Sử dụng vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn là vấn đề cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta phải học hỏi nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước. Thực hiện chính sách “đi tắt đón đầu”, dùng những lợi thế của nước đi sau để rút kinh nghiệm, tránh những sai lầm, rút ngắn được những giai đoạn và thời gian phát triển. Điều này đòi hỏi những nhà hoạch định chính sách cần phải hiểu được tuần hoàn vốn và các biện pháp huy động sử dụng, quản lý vốn có hiệu quả. Bản thân các doanh nghiệp phải sử dụng vốn làm sao có hiệu quả cao nhất. Các giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Là một sinh viên kinh tế, một nhà kinh doanh trong tương lai thì vấn đề quản lý vốn và tuần hoàn vốn là hết sức cần thiết. Qua thực tiễn và những kiến thức đã học được cùng với quá trình nghiên cứu tham khảo tài liệu liên quan đến đề án này, giúp em hiểu rõ được bản chất của học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản, nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, huy động và sử dụng vốn hiệu quả. Đây là những kiến thức cần thiết tạo nên hành trang cho sinh viên chúng em vững tin bước vào hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và sôi động.
40 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 771 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, và đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải, ... song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển, phạm vi thị trường càng mở rộng thì càng làm trầm trọng thêm tính chất cạnh tranh vô chính phủ trong xã hội tư bản, khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng và quảng cáo phô trương hình thức gây ra. Mặt khác, đông đảo quần chúng lao động bị áp bức bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm sút nên sức mua ngày càng giảm sút.
Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của chủ nghĩa tư bản, do đó cả việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc cùng mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác minh rõ điều đó.
Tăng tốc độ chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của moị nền sản xuất. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do bản chất của nó, càng yêu cầu và có đầy đủ khả năng để thực hiện được tốt vấn đề đó. Để quản lý tốt nền kinh tế, phát huy hiệu quả cao của đồng vốn, miền Bắc nước ta cũng phải biết vận dụng những nguyên lý đó một cách sáng tạo và linh hoạt.
Chương II
Vận dụng của học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản vào thực tế và vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.
2.1 vận dụng thực tế của học thuyết
Trong thực tế, tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức:
T-H
SLĐ
TLSX
SX .
H’ – T’
2.1.1. ở giai đoạn thứ nhất, các doanh nghiệp xuất vốn ra để tư liệu sản xuất và sức lao động. Tuy nhiên, việc mua này không thể diễn ra một cách tuỳ tiện. Đối với các doanh nghiệp, mục tiêu của họ là tối đa hoá lợi nhuận, do vậy điều quan trọng là cần tối thiểu hoá chi phí sản xuất. Việc lựa chọn phương thức tối ưu trong khi mua tư liệu sản xuất và sức lao động là hết sức cần thiết.
2.1.2. Trong giai đoạn thứ hai, các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất, song không vì thế mà có thể đánh giá thấp vai trò của quản lý và sử dụng vốn. Sự hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn thể hiện ở hiệu quả sản xuất, ở chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, việc sử dụng có hiệu quả thể hiện ở việc rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, thời gian chu chuyển của tư bản được rút ngắn lại sẽ khiến cho vốn được quay vòng nhanh, tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mô sản xuất. Mặt khác, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình do các tác động khách quan sẽ được giảm bớt.
2.1.3. Trong giai đoạn thứ ba, doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông hay nói chính xác hơn là chú trọng vào tiêu thụ sản phẩm. Để rút ngắn thời gian tiêu thụ cần phải có các xúc tiến marketing hỗn hợp. Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trong giai đoạn này được thể hiện qua hiệu quả của các chiến lược marketing. Chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp làm tăng doanh thu, giảm chi phí lưu thông và đương nhiên lúc đó, hiệu quả của tư bản sẽ là cao nhất.
2.2. Vốn – vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.
Như đã trình bày ở trên, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một chìa khoá quan trọng cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên do có những hạn chế nhất định, đề án này chỉ nghiên cứu về vốn và việc quản lý và sử dụng vốn ở phương diện vĩ mô.
Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta hãy nhìn lại tình hình kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Với tham vọng mau chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển toàn diện tự chủ, trong đó công nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên tiến, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra chiến lược “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Như chúng ta đều biết, công nghiệp nặng là ngành đòi hỏi phải có một lượng tư bản ứng trước lớn, thời gian chu chuyển của các tư bản cố định rất dài, do đó hiệu quả của tư bản đương nhiên không cao và hiệu quả kinh tế thu được rất chậm. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, nền kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát gia tăng, vốn đầu tư hầu hết chỉ dựa vào ngân sách quốc gia. Với điều kiện nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu, đáng ra tư bản phải được đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển hay tốc độ chu nhanh, còn việc phát triển công nghiệp nặng chỉ có thể phát triển một cách có hiệu quả khi nền kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhất định, nguồn vốn lớn. Chính vì sai lầm này, mọi nguồn lực đều được sử dụng vô tội vạ, các nguồn vốn vay nước ngoài, các nguồn viện trợ đều được đổ vào công nghiệp nặng bất chấp hiệu quả, bất chấp quy luật cung cầu. Hậu quả là ngân sách nhà nước cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát tăng, hệ thống công nghiệp nặng đồ sộ không còn được nuôi dưỡng bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế.
Như vậy, có thể thấy rằng việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược kinh tế, từ đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan cũng như khách quan. Vì thế việc xác định chính sách công nghiệp hay chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá sao cho phù hợp là bước quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất.
