Đề án Hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua - Giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam

Qua sự phân tích về thị trường chứng khoán ở 2 chương trên chúng ta không chỉ hiểu một cách sơ qua về thị trường chứng khoán (khái niệm, bản chất và thực trạng). Bởi vì sự hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như sự hiểu biết nên em không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của người đọc nhưng qua đó chúng ta hiểu được ý nghĩa sự ra đời của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của đất nước. Sự ra đời của thị trường chứng khoán là một trong mười sự kiện quan trọng nhất trong năm 2000 của nền kinh tế Việt Nam . Hai năm là một khoảng thời gian không dài nhưng cũng giúp chúng ta chứng kiến nhiều sự kiện thăng trầm trong từng bước phát triển thị trường và ghi nhận những nổ lực vượt bậc, sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý cũng như uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và các công ty chứng khoán trong việc điêù hành, xây dựng phát triển thị trường và tạo dựng một hình ảnh thị trường ổn định, có triển vọng phát triển vững chắc, có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua - Giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Để góp phần tiếp tục thực hiện đường lối công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững và dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiêụ quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho việc đầu tư và phát triển. Việc xây dựng thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các nguồn vốn trung dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế. Điều này được khẳng định trong Nghị quyết đại hội lần thứ VIII của Đảng: ".... Phát triển thị trường vốn thu hút các nguồn vốn... và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt Nam...". Vào cuối tháng 7 năm 2000, trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của nước ta đã khai trương và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Sự kiện này là hoàn toàn bình thường và tất yếu, song đối với nước ta nó lại có ý nghĩa trên nhiều mặt. Đặc biệt là trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi nền kinh tế đang đối mặt với rất nhiều khó khăn (có cả những khó khăn chưa từng gặp trong 15 năm đổi mới vừa qua) ý nghĩa đó càng được nhân lên gấp bội. Với đề tài: "Hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua - giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam". Đề án môn học này muốn đưa ra một số vấn đề về thực trạng, giải pháp về thị trường chứng khoán để định hướng thị trường chứng khoán phát triển một cách mạnh mẽ, đúng hướng và phù hợp với các điều kiện của nền kinh tế Việt Nam. Trong điều kiện về mặt thời gian, tài liệu tham khảo và khả năng phân tích lý luận còn rất hạn chế, đặc biệt đây là một vấn để khá mới mẻ ở Việt Nam, do vậy chắc bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót và khá nhiều vấn đề bất cập. Rất mong sự quan tâm góp ý, chỉ báo của thầy giáo và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và hướng dẫn chu đáo của cô Lê Phong Châu, Khoa Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân. Chương I - Tổng quan về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán 1.1. Chứng khoán : 1.1.1. Khái niệm: Chứng khoán theo cách hiểu thông thường là các loại giấy tờ có giá, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, được phát hành và lưu thông trên Thị trường Chứng khoán. Như vậy, Chứng khoán chính là các loại chứng từ (dưới hình thức giấy tờ hoặc được ghi trên Hệ thống bảng điện tử) hoặc các bút toán ghi sổ, xác nhận quyền lợi hợp pháp của người sở hữu Chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành Chứng khoán. 1.1.2. Các loại Chứng khoán : Chứng khoán bao gồm nhiều loại khác nhau như : Cổ phiếu, Trái phiếu, Chứng chỉ Quỹ đầu tư, và các loại Chứng khoán khác.... Trong đó Cổ phiếu và Trái phiếu là 2 loại Chứng khoán quan trọng và phổ biến nhất. 1.1.2.1. Cổ phiếu. Là một loại Chứng từ do các Công ty hay các tổ chức tài chính Cổ phần phát hành có xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người mua cổ phiếu đối với tài sản của Công ty hay Tổ chức phát hành đó. Cổ phiếu không có kỳ hạn, mà nó tồn tại cùng với sự tồn tại của Công ty hay Tổ chức phát hành ra nó. Cổ phiếu có hai loại : Cổ phiếu thường và Cổ phiếu ưu đãi : - Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lý và kiểm soát của công ty. Loại cổ phiếu này được bán cho tất cả mọi người. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu Hội đồng Quản trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của Công ty . Khi công ty phá sản, hoặc giải thể, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được chia số tiền còn lại sau khi đã thanh toán các khoản nợ và cổ phiếu ưu đãi. - Cổ phiếu ưu đãi dành cho những người có công sáng lập. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi được hưởng lợi tức cố định không phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty mà theo tỷ lệ phần trăm ghi trên cổ phiếu. Những cổ đông này không được tham gia biểu quyết tại Đại hội đồng . 