Trong những năm gần đây, chúng ta đang được chứng kiến sự chuyển mình phát triển đi lên của nền kinh tế thế giới, và thực tế đã cho thấy một xu thế khách quan đang diễn ra mang tính chất toàn cầu mà không một quốc gia, không một tập đoàn, không một công ty nào lại không tính đến chiến lược kinh doanh của mình. Đó là xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, một xu thế đem lại sức mạnh về tài chính; tận dụng công nghệ nhằm làm giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm cho tất cả những doanh nghiệp tham gia vào guồng máy đó.
Việt Nam cũng không ngừng đổi mới để hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, có nhiều doanh nghiệp đã ra đời và không ngừng lớn mạnh. Nhưng để có tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường các doanh nghiệp cần phải xác định các yếu tố đầu vào sao cho hợp lý, phải quan tâm đến tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ khi bỏ vốn ra đến khi thu hồi vổn về, đảm bảo thu nhập của đơn vị, hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, cải tiến đời sống cho cán bộ công nhân viên và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện các bước thật cẩn thận và nhanh chóng sao cho kết quả đầu ra là cao nhất, với giá cả và chất lượng sản phẩm có sức hút đối với người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, yếu tố cơ bản để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường liên tục, đó là nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào, cơ sở tạo nên hình thái vật chất của sản phẩm.Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải hạch toán và quản lý đầy đủ chính xác nguyên vật liệu, phải đảm bảo cả ba yếu tố của công tác hạch toán là: chính xác, kịp thời, toàn diện.
Trong sản xuất kinh doanh, chính sách giá cả chính là yếu tố để đứng vững và chiến thắng trong sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Mặt khác, chỉ cần một sự biến động nhỏ về chi phí nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng tới giá thành. Việc hạch toán đầy đủ chính xác có tác dụng quan trọng đến việc hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải sử dụng các công cụ quản lý mà kế toán là một công cụ quản lý giữ vai trò trọng yếu nhất.
Kết cấu đề án:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của đề án được kết cấu thành 2 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Hoàn thiện tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1780 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chúng ta đang được chứng kiến sự chuyển mình phát triển đi lên của nền kinh tế thế giới, và thực tế đã cho thấy một xu thế khách quan đang diễn ra mang tính chất toàn cầu mà không một quốc gia, không một tập đoàn, không một công ty nào lại không tính đến chiến lược kinh doanh của mình. Đó là xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, một xu thế đem lại sức mạnh về tài chính; tận dụng công nghệ nhằm làm giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm cho tất cả những doanh nghiệp tham gia vào guồng máy đó.
Việt Nam cũng không ngừng đổi mới để hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, có nhiều doanh nghiệp đã ra đời và không ngừng lớn mạnh. Nhưng để có tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường các doanh nghiệp cần phải xác định các yếu tố đầu vào sao cho hợp lý, phải quan tâm đến tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ khi bỏ vốn ra đến khi thu hồi vổn về, đảm bảo thu nhập của đơn vị, hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, cải tiến đời sống cho cán bộ công nhân viên và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện các bước thật cẩn thận và nhanh chóng sao cho kết quả đầu ra là cao nhất, với giá cả và chất lượng sản phẩm có sức hút đối với người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, yếu tố cơ bản để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường liên tục, đó là nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào, cơ sở tạo nên hình thái vật chất của sản phẩm.Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải hạch toán và quản lý đầy đủ chính xác nguyên vật liệu, phải đảm bảo cả ba yếu tố của công tác hạch toán là: chính xác, kịp thời, toàn diện.
Trong sản xuất kinh doanh, chính sách giá cả chính là yếu tố để đứng vững và chiến thắng trong sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Mặt khác, chỉ cần một sự biến động nhỏ về chi phí nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng tới giá thành. Việc hạch toán đầy đủ chính xác có tác dụng quan trọng đến việc hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải sử dụng các công cụ quản lý mà kế toán là một công cụ quản lý giữ vai trò trọng yếu nhất.
Kết cấu đề án:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của đề án được kết cấu thành 2 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Hoàn thiện tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1.Tổng quan về nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên vật liệu.
* Khái niệm:
Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia thường xuyên và trực tiếp vào quá trình sản xuất sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm được sản xuất.
* Đặc điểm :
Một trong những điều kiện thiết yếu để tiến hành sản xuất là đối tượng lao động. Theo Mác, tất cả mọi vật thể thiên nhiên xung quanh con người mà lao động có ích có thể tác động vào để taọ ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ con người đều là đối tượng lao động. Nguyên vật liệu như sắt thép trong doanh nghiệp cơ khí chế tạo, bông trong doanh nghiệp dệt, da trong doanh nghiệp đóng giầy, vải trong doanh nghiệp may mặc v.v... là những đối tượng lao động. Song không phải bất cứ đối tượng lao động nào cũng là nguyên vật liệu. Ví dụ: Quả bông tự bản thân nó không phải là nguyên vật liệu. Nhưng nếu những quả bông ấy được lao động của con người tác động để trở thành các sản phẩm chế biến nhằm cung cấp cho công nghiệp dệt thì lại là nguyên vật liệu.
Như vậy, nguyên vật liệu là những đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá. Xét về mặt hiện vật, nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định. Và khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao động chúng bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo ra hình thái vật chất của sản phẩm. Xét về mặt giá trị, khi tham gia vào sản xuất, vật liệu chuyển dịch một lần toàn bộ giá trị của chúng vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
1.1.2. Phân loại nguyên vật liệu:
Vật liệu trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều thứ, nhiều loại khác nhau, có giá trị, công dụng, nguồn gốc hình thành…khác nhau. Do vậy, để có thể quản lý một cách chặt chẽ vật liệu và tổ chức hạch toán chi tiết tới từng loại thứ vật liệu phục vụ cho nhu cầu quản trị doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành phân loại chúng theo từng tiêu thức phù hợp.