2.3. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
a)Khái niệm : Vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế .Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp.Vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất và giá trị. Về phương diện vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, nhiên liệu,thành phẩm hàng tồn khovốn là nhân tố đầu vào đồng thời bản thân nó là kết quả đầu ra của kinh tế.Vốn luôn chuyển động và chuyển hoá hình thái vật chất, cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ.Vốn là tiền tệ là “trung gian” cần thiết để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Trong cơ chế thị trường, ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất, còn có loại vốn tồn tại dưới dạng tài sản có giá trị vô hình như: bằng phát minh,sáng chế, kinh nghiệm tay nghề,bí quyết. Xét trên diện rộng, người ta có thể coi tài nguyên lao động cũng là vốn.
Chính vì thế vốn là một nhân tố quan trong không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp. Bởi vì phải có vốn thì doanh nghiệp mới đảm bảo được sự vận hành thường xuyên và có khả năng tăng trưởng trong tương lai. Nói một cách khác vốn chính là một tất yếu khách quan của doanh nghiệp.Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát như sau:
Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện ở nhiều hình thái và tài sản vô hình, cũng như mọi kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp, trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ công nhân viên chức. Sự bảo tồn và tăng trưởng của vốn là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp.
b)Đặc điểm của vốn:
Vốn kinh doanh là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
- Vốn kinh doanh có giá trị và giá trị sử dụng.
- Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn vận đông không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn theo sơ đồ sau:
T-H
SLĐ
TLLĐ
SX .H’
..T’(T’>T)
ĐTLĐ
Sức lao động tiềm ẩn trong mỗi con người
c)Phân loại vốn kinh doanh.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta chia thành các loại vốn sau.
+ Vốn cố định
+ Vốn lưu động
Vốn cố định của doanh nghiệp
Khái niệm vốn cố định .
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu kì sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết hạn sử dụng.
Đặc điểm
Vốn cố định tham gia vào nhiều quá trính sản xuất kinh doanh
Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong quá trình sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất.
Sau nhiều chu kì sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển sau mỗi chu kỳ sản xuâts phần vốn đươc lưu chuyển vao giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần giảm xuống
cho tới khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị của nó dược chuyển dịch hết vao giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn lưu động của các doanh nghiệp
*Khái niệm
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động trong doanh nghiệp.
Tài sản lưu động có ba bộ phận :
TSLĐ lưu trữ.
TSLĐ trong sản xuất.
TSLĐ trong lưu thông.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp trong doanh nghiệp sản xuất là những vật tư dự trữ như nguyên vật liệuvà sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất.
TSLĐ trong lưu thông bao gồm: sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán,cac khoản chi phí chờ kết chuyển,chi phí trả trước
Đặc điểm:
- Khởi đàu vòng tuần hoàn vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vạt tư, hang hoá dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất vật tư hàng hoá trở thành bán thành phẩm và thành phẩm kết thúc vòng tuần hoàn khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ ban đầu nhưng với một lương lớn hơn (T’ > T).
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục lên cùng một thời điểm vốn lưu động thường tồn tại dưới tất cả các hình thái khác nhau trong các giai đoạn dự trữ sản xuất lưu thông của quá trình sản xuất .
Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất .
2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Xuất phát từ vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Một doanh nghiệp với bát kỳ quy mô nào cần phải có mmột lượng vốn tiền tệ nhất định và việc huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa vô cùng qúa trình quan trọng để các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và chớp được cơ hội kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển cạnh tranh gay gắt. Do đó để tồn tại và phát triển trong cơ chế này tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường ,đổi mới máy móc thiết bị , cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm , nâng cao chất lượng sản phẩm và giá thành hợp lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá ,mang lai lợi nhuận cao. Muốn vậy doanh nghiệp phải có vốn .Vốn trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp cho qúa trình sản xuất kinh doanh phát triển nghành nghề mới.
*Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cung ứng sản phẩm lao động, dịch vụ cho xã hội nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất . Để đạt được mục đích đó các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức ,phải thực hiện đồng bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó vấn đè nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong cơ chế bao cấp các doanh nghiệp nhà nước coi nguồn vốn cấp phats từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc “cho không” nên tìm mọi cách để xin được nguồn vốn ,vì tiền không phải “mua” mà được cấp phát nên khi sử dụng nguồn vốn, doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả kinh doanh. Vì nếu thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp trang trải mọi thiếu hụt. Sự ỷ lại vào nhà nước, không quan tâm đến hiệu qủa sử dụng vốn là căn bệnh phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường hiện nay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường các khoản bao cấp về vốn không còn nữa. Cùng với việc chuyển giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà nước còn giao quyền tự chủ tài chính. Với quyền này các doanh nghiệp phải đảm bảo vốn sau khi trang trải mọi chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi và có hiệu quả. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý đồng vốn một cách có hiệu quả hơn, mặt khác việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn khác trước là do các doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi trượt giá và phải đầu tư mở rộng phát triển quy mô sản xuất kinh doanh.