1.1.2.2. Trái phiếu. Là một loại Chứng từ có khả năng chuyển đổi do Chính phủ ở cấp trung ương, Chính quyền ở cấp địa phương hoặc các tổ chức có tư cách pháp nhân phát hành nhằm xác nhận quyền chủ nợ của người có trái phiếu trong việc tiếp nhận vốn gốc và lãi suất được ghi trên trái phiếu, lời hứa của nhà phát hành, các cam kết khác, cũng như việc hoàn trả toàn bộ vốn gốc khi đến ngày đáo hạn. Trái phiếu thường được phát hành khi cần huy động vốn dài hạn. Trái phiếu cũng có hai loại chủ yếu, đó là : - Trái phiếu Công ty : Là loại Trái phiếu do các Công ty được phép phát hành, lãi suất của nó phụ thuộc vào tình hình tài chính của Công ty và lợi nhuận bình quân chung của nền Kinh tế và thường là từ 5 - 7% / năm, được trả theo định kỳ hai hoặc bốn lần trong một năm. - Trái phiếu Chính phủ và Trái phiếu Chính quyền địa phương: Là loại Trái phiếu được phát hành để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách, hoặc để thực hiện một dự án của Nhà nước phục vụ cho các lợi ích công cộng. 1.1.2.3. Ngoài ra, Kỳ phiếu cũng là một loại Chứng khoán ghi số tiền Nhà nước vay để bù đắp vào chỗ thiếu hụt tạm thời của ngân sách, vì thế Kỳ phiếu cũng được coi là công trái ngắn hạn và lãi suất của Kỳ phiếu được ấn định ngay từ khi phát hành. 1.2. Thị trường Chứng khoán . 1.2.1. Khái niệm: Thị trường Chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán, trao đổi các loại chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. 1.2.2. Các loại Thị trường Chứng khoán : Có 02 loại Thị trường Chứng khoán : 1.2.2.1. Thị trường Chứng khoán Sơ cấp. Là Thị trường phát hành các loại Chứng khoán . Nhà phát hành (đối với Trái phiếu chủ yếu là Chính phủ) hoặc các Doanh nghiệp muốn huy động vốn phải phát hành Chứng khoán ra Thị trường Chứng khoán Sơ cấp. 1.2.2.2. Thị trường Chứng khoán Thứ cấp. Là Thị trường mà các Chứng khoán được mua bán lại các chứng khoán đã được bán ở thị trường sơ cấp. trên thị trường thứ cấp, lợi nhuận thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về Nhà đầu tư và những người buôn bán chứ không thuộc về các nhà phát hành chứng khoán . Thị trường Chứng khoán Thứ cấp lại bao gồm: * Sở Giao dịch chứng khoán : là cơ quan đại diện cho Thị trường Giao dịch Chứng khoán tập trung, nơi các công ty môi giới Chứng khoán mua bán và Giao dịch theo phương thức đấu giá. Các Chứng khoán niêm yết và Giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán phải là các Chứng khoán của các công ty lớn có Chất lượng cao. * Thị trường Chứng khoán Phi tập trung ( viết tắt là Thị trường OTC ): là nơi đại diện cho một Thị trường thương lượng, nơi mà một người bán thương lượng với một người mua. Các Chứng khoán giao dịch tại Thị trường OTC thường là các Chứng khoán của các Công ty vừa và nhỏ, không đủ các tiêu chuẩn niêm yết tại các Sở Giao dịch Chứng khoán . Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá, là hạt nhân trung tâm thị trường tài chính. 1.2.3. Vai trò của thị trường chứng khoán. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO), của liên minh Châu Âu, của các khối thị trường chung đòi hỏi các quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế. Thứ nhất: Thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tục, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng công nghệ mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi. Thực tế, trên thị trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải tới tất cả các nhàđầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các chứng khoán. Chỉ những Công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường. Thị trường chứng khoán tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này buộc các NHTM và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính. Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của Công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các NHTM. Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các Công ty trên thị trường, sự tồn tịa của thị trường chứng khoán là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai: thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình phải phát hành chứng khoán ra công chúng giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba: thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi qui mô doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn, chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. có chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường chứng khoán đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. Thứ tư: Hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các Công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các Công ty trong nước. Thứ năm: Thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Thứ sáu: Thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép chính phủ cũng như các Công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. 1.2.4. Sự ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Như vậy vai trò thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Qua đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng biệt. Thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố HCM ngày 20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000. Ra đời trong một thời điểm không mấy thuận lợi khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đối với các nước Châu á và Việt Nam còn khá nặng nề, chưa có kinh nghiệm thực tiễn vận hành thị trường. Hiện tại mới chỉ có TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động còn ở Hà Nội thì chỉ có SGDCK. 