Đề án Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

- Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1) thành lập vào 19/7/2006 là quỹ công chúng và chính thức chào bán ra công chúng ngày 24/7/2006 để đạt vốn huy động 500 tỷ đồng thông qua công ty chứng khoán ACB, công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và công ty chứng khoán Sài gòn. - Quỹ đầu tư chứng khoán BVF1 của Tập đoàn tài chính- bảo hiểm Bảo Việt là quỹ thành viên được ra mắt ngày 21/7/2006 với 500 tỷ đồng với sự góp vốn của 6 tổ chức bảo hiểm. - Quỹ Vietcombank 2 do công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF) sáng lập với 60 triệu USD ở dạng quỹ đóng, sẽ ra mắt trong năm nay. - VFM thành lập quỹ VF1 và đã đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán ở TTGDCK TP.HCM. - Quỹ thứ năm dự kiến thành lập bởi công ty quản lý quỹ của Ngân hàng quân đội, dự kiến là quỹ thành viên chuyên đầu tư chứng khoán có quy mô khoảng 200 tỷ đồng. - Quỹ thứ sáu dự kiến thành lập bởi Công ty quản lý quỹ của Ngân hàng TMCP An Bình vào cuối năm 2006. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư trong nước ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là: + Cổ phiếu, trái phiếu niêm yết tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh; + Các cổ phiếu chưa niêm yết; + Và cũng có thể sẽ cung cấp sản phẩm liên kết giữa bảo hiểm và đầu tư; + Đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí. Tuy vậy, số lượng các quỹ đầu tư chưa nhiều là một trở ngại cho việc mở rộng hình thức đầu tư cho công chúng. Tuy nhiên, một thị trường sáng sủa cho ngành đầu tư chứng khoán qua các quỹ đầu tư ở Việt Nam đang ngày càng lộ rõ.

doc11 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THU HOẠCH CUỐI KHÓA Đề tài: Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam Các quỹ đầu tư - còn được hiểu là các phương tiện đầu tư tập thể - là các cơ cấu tài chính nhằm phân bổ và quản lý tiền của nhiều người đầu tư để mua chứng khoán được niêm yết hoặc cổ phần tư nhân trong các công ty cổ phần. Quỹ đầu tư tập hợp các khoản đầu tư cá nhân thành một khoản tiền lớn và đầu tư vào danh mục đầu tư được xác lập theo chính sách của quỹ. 1. Vai trò của quỹ đầu tư Các quỹ đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp đã đóng vai trò chủ yếu trong việc thúc đẩy đầu tư chứng khoán, tuy ở mỗi nước khác nhau thì vai trò của chúng có khác nhau. Vai trò của quỹ đầu tư thường thể hiện ở những khía cạnh sau: - Góp phần huy động vốn cho phát triển nền kinh tế nói chung và cho sự phát triển của thị trường sơ cấp, chuyển số vốn này từ tiết kiệm vào đầu tư. - Góp phần ổn định thị trường thứ cấp thông qua hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp khoa học. - Tăng cường khả năng quản trị công ty. - Thực hiện vai trò lãnh đạo trong quá trình quốc tế hoá thị trường vốn, cụ thể:       + Các quỹ đầu tư quốc tế thúc đẩy sự phát triển của nhiều thị trường chứng khoán mới nổi thông qua việc cải thiện tính thanh khoản và hỗ trợ cơ sở hạ tầng của thị trường để đáp ứng yêu cầu của các công ty quản lý quỹ quốc tế.       + Các tổ chức đầu tư (quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm nhân thọ.....) đã đóng vai trò chính trong sự phát triển của công nghệ quản lý quỹ đầu tư chuyên nghịêp.       + Các quỹ đầu tư là công cụ chính của các tổ chức tài chính quốc tế về: i) huy động các khoản vốn tư nhân lớn để đầu tư vào cổ phiếu ở các thị trường mới nổi; ii) thúc đẩy sự phát triển của các thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển; iii) cải thiện khả năng tiếp cận của các công ty vừa và nhỏ với tư vấn về quản lý và vốn cổ phần của nước ngoài. - Các công ty cần vốn cũng hưởng lợi nhiều từ các quỹ đầu tư qua việc giúp các công ty cải thiện được sự tiếp cận với các nguồn vốn bên ngoài công ty, dù là vốn cổ phần của tư nhân hoặc là của các công ty niêm yết chứng khoán. Ngoài ra, các quỹ đầu tư còn tư vấn cho các công ty về khả năng chuyên môn trong tiếp thị và lập kế hoạch tài chính. Như vậy, các quỹ đầu tư giúp huy động các nguồn tài chính trong nước và trung chuyển vốn một cách có hiệu quả. Tại các nước mới nổi: các quỹ đầu tư có vai trò rất quan trọng. Tất cả các loại quỹ đều hoạt động ở các nước mới nổi, do các nước này nới lỏng các luật lệ đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tốc độ phát triển kinh tế nhanh, tỷ lệ lợi nhụân cao ở nhiều nước, việc đẩy mạnh tư nhân hoá... - Đối với nhà đầu tư: các quỹ đầu tư  làm lợi cho họ thông qua việc:       + Đa dạng hoá danh mục đầu tư: với số tiền ít ỏi, người đầu tư có thể thu được lợi nhuận tối đa trong khi tối thiểu hoá rủi ro.       + Công nghệ quản lý chuyên nghiệp: Số tiền đầu tư của người đầu tư được giao cho nhà quản lý chuyên nghiệp với khả năng quản lý khoa học và chi phí thấp hơn.       + Tiết kiệm về chi phí quản lý và điều hành đối với quỹ mở: phần lớn người đầu tư không có kinh nghịêm và kiến thức chuyên môn để có thể phân tích thông tin và thị trường. Việc đầu tư qua quỹ đầu tư giúp người đầu tư có thể giảm chi phí giao dịch cố định (về thu thập, phân tích... thông tin), cũng như chi phí biến đổi với khoản đầu tư không lớn.       +Dễ dàng rút vốn đầu tư và đôi khi có sự tham gia đặc quyền: phần lớn chứng khoán của các quỹ đầu tư có thể bán lại trên thị trường tập trung một cách dễ dàng, người đầu tư có thể di chuyển vốn của mình giữa các loại chứng khoán trong danh mục đầu tư mà quỹ đã lựa chọn.       + Lựa chọn rộng rãi hơn: các nhà đầu tư có thể chọn những quỹ có mục tiêu phù hợp nhất với khả năng chịu rủi ro và thời kỳ đầu tư của mình. - Đối với các công ty: các quỹ đầu tư giúp họ cải thiện việc tiếp cận đối với các nguồn vốn, tư vấn về quản lý, tiếp thị và tài chính, tạo nguồn thông tin tốt hơn, cũng như sự tiếp cận các nguồn vốn dài hạn dễ hơn. - Đối với các Chính phủ: các quỹ đầu tư cũng mang lại nhiều lợi ích thông qua việc tăng nguồn vốn tiết kiệm trong nước, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn không cố định, đa dạng hoá sở hữu, các kỹ năng phát triển thị trường vốn trong nước tốt hơn, giá cổ phần cao hơn và nhờ đó thúc đẩy các công ty trong nước phát triển. Chính vì vậy, kể từ khi quỹ đầu tư thiết lập vào cuối thế kỷ 19 cho đến nay, quỹ đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi thế giới. 2. Hoạt động của quỹ đầu tư Để cho các quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả thì cần có môi trường pháp lý và quản lý tốt. Đó là các chế độ pháp lý về sở hữu, về điều tiết và giải quyết tranh chấp, các quy chế về quỹ, hệ thống thuế, luật đầu tư... Hoạt động của quỹ đầu tư bao gồm nhiều nội dung: a/ Huy động vốn Các quỹ đầu tư thường phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư mà không được phép phát hành trái phiếu hay sử dụng các nguồn vốn khác để đầu tư. Đối với quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Đối với quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình thành nên quỹ được chia thành các đơn vị và quỹ phát hành chững chỉ quỹ để xác nhận số vốn  mà người đầu tư góp vào quỹ. Khi phát hành chứng khoán, quỹ đầu tư được phép quảng cáo để thu hút vốn , trong đó nói rõ mục đích đầu tư của quỹ mà không được phép cam kết về lợi nhuận thu được. Có 2 cách thức phát hành: - Có thể huy động vốn thông qua các đợt phát hành riêng lẻ cho nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, hoặc bán rộng rãi cho các nhà đầu tư lớn trên thế