Như vậy thế nào là sử dụng vốn có hiệu quả? Theo cách hiểu đơn giản nhất nghĩa là với một lượng vốn nhất định bỏ vào sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất làm cho đồng vốn sinh sôi nảy nở. Nừu các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đều phấn chấn đạt hiệu quả vốn kinh doanh sẽ góp phần đẩy GDP của nền kinh tế tăng lên, nền kinh tế có điều kiện phát triển ổn định, vững chắc tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh và ngược lại.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương III
Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nếu so với các nước công nghiệp phát triển, nước ta đã tụt hậu tới cả trăm năm về trình độ, công nghệ. So với các nước trong khu vực, nước ta đã tụt hậu tới vài chục năm. Trong thời đại hiện nay, khi mà những thành tựu về khoa học công nghệ là một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tụt hậu về kinh tế. Đại hội 8 đã chỉ rõ: “Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần và đã thực hiện hàng loạt các chính sách mà trong đó vấn đề quan trọng nhất là vốn đầu tư, vì vốn là một tiền đề cơ bản cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.1. Nhu cầu về vốn
Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu về vốn thường hết sức căng thẳng. ậ nước ta, để đạt được tăng trưởng 9 – 10% từ năm 1997 – 2000 như đại hội 8 của Đảng đã đề ra, thì chúng ta đã phải nâng dần tỉ lệ đầu tư toàn xã hội (so với GDP) lên tới 30% vào đầu năm nay, tức là nhu cầu về vốn trong giai đoạn 1996 – 2000 phải cần 41 – 42 tỉ USD (theo mặt bằng giá năm 1995). Trong tổng nhu cầu vốn nói trên, 50% huy động được từ các nguồn lực trong nước, số còn lại đã được huy động từ bên ngoài dưới các hình thức khác nhau. Vốn trong nước đã được huy động theo 4 nguồn chủ yếu sau:
- Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ 1996 – 2000, số vốn huy động được từ nguồn vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước đạt 6,2% GDP và bằng 21% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
- Vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước đạt 17,6% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó huy động từ dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và thu hồi nợ cũ chiếm 7%, vốn huy động từ nước ngoài cho vay lại chiếm 9,6%.
- Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước chiếm 15% tổng vốn đầu tư xã hội.
- Vốn đầu tư phát triển của dân cư chiếm 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 1996 – 2000.
Tuy nhiên, nếu tính riêng cơ cấu vốn đầu tư phát triển trong nước thì vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 25%, vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chiếm 14%, vốn đầu tư của doanh nghiệp chiếm 28% và vốn của dân cư chiếm 33%.
Một nguồn đầu tư phát triển rất quan trọng khác đã được huy động rất hiệu quả, đó là các nguồn vốn nước ngoài. Trong đó, tập trung vào đầu tư trực tiếp nước ngoài (F.D.I), vay O.D.A và các hình thức vay nợ với lãi suất ưu đãi khác. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn này, nguồn vốn F.D.I chiếm 31% và vốn O.D.A chiếm 17%. Tuy nhiên, để huy động được nguồn vốn với cơ cấu như trên không phải là đơn giản.
3.2. Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ở Việt Nam những năm gần đây.
Thực trạng quản lý vốn :
Bước vào thiên niên kỷ mới, nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc huy động tương đối đầy đủ các nguồn lực cho đầu tư; cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư, coi trọng nguồn vốn của dân cư và tư nhân; chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, điều chỉnh cơ cấu giữa các ngành, vùng, bước đầu đã hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và cộng đồng quốc tế.
Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (O.D.A) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (F.D.I). Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Kết quả là đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, nhiều khu công nghiệp, nhiều khu chế xuất, các ngành công nghiệp then chốt của đất nước, hạ tầng giao thông vận tảiHạ tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế.
Trong 5 năm 1996 – 2000 tổng vốn đầu tư phát triển ước thực hiện khoảng 397 nghìn tỷ đồng gấp 1,74 lần thực hiện thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,4%, trong đó vốn ngân sách nhà nước tăng bình quân 6,4%, vốn tín dụng đầu tư tăng 42%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tăng 20,2%, vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 1,4%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài duy trì ở mức độ khoảng trên 2 tỷ USD một năm
Trong 2 năm 2001 – 2002, tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế đã thực hiện gần 350 nghìn tỷ đồng, hàng năm huy động gần 34% GDP cho đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm 19,2%, trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 22,3%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 12,9%, vốn doanh nghiệp nhà nước chiếm 16,6%, vốn đầu tư của dân và tư nhân chiếm 24,2%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 19% tổng vốn đầu tư xã hội.
Nhà nước điều hành trực tiếp và chủ động bố trí cơ cấu đầu tư theo kế hoạch nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22% trong tổng vốn đầu tư của xã hội. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 29%. Cả 3 nguồn vốn này chiếm khoảng 52% tổng nguồn. Các nguồn vốn khác điều hành gián tiếp qua cơ chế, chính sách.
Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP năm 2000 đạt 29,1% tăng lên 33,7% năm 2001. Do huy động được nguồn vốn khá, bố trí đầu tư hợp lý hơn nên nhiều công trình đã hoàn thành, được bàn giao đưa vào sử dụng; năng lực của hầu hết các ngành sản xuất dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội được nâng lên rõ rệt.
Thực trạng quản lý vốn và tài sản đối với các doanh nghiệp nhà nước :
Quy mô và hiệu quả kinh doanh: tính đến nay, cả nước hiện có 5.700 doanh nghiệp Nhà nước (trong đó 1.802 doanh nghiệp TW, 3.898 doanh nghiệp địa phương) so với năm 1990 (12.300). Số lượng doanh nghiệp giảm như trên là do việc thực hiện sắp xếp lại theo chủ trương của Nhà nước như: Cổ phần hoá, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quản lý, sát nhập, giải thể. Tính đến năm 1999, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá là 366 doanh nghiệp; 4 doanh nghiệp được bán và một số doanh nghiệp được sát nhập, giải thể. Đến nay đã có 17 công ty 91 và gần 80 tổng công ty 90 với 1.300 doanh nghiệp thành viên. Các công ty Nhà nước nắm giữ 65,5% tổng số vốn Nhà nước doanh nghiệp. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: lợi nhuận của doanh nghiệp những năm 96 – 99 tăng chưa tương xứng với sự quan tâm và ưu đãi của nhà nước về vốn thị trường tỷ suất lợi nhuận trên vốn từ 96 – 99 không tăng.