Căn cứ vào vai trò và tác dụng của vật liệu trong sản xuất, vật liệu được chia thành các loại như sau:
-Nguyên, vật liệu chính: là thứ nguyên, vật liệu mà sau quá trình gia công, chế biến sẽ cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm;
-Vật liệu phụ: là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị, hoặc dùng để bảo quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức (dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, thuốc chống rỉ, hương liệu, xà phòng, giẻ lau…);
-Nhiên liệu: là những thứ vật liệu được dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất, kinh doanh như than, củi, xăng dầu, hơi đốt, khí đốt…;
-Phụ tùng thay thế: là các chi tiết, phụ tùng dùng để sửa chữa và thay thế cho các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải …;
-Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần lắp, không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ…) mà doanh nghiệp mua vào với mục đích đầu tư cho xây dựng cơ bản;
-Phế liệu: là các loại vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, gạch, sắt …);
-Vật liệu khác: bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể trên như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng v.v…
Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết, cụ thể của từng loại doanh nghiệp mà trong từng loại vật liệu nêu trên lại được chia thành từng nhóm, từng thứ quy cách,...
Căn cứ vào mục đích công dụng của vật liệu cũng như nội dung quy định phản ánh chi phí vật liệu trên các tài khoản kế toán thì vật liệu của doanh nghiệp được chia thành:
Nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác: Phục vụ quản lý ở các phân xưởng, tổ, đội sản xuất, cho nhu cầu bán hàng, quản lý doanh nghiệp.
Trên thực tế việc sắp xếp vật liệu theo từng loại như đã trình bày ở trên là căn cứ vào công dụng chủ yếu theo từng đơn vị cụ thể. Vì có thứ vật liệu ở đơn vị này là vật liệu chính nhưng ở đơn vị khác lại là vật liệu phụ... Để phục vụ tốt hơn yêu cầu quản lý chặt chẽ vật liệu, cần phải biết được một cách đầy đủ cụ thể số hiện có của từng thứ vật liệu được sử dụng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi thế, vật liệu cần phải phân chia một cách chi tiết hơn theo tính năng lý hoá học theo quy cách phẩm chất của vật liệu, đặc biệt trong điềukiện sử dụng doanh nghiệp danh điểm vật tư.
Lập danh điểm vật tư là quy định cho mỗi thứ hàng tồn kho một ký hiệu riêng (mã số) bằng hệ thống các chữ số (có thể kết hợp với các chữ cái) thay thế tên gọi kích cỡ của chúng. Mỗi doanh nghiệp có thể lập doanh điểm vật tư theo cách riêng song cần đảm bảo yêu cầu dễ ghi nhớ và hợp lý, tránh nhầm lẫn hay trùng lặp. Đối với nguyên liệu vật liệu bao gồm các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,... Mỗi loại nguyên vật liệu lại gồm nhiều nhóm vì vậy tuỳ theo số lượng nhóm thứ vật liệu mà ký hiệu danh điểm nguyên vật liệu gồm 6,7 số hay 8 số. Ví dụ như TK 1521 - Nguyên vật liệu chính, TK 1522 - Nguyên vật liệu phụ.... TK 15211, 15212, 15213,...hoặc TK 152101, 152102, 152103,... là ký hiệu của từng nhóm trong từng loại nguyên vật liệu chính.
Doanh nghiệp cũng có thể kết hợp sử dụng hệ thống chữ cái để đặt ký hiệu cho thứ vật liệu. Ví dụ: TK 15211A là số danh điểm của từng thứ vật liệu A trong nhóm 1, loại 1.
1.1.3. Vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất và những yêu cầu đặt ra đối với quản lý nguyên vật liệu:
Từ đặc điểm trên cho thấy nguyên vật liệu giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất. Kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng lớn nếu việc cung cấp nguyên vật liệu không đầy đủ, kịp thời. Mặt khác, chất lượng của sản phẩm có bảo đảm hay không phụ thuộc rất lớn vào chất lượng vật liệu. Do vậy cả số lượng và chất lượng sản phẩm đều được quyết định bởi số vật liệu tạo ra nó nên yêu cầu vật liệu phải có chất lượng cao, đúng quy cách chủng loại, chi phí vật liệu được hạ thấp, giảm mức tiêu hao vật liệu để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh trên thị trường.
Do chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn (50-70%) trong giá thành sản phẩm nên việc tập trung quản lý vật liệu một cách chặt chẽ ở tất cả các khâu từ thu mua, bảo quản, dự trữ, sử dụng nhằm hạ thấp chi phí vật liệu, giảm mức tiêu hao vật liệu trong sản xuất. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và trong một chừng mực nào đó giảm mức tiêu hao vật liệu còn là cơ sở để tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tiết kiệm nguồn tài nguyên không phải là vô tận.Do đó ,doanh nghiệp cần phải đặt ra yêu cầu cụ thể trong công tác quản lý nguyên vật liệu.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, nguồn cung cấp nguyên vật liệu không ổn định, do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý vật liệu toàn diện ở tất cả các khâu từ thu mua, bảo quản, dự trữ đến sử dụng.
Ở khâu thu mua: Mỗi loại vật liệu có tính chất lý hoá khác nhau, công dụng khác nhau, mức độ và tỷ lệ tiêu hao khác nhau. Do đó, thu mua phải làm sao cho đủ số lượng, đúng chủng loại, phẩm chất tốt, giá cả hợp lý, chỉ cho phép hao hụt trong định mức. Ngoài ra phải đặc biệt quan tâm đến chi phí thu mua nhằm hạ thấp chi phí vật liệu một cách tối đa.
Ở khâu bảo quản: Cần đảm bảo theo đúng chế độ quy định phù hợp với tính chất lý hoá của mỗi loại vật liệu. Tức là tổ chức sắp xếp những loại vật liệu có cùng tính chất lý hoá giống nhau ra một nơi riêng, tránh để lẫn lộn với nhau làm ảnh hưởng đến chất lượng của nhau.
Ở khâu dự trữ: Đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được mức dự trữ tối thiểu, tối đa để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình thường, không bị ngừng trệ, gián đoạn do cung cấp không kịp thời hoặc gây ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều.
Ở khâu sử dụng: Cần phải tổ chức tốt việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng và sử dụng vật liệu trong sản xuất kinh doanh. Cần sử dụng vật liệu hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở định mức và dự toán chi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ thấp chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp.
