao động rẻ, một đối thủ cạnh tranh lớn có đầy đủ tiềm năng và ưu thế như ngành da giầy Việt Nam, nhưng lớn hơn và mạnh hơn rất nhiều lần. Hơn thế, với việc đã chính thức gia nhập WTO làm cho hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc cũng có những lợi thế cạnh tranh nhất định. Trước bối cảnh như vậy, để đạt được mục tiêu là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu giầy dép của Công ty Da Giầy Hà Nội sang các nước trong khu vực và EU, đòi hỏi Công ty cần phải có một chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Và trong các năm 2000, 2001, 2002 Công ty đã từng bước khẳng định được hướng đi đúng đắn của mình, thông qua kết quả xuất khẩu giầy dép đạt được, có thể đánh giá chính xác và khách quan về hoạt động này thông qua bảng sau: Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu năm 2000, 2001, 2002 Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Tổng giá trị xuất khẩu (FOB) trong đó: 630.000 1.105.000 700.000 1.501.000 762.600 2.030.000 - Giầy vải 623.700 994.500 677.250 1.100.450 701.250 1.400.750 - Giầy da gia công 6.300 110.500 22.750 400.550 61.350 569.250 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh xuất khẩu các năm 2000, 2001, 2002 của phòng xuất nhập khẩu Theo bảng trên có thể thấy sản lượng xuất khẩu mặt hàng giầy da gia công của Công ty tăng rõ rệt trong năm 2002 và tăng gần 10 lần so với năm 2001 và gần 3 lần so với năm 2000. Thị trường tiêu thụ giầy vải gia công nói riêng và da giầy của Công ty nói chung ngày càng tìm được chỗ đứng trên thị trường tiêu dùng quốc tế.Mặt khác hình thức xuất khẩu của Công ty cũng thay đổi, trong năm 2000, Công ty còn thực hiện hình thức gia công xuất khẩu, nhưng sang năm 2001 Công ty chuyển hẳn sang hình thức xuất khẩu trực tiếp. Sở dĩ có được các kết quả như vậy, một phần là do các nguyên nhân sau: + Các quốc gia xuất khẩu giầy dép lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, đang dần mất đi lợi thế của ngành công nghiệp da giầy này, là ngành sử dụng nhiều lao động. Khi giá công nhân ở khu vực này đang trở lên đắt hơn so với khu vực khác. + Việt nam có thế mạnh là nhân lực dồi dào, rẻ, có trình độ kỹ năng tốt, mặt khác giầy dép Việt Nam lại được hưởng chế độ thuế quan của EU. + Do liên minh Châu Âu(EU), một thị trường tiêu thụ giầy dép lớn đã đưa ra chính sách phá giá đối với Trung Quốc, bãi bỏ quy chế ưu đãi thuế với Thái Lan, hạn chế số lượng nhập khẩu bằng hạn ngạch và tăng thuế nhập khẩu giầy vào EU đối với các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc, Inđônêxia (tăng từ 16% đến 94%) vì vậy có sự dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam. + Do nắm bắt được tình hình, Công ty đã mở rộng, nâng cao công suất nhằm đáp ứng các đơn đặt hàng, tránh rủi ro cho khách hàng. Chính vì vậy Công ty ngày càng có nhiều đơn đặt hàng hơn. 2.1. Về chất lượng hàng xuất khẩu Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn yêu cầu khách hàng. Năm 2001 Công ty Da Giầy Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO-9002. Ngày 31/7/2000 Công ty ra quyết định thành lập Hội đồng chất lượng ISO - 9002, mở ra các lớp đào tạo chuyên gia đánh giá giá nội bộ, ban hành chính sách chất lượng của Công ty, sổ tay chất lượng ISO-9002, 18 thủ tục ISO-9002 và các biểu mẫu quy trình kiểm tra, bản mô tả công việc của từng cán bộ công nhân viên. Kết quả sau hơn một năm triển khai xây dựng áp dụng thử và hoàn thiện 10/2001 tập đoàn thử và hoàn thiện. Tháng 10/2001 tập đoàn chứng nhận quốc tế - SGS đã giá và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của Công ty đạt tiêu chuẩn hệ thống chất lượng quốc tế ISO-9002 và cấp chứng chỉ ISO-9002 cho Công ty (số 18727 ngày 20/10/2001). Đây là thành quả to lớn của sự phấn đấu liên tục, không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty Da Giầy Hà Nội, là điều kiện quan trọng để Công ty đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường và cũng là tờ giấy thông hành để Công ty thâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường mới. Mặt khác Công ty cũng xây dựng được một đội ngũ cán bộ, trung tâm mẫu mốt khá mạnh với 30 công nhân viên thiết kế và thử mẫu. Vì thế trong các năm 2001, 2002 Công ty đã cho ra đời hàng trăm mẫu mốt mới, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. 2.2. Về thị trường xuất khẩu Hiện nay phần lớn sản phẩm của Công ty xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu là chủ yếu, như: Đức, Thuỵ Sỹ, Hy Lạp, Hà Lan, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Đan Mạch. Tuy nhiên sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì thị trường Mỹ là điểm nhắm tới và Công ty sẽ tập trung mở rộng mối quan hệ giao dịch với thị trường đầy tiềm năng này. Ngoài ra, thị trường khu vực cũng là thị trường mà Công ty đang quan tâm, tuy nhiên cũng sẽ khó khăn hơn do giá cả vật tư, nguyên liệu và nhân công chênh lệch không nhiều so với nước ta. Có thể nói, Công ty Da Giầy Hà Nội đã tạo ra được uy tín đối với khách hàng trong và ngoài nước, phần lớn các sản phẩm của Công ty là xuất khẩu, và thị trường xuất khẩu chính của Công ty là các nước EU. Hiện nay Công ty đã và đang mở rộng hàng hoá của mình sang thị trường Mỹ, đây chính là một hướng đi quan trọng, có thể là mũi nhọn tiến công chiến lược, trong sự tăng tốc chung của ngành da giầy và dệt may nước ta trong thời gian sắp tới. 3. Những vấn đề còn tồn tại: Về bạn hàng kinh doanh, do Công ty mới phát triển nên chưa có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường tiêu thụ nước ngoài. Do đó, Công ty thường xuyên phải bán sản phẩm của mình cho các đối tác trung gian nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Trình độ quản lý kỹ thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt, quản lý vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Công ty còn hạn chế. Mặc dù đã cố gắng đầu tư đổi mới công nghệ kỹ thuật, chủ yếu là thiết kế và triển khai mẫu mốt nhưng phần lớn sản phẩm của Công ty là do đối tác trung gian nước ngoài cung cấp đơn đặt hàng và mẫu mã sản phẩm, điều này khiến Công ty phụ thuộc bị động nhiều và hiệu quả kinh tế không cao. Thị trường chủ yếu của Công ty là thị trường Châu Âu. Việc tập trung vào một thị trường như vậy, tuy có những ưu điểm, song bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định như: gặp rủi ro trong sự biến động của thị trường, hoạt động xuất khẩu quá lệ thuộc vào một thị trường. Nếu như EU có chính sách mới ngăn cản hàng tiềm năng mà Công ty chưa thâm nhập vào nhanh, thì tất yếu Công ty sẽ mất lợi thế và cơ hội phát triển mở rộng sản xuất. Công ty vẫn áp dụng phương pháp quản lý tiếp cận khách hàng theo kiểu cũ. Theo đó Công ty thường không chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng mà ngược lại chờ khách hàng đến liên hệ giao dịch với Công ty khi có nhu cầu. Phương pháp tiếp cận này cùng với việc mở rộng thị phần của Công ty tại các thị trường nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn còn bị mất cân đối, quá gấp gáp vào những tháng đầu và cuối năm nhưng lại quá nhàn rỗi vào những tháng giữa năm. Sở dĩ vậy, Công ty còn tồn tại những vấn đề trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau: 4. Nguyên nhân: 4.1 Nguyên nhân chủ quan Một là, Công ty Da Giầy Hà Nội mới chuyển sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh giầy dép. Đây là lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với Công ty. Do đó Công ty chưa có kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Hai là, do Công ty mới thành lập nên trình độ lao động ở Công ty còn hạn chế, công nhân lành nghề ít, số công nhân đạt bậc 7 chỉ có 15 người, chiếm 15% tổng số công nhân. Hơn nữa số công nhân nữ chiếm 50% nên sản xuất cũng gặp khó khăn, ngày công, giờ công cũng khó được bảo đảm do nghỉ thai sản, ốm đau... do vậy ảnh hưởng tới tốc độ sản xuất hoạt động xuất khẩu của Công ty. Ba là, do mới thành lập nên bộ máy quản lý, kỹ thuật của Công ty còn yếu. Mặc dù Công ty đã thành lập được một trung tâm mẫu mốt, nhưng những mẫu mã mà Công ty sản xuất chủ yếu là do nước nhập khẩu đưa sang hoặc là những mẫu mốt cải tiến ít nhiều dựa trên cơ sở các mẫu đã có. Còn thực tế những mẫu mã mà Công ty tự thiết kế tiến tới còn rất hạn chế, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Về cơ sở hạ tầng còn thấp, các thiết bị hiện đại như máy vẽ thông qua hệ thống vi tính, máy thử độ bền... Công ty chưa có. Bốn là, do tính mùa vụ sản xuất. Do nhu cầu về giầy thường tăng mạnh vào những tháng cuối năm (từ tháng 8 năm nay đến tháng 4 năm sau) nên việc sản xuất giầy của Công ty cũng phải sản xuất theo 2 mùa. Về mùa lạnh, Công ty phải tập trung sản xuất giầy xuất khẩu, trong mùa này nhịp độ sản xuất của Công ty lại giảm đi, có phần chậm lại, máy móc không sử dụng hết công suất. Do vậy việc sản xuất của Công ty trở nên mất cân đối, quá gấp gáp vào những tháng đầu năm và cuối năm, nhưng lại quá nhàn rỗi vào những tháng giữa năm. Năm là, sự yếu kém của khâu tổ chức marketing, chưa có chuyên viên về Marketing. Những người làm công tác Marketing hiện nay mới chỉ có kinh nghiệm thực tế chứ chưa được đào tạo qua chuyên ngành marketing. Do vậy hoạt động marketing của Công ty không được tiến hành thường xuyên, làm giảm sức cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan của Công ty, hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn chịu tác động từ bên ngoài. 4.2 Những nguyên nhân khách quan Thứ nhất, mặt hàng giầy dép là mặt hàng hàng thường xuyên thay đổi mẫu mã và kiểu dáng cho phù hợp với nhu cầu đi lại, ăn mặc... nên khó xác định chính xác nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa, ở Việt Nam chưa có trung tâm thiết kế mẫu mốt, về mặt hàng này nên nó cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép nói chung và Công ty da giầy Hà Nội nói riêng. Thứ hai, sản xuất giầy dép nói chung bị lệ thuộc quá nhiều vào cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hoá chất, phụ tùng, thiết bị máy móc từ nước ngoài. Do đó ảnh hưởng đến quy trình sản xuất và làm cho giá thành sản phẩm cao hơn so với các nước khác. Hơn nữa những nguyên vật liệu của Việt Nam thì không đồng bộ, chất lượng không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, việc Việt Nam tham gia vào AFTA, tuy có đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng cũng đưa lại những thách thức, như đẩy doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với giầy dép của các nước trong khu vực. Đặc biệt là sự cạnh tranh quyết liệu của giầy dép Trung Quốc, đây là một thị trường giàu tiềm năng, một nguồn cung cấp hàng hoá vốn có giá trị gia tăng cao nhất là khi Trung Quốc đã tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO), khi đó hàng rào thuế quan của EU đối với giầy dép nhập khẩu từ Trung Quốc không còn có hiệu lực nữa. Thứ tư, mặc dù đã có những cải cách trong quá trình thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, những quy định còn phiền hà, chưa thực sự thông thoáng. Mặc