Về tài sản cố định và vốn kinh doanh của doanh nghiệp: tính đến nay tài sản cố định của các doanh nghiệp ước là 156.000 tỷ đồng, so với năm 96 tăng 53%, vốn kinh doanh ước là 112.000 tỷ đồng, so với năm 98 tăng 4,6% trong đó bổ sung từ: quỹ đầu tư phát triển 31.000 tỷ đồng bằng 27% tổng số vốn Nhà nước. Trong tổng số vốn hiện có của các doanh nghiệp, vốn đầu tư vào tài sản cố định khoảng 90.000 tỷ đồng. Vốn dùng cho đầu tư tài sản theo cơ chế hiện hành chủ yếu doanh nghiệp phải tự huy động bằng vốn tín dụng của ngân hàng, nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Đặc biệt một số doanh nghiệp vay vốn của các tổ chức tín dụng quốc tế. Tình trạng vật tư ứ đọng kém phẩm chất ngày càng lớn. Năm 98 giá trị tài sản của doanh nghiệp Nhà nước (không bao gồm doanh nghiệp ngân hàng) là 354.000 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chỉ là 109.000 tỷ đồng. Do vậy các doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng, chiếm dụng vốn lẫn nhau hoặc nợ ngân sách số phải nộp Số nợ phải trả của doanh nghiệp Nhà nước thường cao hơn số vốn Nhà nước từ 13 – 16%. Nhiều doanh nghiệp có số nợ lớn như tổng công ty điện lực, tổng công ty bưu chính viễn thông, tổng công ty mía đường, tổng công ty dệt may, tổng công ty than Đến nay ước số nợ vay đầu tư phải trả 885 tỷ đồng nhưng nguồn để trả chỉ có 702 tỷ đồng, số phải thu của các doanh nghiệp chiếm hơn 50% số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Các tổng công ty việc quản lý vốn và tài sản chưa tốt, việc điều hành, quản lý giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên còn lúng túng. Hiện nay đối với toàn bộ vốn và tài sản giao cho các tổng công ty, các tổng công ty có quyền sử dụng để phục vụ sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Nhưng trong những năm qua một số doanh nghiệp có công nghệ hiện đại nhưng chi phí đầu tư cao, trình độ quản lý còn thấp kém do đó hiệu quả các công trình đầu tư còn thấp, số vốn không phát huy được sử dụng còn nhiều, vật tư ứ đọng kém phát triển còn nhiều, tài sản không sử dụng ngày một tăng. Việc thành lập một số tổng công ty chủ yếu gồm các đơn vị liên kết theo chiều ngang mà chưa tổ chức lại một cách tổng thể theo cơ cấu phù hợp với mô hình Tổng công ty, chưa chuẩn bị các điều kiện tối thiểu cần thiết để tổng công ty hoạt động nên sau khi thành lập theo Quyết định hành chính theo kiểu gom đầu mối, nhiều tổng công ty đã lúng túng trong điều hành giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên. Các tổng công ty chưa thực sự là một tổng thể kinh tế thống nhất và phát huy được sức mạnh tổng hợp. Chưa khắc phục được tình trạng hoạt động rời rạc của các doanh nghiệp thành viên bằng các cơ chế, tổ chức điều hành. Sự liên kết, gắn bó về lợi ích và thị trường giữa Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên còn rất lỏng lẻo.
Quy mô về vốn :
Vốn ban đầu của doanh nghiệp ở nông thôn rất thấp so với thành thị năm 1992 ở nông thôn vốn sản xuất bình quân của kinh tế hộ gia đình là 1010 USD, của doanh nghiệp tư nhân là 2500 USD; ở thành thị tương ứng là 4200 USD và 15140. Có sự khác nhau rất lớn về quy mô ban đầu giữa các tỉnh và giữa các doanh nghiệp trong cùng một tỉnh. Tỉnh có mức cao nhất và tỉnh có mức thấp nhất chênh lệch đến gần 4 lần. Tín dụng của khu vực Nhà nước hầu như có vai trò trong việc đào tạo vốn ban đầu cho các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn, 60% doanh nghiệp dựa vào vốn tự có và vốn vay không có lãi của bạn bè, người thân; khoảng 15% kinh tế hộ gia đình và 29% doanh nghiệp tư nhân có tạo thêm vốn từ các nguồn vốn không chính thức. Thực tế cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn bởi quy mô vốn, những doanh nghiệp vốn quá nhỏ dưới 100 triệu đồng thường hoạt động kém hiệu quả, ngược lại vốn càng lớn thì doanh nghiệp làm ăn càng có các giải pháp hỗ trợ vốn, để các doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu.
Hơn nữa, hầu hết các máy móc thiết bị và quy trình công nghệ trong các doanh nghiệp sử dụng trong qúa trình sản xuất đều đã cũ, hao mòn lạc hậu so với thời đại, nó đã được sử dụng trong suốt thời kỳ bao cấp và cho đến nay. Do đó để có thể cạnh tranh trên thị trường thì buộc các doanh nghiệp phải đầu tư máy móc thiết bị và quy trình công nghệ mới vì thế tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp hiện nay là phổ biến. Nừu không vay vốn ngắn hạn để đầu tư thì bỏ lỡ cơ hội, hướng nào doanh nghiệp cũng găp rủi ro.
Hiện nạy nhà nước đã có nhiêu biện pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng nguồn vốn Ngân hàng đủ đáp ứng được khoang 30% nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Tuy vậy, rất hiếm các trường hợp doanh nghiệp Việt Nam vay được vốn Ngân hàng nguyên nhân chủ yếu là do lao động cho thủ tục vay vốn phức tạp khó khăn. Mặt khác các Ngân hàng thường ngại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, đặc biẹt đối với những khoản tín dụng trung và dài hạn, do đó doanh nghiệp không đủ tài sản để thế chấp, thiếu năng lực trong việc lập phương án kinh doanh khả thi, chưa có đủ uy tín trên thương trường.
Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế :
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành kinh tế đã dịch chuyển theo hướng ưu tiên cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạ tầng cơ sở và lĩnh vực xã hội.