Để tổ chức tốt công tác quản lý và hạch toán nguyên vật liệu đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Điều kiện bảo quản vật liệu, kho phải được trang bị các phương tiện bảo quản và cân, đong, đo, đếm cần thiết, phải bố trí thủ kho và nhân viên bảo quản có nghiệp vụ thích hợp và có khả năng nắm vững và thực hiện việc ghi chép ban đầu cũng như sổ sách hạch toán kho. Việc bố trí, sắp xếp vật liệu trong kho phải theo đúng yêu cầu và kỹ thuật bảo quản, thuận tiện cho việc nhập, xuất, kiểm tra theo dõi. Bên cạnh việc xây dựng và tổ chức kho tàng của doanh nghiệp, đối với mỗi thứ vật liệu, doanh nghiệp cần phải xây dựng định mức dự trữ, xác định rõ giới hạn dự trữ tối thiểu, tối đa để có căn cứ phòng ngừa các trường hợp thiếu vật tư phục vụ sản xuất hoặc dự trữ vật tư quá nhiều gây ứ đọng vốn. Cùng với việc xây dựng định mức dự trữ, việc xây dựng định mức tiêu hao vật liệu là điều kiện quan trọng để tổ chức quản lý và hạch toán vật liệu. Hệ thống định mức tiêu hao vật tư không những phải đầy đủ cho từng chi tiết, từng bộ phận sản xuất mà còn phải không ngừng cải tiến và hoàn thiện để đạt tới các định mức tiên tiến. Mặt khác, doanh nghiệp cần phải thực hiện đầy đủ các quy định về lập sổ danh điểm vật liệu, thủ tục lập và luân chuyển chứng từ, mở sổ chi tiết và sổ tổng hợp để hạch toán vật liệu theo đúng chế độ quy định. Đồng thời, thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm kê vật liệu, xây dựng chế độ trách nhiệm vật chất trong công tác quản lý sử dụng vật liệu trong doanh nghiệp và ở từng phân xưởng, tổ, đội sản xuất.
Việc quản lý chặt chẽ vật liệu từ khâu thu mua, bảo quản, dự trữ đến sử dụng là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý tài sản ở doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu quản lý, kế toán vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất cần thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao .
1.2. Tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
Tính giá vật liệu về thực chất là việc xác định giá trị ghi sổ của vật liệu. Theo quy định vật liệu được tính theo giá thực tế (giá gốc). Tức là vật liệu khi nhập kho hay xuất kho đều được phản ánh trên sổ sách theo giá thực tế.
1.2.1. Sự cần thiết phải tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất:
Vật liệu là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể của sản phẩm, chi phí vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm cho nên yêu cầu tính giá nguyên vật liệu sao cho hợp lý chính xác là vô cùng quan trọng. Tính giá nguyên vật liệu có chính xác, kịp thời, đầy đủ thì phòng Tài chính - Kế toán mới nắm được chính xác tình hình thu mua, dự trữ, và sử dụng vật liệu để lên kế hoạch thực hiện, từ đó có những biện pháp thích hợp để hạch toán định giá thành sản phẩm .
Ngoài ra đối với mỗi Doanh nghiệp công tác tính giá nguyên vật liệu có ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Nó quyết định đến hiệu suất cũng như lợi nhuận mà Doanh nghiệp đó đạt được. Điều đó được thể hiện ở chỗ tính giá nguyên vật liệu ảnh hưởng to lớn trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Hạch toán tính giá nguyên vật liệu giúp cho các đơn vị sản xuất theo dõi được chặt chẽ vật liệu cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, giá trị nhập, xuất tồn kho. Thông qua đó doanh nghiệp có thể sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm góp phần vào việc tăng tích lũy, tái sản xuất xã hội.
1.2.2. Tính giá nguyên vật liệu nhập kho trong doanh nghiệp sản xuất.
Giá gốc ghi sổ vật liệu trong các trường hợp cụ thế được tính như sau:
Với các vật liệu mua ngoài: giá thực tế (giá gốc) ghi sổ gồm trị giá mua ngoài của vật liệu thu mua [ là giá mua ghi trên hoá đơn của người bán đã trừ(-) các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua được hưởng, cộng (+) các loại thuế không được hoàn lại (nếu có) và các chi phí thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí bao bì; chi phí của bộ phận thu mua độc lập; chi phí thuê kho, thuê bãi; tiền phạt lưu kho, lưu hàng, lưu bãi…)].
Như vậy, trong giá thực tế của vật liệu trong doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ không bao gồm thuế GTGT đầu vào được khấu trừ mà bao gồm các khoản thuế không được hoàn lại như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có).
Với vật liệu doanh nghiệp sản xuất: giá thực tế ghi sổ của vật liệu do doanh nghiệp sản xuất khi nhập kho là giá thành sản xuất thực tế (giá thành công xưởng thực tế) của vật liệu sản xuất ra.
Với vật liệu thuê ngoài, gia công, chế biến: giá thực tế ghi sổ nhập kho bao gồm giá thực tế của vật liệu, cùng các chi phí liên quan đến thuê ngoài gia công, chế biến, (tiền thuê gia công, chế biến, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt định mức…).
Với vật liệu nhận đóng góp từ các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn: giá thực tế ghi sổ là giá thoả thuận do các bên xác định (hoặc tổng giá thanh toán ghi trên hoă đơn GTGT do các bên tham gia liên doanh lập) cộng (+) với các chi phí tiếp nhận mà doanh nghiệp phải bỏ ra (nếu có).
Với phế liệu: giá thực tế ghi sổ của phế liệu là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá trị thu hồi tối thiểu.
Với vật liệu được tặng, thưởng: giá trị thực tế ghi sổ của vật liệu là giá thị trường tương đương cộng (+) chi phí liên quan đến việc tiếp nhận (nếu có).
1.2.3. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho trong doanh nghiệp sản xuất.
Để xác định giá thực tế (giá gốc) ghi sổ của vật liệu xuất kho trong kỳ, tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, có thể sử dụng một trong các phương pháp sau đây theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán, nếu thay đổi phương pháp phải giải thích rõ ràng. Cụ thể như sau:
1.2.3.1. Phương pháp giá thực tế đích danh:
Trong thực tế công tác kế toán, để giảm nhẹ việc ghi chép cũng như bảo đảm tính kịp thời của thông tin kế toán, để tính giá thực tế của vật liệu xuất kho, kế toán còn sử dụng phương pháp giá hạch toán.
Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ). Cuối kỳ, kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá thực tế từng loại xuất kho (hoặc tồn kho cuối kỳ)
=
Giá hạch toán từng loại xuất kho
*
Hệ số giá từng loại
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý. Về thực chất, việc sử dụng giá hạch toán để ghi sổ các loại hàng tồn kho nói chung chính là một thủ thuật của kế toán nhằm phản ánh kịp thời tình hình biến động hiện có của từng loại hàng tồn kho. Giá trị từng loại hàng tồn kho tính theo phương pháp giá hạch toán đúng bằng giá trị từng loại hàng tồn kho tăng, giảm hiện có tính theo phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ.
Theo phương pháp này, giá của nguyên vật liệu chính là giá thực tế nhập của đích danh lô hàng đó, nên phương pháp này phản ánh đúng nhất giá trị nguyên vật liệu bằng với chi phí doanh nghiệp thực tế đã bỏ ra. Để có thể áp dụng phương pháp giá đích danh, doanh nghiệp phải bảo quản và hạch toán nguyên vật liệu chi tiết theo từng lô hàng nhập do đó kế toán có thể tính kịp thời và chính xác giá trị vật tư, sản phẩm, hàng hoá nguyên vật liệu và thông qua việc tính giá, kế toán cũng có thể theo dõi thời gian bảo hành của từng lô hàng từ đó có hướng bảo quản và sử dụng hợp lý.
1.2.3.2. Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất kho trong kỳ được tính theo công thức:
Giá thực tế từng loại xuất kho
=
Số lượng từng loại xuất kho
*
Giá đơn vị bình quân
Trong đó, giá đơn vị bình quân có thể tính theo một trong 3 cách sau:
Cách 1: Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
=
Giá thực tế từng loại tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Lượng thực tế từng loại tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Cách tính này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói chung.
Cách 2: Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước
=
Giá thực tế từng loại tồn đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Lượng thực tế từng loại tồn kho đầu kỳ(hoặc cuối kỳ trước)
Cách này mặc dầu khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến động của từng loại vật liệu, dụng cụ, sản phẩm hàng hoá trong kỳ, tuy nhiên không chính xác vì không tính đến sự biến động của giá cả vật liệu, dụng cụ, hàng hoá cũng như giá thành sản phẩm trong kỳ.
Cách 3: Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập
=
Giá thực tế từng loại tồn kho sau mỗi lần nhập
Lượng thực tế từng loại tồn kho sau mỗi lần nhập
Cách này tính theo giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập lại khắc phục được nhược điểm của cả 2 phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần.
Theo phương pháp này, khi tính giá của nguyên vật liệu, kế toán không dựa trên số liệu của từng đợt nhập riêng biệt mà tính giá thực tế bình quân của lượng hàng hoá và nhập kho trước đó hoặc trong một kỳ.
Phương pháp giá bình quân sau mỗi lần nhập: Phương pháp này cho phép kế toán tính giá hàng tồn kho một cách kịp thời tại mọi thời điểm trong kỳ nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp hạch toán nguyên vật liệu là phương pháp kê khai thường xuyên lại không áp dụng được nếu các doanh nghiệp hạch toán nguyên vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Tuy nhiên, khối lượng tính toán lớn vì đơn giá bình quân sẽ phải tính lại sau mỗi lần nhập, đặc biệt là khi tần suất nhập xuất vật tư, sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp nhiều. Hơn nữa, công việc thực hiện tính giá phức tạp nhưng kết quả thu được lại không mấy chênh lệch so với phương pháp nhập trước - xuất trước. Do đó, phương pháp này chỉ áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh thương mại, phương pháp hạch toán nguyên vật liệu theo kê khai thường xuyên, có quy mô nhỏ, số lượng chủng loại vật tư, sản phẩm, hàng hoá không nhiều, số lần nhập không lớn.
- Phương pháp giá bình quân cả kỳ dự trữ: Phương pháp này giúp giảm nhẹ khối lượng tính toán chỉ phải tính giá một lần vào cuối kỳ hạch toán. Phương pháp tính toán cũng khá đơn giản, việc tính giá không phụ thuộc vào số lần nhập xuất của từng loại vật tư, sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra, phương pháp này còn giảm nhẹ việc bảo quản cũng như hạch toán chi tiết cho từng lô hàng nhập, do đó công tác kế toán cũng được thực hiện dễ dàng hơn. Tuy nhiên, phương pháp này lại có xu hướng bình quân hoá các biến động này và trong trường hợp có xảy ra lạm phát thì mức giá bình quân sẽ không theo kịp giá thị trường nên giá trị nguyên vật liệu cũng không được phản ánh sát với giá hiện hành. Ngoài ra, phải chờ đến cuối kỳ kế toán mới có đủ thông tin về số lượng vật tư, sản phẩm, hàng hoá để tính giá bình quân nên ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu kế toán khác.
Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp hạch toán nguyên vật liệu là phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp tính giá là phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ thì doanh nghiệp sẽ không thể theo dõi giá trị nguyên vật liệu sau mỗi lần nhập xuất vật tư, sản phẩm, hàng hoá được do đơn vị chưa tính được giá thực tế bình quân. Để có thể theo dõi sự biến động về giá trị hàng xuất tồn hàng ngày, doanh nghiệp phải sử dụng giá hạch toán. Giá hạch toán ở đây là một mức giá do doanh nghiệp đặt ra (có thể là giá kế hoạch, giá bình quân kỳ trước...) Để tạm tính giá vật tư, sản phẩm hàng hoá xuất kho trong kỳ. Và đến cuối kỳ, khi đã có đầy đủ thông tin về lượng hàng nhập kế toán sẽ tiến hành việc điều chỉnh giá hạch toán thành giá thực tế thông qua hệ số giá. Ở trên ta đã chứng minh được phương pháp giá hạch toán cho cùng một kết quả với giá bình quân cả kỳ dự trữ vì giá hạch toán chỉ được sử dụng để tạm tính, do đó, phương pháp tính giá hạch toán không phải là một phương pháp tính giá độc lập (Điều này là phù hợp với quy định trong chuẩn mực số 02).