khác, việc áp dụng mà đối với các nguyên phụ liệu giầy nhập khẩu còn chưa thống nhất và chính xác đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thời gian sản xuất và giao hàng xuất khẩu. Ngoài ra, thủ tục nhập dây chuyền sản xuất, đầu tư quá phức tạp, giải trình qua nhiều khâu, ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất. Hơn nữa việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất phải nhập dưới hình thức kinh doanh nên phải nộp thuế, do đó làm giảm lợi nhuận của Công ty. Thứ năm, tuy đã có những cải cách đáng kể trong chính sách thuế, nhưng chính sách thuế vẫn còn bất cập. Đó là tồn tại nhiều mức thuế khác nhau trong khi chưa có tiêu chuẩn phân loại nhóm sản phẩm theo từng mức cụ thể, giữa cục thuế và hải quan chưa có sự thống nhất về thuế, cách hoàn thuế. Trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế cho một số đối tượng nhưng thủ tục xin hoàn thuế hoặc miễn giảm thuế còn rườm rà, phức tạp. Thứ sáu, chính sách về khoa học công nghệ và đào tạo của Nhà nước, những năm qua Nhà nước đã quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học của ngành, song ở mức độ chưa nhiều. Chi phí cho nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới quá ít. Ngành chưa được quan tâm tổ chức các khoá đạo tạo chuyên sâu, phần kỹ thuật và công nghệ đang phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài. Nhà nước chưa tạo điều kiện để ngành chủ động trong tiếp thu, ứng dụng khoa học công nghệ mới (công nghệ thiết kế mẫu mốt, công nghệ tạo phẩm...). Đồng thời, Nhà nước chưa có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và những công nhân có trình độ tay nghề cao, để gắn kết họ với Công ty, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh những khó khăn trên, Công ty còn phải gặp những khó khăn từ thị trường nước ngoài. Đó là những khó khăn về cung cầu của thị trường thế giới. Số lượng các doanh nghiệp sản xuất giầy dép ngày càng tăng lên, đặc biệt tại các nước công nghiệp mới ở Châu á(NICs), dẫn đến làm tăng số lượng giầy cùng chủng loại trên thị trường, làm cho cung vượt cầu dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong khi đó hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất là EU và Bắc Mỹ lại đang tìm cách bảo hộ sản xuất và chống lại việc nhập khẩu giầy dép giá rẻ từ các nước Châu á - Thái Bình Dương. Thị trường EU lại đang có xu hướng nhập và phát triển sản xuất giầy phát triển sản xuất giầy từ các khối nước Đông Âu, khi quan hệ thương mại với các nước đó được cải thiện. Họ tìm cách tăng sự cạnh tranh để chống chọi với các loại giầy dép rẻ tiền ở Châu á bằng các giải pháp công nghệ, các lợi thế về sự gần gũi địa lý... Vì vậy, giầy dép của Việt Nam trong đó có giầy dép của Công ty sẽ phải chịu sức cạnh tranh gay gắt hơn. Tóm lại, trên đây là một số đánh giá cơ bản hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Da Giầy Hà Nội trong những năm qua. Sự đánh giá này được thể hiện trên hai khía cạnh: những kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại. Những kết quả đạt được khẳng định sự đứng vững và đi lên của Công ty, đồng thời chứng minh được định hướng chiến lược phát triển đúng đắn cần được khai thác, bổ sung và hoàn thiện để phát huy tối đa các lợi thế mà Công ty có được. Bên cạnh đó nguyên nhân của những vấn đề tồn tại sẽ là phương hướng cơ bản để xây dựng một giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn tới. Phần II Một số giải pháp nhằm hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Trên con đường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, muốn thành công không còn cách nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh. Mà muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì ngoài những chính sách của Nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước cần phải nâng cao nhận thức về hội nhập không chỉ cho các doanh nghiệp mà cho cả người tiêu dùng, để các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ cơ hội và thách thức của hội nhập, đề ra chiến lược kinh doanh, giải pháp đầu tư về công nghệ, quản lý để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý và có sức cạnh tranh cao, tăng cường đầu tư tiếp thị, xây dựng thương hiệu, góp phần tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thương hiệu Việt Nam trên thị trường. Do đó, qua quá trình thực tập ở Công ty Da giầy Hà Nội, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khả năng của Công ty trong lĩnh vực xuất khẩu như sau: I. Giải pháp từ phía công ty Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất phức tạp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường cạnh tranh quốc tế. Do vậy công ty muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình cần phải tìm hiểu pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế, thông lệ quốc tế, và các lợi thế, chính sách khuyến khích xuất khẩu của chính phủ ưu đãi của các tổ chức quốc tế các nước phát triển giành cho các nước kém phát triển, từ đó kết hợp với khả năng của chính mình để đẩy mạnh và tăng hiệu quả xuất khẩu. 1. Tăng cường hoạt động marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu: Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động marketing càng giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh cuả Công ty. Với 4 chính sách giá cả, sản phẩm, phân phối và khuyếch trương hoạt động của marketing đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Tăng cường marketing (đặc biệt là marketing quốc tế) sẽ tạo điều