Thời kỳ 1996 – 2000, vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là 30,2%, các ngành công nghiệp là 11%, cho hạ tầng giao thông vận tải và bưu chính viễn thông là 13,5%, cho lĩnh vực khoa học công nghệ, điều tra cơ bản môi trường là 15,8%, cho giáo dục đào tạo là 16,8%, cho ngành kinh tế xã hội là 25,2% và ngành văn hoá thông tin, thể thao là 6,4%.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo vùng kinh tế :
Cơ cấu thực hiện vốn đầu tư phát triển theo vùng kinh tế những năm qua như sau:
Thời kỳ 1996 – 2000 vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước chiếm 53,5% vốn đầu tư phát triển, các tỉnh miền núi phía Bắc chiếm 7,6%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 14,8%. Các tỷ lệ này tương ứng với năm 2001 là 52,75%; 7,79%; 14,9% và năm 2002 là 51,74%; 8,02%; 15,13%.
Thực hiện việc thanh quyết toán vốn trong thời gian qua :
Hiện nay tình trạng chậm thanh, quyết toán vốn đầu tư đặc biệt cho đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phổ biến và chưa có xu hướng dừng lại. Theo điều 56 củanghị định 52/CP thì :
- Tất cả các dự án đầu tue của cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào khai thcá sử dụng đều phải thực hiện việc toán vốn đầu tư.
- Chậm nhất là 6 tháng sau khi hoàn thành đưa vào vận hành, chủ đầu tư phải hoàn thành quyết toán vốn đầu tư.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình hình quyết toán vốn đầu tư rất trì trệ, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng, khấu hao gần hết vẫn chưa hoàn thành quyết toán vốn đầu tư.
Chỉ tiêu đánh giá
1994–1999
2000
2001
Tổng số các dự án hoàn thành
43.196
8.169
11.840
Chia ra :
1. Số dự án đã duyệt quyết toán
37.172
6.024
4.236
% so với tổng số
86%
73,7%
35,8%
2. Số dự án chưa duyệt quyết toán
6.024
2.145
7.604
% so với tổng số
14%
26,3%
64,2%
Tổng số dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán vốn đầu tư từ tháng 5 năm 1994 đến hết tháng 12 năm 1999 là 37.172 với tổng số vốn đầu tư đã được quyết toán: 47.598 tỷ đồng trong đó :
- Dự án do trung ương quản lý : 17.258 dự án, vốn đầu tư 29.993 tỷ đồng.
- Dự án do điạ phương quản lý : 19.914 dự án, vốn đầu tư 17.604 tỷ đồng.
Tổng số dự án hoàn thành từ tháng 10 năm 1994 đến tháng 12 năm 1999 chưa được phê duyệt quyết tóan vốn đầu tư là 6.024 dự án với tổng số vốn đầu tư khoảng 22.997 tỷ đồng, trong đó :
- Dự án do trung ương quản lý : 2.386 dự án, vốn đầu tư 19.495 tỷ đồng.
- Dự án do điạ phương quản lý : 3.638 dự án, vốn đầu tư 3.502 tỷ đồng.
Hiện nay tình trạng chậm thanh, quyết toán vốn đầu tư đặc biệt cho đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phổ biến và chưa có xu hướng dừng lại. Theo điều 56 củanghị định 52/CP thì :
- Tất cả các dự án đầu tue của cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào khai thcá sử dụng đều phải thực hiện việc toán vốn đầu tư.
- Chậm nhất là 6 tháng sau khi hoàn thành đưa vào vận hành, chủ đầu tư phải hoàn thành quyết toán vốn đầu tư.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình hình quyết toán vốn đầu tư rất trì trệ, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng, khấu hao gần hết vẫn chưa hoàn thành quyết toán vốn đầu tư.
Chỉ tiêu đánh giá
1994–1999
2000
2001
Tổng số các dự án hoàn thành
43.196
8.169
11.840
Chia ra :
1. Số dự án đã duyệt quyết toán
37.172
6.024
4.236
% so với tổng số
86%
73,7%
35,8%
2. Số dự án chưa duyệt quyết toán
6.024
2.145
7.604
% so với tổng số
14%
26,3%
64,2%
Tổng số dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán vốn đầu tư từ tháng 5 năm 1994 đến hết tháng 12 năm 1999 là 37.172 với tổng số vốn đầu tư đã được quyết toán: 47.598 tỷ đồng trong đó :
- Dự án do trung ương quản lý : 17.258 dự án, vốn đầu tư 29.993 tỷ đồng.
- Dự án do điạ phương quản lý : 19.914 dự án, vốn đầu tư 17.604 tỷ đồng.
Tổng số dự án hoàn thành từ tháng 10 năm 1994 đến tháng 12 năm 1999 chưa được phê duyệt quyết tóan vốn đầu tư là 6.024 dự án với tổng số vốn đầu tư khoảng 22.997 tỷ đồng, trong đó :
- Dự án do trung ương quản lý : 2.386 dự án, vốn đầu tư 19.495 tỷ đồng.
- Dự án do điạ phương quản lý : 3.638 dự án, vốn đầu tư 3.502 tỷ đồng.ư
3.3. Một số tồn tại và yếu kém
1. Lãng phí và thất thoát trong đầu tư xây dựng, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vao công trình thấp.
2. Đầu tư chưa theo quy hoạch, chất lượng quy hoạch chưa cao; chất lượng các báo cáo nghiên cứu khả thi còn hạn chế; chất lượng phân tích ,thẩm định và đánh giá dự án không theo các chuẩn mực và tiêu chí rõ ràng.
3.Đầu tư chưa đúng mục tiêu phát triển ;cơ câú đầu tư chưa hợp lý , chưa tạo điều kiện để tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng cạnh tranh..