1.2.5. Các chủ thể phát hành chứng khoán. Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng khoán do mình phát hành cho nhàđầu tư. Chủ thể phát hành bao gồm chính phủ, doanh nghiệp và các quĩ đầu tư. 1.2.5.1. Chính phủ. Mục đích phát hành của chính phủ là sự bù đắp thiếu hụt của ngân sách và huy động vốn tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát hành các loại chứng khoán bao gồm: Trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình và tín phiếu kho bạc. 1.2.5.2. Các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát hành ra các chứng khoán để huy động vốn và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường có 3 hình thức tổ chức doanh nghiệp cơ bản đó là: doanh nghiệp một chủ, Công ty hợp danh và Công ty cổ phần. 1.2.5.3. Các quĩ đầu tư. Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn góp của nhà đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác. Chương II- Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua - nguyên nhân và giải pháp cho phát triển thị trường chứng khoán. 1.1. Tình hình hoạt động TTCK trong thời gian qua. 1.1.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam - những vấn đề đặt ra tại điểm khởi đầu. Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) đầu tiên của nước ta đã khai trương hoạt động tại TP. Hồ Chí Minh. Tuy sự kiện này là bình thường trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường song đối với nước ta nó lại có ý nghĩa nhiều mặt. Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế đang còn phải đối mặt với một số khó khăn chưa từng gặp trong 15 năm đổi mới vừa qua, ý nghĩa đó càng được nhân lên. Dễ cảm nhận một điều hết sức thực tiễn rằng sự ra đời của TTGDCK đáp ứng kịp thời một hy vọng chinh đáng của đông đảo mọi người. Đó là mong muốn nền kinh tế có thêm một động lực mới có khả năng tiếp thêm sức mạnh thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế. Vì vậy, bản thân sự kiện nay có tác dụng củng cố niềm tin của nhân dân, đặc biệt là của giới doanh nghiệp vào quyết tâm đẩy mạnh đổi mới kinh tế theo hướng thị trường - mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Sau luật doanh nghiệp, tâm lý chờ đợi một sự thúc đẩy mới ra nhưng đầy hấp dẫn là TTCK nhằm kích thích trở lại động lực tăng trưởng kinh tế có phần bị trầm lặng trong mấy năm gần đây ngày càng lan rộng. Bầu không khí này chắc chắn sẽ tạo ra lạc quan và có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của TTGDCK trong giaiđoạn ban đầu. Nhưng mặt khác, một cách khách quan, sự lạc quan đó là dễ che mờ những khó khăn trở ngại mà thị trường non trẻ sẽ gặp phải khi bước đầu vào hoạt động. Đó thực sự là một nguy cơ đối với sự tồn tại của TTGDCK trong giai đoạn đầu tiên. Vì lẽ đó, chính tại thời điểm này sự tỉnh táo nhìn vào những thách thức "hậu khai trương" đang chờ đợi TTGDCK TP. Hồ Chí Minh là điều hết sức cần thiết. Cần nhận thức rõ rằng sự hiện diện của một thể chế kinh tế bậc cao như TTCK, dù là dưới hình thức sơ khai, trong một nền kinh tế thị trường diễn ra chưa lâu, cấu trúc thể chế cơ bản của nền kinh tế này vẫn còn chưa hoàn thiện, tự nó chứa đựng hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được suy xét kỹ càng. Sự suy xét đó nhằm trả lời câu hỏi phải làm gì để TTCK Việt Nam có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ mới sinh thành của nó. Vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là kỳ vọng voà triển vọng hoàn thành sứ mệnh phát triển được gửi gắm cho TTCK. Thành bại của TTCK, trực tiếp hơn còn có ý nghĩa trắc nghiệm đối với quyết tâm đẩy mạnh đổi mới theo hướng thị trường - mở cửa của Việt Nam, đối với việc tiếp cận đến một cách thức phát triển nhằm đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu trong một thế giới mà tốc độ đã trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc đua tranh phát triển. Vì những lý do đó để đảm bảo coh TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh tồn tại và vượt qua được cuộc "Trắcnghiệm" TTCK điều đó có ý nghĩa rất lớn đến tương lai lâu dài của hệ thống chứng khoán Việt Nam, việc nhận diện rõ tình hình hiện tại, trên cơ sở đó, tìm kiếm và xác định các giải pháp thích hợp có tầm quan trọng đặc biệt. Về nguyên tắc, sự tồn tại và kết quả hoạt động của TTCK phụ thuộc không chỉ vào năng lực và các điều kiện nội tại của bản thân nó. Sâu xa và căn bản hơn, nó phụ thuộc vào môi trường vận động chung, tức là vào trạng thái hiện thực của nền kinh tế. Đà tăng trưởng kinh tế, tính tích cực của thị trường sản phẩm và của hoạt động đầu tư, sự vững mạnh của hệ thống tài chính - tiền tệ, mức độ thuận lợi của các điều kiện kinh tế quốc tế và khu vực .v... là những yếu tố cơ sở, trực tiếp tạo ra sức hấpdẫn công chúng và các doanh nghiệp tham gia hoạt động trên TTCK, do đó, quyết định sự thành bại của loại hình thị trường hoàn toàn mới mẻ này ở nước ta trong giai đoạn ngay sau khi nó ra đời. Xuất phát từ cách đặt vấn đề đó, dễ nhận thấy rằng ngay trước thời điẻm khai trương TTGDCK TP. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều vấn đề cần được thảo luận và làm rõ. Tình hình này bắt nguồn từ chỗ dù về nguyên tắc có thể khẳng định nước ta đã có những yếu tố tối thiểu cần thiết để xây dựng TTCK song vẫn chưa thể nói tất cả mọi điều kiện cần và đủ để TTCK vận hành có hiệu quả ngay sau khi ra đời đều đã sẵn sàng và hoàn toàn chín muồi. Trình độ phát triển thấp, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh và còn nhiều điểm yếu kém là một thực tế khách quan. Thực tế đó tiềm chứa những khó khăn cơ bản đối với triển vọng phát triển lâu dài của TTCK. Khó khăn đó càng trở nên gay gắt hơn trong ngắn hạn, khi nền kinh tế đó đang trong ngắn hạn, khi nền kinh tế đó đang trong quá trình khắc phục những trở ngại phát triển không nhỏ do tác động tiêu cực cuả các điều kiện kinh tế quốc tế bất thuận lợi và do những yếu kém bên trong gây ra. Đánh giá môi trường kinh tế vĩ mô một cách khách quan cho thấy có thể nói sự ra đời của TTGDCK sẽ gặp phải nhiều tác động không hoàn toàn thuận chiều. Những tác động tích cực và những tác động bất lợi quyện voà nhau thành một tổ hợp tác động. Trong tổ hợp đó nói lên một số yếu tố sau: Thứ nhất: Trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta bị chậm lại. Đây là hậu quả của sự suy giảm mạnh đầu tư và những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm dưới tác động của cuộc khủng hoảng khu vực và những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Trong quan hệ tương tác nhân quả, tình hình nói trên chứa đựng khả năng tạo đà "vòng xoáy" tiêu thụ với hai biến số chính kích thích lẫn nhau là: + Lượng nợ quá hạn của các doanh nghiệp gia tăng và + Nhu cầu đầu tư suy yếu do thị trường sản phẩm rơi vào tình trạng trì trệ. Kết quả là quá trình khôi phục tốc độ tăng trưởng diễn ra chậm, hệ thống tài chính - ngân hàng gặp khó khăn trong việc giải quyết mối quan hệ tiết kiệm, đầu tư, tính năng động của nền kinh tế giảm sút mà bằng chứng rõ nhất là xu hướng thiểu phát kéo dài. Cho đến nay, xu hướng này vẫn chưa được khắc phục, thậm chí có mặt còn trầm trọng hơn. Trong một môi trường vĩ mô như vậy, khả năng hoạt động có hiệu quả của hầu hết các thể chế và đơn vị kinh tế đều bị hạn chế. Nhận định này càng đúng đối với TTGDCK, một thể chế kinh tế bậc cao lại mới ra đời và còn hết sức non yếu. Thứ hai: Trực tiếp đối với TTCK, do là môi trường mang tính đại chúng cao, sự suy yếu nhu cầu đầu tư chung trong nền kinh tế - biểu hiện của sự suy giảm lòng tin vào thị trường - là yếu tố tác động bất lợi lớn nhất. Mức độ bất lợi gia tăng hơn khi TTCK là thị trường đầu tư hoàn toàn mới, chưa đủ thời gian lẫn thực tế tạo dựng niềm tin trong xã hội về hiệu quả hoạt động của mình. Thứ ba: Quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, lực lượng kinh tế lớn nhất, có vai trò tiềm năng và khả năng tạo sức khuyến khích tham gia TTCK mạnh nhất, diễn ra còn chậm. Cho đến thời điểm hiện nay, số doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá còn thấp xa so với cả yêu cầu lẫn mục tiêu mà chính phủ đặt ra. Nhiều DNNN lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh, đặc biệt là các Tổng Công ty, vẫn đang "đứng ngoài cuộc", chưa sẵn sàng và chưa nhận tích cực đổi mới theo hướng này. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN chậm được cải thiện. Hệ quả trực tiếp của tình hình đó là lượng hàng hoá và số chủ thể kinh doanh đủ tiêu chuẩn đăng ký hoạt động tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh còn ít ỏi. Sự "khan hiếm" hai thành phố chủ lực của thị trường hàng hoá và chủ thể giao dịch chắc chắn sẽ làm giảm mức độ sôi động và sự hấp dẫn tối thiếu cần thiết để duy trì sự tồn tại và xu hướng phát triển được mong đợi của thị trường này. Thứ tư: Khu vực kinh tế tư nhân, về nguyên tắc là lực lượng có vai trò to lớn trong triển vọng phát triển lâu dài của TTCK. Tuy nhiên, ở nước ta sau 15 năm đổi mới lực lượng này vẫn còn hết sức nhỏ yếu. Một trong những bằng chứng rõ nhất là số doanh nghiệp tư nhân có đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTCK hiện nay quá ít ỏi. Mặt khác, do các chủ doanh nghiệp giữ thái độ thăm dò, chờ đợi kết quả "thử nghiệm" TTCK trước khi ra quyết định nhập cuộc, nên cho đến thời điểm khai trương thị trường, vẫn chưa có doanh nghiệp tư nhân nào đăng ký tham gia chính thức TTGDCK TP. Hồ Chí Minh. Mặc dù đây là một phản ứng thông thường của các nhà đầu tư trước một loại hình, một cơ hội kinh doanh mới, song hoàn toàn có thể dự đoán rằng hãy còn khá lâu, lực lượng quan trọng nhưng còn non yếu này mới bộc lộ hết tiềm năng và vai trò của mình trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Trong mối liên hệ ngược, sự chậm trễ nhập cuộc đó lại nghĩa là khu vực này đang bỏ lỡ những cơ hội quí báu để tiếp cận đến nguồn vốn xã hội - nguồn lực mà nó đang cần hơn bao giờ hết. Rốt cuộc là nền kinh tế sẽ không thể tăng trưởng hết tiềm năng do các nguồn nội lực không được khai thác tốt. Thứ năm: Việc khai trương thị trường chứng khoán đầu tiên trong một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi hàm nghĩa tình trạng non yếu của chính thể chế kinh tế này trong giai đoạn khởi đầu của nó. Sự non yếu đó trước hết thể hiện ở sự non kém trình độ của các cán bộ tác nghiệp và quản lý thị trường, ở tính chưa hoàn của cấu trúc bộ máy, của cơ chế vận hành và khung pháp lý bảo đảm sự hoạt động lành mạnh và an toàn của TTGDCK ngắn hạn và trực tiếp hơn, điểu yếu này bộc lộ rõ nhất ở sự thiếu kinh nghiệm tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch trên thị trường. Là một thị trường có độ nhạy cảm cao và tốc độ phản ứng rất nhanh, lại chứa đựng khả năng bị tác động mạnh bởi hoạt động đầu cơ, lại vận động trong một môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động, tình trạng thiếu kinh nghiệm là một điểm yếu cốt tử của TTGDCK khi vận hành trong giai đoạn đầu. Nhưng bên cạnh những khó khăn và ảnh hưởng bất thuận lợi như trên, môi trường kinh tế vĩ mô hiện nay cũng chứa đựng nhiều xu hướng và yếu tố có khả năng tác động rất tích cực đến triển vọng phát triển của TTGDCK TP. Hồ Chí Minh. Trước hết xu hướng đảo ngược đã tăng trưởng của nền kinh tế từ "âm" (suy giảm tốc độ) sang "dương" (nâng cao tốc độ) dù chỉ mới diễn ra trong mấy tháng gần đây và chưa phải đã đặt trên những cơ sở hoàn toàn vững chắc cũng bước đầu khôi phục lại lòng tin về triển vọng kinh tế sáng sủa của đất nước. Lòng tin đó càng được củng cố thêm bởi sự phục hồi mạnh mẽ sau khủng hoảng của các nền kinh tế trong khu vực và xu thế tăng trưởng khá vững chắc nói chung trong nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở đó, có thể dự báo khả năng cải thiện mạnh mẽ hoạt động đầu tư trong nền kinh tế nước ta. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nâng cao sẽ giúp giải toả tình trạng ách tắc thị trường lâu nay. Nhờ đó, các doanh nghiệp sẽ tích cực đầu tư trở lại: công chúng sẽ tham gia các hoạt động kinh tế với mức độ sẵn sàng cao hơn. Trong khuôn cảnh như vậy; TTGDCK chắc chắn sẽ dễ dàng thu hút sự quan tâm và tham gia của đông đảo mọi người. Các doanh nghiệp sẽ cần đến trung tâm này như cơ hội quan trọng để tiếp cận đến các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư gia tăng. Yếu tố thứ 2cần được tính đến là những tác động tích cực của việc cải thiện môi trường kinh doanh diễn ra trong nền kinh tế nước ta thời gian gần đây. Có thể kể đến 2 biến cố chính là sửa đổi và hoàn chỉnh hệ thống thuế, trong đó yếu tố hạt nhân là áp dụng thuế giá trị gia tăng và ban hành luật doanh nghiệp. Đi liền với việc áp dụng luật doanh nghiệp là quá trình xoá bỏ hàng loạt các loại giấy phép con - những thứ đã từng làm cho môi trường kinh doanh nước ta trở nên phức tạp không thông thoáng, thiếu bình đẳng và thiếu lành mạnh. Phản ứng của nền kinh tế đối với những thay đổi này, như thực tế gần đây cho thấy, là hết sức tích cực. Số doanh nghiệp đăng ký tăng vọt, cũng có nghĩa là khối lượng đầu tư tăng lên, thể hiện sự gia tăng lòng tin của giới kinh doanh vào các biện pháp đẩy mạnh đổi mới của chính phủ. Đây là môi trường rất thuận lợi cho sự hoạt động của TTGDCK. Dù rằng chưa thể kỳ vọng ngay lập tức về sự tăng vọt của chủ thể đăng ký tham gia thị trường, song môi trường đó chứa đựng khả năng tạo nên một sức thúc đẩy tính năng động đầu tư vào sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến hoạt động của TTGDCK. Yếu tố thuận lợi thứ ba là sự kiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết giữa 2 chính phủ. Sự kiện đó chắc chắn sẽ có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta theo cả 2 nghĩa - tạo ra một sức thúc đẩy mới lẫn đặt ra nhiều thách thức to lớn. Tuy nhiên, dù theo nghĩa nào, vẫn có thể nhận thấy rằng xu hướng cơ bản của sự tác động này là tích cực. Trong giai đoạn trước mắt, sự kiện này sẽ tạo ra ba tác động chính. Đó là: + Góp phần khôi phục lại dòng đầu tư nước ngoài trực tiếp đổ vào nước ta bị suy giảm trong những năm vừa qua. + Thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu + Thúc đẩy quá trình đổi mới môi trường kinh doanh, trước hết là môi trường chính sách theo hướng thị trường mở cửa và buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện sửcc quốc tế của mình. Đương nhiên về dài hạn, để các tác động của hiệp định thương mại Việt - Mỹ trở thành hiện thực, bản thân hiệp định còn phải được quốc hội hai nước thông qua. Tuy nhiên, những tác động kể trên có thể phát huy trong những giai đoạn tới. Tuy không được phép quên rằng việc thực thi hiệp định là không dễ dàng đối với Việt Nam, rằng tất cả mọi thứ đều chỉ là "ngọt ngào", từ góc độ triển vọng của TTGDCK TP. Hồ Chí Minh cần có thể nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của hiệu ứng mà sự kiện ký kết hiệp định đó tác động đến nền kinh tế thế giới nói chung, đến sự tồn tại và phát triển trong thời kỳ đầu của TTGDCK đầu tiên của nước ta nói riêng. Cần nói thêm rằng đối với hoạt động của TTGDCK mức độ tác động tích cực của những yếu tố trên được kết hợp với sức mạnh của nhiều yếu tố khác. Đó là những yếu tố mà cho đến nay, đã từng phát huy tác dụng và có vai trò hết sức to lớn trong việc ra đời TTCK ở nước ta. Đó là những yếu tố thuận lợi cơ bản như sự quan tâm đặc biệt sát sao và thiết thực của Đảng và chính phủ, sự phối hợp hành động có hiệu quả giữa uỷ ban chứng khoán Nhà nước với các bộ, ngành, địa phương và giới doanh nghiệp, là sự hợp tác vạ giúp đỡ tích cực của bạn bè và đối tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng ngành chứng khoán và TTCK ở Việt Nam. 1.1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau 2 năm hoạt động. Mặc dù tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn nhất là đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á, tuy nhiên ngay từ khi thành lập uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) dưới sự chỉ đạo