kiện cho Công ty đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Vì vậy, để củng cố hoạt động marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, công ty cần phải tiến hành các công việc sau: Một là, hình thành và củng cố hoạt động của bộ phận marketing. Dự kiến thành lập bộ phận marketing khoảng 4 đến 5 người, chịu trách nhiệm điều hành là trưởng phòng xuất nhập khẩu, trong bộ máy này cũng cần phân nhỏ hơn theo hướng chuyên môn hoá theo dõi các khu vực thị trường, chẳng hạn như thị trường EU, thị trường Mỹ, thị trường Nhật, thị trường khác... Bộ phận marketing cần tập trung chủ yếu vào phân tích các khách hàng, lập hồ sơ lưu trữ của từng khách hàng, tăng cường giao lưu tiếp xúc với các khách hàng, hỗ chợ chăm sóc khách hàng. Ngoài ra cần phải thu thập thông tin của thị trường về da giầy, về tỷ giá hối đoái, về biến động của thị trường tiền tệ ... Hai là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Thông qua nghiên cứu thị trường, công ty tự xác định cho mình đâu là thị trường mục tiêu, đâu là thị trường tiềm năng của công ty. Công tác nghiên cứu thị trường đòi hỏi công ty phải tiến hành nghiên cứu các vấn đề sau: - Tìm hiểu phong tục tập quán và thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng thông qua tổ chức những đợt thăm dò ý kiến khách hàng bằng cách lập phiếu thăm dò ý kiến khách hàng. - Xác định và dự báo các quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới. - Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia . - Tìm hiểu thông tin về giá cả, và phân tích cơ cấu các loại giá quốc tế. Mặt khác vào tháng 7/2000 vừa qua hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết, mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trường khổng lồ này. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Da giầy Hà Nội nói riêng cần phải vạch một chiến lược cụ thể, phát huy nội lực của mình để đáp ứng nhu cầu của thị trường và khả năng cạnh thị trường Mỹ khi mà mới đây hiệp định này được phê chuẩn đối với cả hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ . Bên cạnh thị trường Mỹ thì Nhật Bản cũng là thị trường tiêu thụ tiềm năng, với nhu cầu nhập khẩu hàng năm là 350 triệu đôi giầy dép từ nước ngoài, đứng thứ ba trên thế giới về khả năng nhập khẩu giầy dép . Ba là, đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương. Để khách hàng biết được tên tuổi và sản phẩm của mình, đòi hỏi công ty phải tổ chức các đợt khuyến mại, quảng cáo thông qua báo chí, vô tuyến truyền hình, đặc biệt là thông qua Internet. Bên cạnh đó công ty phải tham gia tích cực hơn nữa vào các hội chợ triển lãm quốc tế về da giầy, quảng cáo trên các tạp chí, các trang thông tin chuyên đề của phòng thương mại, Bộ thương mại, Hiệp hội da giầy, Các hội chợ hàng tiêu dùng quốc tế ... 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của công ty: Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt đối với ngành sản xuất da giầy. Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành được hầu hết các nước đang phát triển tham gia với mức độ cạnh tranh cao. 2.1 Về chất lượng sản phẩm. - Đối với các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu thì vấn đề chất lượng sản phẩm là điều kiện quan trọng nhất để thu hút khách hàng và giữ uy tín của công ty trên thương trường. Muốn vậy công ty cần thực hiện các biện pháp sau: + Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ISO 9002 cho cán bộ công nhân viên trong công ty, nhằm duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002. + Thực hiện hiện đại hoá từng phần về công nghệ và trang thiết bị, hạn chế tối đa việc nhập khẩu thiết bị quá cũ và đã lạc hậu . + Phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đơn vị bạn về công nghệ và trang thiết bị. + Tăng cường trao đổi với khách hàng về ý tưởng để có bước chuẩn bị về công nghệ nhằm sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của họ. + Trong lĩnh vực thiết kế, ngoài tính kỹ thuật thì mẫu giầy còn mang tính chất mỹ thuật, do đó đòi hỏi người thiết kế phải có đầu óc thẩm mỹ, sáng tạo. Do vậy, công ty cần phải tuyển dụng các kỹ sư trẻ có khả năng tiếp thu nhanh những khoa học kỹ thuật mới, có sức bật trong công việc, có tư duy sáng tạo. + Xây dựng tiền lương, tiền thưởng hợp lý để khuyến khích những người thiết kế tập trung vào công tác nghiên cứu thiết kế. Có thể xây dựng hình thức tiền thưởng dựa trên những mẫu mã do cán bộ thiết kế tạo ra, đặc biệt là những mẫu được khách hàng ưa chuộng, đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. + Bên cạnh đó, công ty cần phải đầu tư, đổi mới máy móc, trang thiết bị trong lĩnh vực này như mua một hệ thống máy vi tính, máy vẽ qua vi tính cùng một số phần mềm phục vụ cho công tác nghiên cứu, thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng mà công ty đang áp dụng. Đồng thời từng bước cải tạo, nâng cấp phòng thiết kế, chế thử mẫu và phòng thí nghiệm trên cơ sở tăng cường đầu tư thêm thiết bị cho phù hợp với nhiệm vụ mới . - Công ty phải luôn quan tâm, thường xuyên bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, từ đó công nhân có thể sử dụng thành thạo máy móc... Mặt khác, công nhân có đủ trình độ sẽ tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, không có sự kiểm tra nào có hiệu quả bằng công nhân tự kiểm tra chất lượng sản phẩm do chính mình làm ra. - Một vấn đề nữa quyết định đến chất lượng sản phẩm là quá trình kiểm tra và quản lý chất lượng sản phẩm. Công ty cần xây dựng một đội ngũ các nhân