4. Đầu tư quá phân tán,dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài.
5. Chất lượng xây dựng công trình thấp.
6. Không cân đối giữa vốn đầu tư và vốn dự phòng thường xuyên.
7. Khả năng nguồn vốn còn hạn hẹp, chưa đủ sưc cơ cấu lại nền kinh tế .
8. Khong kịp thời nắm được các vấn đề phát sinh khi triển khai thực hiện dự án.
9. quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà.
10. Vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư chư rõ ràng. Trình độ, năng lực của chủ đầu tư , chủ dự án còn nhiều bất cập.
11. Chưa coa các quy định chặt chẽ về các chế tài trong phân cấp quản lý vốn.
12. Tồn tại trong công tác quyết toán vốn đầu tư.
3.4. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc tổ chức và quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Tổ chức, quản lý, huy động và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, có tổ chức đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn thì qúa trình sản xuất kinh doanh mới diễn ra liên tục và thuận lợi. Ngược lại nếu quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh hiệu quả thì việc tổ chức, cung ứng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mới diễn ra dễ dàng. Do đó việc tổ chức huy động và quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp.
Tổ chức huy động vốn kinh doanh được là việc đi tìm nguồn vốn và tri thức, phương thức để khai thác triệt để vốn phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy ảnh hưởng tới việc huy động và quản lý sử dụng vốn bao gồm các nhân tố sau:
- Nguồn vốn huy động: vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau song căn cứ vào phạm vi huy động vốn có thể chia nguồn vốn kinh doanh thành hai loại:
+ Nguồn vốn bên trong có lợi thế rất lớn là doanh nghiệp có quyền chủ động sử dụng một cách linh hoạt mà không phải chịu chi phí sử dụng vốn. Vì vậy nếu doanh nghiệp tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn này sẽ vừa cung ứng được một lượng vốn cho sản xuất kinh doanh lại vừa giảm bớt được một khoản chi phí sử dụng vốn hiện có.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngoài nguồn vốn chủ sở hữu vốn này cũng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp.
Tuy nhiên việc cân nhắc có lựa chọn hình thức thu hút vốn tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác tổ chức vốn.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp :
Trong qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn kinh doanh luân chuyển liên tục không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. Tại cùng thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong qúa trình vận động nó chịu tác động của nhiều nhân tố:
+ Do những rủi ro bất thường trong qúa trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải. Trong điều kiện kinh doanh trong cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động, cùng cạnh tranh, khi thị trường tiêu thụ không ổn định, sức mua của thị trường biến động và nhìn chung là có giới hạn thì khả năng rủi ro cho doanh nghiệp cao. Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt mà doanh nghiệp không lường trước được.
+ Do tác động của nền kinh tế lạm phát và thiểu phát, giá trị thị trường thường xuyên biến đổi, sức mua của đồng tiền bị giảm sút dần dần dẫn đến sự tăng giá của các loại vật tư, hàng hoá. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó sẽ làm cho vốn kinh doanh bị mất dần theo góc độ trượt giá của tiền tệ. Khi lạm phát xảy ra thì nền kinh tế dường như bị ngưng đọng bế tắc.
Ngoài những nhân tố trên còn có rất nhiều nhân tố chủ quan do chính doanh nghiệp tạo nên làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp như:
+ Do xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn.
+ Việc lựa chọn phương án đầu tư là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Do cơ cấu vốn kinh doanh đầu tư chưa hợp lý cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
+ Do việc sử dụng lãng phí vốn lưu động, trong qúa trình mua sắm dự trữ như mua các loại vật tư không phù hợp với qúa trình sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kĩ thuật quy cách.
+ Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ trong nhiều chu kỳ liên tiếp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác tổ chức quản lý sử dụng vốn kd của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng thận trọng từng nhân tố để hạn chế một cách tối đa những hậu quả xấu có thể xảy ra, đảm bảo cho việc tổ chức huy động đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh đồng thời làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn không ngừng tăng lên.
3.5. Các giải pháp huy động vốn
Trong việc tìm kiếm các giải pháp huy động vốn cho giai đoạn 1996 – 2000, Đảng và nhà nước ta đã coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Trong giai đoạn 1996 – 2000 và những năm tiếp theo đây, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở nước ta đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, mà khả năng đáp ứng của ngân sách thì có hạn, do vậy vấn đề đặt ra là phải xác định phương hướng và hệ thống giải pháp cho huy động vốn.