của chính phủ, đã khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành, xây dựng khuôn khổ pháp lý, các tổ chức tài chính trung gian, chuẩn bị hàng hoá và các điều kiện khác cho sự ra đời TTCK - ngày 11/7/1998, Nghị định số 48/1998/NĐ-TTg về việc thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ởhn và TP. Hồ Chí Minh được chính thức ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của TTCK Việt Nam. Việc TTGDCK TP. HCM chính thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000 đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Mặc dù qui mô của TTCK còn nhỏ bé, song bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của công chúng trong nước cũng như nước ngoài. Đến nay TTCK Việt Nam đã trải qua hơn hai năm đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình. Hai năm vừa qua là 2 năm làm quen với hoạt động củaTTCK, 2 năm vượt qua bao khó khăn thử thách để giữa vững, ổn định và từng bước phát triển thị trường. Có được kết quả ngày hôm nay của TTCK là do sự chỉ đạo sát sao của chính phủ, nỗ lực của UBCKNN, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh các Công ty niêm yết; Công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán,sự hỗ trợ và giúp đỡ của các bộ, ngành, địa phương và sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư. 1.1.2.1. Kết quả hoạt động 2năm (7/2000 - 7/2002). 1. Về hoạt động phát hành niêm yết. Cho đến cuốitháng 7/2002, UBCKNN đã cấp phép phát hành, tăng vốn và đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 19 Công ty với tổng giá trị vốn điều lệ là 1.016 tỷ đồng. UBCKNN, TTGDCK phối hợp với Bộ Tài chính đã thực hiện thành công 22 đợt đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ với tổng giá trị 3.088,6 tỷ đồng. Công tác đào tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng, thời kỳ đầu việc triển khai công tác này có rất nhiều khó khăn . Đến nay số lượng hàng hoá trên 4000 tỷ đồng nói trên là một sự cố gắng lớn của UBCKNN cũng như các bộ, ngành, địa phương. Qua 2năm hoạt động cho thấy các Công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp Nhà nước và hiện nay hoạt động kinh doanh của các Công ty có nhiều hướng tốt đều có lãi, bên cạnh đó, Công ty niêm yết trên TTCK được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức hấp dẫn người đầu tư. Về cơ bản các Công ty niêm yết đều cố gắng đáp ứng qui định do UBCKNN đề ra, bộ máy quản lý, công tác tài chính kế toán của Công ty niêm yết đã được chú trọng nhất là chất lượng báo cáo tài chính. Một số Công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin, hầu hết các Công ty niêm yết chỉ chú trọng vào thông tin định kỳ và thông tin phải cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan với hoạt động của Công ty. 2. Về hoạt động của các Công ty chứng khoán. Hiện nay cơ cấu doanh thu của các Công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trong thời gian đầu doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các Công ty chứng khoán và tiếp đến là các nghiệp vụ như tự doanh, môi giới... thì đến hết quý I năm 2002 doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể, tài sản dưới dạng tiền giảm, tỷ lệ tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng, khả năng thanh toán của các Công ty được đảm bảo. 3. Hoạt động của TTGDCK (trung tâm giao dịch chứng khoán). Tính đến hết ngày 30/3/2002 TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện 322 phiên giao dịch với tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là41,3 triệu cổ phiếu và 841 ngàn trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 1,673 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 94,9%. Bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong 1 phiên đạt 5,2 tỷ đồng. Hiện nay đã có 19 loại cổ phiếu và 27 loại trái phiếu được niêm yết giao dịch. Trong 2 năm qua TTGDCK TP. HCM đã thực hiện tương đối tốt công tác quản lý niêm yết, thành viên và công bố thông tin thị trường. Bên cạnh đó, TTGDCK TP. HCM còn thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm tiếp nhận những ý kiến đóng góp của các Công ty chứng khoán thành viên, Công ty niêm yết, kiến nghị lên UBCKNN điều chỉnh và bổ sung các qui định, quy chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn thị trường đòi hỏi. Việc lưu ký chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch chứng khoán tại TTGDCK. Các thành viên lưu ký đều tuân thủ các qui định về lưu ký chứng khoán của UBCKNN và TTGDCK. Hiện nay, hoạt động của các thành viên lưu ký nước ngoài chưa đáng kể do người nước ngoài đầu tư còn ít vào TTCK Việt Nam. Tính đến tháng 7/2002 tổng số cổ phiếu lưu ký tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh là 54 triệu cổ phiếu trên tổng số 101,6 triệu cổ phiếu niêm yết, chiếm 61,57%, tổng giá trị trái phiếu chính phủ và trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là 3.246 tỷ đồng đã được lưu ký gần như toàn bộ, đạt 93,87%. 