viên kỹ thuật có trình độ, kinh nghiệm gắn bó và tiếp xúc trong lĩnh vực giầy dép, hoạt động vì mục đích đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Các cán bộ kiểm tra và quản lý chất lượng có nhiệm vụ đi sâu, đi sát quá trình sản xuất, kiểm tra từng công đoạn sản xuất sản phẩm, nếu phát hiện thấy ở công đoạn nào chất lượng không đảm bảo thì phải yêu cầu sửa ngay trước khi chuyển sang công đoạn sau, hạn chế việc phải tháo toàn bộ sản phẩm để sửa chữa lại từ đầu. 2.2 Về giá cả sản phẩm. Để tạo ra sức cạnh tranh xuất khẩu thì vấn đề giảm giá sản phẩm cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay giá thành sản phẩm xuất khẩu của công ty được xác định bằng các chi phí sản xuất và các chi phí giao dịch khác. Trong thời gian tới công ty cần chú ý đến một số biện pháp sau để giảm bớt giá thành sản phẩm : - Tăng cường quản lý khâu định mức tiêu hao vật tư, cải tiến công nghệ sản xuất xử lý các giải pháp kỹ thuật đưa vào cơ cấu giá thành nhằm tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm bớt phế liệu, phế phẩm. - Đầu tư thêm máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại và đồng bộ áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. - Tăng cường tỷ trọng sử dụng nguyên liệu nội địa có chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu về sản phẩm, chủ động trong sản xuất, và để giảm chi phí cho việc nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Từ đó có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm nhờ chi phí giảm. Để tăng cường việc sử dụng nguyên liệu nội địa, công ty cần hợp tác với các nhà sản xuất nguyên liệu nội địa tìm cách không ngừng nâng cao chất lượng cho nguyên liệu nội địa. Công ty cũng cần tổ chức được một đội ngũ cán bộ cung ứng vật tư mạnh về chuyên môn, vững vàng về nhân cách. Các quy chế nghiệm thu nguyên liệu cần được tổ chức có khoa học và chặt chẽ, phân định được trách nhiệm rạch ròi giữa những người thực hiện. - Thực hiện tiết kiệm nguyên liệu bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất ra một số sản phẩm phụ như dép đi trong nhà, giầy vải mỏng ... góp phần làm tăng thêm doanh thu và hạ giá thành sản phẩm. 2.3 Về thời gian giao hàng. - Trong giai đoạn hiện nay, việc cạnh tranh về chất lượng, giá cả là rất quan trọng. Song tại thị trường, đối với từng khách hàng và vào từng thời điểm cụ thể thì thời gian giao hàng lại trở nên đặc biệt quan trọng để công ty có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Để làm được điều này công ty cần xây dựng kế hoạch sản xuất, giao hàng chi tiết và đúng thời hạn đồng thời công ty cũng cần xây dựng kế hoạch chuẩn bị vật tư, nguyên liệu để đáp ứng kịp thời cho sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là nguyên liệu phải nhập khẩu. Điều này đòi hỏi công ty phải phối hợp nhịp nhàng giữa nhập khẩu và xuất khẩu. - Nhìn chung, trong tương lai để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Công ty cần phối hợp đồng bộ các giải pháp có hiệu quả, từ đó sẽ thu hút được khối lượng lớn các đơn đặt hàng và từng bước nâng cao uy tín của công ty trên thị trường quốc tế. 2.4 Phải thu thập thông tin kịp thời và đa dạng hoá các mặt hàng. Khách hàng sẽ nhàm chán khi chỉ thấy sản phẩm của công ty đơn điệu chỉ có giầy và sandal, sản phẩm của công ty cần có thêm giầy thời trang, túi xách thời trang... Muốn có một hoạt động đa dạng thì công ty cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định mạng lưới thông tin. Thật vậy, đối với một công ty kinh doanh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế, nơi có nhiều cơ hội và rủi ro thì thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng, là chìa khoá, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chiến thuật kinh doanh, là nguồn gốc của thắng lợi. ở công ty da giầy Hà Nội thời gian qua việc thu lượm tài liệu và xử lý thông tin còn chậm, chưa đủ, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn. Chính vì vậy, công ty cần phải tăng cường hơn nữa công tác thị trường như: Thu thập thông tin, quảng cáo, tuyên truyền, tạo thế mạnh cho mình thông qua mạng, báo chí... Cải tiến hình thức quảng cáo, marketing sản phẩm của mình để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng từng nơi. Đồng thời công ty cần phải tham gia các hội thảo, hội trợ triển lãm, tổ chức trong nước và ngoài nước. Đây là những cơ hội rất tốt cho công ty trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu chào hàng, tìm đối tác kinh doanh, ký kết hợp đồng kinh tế, mặt khác cũng là môi trường để công ty học hỏi và nâng cao nghiệp vụ kinh doanh và nghệ thuật thương mại. 3. Tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn về vốn: Cũng như các doanh nghiệp khác tình trạng thiếu vốn trầm trọng đã gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua. Giải quyết vấn đề tồn tại này, công ty phải lập ra giải pháp chủ động tạo vốn kinh doanh bằng nhiều nguồn vốn, nguồn huy động từ nước ngoài và trong nước. Việc huy động vốn trong nước có thể thực hiện qua một số nguồn thu như sau: - Huy động từ các ngân hàng thông qua hình thức vay như: vay vốn trực tiếp bằng tiền mặt với tỷ lệ lãi suất theo qui định để dùng làm phương tiện mua nguyên vật liệu... hay nhờ ngân hàng trả hộ trị giá các hợp đồng nhập khẩu, hoặc yêu cầu ngân hàng mở các tín dụng thư. - Nên có một hình thức vay vốn khác rất có hiệu quả là vay từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty. Đối với khoản vay này, Công ty có thể trả một mức lãi suất cao hơn