Thực tế cho thấy việc đầu tư phát triển vốn ở nước ta thời gian vừa qua còn một số hạn chế và tồn tại cần khắc phục, đó là các hình thức và công cụ huy động vốn còn nghèo nàn, đơn giản, không có tính hấp dẫn đối với người đầu tư, chính sách lãi suất còn nhiều bất cập đối với cơ chế thị trường, gây khó khăn cho việc huy động vốn, hệ thống pháp lý bảo vệ an toàn về vốn và tài sản cho đối tượng vay và cho vay đối tượng không đồng bộ và đầy đủ gây nên các tiêu cực trong nền kinh tế như tham nhũng, lãng phí và thất thoát vốn trong toàn bộ nền kinh tế. Nhà nước cần phải có chính sách huy động vốn chung trong nền kinh tế, cùng với nó là các giải pháp huy động cụ thể đối với từng loại nguồn vốn. Đặc biệt là các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển một số lĩnh vực kinh tế – xã hội mang ý nghĩa quan trọng:
Một là, đối với nguồn vốn từ ngân sách quốc gia. Cần tiếp tục cải cách thuế giai đoạn II, nhanh chóng đưa vào cuộc sống các loại thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân. Việc cải cách thuế sẽ giúp đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, nó thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh việc hoàn thiện các sắc thuế vẫn phải hoàn thiện cơ chế quản lý thu thuế, đặc biệt công tác chống thất thu thuế, chống buôn lậu, chống làm hàng giả trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành dưới sự chỉ đạo thường xuyên, tích cực và sáng tạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền. Tập trung kịp thời các nguồn thu vào ngân sách nhà nước hàng năm do Quốc hội phê duyệt, góp phần giải quyết các yêu cầu chi của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ. Việc tăng thu ngân sách nhà nước là để tạo nguồn tăng chi cho đầu tư phát triển. Phấn đấu thực hiện tiết kiệm triệt để các khoản chi tiêu chưa thực sự bức bách (như mua sắm trang thiết bị văn phòng hiện đại, chi hội nghị, hội thảo, chi xây dựng trụ sở, mua ô tô) để tập trung tạo vốn cho đầu tư phát triển, nhất là sự nghiệp đầu tư giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của Đảng. Tuy nhiên để có thể tăng tỷ lệ chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển trong thời gian tới, cần đổi mới mạnh cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng dành một tỷ trọng cao hơn của chi cho ngân sách nhà nước cho mục tiêu đầu tư phát triển (khắc phục tình trạng nặng chi cho tiêu dùng như hiện nay). Ngoài việc tập trung các khoản chi cho các công trình xây dựng có trọng tâm, trọng điểm theo chương trình chỉ tiêu công cộng của nhà nước cần dành một tỷ lệ chi nhất định hỗ trợ chi cho các doanh nghiệp nhà nước để nuôi dưỡng các nguồn thu của ngân sách nhà nước, nhằm nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế.
Hai là, đối với việc thu hút nguồn vốn thông qua hoạt động tín dụng ưu đãi của nhà nước. Cần tăng cường huy động vốn đầu tư cho ngân sách nhà nước bằng việc đẩy mạnh công tác phát hành các loại trái phiếu của chính phủ, nhất là các loại trái phiếu trung và dài hạn. Tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn vay nước ngoài với lãi suất ưu đãi để thực hiện việc cho vay lại của nhà nước cho đầu tư phát triển. Nâng cao sức mạnh tài chính của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia trong việc khuyến khích cho vay phát triển kinh tế, đồng thời lấy quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là cơ sở để thu hút thêm một lượng vốn bổ sung trong xã hội cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, việc thu hút vốn vay ưu đãi của nước ngoài cũng cần chú trọng hơn đến chất lượng của công tác lập dự án đầu tư nhằm xây dựng một danh mục dự án có tính khả thi cao đủ sức hấp dẫn các chủ đầu tư nước ngoài.
Ba là, đối với việc huy động vốn từ khu vực doanh nghiệp, cần thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó tạo ra cơ sở tăng tích luỹ cho mở rộng sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và có điều kiện hướng ra thị trường thế giới trước hết là thị trường ASEAN. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn của các doanh nghiệp như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, liên doanh, liên kết. Xúc tiến mạnh cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước, coi đó là một trong những giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Thực hiện việc để lại khấu hao cơ bản cho các doanh nghiệp nhà nước để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trên cơ sở kết hợp với việc sử dụng các công cụ thuế, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư. Mặt khác, trong điều kiện tích luỹ của doanh nghiệp còn hạn chế, cần cho phép cac doanh nghiệp vay ngân hàng thương mại với lãi suất có thể chấp nhận được để đầu tư cho các công trình sản xuất mới có công nghệ cao hơn, thật sự cần thiết cho doanh nghiệp trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Bốn là, đối với việc huy động nguồn vốn trong xã hội, trong các tầng lớp dân cư. Cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, nhất là môi trường pháp lý bảo đảm được an toàn về tài sản cho các đối tượng vay và cho vay, xác định rõ nhiệm vụ vay và trả nợ. Đặc biệt là luật pháp hoá sự đóng góp công sức của nhân dân vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trên cơ sở ban hành những pháp lệnh về lao động công ích. Đồng thời cần có cơ chế, chính sách và luật pháp khuyến khích các tầng lớp nhân dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, làm giàu chính đáng, tạo việc làm là nâng cao thu nhập, góp phần cải thiện đời sống vật chất. Tạo ra một môi trường giao lưu vốn trong nền kinh tế trên cơ sở phát triển mạnh thị trường vốn. Coi trọng việc xây dựng hệ thống các trung gian tài chính với chức năng mua và bán vốn, trong đó có các quỹ đầu tư như quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị (được hình thành trên cơ sở có đóng góp của ngân sách nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, của các tầng lớp dân cư, các nguồn viện trợ nước ngoài), quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (được thành lập trên cơ sở đóng góp bằng hiện vật như thóc, vật liệu xây dựng, bằng tiền, bằng ngày công của nhân dân trong địa bàn), quỹ đầu tư phát triển giao thông, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở sự đóng góp của ngân sách nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, của nhân dân địa phương (chủ yếu là cho ngày công lao động) và một phần viện trợ của nước ngoài. Việc thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả các quỹ nói trên sẽ góp một phần quan trọng vào việc cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng ở các khu vực trong cả nước, cải thiện môi trường giao lưu hàng hoá dịch vụ tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3.6. Các biện pháp nhằm sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm vốn trong kinh doanh:
* Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh:
Để cung cấp đầy đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm cho đồng vốn sinh sôi nảy nở, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: xác định chính xác hợp lý nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh cuẩ các doanh nghiệp, hạn chế tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc phải vay với lãi suất cao. Và cũng tránh để thừa vốn, không phát huy được hiệu quả cho doanh nghiệp.