giới mà không thông qua trung gian. - Các quỹ niêm yết và bán công khai chứng khoán cho các nhà đầu tư riêng lẻ hoặc tổ chức đầu tư thông qua người bảo lãnh. Các tổ chức bảo lãnh phát hành thường giữ vai trò là người bán buôn hay người phân phối cho các đại lý bán hàng (có thể là ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty tài chính...) để họ bán thông qua mạng lưới của họ. b/ Hoạt động  đầu tư Đây là hoạt động quan trọng nhất đối với một quỹ đầu tư. Các quỹ thường đàu tư rất rộng như chứng khoán, bất động sản, các công trình cơ sở hạ tầng... Quỹ đầu tư thường phải phân tích, đánh giá tình hình, năng động trong đa dạng hoá danh mục tuỳ theo thị trường. Thông thường, quy trình đầu tư của quỹ như sau: Nghiên cứu -> Phân tích rủi ro/ lợi nhuận -> Mục tiêu đầu tư -> Phân bổ tài sản -> Lựa chọn chứng khoán -> Xây dựng danh mục đầu tư. - Nghiên cứu: Các công ty quản lý quỹ luôn có những bộ phận và chuyên gia để nghiên cứu và phân tích tình hình, từ đó đưa ra các dự đoán. Thông thường công việc này tập trung vào việc nghiên cứu và dự đoán các yếu tố kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lãi suất..., dự đoán xu hướng phát tiển của thị trường nói chung, phân tích và dự đoán tương lai của các ngành kinh tế. - Phân tích rủi ro lợi nhuận liên quan đến phân tích lập phương án lập quỹ, dự đoán thu nhập và đánh gía rủi ro. - Lựa chọn mục tiêu của quỹ: Mục tiêu này phải cụ thể hoá được tỷ lệ sinh lời kỳ vọng và rủi ro chấp nhận đối với sản phẩm đầu tư. Có thể đó là một trong các mục tiêu ban đầu như: thu nhập, lãi vốn, thu nhập và lãi vốn. - Phân bổ tài sản và lựa chọn chứng khoán: Phân bổ tài sản là sự phân chia tiền của quỹ vào các rổ đầu tư theo các mục tiêu cụ thể phù hợp với quan điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý quỹ. Đây là một việc quan trọng của quỹ. Việc lựa chọn chứng khoán cho danh mục đầu tư là việc quyết định đầu tư vào từng loại chứng khoán đã được phân bổ cân đối với tỷ trọng vốn của quỹ. c/ Bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ Tài sản của quỹ do người lưu giữ (hoặc ngân hàng giám sát) kiểm soát nhằm bảo vệ những quyền lợi của người đầu tư. d/ Định giá, phát hành và mua lại chứng chỉ Đối với quỹ mở, do thường đầu tư vào chứng khoán niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán nên giá trị của quỹ được xác định theo giá thị trường và tuân thủ theo quy định của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Sau đó, giá trị tài sản của quỹ sẽ được chia cho số cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư hiện đang lưu hành để xác định giá trị hiện tại của một cổ phiếu hay chứng chỉ. Giá bán cổ phiếu hoặc chứng chỉ sẽ bằng giá trị hiện tại cộng với một số chi phí, còn giá mua lại thì bằng giá trị hiện tại trừ đi một số chi phí nhất định. e/ Cung cấp thông tin cho người đầu tư Mục đích cung cấp thông tin cho người đầu tư là nhằm giúp họ đánh giá đúng thực trạng các khoản đầu tư, khả năng chuyên  môn của những người quản lý quỹ, từ đó mà đánh giá rủi ro và lợi nhuận. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước quy định và do Hội đồng quản trị (trong mô hình công ty) hoặc công ty quản lý quỹ (trong mô hình quỹ dạng hợp đồng) thực hiện. Nội dung công bố thông tin: về các báo cáo tài chính, tình hình tài chính, các báo cáo của công ty quản lý quỹ... Hình thức công bố thông tin thường là sử dụng các báo cáo của công ty quản lý quỹ hoặc hội đồng quản trị của quỹ gửi cho người hưởng lợi hoặc cổ đông của quỹ. Ngoài ra, thông tin còn được công bố tại trụ sở các công ty quản lý quỹ hoặc tại các đại lý của công ty. Tại các nước có ngành quỹ đầu tư phát triển thì thông tin được công bố trên các tạp chí tài