4. Hoạt động quản lý Nhà nước của UBCKNN. Ngay sau khi TTGDCK TP. HCM đi vào hoạt động, với đặc điểm củatt là qui mô nhỏ, hàng hoá còn ít, sự hiểu biết về chứng khoán và TTCK của đa số công chúng còn hạn chế, yếu tố tâm lý chi phối thị trường rất mạnh, vì vậy để đảm bảo hoạt động ổn định của thị trường trong giai đoạn đầu, UBCKNN đã tập trung chỉ đạo và thực hiện một số biện pháp sau: Nâng cao năng lực tổ chức, điều hành hoạt động giao dịch của TTGDCK, đảm bảo khả năng xử lý, phản ứng linh hoạt của TTGDCK đối với các diễn biến của thị trường như qui định linh hoạt mức giá tham chiếu khi đưa vào niêm yết lần đầu phù hợp với thực tế thị trường, qui định biên độ giao động giá một cách linh hoạt cho giao dịch cổ phiếu. Tăng cường công tác quản lý giám sát, đảm bảo cho thị trường hoạt động công khai minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư UBCKNN chỉ đạo, giám sát việc tổ chức giao dịch, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của các Công ty chứng khoán, Công ty niêm yết và của các nhà đầu tư. Qua thực tế hoạt động của thị trường, UBCKNN đã rà soát và lấy ý kiến của các đơn vị liên quan như TTGDCK, Công ty chứng khoán, Công ty niêm yết và điều chỉnh, bổ sung các qui chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn hoạt động của thị trường . UBCKNN đã bước đầu kịp thời xem xét, nghiên cứu, đề xuất và phối hợp với các bộ, ngành có liên quan cùng giải quyết các vấn đề vướng mắc như kiến nghị về chính sách thuế, phí, phương thức phát hành trái phiếu, quản lý ngoại hối đối với nhà đầu tư nước ngoài. Để tạo thêm hàng hoá cho TTCK, UBCKNN đã làm việc với các bộ, ngành, tổng Công ty lớn, các địa phương về việc đưa cổ phiếu của các Công ty cổ phần vào niêm yết trên TTGD và phát hành trái phiếu của các dự án qua TTCK. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng như mở các lớp học miễn phí cho các đối tượng làm công tác tuyên truyền, báo chí và các lớp cho dân chúng tham gia. Nhằm mở rộng phạm vi TTCK phù hợp với nhu cầu và điều kiện hiện nay của Việt Nam, UBCKNN đã nghiên cứu, trình chính phủ và đang triển khai xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã hoàn thành cơ bản dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP và đề án định hướng phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2000 - 2010 và sẽ trình chính phủ trong tháng 3/2002. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của uỷ ban chứng khoán Nhà nước được tập trung chủ yếu vào vấn đề tuân thủ các quy định của pháp luật của các tổ chức tham gia thị trường. Qua thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót của công ty niêm yết như chưa thực hiện đẩy đủ cam kết trong bản cáo bạch, chưa thực hiện tốt công bố thông tin theo qui định của uỷ ban chứng khoán Nhà nước, và các thiếu sót của các công ty chứng khoán như một số nhân viên kinh doanh chứng khoán và tên nhân viên đại diện giao dịch tại sàn, và không đầy đủ nội dung theo qui định, đồng thời yêu cầu trung tâm giao dịch chứng khoán tăng cường giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán, kịp thời phát hiện những hành vi giao dịch không công bằng để có biện pháp xử lý thích hợp. Từ hoạt động của thị trường chứng khoán qua 2 năm như trên chúng ta thấy được bên cạnh những mặt được thì vẫn tồn tại những khó khăn. Nguyên nhân gây ra những khó khăn đó là: 1.1.2.2. Nguyên nhân của tồn tại khó khăn trên thị trường chứng khoán. Thứ nhất: Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một lĩnh vực mới, thực tiễn và kinh nghiệm quản lý, vận hành của uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán, các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và các tổ chức trung gian khác còn hạn chế, đây cũng là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với công chúng đầu tư. Thứ hai: Hệ thống các văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan còn thiếu, không đồng bộ, thậm chí còn mâu thuẫn cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Thứ ba: Môi trường kinh tế, phương thức quản trị kinh doanh cũng như thói quen dè dặt với cái mới làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán kém sôi động và hiệu quả. Thứ tư: Khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, doanh nghiệp chưa có chiến lược huy động vốn dài hạn qua thị trường chứng khoán. Thứ năm: Nhà nước đã có chính sách khuyến khích đối với các công ty tham gia niêm yết, các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư Nhà nước tham gia thị trường tuy nhiên chính sách này cũng cần tiếp tục nghiên cứu. 1.1.2.3. Phương hướng phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian tới. 1.1. Mục tiêu phát triển của thị trường. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến 2010 phải đạt được các mục tiêu cơ bản sau: Một là: Huy động vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển, đồng thời thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Hai là: ổn định và phát triển thị trường chứng khoán, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam. Ba là: Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường, bảo vệ người đầu tư hiệu quả, thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 1.2. Các giai đoạn phát triển. Mục tiêu tổng quát nói trên có thể xác dịnh hai giai đoạn phát triển trong thời kỳ 2002 - 2010 như sau: * Giai đoạn 1: Từ nay đến 2005. Mục tiêu chủ yếu là: - Từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán, đưa thị trường hoạt động ổn định công bằng, minh bạch và hiệu quả. - Hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thị trường chứng khoán tiến tới chuẩn bọ xây dựng luật chứng khoán. - Hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường bao gồm nâng cao năng lực kỹ thuật công nghệ, xây dựng các định chế trung gian tham gia thị trường. * Giai đoạn 2: Từ năm 2006 - 2010. Mục tiêu chủ yếu là: - Nâng cao chất lượng hoạt động và cung cấp các dịch vụ tài chính của thị trường. - Mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, tăng mạnh số lượng hàng hoá và các nhà đầu tư. - Khuyến khích cạnh tranh, tăng cường chất lượng quản trị công ty thúc đẩy hội nhập quốc tế. 1.3. Các giải pháp 1. Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán. Sửa đổi Nghị định 48/1998/NĐ-CP theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh, hệ thống và phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển thị trường. Nghiên cứu xây dựng luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Dự kiến trình quốc hội ban hành vào năm 2006. Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn nghị định 48 sửa đổi, hoàn chỉnh các văn bản quy định về thuế, phí, chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ quản lý ngoại hối đối với hoạt động thị trường. 2. Hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường. Nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK, tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Phấn đấu trong năm 2003 đưa TTGDCK Hà Nội cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hoạt động, năm 2004 hoàn thành dự án và đưa vào hoạt động hệ thống giao dịch hiện đại của TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Thực hiện các giải pháp "tăng cung - kích cầu" cho thị trường chứng khoán. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ qua TTGDCK để huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng, phát hành trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư cho nhu cầu đầu tư phát triển, tăng số lượng công ty niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Xây dựng và mở rộng hoạt động của các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường, nâng quy mô vốn, mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, phát triển các tổ chức đăng ký, chuyển nhượng chứng khoán, phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm, xây dựng trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập, khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, tăng cường vai trò vừa là trung gian tài chính, vừa là nhà đầu tư có tổ chức của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 4. Tăng cường quản lý, giám sát thị trường. Tăng cường quản lý giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. 5. Xúc tiến hình thành hiệp hội chứng khoán. Thành lập hiệp hội chứng khoán với sự tham gia của các công ty chứng khoán, hoạt động như một tổ chức tự quản nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển công ty chứng khoán và hoạt động lành mạnh của thị trường. 6. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hợp tác quốc tế trên các phương diện: tư vấn xây dựng các chính sách phát triển và quản lý thị trường, xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán, đào tạo đội ngũ cán bộ, từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán trên thế giới theo các lộ trình đã cam kết. Phối hợp với ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính triển khai dự án phát triển thị trường vốn trong khuôn khổ tài trợ của ADB và các tổ chức quốc tế khác. 7. Đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền phổ cập và nâng cao kiến chứng cho công chúng và các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin về quản lý và hoạt động thị trường chứng khoán thông qua ấn phẩm của uỷ ban chứng khoán Nhà nước như tạp chí chứng khoán, báo chứng khoán, trang thông tin điện tử và bản tin thị trường chứng khoán của các trung tâm giao dịch chứng khoán. 8. Củng cố và tăng cường bộ máy tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý vận hành thị trường. Sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao khả năng quản lý điều hành giám sát thị trường một cách linh hoạt, có hiệu quả, thực hiện cải cách hành chính của uỷ ban chứng khoán Nhà nước theo chương trình cải cách tổng thể năm 2010 của chính phủ. Kết luận Qua sự phân tích về thị trường chứng khoán ở 2 chương trên chúng ta không chỉ hiểu một cách sơ qua về thị trường chứng khoán (khái niệm, bản chất và thực trạng). Bởi vì sự hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như sự hiểu biết nên em không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của người đọc nhưng qua đó chúng ta hiểu được ý nghĩa sự ra đời của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của đất nước. Sự ra đời của thị trường chứng khoán là một trong mười sự kiện quan trọng nhất trong năm 2000 của nền kinh tế Việt Nam . Hai năm là một khoảng thời gian không dài nhưng cũng giúp chúng ta chứng kiến nhiều sự kiện thăng trầm trong từng bước phát triển thị trường và ghi nhận những nổ lực vượt bậc, sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý cũng như uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và các công ty chứng khoán trong việc điêù hành, xây dựng phát triển thị trường và tạo dựng một hình ảnh thị trường ổn định, có triển vọng phát triển vững chắc, có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn đã giúp đỡ em thực hiện đề án này. mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35400.doc