lãi suất vay ngân hàng một chút, nhưng nó vẫn có lợi được nhiều mặt đặc biệt làm cho các cán bộ công nhân vien của Công ty có trách nhiệm chung với Công ty hơn - Vay vốn doanh nghiệp khác là một hình thức huy động vốn tuy mới mẻ, nhưng có hiệu quả cao. Điều này được thực hiện thông qua việc mua chịu hàng của các đầu mối hàng cung cấp nguyên liệu và nguồn hàng xuất khẩu. - Vay vốn từ nước ngoài cũng là một giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà Công ty cần quan tâm nghiên cứu. - Việc huy động vốn nước ngoài có thể thông qua hình thức như vay vốn từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, đặc biệt là các khách hàng có lượng đơn hàng lớn, các khách hàng quen thuộc để có thể vay vốn được từ các khách hàng này, điều quan trọng là Công ty phải thường xuyên đảm bảo hợp đồng đã ký kết về khối lượng, chất lượng và thời gian giao hàng. - Một nguồn vốn khác cũng rất quan trọng là Công ty phải tự huy động từ chính lợi nhuận tích lũy được. Đây chính là nguồn vốn cơ bản huy động trong nước cũng như nước ngoài thì vấn đề cực kỳ quan trọng đối với Công ty là phải có biện pháp sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất để tạo được nguồn trả nợ vay. 4. Nâng cao trình độ nghiệp vụ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên: Do đó công ty cần kết hợp với hiệp hội da giầy Việt Nam để đa dạng hoá phương thức đào tạo như: Mở trường đào tạo về ngành giầy, kết hợp với kèm cặp tại chỗ, đào tạo mới luôn gắn bó với đào tạo để hoàn thiện đội ngũ. Công tác đào tạo này cả Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm, sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước là rất cần thiết nhưng doanh ngiệp phải có đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo. Mặt khác, doanh nghiệp cấu tạo điều kiện cho các kỹ sư tiến hành khai thác những thông tin phản hồi từ các nguồn tin khác nhau để có thể cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, giảm chi phí sản suất. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao trình độ của công nhân sản xuất và nhân viên kỹ thuật, công ty cần phải chú ý đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu. Công ty phải: - Quy định rõ tiêu chuẩn, yêu cầu đối với cán bộ nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, là một đội ngũ cán bộ công nhân viên tinh thông nghiệp vụ, có kiến thức tổng hợp. - Bản thân mỗi người phải tuân thủ theo các yêu cầu của ISO 9002 trong công việc hằng ngày, rèn luyện tác phong công nghiệp, ngăn nắp, khoa học… - Tích cực tham gia các khoá học, các buổi hội thảo về xuất nhập khẩu về da giầy, để tăng thêm sự hiểu biết, nâng cao kiến thức chuyên môn của từng thành viên. II. Giải pháp về phía Nhà nước Doanh nghiệp là một thực thể trong nền kinh tế, hoạt động trong hành lang pháp luật của Nhà nước. Do đó ngoài ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu ở phạm vi mỗi doanh nghiệp, vai trò của Nhà nước còn biểu hiện ở các văn bản pháp quy có liên quan tới hoạt động xuất khẩu, có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động này, đó là nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Hơn nữa, ngành da giầy trong thời gian qua có một sự thay đổi quan trọng về khâu quản lý: Việc Nhà nước quyết định giải thể Tổng Công ty Da giầy Việt Nam chuyển các Công ty thuộc Tổng Công ty Da giầy trước đây về quyền chủ quản của Bộ Công nghiệp và các ttỉnh quản lý và điều hành. Điều này cũng gây ảnh hưởng nhất định đến Công ty da giầy Hà Nội. 1. Hỗ trợ đầu tư nghiên cứu phát triển cho ngành giầy: Trước hết ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực phát triển công nghệ nghiên cứu mẫu mốt để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tập trung phát triển nguyên phụ liệu da giầy đanh phải nhập khẩu, nhằm chủ động trong sản xuất và nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Hơn nữa, đối với các trường hợp đầu tư cho mở rộng sản xuất trong ngành da giầy, cần được hưởng ưu đãi theo luật khuyến khích đầu tư trong nước theo tinh thần nghị định 29/CP của chính phủ ban hành ngày 12/2/1995 như đối với đầu tư xây dựng cơ sở mới. Bên cạnh đó, thực hiện chế độ ưu tiên đầu tư cho các vùng sản xuất giầy dép tập trung, các làng nghề sản xuất giầy dép truyền thống, nhằm gắn sản xuất giầy dép với sản xuất nguyên phụ liệu tận dụng các lợi thế về cơ sở hạ tầng, giảm bớt chi phí vận chuyển cuối cùng là khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào các lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam liên doanh sản xuất một số loại giầy xác định, mà các doanh nghiệp chưa tự sản xuất được như giầy da cao cấp... Có khả năng chế biến sâu, hàm lượng kỹ thuật cao giá trị cao, có khả năng đem lại lợi nhuận cao hơn những sản phẩm hiện nay của ngành công nghiệp Việt Nam. 2. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép: Thứ nhất, ra đời quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi xuất thấp giải quyết được vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị. Nhà nước thực hiện bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xâm nhập vào một số thị trường có độ rủi ro cao như Lào, Nga... Thứ hai, Nhà nước đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giã các thành phần kinh tế. Thứ ba, xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp lớn và sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức quốc tế. Thứ tư, quy định tỷ lệ tín dụng tối thiểu bắt buộc dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần thiết lập quỹ bảo lãnh tín dụng quỹ này thực hiện bảo lãnh các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Quỹ được tổ chức dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả được vay vốn nước ngoài theo phương thức vay tự trả. Thứ năm, cần xây dựng các quy định cụ thể về việc xin tín dụng để xuất khẩu. Hiện nay muốn có tín dụng để xuất khẩu là rất khó khăn thủ tục rất nhiều. Vì vậy để khuyến khích Nhà nước cần đơn giản về mặt thủ tục, ví dụ đề nghị khi doanh nghiệp nào kí được hợp đồng xuất khẩu thì đương nhiên có thể dùng hợp đồng đó để xin tín dụng về ngoại tệ. Thứ sáu, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Thực hiện hình thức này sẽ giúp doanh nghiệp khắc phục những khó khăn về vốn đầu tư trung dài hạn mà không đủ tài sản thế chấp. Ngoài ra cần phát triển dễ dàng thuận lợi hơn hình thức thuê mua tài chính với các thiết bị dây chuyền sản xuất. 3. Xúc tiến hỗ trợ việc mở rộng thị trường xuất khẩu: Để gia tăng kim ngạch xuất khẩu, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu bằng cách: - Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài. + Ký mới và rà soát để đàm phán ký lại các hiệp định thương mại với các nước theo yêu cầu mới và tổ chức tốt việc thực hiện các hiệp định đó. + Sửa đổi, bổ sung, ký kết các hiệp định khác với nước ngoài có liên quan đến hoạt động thương mại như hiệp định vận tải, hiệp định thanh toán..., nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp. + Thương lượng với các nước đang xuất siêu với ta về việc các nước này mở cửa cho hàng Việt Nam nhằm giảm mức độ Việt Nam nhập siêu. + Tổ chức tốt phổ biến, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các hợp đồng thương mại giữa Việt Nam với nước ngoài. - Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu Việc thâm nhập thị trường ngoài nước cho hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và từng mặt hàng cụ thể nói riêng là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp chính trị, ngoại giao, kinh tế, kỹ thuật và nghiệp vụ ngoại thương và đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan, Nhà nước và của doanh nghiệp. Trong đó, cần tập trung thực hiện các biện pháp sau: + Tổ chức tốt các việc nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài, nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ thương mại (các vụ chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, các tham tán của ta ở nước ngoài, Viện nghiên cứu thương mại, Cục xúc tiến thương mại, trung tâm thông tin thương mại, Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI)). Trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và các kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp, và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. + Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạnh lưới đại lý, phân phối hàng hoá, trung tâm trưng bầy sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt hoặc như: gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng, phù hợp từng mặt hàng, từng thị trường. Cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập Công ty pháp nhân ở nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam. Khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt Nam. + Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, tiến hành quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ... đối với từng mặt hàng, từng thị trường. + Xúc tiến nhanh việc ra đời hệ thống phân phối sản phẩm trực tiếp tại các thị trường tiêu thụ lớn ở nước ngoài. - Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại Nâng cao trách nhiệm và điều kiện để Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ thương mại phát huy vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại và tăng trưởng xuất khẩu. Sớm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược nhập khẩu. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại. Phối hợp và hỗ trợ các ngành, các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Có cơ chế xúc tiến và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. - Tổ chức việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện đề án về công tác thông tin thương mại để hỗ trợ các ngành, các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó gồm một số việc cụ thể như sau: + Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý, các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. + Xây dựng các kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các sở thương mại và các doanh nghiệp. + Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp. 4. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu: 4.1. Hoàn thiện hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Tuy được sửa đổi và bổ sung nhiều lần, nhưng hệ thống thuế xuất nhập khẩu của nước ta vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc áp dụng và tính thuế cho các mặt hàng xuất nhập khẩu nói chung và giầy dép nói riêng. Do vậy để hoàn thiện hệ thống thuế, Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là Bộ tài chính cần có những thay đổi như sau: - Các biểu thuế và thuế suất phải rõ ràng, chi tiết. Mặt hàng giầy dép là mặt hàng gia công, đã được miễn thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu là bao gồm cả dụng cụ, công cụ có liên quan. Vì vậy các công cụ như dao chặt, thớt chặt, khuôn mẫu dùng cho sản xuất giầy dép cũng không phải chịu thuế. - Ưu đãi thuế quan trong việc nhập khẩu thiết bị, dây chuyền sản xuất các loại giầy dép. - Thống nhất