chính hoặc các phương tiện thông tin đại chúng. g/ Kênh phân phối Các cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư được phân phối tới các nhà đầu tư bằng nhiều kênh phân phối: Thứ nhất: Bán trực tiếp từ quỹ hoặc người bảo lãnh phát hành chính của quỹ. Thứ hai: Phân phối qua bên thứ ba như ngân hàng bán lẻ, nhà bảo lãnh phát hành chính của quỹ,  hoặc người môi giới độc lập. Các nhà phân phối của quỹ phải chịu các loại chi phí liên quan đến quảng cáo, phân phối bản cáo bạch, tiền công bán hàng, các chi phí chung khác. Hình thức bù đắp các chi phí này là  thu phí phân phối hoặc phí giao dịch từ quỹ hoặc các nhà đầu tư; quỹ chi một phần nhỏ tài sản của quỹ để thanh toán các chi phí phân phối. 3. Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam Từ năm 1990-2006, tổng tài sản do các quỹ đầu tư sở hữu trên toàn thế giới tăng từ 2.281 tỷ USD lên 19.110 tỷ USD. Số lượng quỹ đầu tư trên toàn thế giới tăng thêm 6.597 quỹ (năm 1998-2005) (Nguồn: Mutual Fund Factbook, ICI), phát triển mạnh ở các nước mới nổi ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ latinh. Tại Việt Nam, trước năm 1997 có 7 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn huy động được khoảng 400 triệu USD, nhưng chưa đầu tư vào chứng khoán. Sau năm 2002 có 10 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên đến khoảng 900 triệu USD. Tính đến cuối 3/2006 có 8 công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư nước ngoài đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam, khoảng 15 tổ chức đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và chưa đặt Văn phòng đại diện (Nguồn : Tạp chí chứng khoán số tháng 5/2006). Tính đến tháng 6/2006 có 7 công ty quản lý quỹ trong nước được thành lập (công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam, công ty quản lý quỹ Manulife Việt Nam, công ty quản lý quỹ Bảo Việt, công ty liên doanh quản lý quỹ Vietcombank, công ty liên doanh quản lý quỹ BIDV- Vietnam Parners...) Về quỹ đầu tư trong nước: - Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1) thành lập vào 19/7/2006 là quỹ công chúng và chính thức chào bán ra công chúng ngày 24/7/2006 để đạt vốn huy động 500 tỷ đồng thông qua công ty chứng khoán ACB, công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và công ty chứng khoán Sài gòn. - Quỹ đầu tư chứng khoán BVF1 của Tập đoàn tài chính- bảo hiểm Bảo Việt là quỹ thành viên được ra mắt ngày 21/7/2006 với 500 tỷ đồng với sự góp vốn của 6 tổ chức bảo hiểm. - Quỹ Vietcombank 2 do công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF) sáng lập với 60 triệu USD ở dạng quỹ đóng, sẽ ra mắt trong năm nay. - VFM thành lập quỹ VF1 và đã đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán ở TTGDCK TP.HCM. - Quỹ thứ năm dự kiến thành lập bởi công ty quản lý quỹ của Ngân hàng quân đội, dự kiến là quỹ thành viên chuyên đầu tư chứng khoán có quy mô khoảng 200 tỷ đồng. - Quỹ thứ sáu dự kiến thành lập bởi Công ty quản lý quỹ của Ngân hàng TMCP An Bình vào cuối năm 2006. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư trong nước ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là: + Cổ phiếu, trái phiếu niêm yết tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh; + Các cổ phiếu chưa niêm yết; + Và cũng có thể sẽ cung cấp sản phẩm liên kết giữa bảo hiểm và đầu tư; + Đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí. Tuy vậy, số lượng các quỹ đầu tư chưa nhiều là một trở ngại cho việc mở rộng hình thức đầu tư cho công chúng. Tuy nhiên, một thị trường sáng sủa cho ngành đầu tư chứng khoán qua các quỹ đầu tư ở Việt Nam đang ngày càng lộ rõ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0719.doc
Tài liệu liên quan