Phương pháp giá hạch toán ở nước ta được sử dụng phổ biến cả trong doanh nghiệp sản xuất lẫn doanh nghiệp kinh doanh thương mại vì nó cho phép kết hợp chặt chẽ giữa hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp về vật tư, sản phẩm hàng hoá. Công việc tính giá đơn giản, được thực hiện nhanh chóng không phụ thuộc vào số lần nhập - xuất của mỗi loại là nhiều hay ít. Ngoài ra, giá hạch toán còn có thể được tính chung cho nhiều chủng loại vật tư thuộc cùng một nhóm (Ví dụ: Hệ số giá của vật liệu chính, của vật liệu phụ...) khiến cho công việc kế toán đơn giản hơn.
1.2.3.3. Phương pháp nhập trước - xuất trước (FIFO):
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu nhập kho trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế của vật liệu xuất trước và do vậy, giá trị của vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu nhập kho sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
Phương pháp này dựa trên cơ sở về “dòng vận động của hàng hoá” từ là hàng hoá được mua vào, nhập kho rồi xuất dùng theo thứ tự hàng nhập kho trước thì sẽ xuất kho trước. Điều này phù hợp với thực tế cũng như yêu cầu bảo quản nguyên vật liệu, những hàng cũ nhất sẽ được xuất dùng trước và lượng hàng tồn cuối kỳ chính là hàng hoá mới mua vào hoặc mới được nhập kho. Do đó, giá trị nguyên vật liệu sẽ được tính trên cơ sở giá của lần mua vào hoặc sản xuất gần nhất nên giá trị nguyên vật liệu được phản ánh sát với giá hiện hành, việc tính giá hàng tồn kho thực hiện nhanh, kịp thời.
Mặc dù vậy, giá tính theo phương pháp này không theo kịp với giá thị trường do giá được ghi nhận là giá của hàng tồn từ trước đó. Nên các chi phí phát sinh hiện hành không phù hợp với doanh thu hiện hành và điều này có thể ảnh hưởng đến các chỉ tiêu: lãi gộp, doanh thu thuần. Tuy nhiên so sánh với các phương pháp tính giá khác ta có thể thấy những ưu điểm của phương pháp nhập trước - xuất trước:
So với phương pháp giá thực tế đích danh, khối lượng công việc đã được giảm nhẹ mà vẫn đảm bảo sự ước tính hợp lý về giá trị hàng tồn kho vì hai phương pháp đều yêu cầu hạch toán chi tiết cho từng loại vật tư, sản phẩm, hàng hoá nhưng phương pháp giá thực tế đích danh phải chi tiết từng lần nhập. Điều kiện kho hàng của doanh nghiệp tính theo giá thực tế đích danh cũng phức tạp và tốn kém hơn do phải bảo quản riêng từng lô hàng nhập.
So với phương pháp giá đơn vị bình quân, phương pháp nhập trước xuất trước không che giấu sự biến động của giá thị trường và công việc hạch toán được tiến hành kịp thời hơn, giá trị nguyên vật liệu theo sát với giá thị trường hơn.
Với những ưu điểm trên mà phương pháp nhập trước - xuất trước được sử dụng ngày càng rộng rãi, phương pháp này áp dụng trong cả doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại, thích hợp với điều kiện hàng tồn kho luân chuyển nhanh.
1.2.3.4. Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO):
Phương pháp này giả định những vật liệu nhập kho sau cùng sẽ được xuất trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước ở trên. Phương pháp nhập sau xuất trước thích hợp trong trường hợp lạm phát.
Phương pháp này dựa trên giả định về “dòng vận động của chi phí” tức là hàng được xuất đi là lượng hàng nhập mới nhất. Điều này giúp cho giá trị hàng xuất sát với mức giá thị trường vì đó là mức giá của lần nhập kho gần nhất và chi phí được ghi nhận phù hợp với doanh thu hiện hành. Trong điều kiện giá của các mặt hàng có xu hướng tăng lên như hiện nay, phương pháp nhập sau - xuất trước sẽ cho kết quả về giá vốn cao hơn so với các phương pháp khác, điều này dẫn đến thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp và thuế của doanh nghiệp phải nộp cũng giảm.
Phương pháp này đã khắc phục được khuyết điểm của mô hình kế toán truyền thống là giá vốn được xác định bằng cách tham khảo giá bán hàng lỗi thời của hàng tồn kho đã bán từ trước, trong khi doanh thu bán hàng lại được ghi nhận theo giá bán hiện tại.
Tuy nhiên, với quy định về hàng tồn kho là lượng hàng cũ nhất còn lại đã khiến việc phản ánh giá trị hàng tồn kho không sát với giá hiện hành (vì là giá hàng đầu kỳ) và đem lại sự ước tính về giá trị hàng tồn thấp hơn so với các phương pháp khác. Việc đánh giá giảm giá trị hàng tồn kho này làm cho chỉ tiêu tài sản lưu động trên bảng cân đối kế toán thấp.
Mặt khác, giả định LIFO về dòng luân chuyển của vật tư, sản phẩm hàng hoá như trên là không phù hợp với thực tế vì điều kiện yêu cầu bảo quản, lưu trữ nguyên vật liệu không cho phép doanh nghiệp giữ lại lượng tồn kho là lượng hàng cũ nhất.
Phương pháp nhập sau - xuất trước khi áp dụng ở các doanh nghiệp nhỏ có thể giúp cho doanh nghiệp giảm thuế phải nộp mà không làm ảnh hưởng nhiều đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp lớn bên cạnh việc giảm thuế thì chỉ tiêu lãi thuần của doanh nghiệp cũng sẽ giảm, do đó có thể khiến cho các nhà đầu tư hiểu lầm về khả năng sinh lãi, khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp, điều này sẽ ảnh hưởng tới các quyết định đầu tư.
1.3. Tính giá nguyên vật liệu theo Chuẩn mực kế toán quốc tế và kinh nghiệm của một số nước.
* Việc áp dụng các phương pháp tính giá.
Theo quy định mới, khi giá nguyên vật liệu doanh nghiệp chỉ được áp dụng một số trong 3 phương pháp thay vì 4 phương pháp như quy định trước đây. Ba phương pháp này là:
Phương pháp giá đích danh
Phương pháp giá bình quân gia quyền
Phương pháp nhập trước - xuất trước.