mức đánh thuế ở các cơ quan như Hải quan và tổng cục thuế. - Đơn giản hoá các thủ tục xin hoàn thuế và miễn giảm thuế. - Giảm thuế lợi tức đối với các giá trị sản phẩm tăng lên ở trong nước trong xuất khẩu. Tức là giảm thuế theo tỷ lệ phần trăm giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu càng thấp trong giá thành sản phẩm thì giảm thuế càng nhiều. - Cần khuyến khích việc nhập khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước tương tự như các doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể: + Giảm thuế lợi tức xuống 20% đối với những doanh nghiệp có ít nhất 50% sản phẩm xuất khẩu. + Đối với các doanh nghiệp nếu không hội tụ đủ các tiêu chuẩn trên thuế lợi tức cũng nên giảm ở mức thấp nhất, tức là thuế suất 25% ngang hàng với thuế suất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Thêm vào đó, hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong ngành da giầy đang tiếp tục đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu các cơ sở xuất hiện có hoặc nâng cao năng lực xuất khẩu. Đề nghị Nhà nước cho phép các cơ sở này được hưởng các chính sách ưu đãi như đối với các doanh nghiệp mới được thành lập theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. 4.2. Hoàn thiện các thủ tục hành chính hải quan. Để nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước đối với công tác xuất nhập khẩu, trước hết là xuất khẩu, cần thực hiện tốt các công việc như: - Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại. - Nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức Nhà nước, tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với cơ quan, công chức không thực hiện đúng luật pháp, chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu. Thủ tục hải quan là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục cải cách mạnh hơn các thủ tục hải quan, tạo điều kiện cho việc thông quan hàng hoá nhanh chóng, tiết kiệm các loại chi phí, bằng cách trực tiếp đổi mới theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành hải quan đã thực hiện phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận, thực xuất, quy chế khai báo một lần, đăng ký tờ khai trên máy vi tính, phân cấp rộng hơn quyền ký tờ khai hải quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Kết luận Trên thế giới hiện nay, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. ở nước ta hiện nay xuất khẩu là động lực chính để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng... Với vai trò đó, Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các thành phần kinh tế hướng về xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu, để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, cạnh tranh là vấn đề tất yếu. Cạnh tranh để tồn tại, phát triển và là động lực phát triển nền kinh tế của mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi Quốc gia. Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Da Giầy Hà Nội chuyên sản xuất và xuất khẩu giầy. Đó là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay. Mặc dù Công ty mới chuyển sang sản xuất và kinh doanh giầy dép trong mấy năm gần đây nhưng Công ty cũng đã tạo cho mình những bước đi ban đầu vững chắc. Những kết quả đạt được hiện tại thật đáng khích lệ so với các công ty khác cùng ngành và sẽ hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho Công ty. Do đó, trong thời gian tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Công ty cần khai thác triệt để những thuận lợi có được và khắc phục những lợi thế cũng như khuyết kém trong cạnh tranh thông qua một số giải pháp chủ yếu như: xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể, tăng cường hoạt động marketing, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm... Với hệ thống kiến thức đã được trang bị ở trường cùng với một số kiến thức và thông tin thu được qua thời gian thực tập tại Công ty Da Giầy Hà Nội. Em xin đưa ra một số giải pháp đã trình bầy ở trên với mong muốn giúp ích cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Tuy nhiên, với những kiến thức hạn chế và trình độ lý luận còn non kém, chắc chắn không tránh khỏi những khuyết điểm. Em mong nhận được sự đóng góp quý báu và sự quan tâm chỉ bảo của thầy giáo. Một lần nữa, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy giáo Nguyễn Mạnh Quân đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành đề án môn học này, xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Công ty Da Giầy Hà Nội, đặc biệt là chú Vũ Ngọc Tĩnh-Phó giám đốc Công ty Da giầy Hà Nội, người đã giúp đỡ và chỉ bảo em trong quá trình thực tập tại Công ty./. Hà Nội, ngày 08 tháng 9 năm 2003. Sinh viên: Hoàng Hồ Quang Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh các năm 1999, 2000, 2001, 2002 của Công ty Da Giầy Hà Nội. 2. Giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp - Đại học KTQD năm 1999. 3. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - Đại học KTQD năm 1998. 4. Giáo trình Kinh tế và tổ chức sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp - Đại học KTQD năm 1998. 5. Giáo trình Kinh tế Quản lý - Đại học KTQD năm 2001 6. Giáo trình Marketing - Đại học KTQD năm 1998. 7. Tạp chí công nghiệp các năm 2001, 2002, 2003. 8. Báo Diễn đàn doanh nghiệp năm 2001, 2002. 9. Các Website: (Tổng Công ty Da giầy Việt Nam) (Công ty Da giầy Hà Nội) (Báo Việt Nam Net) (Báo Vietnam Economy) (Báo Việt Nam Express)… 10. Các tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35467.doc
Tài liệu liên quan