Như vậy do nhược điểm của phương pháp nhập sau - xuất trước mà phương pháp này không còn được áp dụng.
* Nguyên tắc tính giá nguyên vật liệu.
Việc lựa chọn các phương pháp tính giá nguyên vật liệu có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính nên doanh nghiệp có xu hướng mỗi năm chọn lại một lần. Điều này khiến cho các đối tượng sử dụng khó có thể so sánh báo cáo tài chính giữa các năm, nhưng theo quy định mới điều này không thể xảy ra do doanh nghiệp phải áp dụng một phương pháp tính giá nhất quán trong một niên độ kế toán. Ngoài ra, với những nhóm nguyên vật liệu khác nhau về vị trí địa lý, hoặc những quy định về thuế quan thì vẫn áp dụng phương pháp nhất quán.
CHƯƠNG II
HOÀN THIỆN TÍNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
2.1. Đánh giá tính giá nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất
2.1.1. Ưu điểm:
- Nhìn chung các doanh nghiệp sản xuất áp dụng tính giá nguyên vật liệu theo chuẩn mực kế toán Việt Namvà chế độ kế toán đã tạo ra sự thống nhất về công tác hạch toán hàng tồn kho trong các doanh nghiệp, phản ánh kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh hàng ngày ở các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể lập báo cáo kịp thời phục vụ cho công tác quản lý.
- Mặt khác việc áp dụng chuẩn mực này giúp các doanh nghiệp tính toán phân bổ chính xác giá trị vật liệu xuất dùng cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành một cách kịp thời, chính xác
-Về khâu sử dụng: Nguyên vật liệu được dùng đúng mục đích sản xuất và quản lý sản xuất dựa trên định mức vật liệu trước khi xuất vật liệu sản xuất. Điều này giúp cho việc quản lý nguyên vật liệu xuất vào sản xuất một cách chặt chẽ và là cơ sở chủ yếu cho việc phấn đấu hạ thấp giá thành sản phẩm.
-Về khâu thu mua nguyên vật liệu: Doanh nghiệp đã tổ chức được bộ phận tiếp liệu chuyên đảm nhận công tác thu mua nguyên vật liệu trên cơ sở đã xem xét, cân đối giữa kế hoạch sản xuất và nhu cầu.
-Về khâu dự trữ: Với khối lượng vật tư sử dụng tương đối lớn, chủng loại vật tư nhiều, đa dạng mà các Doanh nghiệp sản xuất vẫn đảm bảo cung cấp đầy đủ kịp thời cho sản xuất, không để tình trạng ứ đọng nhiều nguyên vật liều hoặc ngừng sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất đã xác định mức dự trữ cần thiết, hợp lý đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
-Về bảo quản: Hệ thống kho tàng được bố trí tương đối hợp lý, phù hợp với cách phân loại vật liệu
2.1.2 Những tồn tại:
Bên cạnh những ưu điểm, tính giá nguyên vật liệu theo chuẩn mực Kế toán Việt Nam còn gặp phải những hạn chế nhất định cần phải được cải tiến :
- Trong công tác quản lý nguyên vật liệu:
Vật liệu bao gồm rất nhiều loại, nhiều quy cách khác nhau, nhưng phần lớn các Doanh nghiệp sản xuất lại chưa sử dụng sổ danh điểm vật tư với quy định mã của từng loại để tạo điều kiện theo giõi vật tư được dễ dàng, chặt chẽ hơn. Do đó, vật tư mua về không được kiểm tra tỉ mỉ, khách quan cả về số lượng, chất lượng cũng như chủng loại. Điều này có thể dẫn tới tình trạng vật tư nhập kho không đảm bảo đúng quy cách phẩm chất.
- Ở các doanh nghiệp sản xuất nhập nguyên vật liệu từ các nguồn trong nước theo hợp đồng kinh tế ký kết thì vật liệusẽ được nhận ngay tại kho do đó kế toán thường tính giá thực tế của vật liệu :
Giá nhập kho ( TT) vật liệu = Giá mua
Thực hiện tính giá thực tế vật liệu theo công thức này sẽ bớt đi khối lượng công việc kế toán nhưng sẽ làm cho việc tính giá vật liệu không được chính xác khi xuất dùng cho sản xuất sản phẩm
2.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tính giá nguyên vật liệu trong Doanh nghiệp sản xuất.
2.2.1 Lập bảng danh biểu:
Để phục vụ cho nhu cầu quản lý vật liệu tránh nhầm lẫn, thiếu sót, doanh nghiệp sản xuất cần sử dụng “Sổ danh điểm vật liệu”.
-“Sổ danh điểm vật liệu”: là sổ tập hợp các loại vật liệu của Doanh nghiệp đã và đang sử dụng. Trong đó theo dõi từng nhóm, từng loại, từng thứ vật liệu một cách chặt chẽ để giúp cho công tác quản lý và hạch toán vật liệu tại Doanh nghiệp thực hiện một cách dễ dàng hơn và thống nhất hơn. Mỗi loại, mỗi nhóm mỗi thứ vật liệu được quy định một mã riêng sắp xếp một cách trật tự, thuận tiện cho việc tìm kiếm khi cần thiết.
Bảng 1:
SỔ DANH ĐIỂM NGUYÊN VẬT LIỆU
KÝ HIỆU
Tên, nhãn hiệu quy cách NVL
Đơn vị tính
Quy cách
Ghi chú
Nhóm
Danh điểm NVL
152.1.01
.........
152.1.01.01
..........
152.1.01.02
…
…
152.1.02
152.1.02.01
.
152.1.02.02
2.2.2. Hoàn thiện việc nhập-xuất-tồn kho vật liệu:
Các doanh nghiệp sản xuất cần phải xây dựng một quy chế cụ thể về quản lý nguyên vật liệu từ khâu thu mua đến khâu bảo quản, sử dụng. Trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của từng phòng ban, từng cá nhân.
Quy định rõ trách nhiệm của cản bộ thu mua vật liệu. khi mua vật liêụ về phải bàn giao chứng từ một cách đầy đủ kịp thời cho phòng kế toán để kế toán hạch toán kịp thời, chính xác số lượng, giá trị nguyên vật liệu nhập kho và theo dõi giám sát tình hình biến động của nguyên vật liệu trong quý.
Về nhập kho nguyên vật liệu: Dù nhập với khối lượng cũng như giá trị là bao nhiêu thì cũng cần phải tiến hành theo đúng thủ tục hập kho đã quy định chỉ trừ một số lần nhập với giá quá nhỏ . Việc nhập kho vật liệu theo đúng trình tự sẽ hạn chế được những kết quả xấu, kịp thời phát hiện được những vật liệu kém phẩm chất để có biện pháp xử lý thích hợp.
Nguyên vật liệu thu mua về cần phải làm thủ tục nhập kho trước khi xuất cho các bộ phận sản xuất, có như vậy kế toán mới thực hiện được tốt chức năng kiểm tra, giám sát của mình trong việc sử dụng nguyên vật liệu. Đồng thời giúp kế toán hạch toán được chính xác chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm.Các doanh nghiệp sản xuất nên thành lập ban kiểm nghiệm vật liệu để khi mua nguyên vật liệu về được kiểm tra tỉ mỉ, khách quan cả về số lượng cũng như chủng loại. Có như thế nguyên vật liệu nhập kho mới đảm bảo đúng quy cách phẩm chất.
2.2.3. Hoàn thiện việc ghi chép sổ chi tiết số 2:
Các Doanh nghiệp nên mở sổ chi tiết thanh toán với từng người bán để theo dõi từng khách hàng như chế độ kế toán đã ban hành. Do sử dụng một sổ để theo dõi từng khách hàng nên kế toán chỉ ghi sổ chi tiết số 2 vào một lần cuổi tháng mà vẫn không theo dõi thường xuyên tình hình thanh toán với người bán. Như vậy, nó sẽ không phản ánh chính xác các nghiệp vụ liên quan đến việc thu mua nguyên vật liệu. Công ty nên mở sổ riêng cho từng người bán có quan hệ thường xuyên, còn với những người ít nhập vật liệu cho Công ty thì mở chung vào một sổ.
2.2.4. Hoàn thiện công tác kế toán chi tiết nguyên vật liệu:
Mục đích của việc hạch toán chi tiết nguyên vật liệu là để theo dõi chặt chẽ tình hình Nhập - Xuất - Tồn từng thứ, từng loại vật liệu cả về sổ lượng lẫn giá trị để đáp ứng được yêu cầu quản trị doanh nghiệp vật liệu phải được tổ chức hạch toán theo từng kho, từng thứ, từng loại bằng phương pháp hạch toán phù hợp với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm riêng do đó điều kiện áp dụng của mỗi phương pháp là hoàn toàn khác nhau. Cùng một phương pháp nhưng có thể phù hợp với doanh nghiệp này mà không phù hợp với doanh nghiệp kia. Việc áp dụng phương pháp kế toán chi tiết vật liệu phù hợp có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả của công tác kế toán, nó không chỉ làm giảm khối lượng công việc xuống mà còn giúp cho việc đối chiếu, kiểm tra giữa kho và phòng kế toán được dễ dàng thuận lợi hơn.
Kế toán chi tiết nguyên vật liệu tại các Doanh nghiệp hiện đang áp dụng phương pháp thẻ song song. Việc áp dụng phương pháp này là hoàn toàn phù hợp với Công ty. Tuy nhiên, vì doanh nghiệp chưa có sổ danh điểm nên việc lập bảng tổng hợp Nhập -Xuất - Tồn kho vật liệu vẫn chưa được ngắn gọn. Vì vậy, kế toán vật liệu tại Công ty cần lập bảng tổng hợp Nhập - Xuất - Tồn kho vật liệu căn cứ vào bảng danh điểm.
Bảng Nhập – Xuất – Tồn kho vật liệu được lập như sau:
BẢNG TỔNG HỢP NHẬP-XUẤT- TỒN VẬT LIỆU
Loại vật liệu: Vật liệu chính
Tháng 10/2004
Danh điểm
Tên vật liệu
Đvị tính
Tồn đầu kỳ
Nhập trong kì
Xuất trong kỳ
Tồn cuối kỳ
SL
ST
SL
ST
SL
ST
SL
ST
…
…
…
…
…
…
…
…
…
…
…
152.1.01.02
Vải voan ren
m
400
11.618.000
2.330
67.686.500
1.160
39.192.000
1.570
40.112.500
…
Cộng
Người lập Ngày…tháng…năm…
Trưởng phòng kế toán.
Như vậy trình tự hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp thẻ song song như sau:
Sơ đồ: Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp thẻ song song
Kế toán tổng hợp
Bảng tổng hợp Nhập - Xuất -Tồn
Thẻ Kho
Sổ chi tiết vật liệu
Phiếu xuất kho
Phiếu nhập kho
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
3.2.5. Hoàn thiện về phần hành kế toán chi phí sản xuất chung.
Ở các Doanh nghiệp tính toán chi phí sản xuất chung đều được tổng hợp chi tiết cho từng phân xưởng, như thực tế là việc phân bố chi phí sản xuất chung cho từng loại sản phẩm sẽ là không chính xác. Do vậy để việc phân bổ chính xác hơn về giá thành sản phẩm của Doanh nghiệp. Theo em các Doanh nghiệp nên phân bổ chi phí sản xuất cho từng loại sản phẩm theo tiêu thức phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp :
Theo công thức chung cho các khoản phải phân bố sau :
Hệ số phân bố
(H)
=
Tổng sản lượng phân bổ
Tổng chi phí NVLTT sản xuất sản phẩm
Chi phí sản xuất sản phẩm = H + Tổng chi phí nguyên vật liệu; sản xuất sản phẩm
+ Phân bổ chi phí nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm,
+ Phân bổ chi phí công cụ dụng cụ cho từng loại sản phẩm,
.+ Phân bổ chi phí phải trả, phải nộp khác cho công nhân sản xuất cho từng loại sản phẩm.
+ Phân bổ chi phí phải trả, phải nộp khác cho từng loại sản phẩm.
- Trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phi công đoàn cho công nhân sản xuất của chi phí sản xuất chung
+ Phân bổ chi phí về số tiền phải trả cho người bán cho từng loại sản phẩm..
3.2.6. Hoàn thiện về phương pháp tính giá thành sản phẩm .
Ở các Doanh nghiệp việc tính giá thành sản phẩm chỉ tính phần giá thành chung cho giá nguyên vật liệu, giá nhân công và các chi phí phụ khác. Việc tính chung như vậy sẽ không đảm bảo việc tính chính xác cho giá thành đơn vị từng loại sản phẩm vào cuối tháng .
Theo em các Doanh nghiệp nên tiến hành phương pháp tính giá thành sản phẩm như sau:
Tổng giá thành sản phẩm = Số dư đầu kỳ + Số phát sinh trong kỳ – số dư cuối k ỳ – Gía trị phế liệu thu hồi
Giá thành đơn vị sản phẩm
=
Tổng giá thành SP
Số lượng SPSX
Lần lượt từng bước như vậy kế toán sẽ tính dược các khoản chi phí tiếp theo của sản phẩm làm ra
3.2.7. Hoàn thiện về việc theo dõi chi phí khấu hao Tài sản cố định (TSCĐ) ở các Doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng việc tập hợp đúng, đủ chi phí sản xuất là rất cần thiết vì có như vậy giá thành sản phẩm mới có thể được phản ánh một cách chính xác. Chi phí khấu hao TSCĐ là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong chi phí sản xuất. Vì thế khoản chi phí này cần thiết phải được tính toán, trích lập, phân bổ và theo dõi một cách chặt chẽ. Do đó, theo em các Doanh nghiệp nên sử dụng bảng tính và phân bổ Khấu hao TSCĐ sẽ giúp cho việc theo dõi khấu hao TSCĐ của các Doanh nghiệp dễ dàng, thuận tiện, sẽ khắc phục được tình trạng chỉ biết được tổng số khấu hao nhưng không biết khấu hao tăng bao nhiêu, khấu hao giảm bao nhiêu. Hơn nữa, việc sử dụng bảng phân bổ khấu hao TSCĐ sẽ giúp cho kế toán xác định được chính xác chi phí khấu hao TSCĐ mà các bộ phận sử dụng phải chịu và đặc biệt sẽ giúp cho kế toán các Doanh nghiệp tận dụng được hết sổ sách kế toán quy định cho hình thức kế toán “ Nhật ký chứng từ “.
3.2.8. Hoàn thiện việc áp dụng kế toán trên máy vi tính.
Ở các Doanh nghiệp hiện nay mọi việc thống kê kế toán thực hiện chưa đồng bộ.Trong khi đó do đặc điểm sản xuất của mỗi Doanh nghiệp có các nghiệp vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành về nhập, xuất nguyên vật liệu, các nghiệp vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất phát sinh thường xuyên, liên tục nên sổ sách dùng để ghi chép, phản ánh nhiều, mỗi khi cần có số liệu từ kỳ trước hoặc năm trước thì việc tìm dở sổ sách rất lâu, mất thời gian, chưa khoa học
- Với thực tế hiện nay khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc ứng dụng tin học vào các doanh nghiệp sản xuất là điều tất yếu, nó giúp đỡ bổ trợ cho các cán bộ làm công tác thống kê kế toán hoàn thành công việc một cách nhanh hơn, đỡ tốn kém thời gian và hiệu quả công việc cao hơn, vậy trong thời gian tới các Doanh nghiệp nên trang bị thêm máy vi tính cho phòng kế toán để nhân viên ở đây có thể phát huy tính hiệu quả công việc cao hơn. Vậy trong thời gian tới các Doanh nghiệp nên trang bị hệ thống máy vi tính cho phòng kế toán tổng hợp để các nhân viên ở đây có thể phát huy tối đa khả năng làm việc của mình
Trên đây là một số ý kiến của em về công tác tính giá nguyên vật liệu trong quá trình nghiên cứu Đề tài. Tuy nhiên, do năng lực còn hạn chế, kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn ít, nên những ý kiến đề xuất trên chưa phải là phương án tối ưu, mà chỉ là có tính chất tham khảo, góp phần nhỏ bé cùng với các Doanh nghiệp trong việc nâng cao tính hiệu quả của công tác tính giá nguyên vật liệu.
KẾT LUẬN
Trong quá trình sản xuất, nguyên vật liệu là một yếu tố không thể thiếu để cấu thành nên một sản phẩm. Nguyên vật liệu đóng một vai trò quan trọng, nó vừa là đối tượng lao động vừa là cơ sở vật chất trực tiếp tạo ra sản phẩm, chiếm một tỷ trọng lớn trong quá trình sản xuất. Trong thế chuyển mình của đất nước, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để đạt được chi phí thấp nhất thông qua việc giảm chi phí nguyên vật liệu. Để làm được điều đó thì ngay từ khâu mua, bảo quản, dự trữ đến sử dụng phải tiến hành một cách khoa học, chặt chẽ.
Qua nghiên cứu đề tài em đã hiểu rõ hơn về vai trò của nguyên vật liệu trong sản xuất, và khái quát được sơ bộ về thực trạng kế toán NVL tại Doanh nghiệp sản xuất. Từ đó thấy được ưu, nhược điểm của công tác kế toán NVL cũng như công tác quản lý sử dụng NVL tại các doanh nghiệp sản xuất, tìm ra nguyên nhân, và đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán NVL để phù hợp với điều kiện kinh doanh hiện nay của Doanh nghiệp và đảm bảo đúng theo chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước.
Tuy nhiên trong khuôn khổ đề án môn học chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Kính mong nhận được sụ thông cảm và đóng góp của thầy cô giáo, các sinh viên trong nhà trường. Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kế Toán trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình chu đáo của thầy giáo: Th.S Trần Văn Thuận, đã giúp đỡ em hoàn thiện đề án môn học này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS. TS Nguyễn Văn Công, Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính, NXB Tài Chính, Tháng 10/2004.
Chủ biên: TS Đặng Thị Loan, Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp, NXB Tài Chính, 2004.
Bộ Tài Chính, Hướng dẫn lập chứng từ kế toán hướng dẫn ghi sổ kế toán, NXB Tài Chính, 2004.
Lý thuyết hạch toán kế toán, NXB Tài Chính, 2002.
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Minh Phương, Giáo trình kế toán quản trị, NXB Tài Chính, 2004.
MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NVL : Nguyên vật liệu
SP : sản phẩm
TK : Tài khoản
TSCĐ : Tài sản cố định
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De an Ke toan (NVL).docx