Thứ hai: lựa chọn các hình thức thu hồi vốn tích cực. Tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp vừa đáp ứng vốn kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách chủ động vừa giảm được một nguồn chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp tránh gây lãng phí vốn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba: tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong việc sử dụng vốn và quản lý vốn, thực hiện biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường côgn tác kiểm tra tài chính, theo dõi việc sử dụng vốn kinh doanh ở tất cả các khâu từ dự trữ đến tiêu thụ sản phẩm.
* Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định:
- Trước khi quyết định đầu tư tài sản cố định, doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng từ nguồn vốn tài trợ, quy trình công nghệ để đảm bảo cho chi phí sử dụng là thấp nhất, máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại nhất, kết cấu tài sản cố định đầu tư hợp lý nhất.
- Có được thiết bị, kết cấu hợp lý phải có chế độ duy trì bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ để duy trì được năng lực sản xuất của máy móc nâng cao hiệu quả sử dụng. Thực hiện trích khấu hao theo đúng quy định hiện hành.
- Phải đánh giá đúng giá trị của tài sản cố định tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định. Đánh giá lại tài sản cố định có ba phương pháp:
+ Đánh giá theo nguyên thuỷ.
+ Đánh giá theo giá trị còn lại.
+ Đánh giá theo giá trị khôi phục.
- Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa các rủi ro trong kinh doanh như: mua bảo hiểm tài sản, lập quỹ dự phòng tài chính.
* Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
- Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh tránh để tình trạng vật tư hàng hoá kém chất lượng
- Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm: Cần có sự phối hợp ở tất cả các khâu từ khâu cung ứng nguyên liệu đến khâu hoàn thành sản phẩm, cố gắng tối đa tiết kiệm chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó cần làm tốt công tác thanh toán công nợ, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, mở sổ sách theo dõi khách hàng theo từng lần mua chịu, kí kết hợp đồng chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm về mặt pháp lý của những người mua chịu đề phòng rủi ro trong kinh doanh làm thất thoát vốn tạo lập các quỹ dự phòng tài chính để có nguồn vốn bù đắp khi bị thiếu hụt.
- Vốn bằng tiền cần xác định nhu cầu tồn quỹ tối thiểu, dự đoán và quản lý các nguồn xuất nhập quỹ.
Trên đây là một số biện pháp nhằm đẩy mạnh việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Trên thực tế do mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc điểm riêng, vì vậy mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào những biện pháp chung để đưa ra cho mình những phương hướng biện pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
3.7. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư:
Một trong những khâu rất quan trọng gắn liền với việc tích luỹ vốn đầu tư là việc phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Việc này tập trung vào một số yếu sau:
Đối với việc phân bồ các nguồn vốn và việc nâng cao sử dụng vốn trong nền kinh tế. Trước đây trong cơ chế cũ việc phân bổ các nguồn vốn được thực hiện theo kế hoạch và các biện pháp mệnh lệnh hành chính. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, cơ chế phân bổ nguồn vốn đã có thay đổi. Đã xuất hiện nhiều công cụ phân bổ vốn có hiệu quả và phù hợp với cơ chế mới, góp phần tạo ra môi trường giao lưu khá thông thoáng. Đó là hình thức liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần để thành lập công ty mới, phát hành cổ phiếu trái phiếu tạo ra môi trường cho người có vốn có thêm cơ hội để lựa chọn hình thức đầu tư. Tuy nhiên cơ chế phân bổ vốn hiện nay trong nền kinh tế còn có hạn chế nhất định. Đó là vấn đề lãi suất và môi trường phân bổ vốn chưa thật sự phù hợp với cơ chế thị trường.
Về vấn đề lãi suất: Trong thời gian qua, chúng ta đã từng bước đổi mới cơ chế và chính sách lãi suất góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, chính sách lãi suất của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Thời gian qua trên thị trường nước ta có tình trạng đọng vốn ở các ngân hàng thương mại, trong khi đó các doanh nghiệp thì lại không có vốn. Về lâu dài nên tạo môi trường để lãi suất được hình thành theo cơ chế của thị trường. Trước mắt, các ngân hàng thương mại cần đẩy mạnh cải tiến công nghệ, kỹ thuật, dịch vụ gắn liền với việc giảm chi phí quản lý để tạo điều kiện giảm lãi suất đến mức hợp lý nhất, nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần thúc đẩy hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước.
Về các công cụ phân bổ nguồn vốn. Lâu nay ở nước ta các hệ thống ngân hàng là một công cụ gián tiếp duy nhất thực hiện việc phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế. Do đó, việc phân bổ còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội ở trong nước. Tuy nhiên từ khi thực hiện chủ trương mới đến nay, đã xuất hiện công cụ phân bổ vốn trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng, đó là các loại chứng khoán. Chính vì thế sự ra đời của các trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh với phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 29/7/2000 là sự tất yếu của sự phát triển và sẽ tạo ra một môi trường và hệ thống các công cụ đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Bởi vì việc mở rộng các hình thức thu hút vốn trực tiếp thông qua phát hành chứng khoán sẽ cung cấp một cơ chế giám sát chặt chẽ hơn trong đó chính những người cho vay vốn là những người trực tiếp tham gia quá trình giám sát không chỉ việc sử dụng số vốn huy động nói riêng mà là tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh noi chung của doanh nghiệp.
Coi tiết kiệm là quốc sách. Việc thiết lập các công cụ đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế phải cần quán triệt chủ trương tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng và trong chi ngân sách của nhà nước là quốc sách. Bởi vì, tiết kiệm là một giải pháp chung nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bài học tiết kiệm để xây dựng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đương nhiên để thực hiện mục tiêu trên cần tiếp tục đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán để nhanh chóng tạo ra hệ thống các công cụ phản ánh chính xác tình hình và hiệu quả sử dụng vốn trong các đơn vị kinh tế xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quả lý vốn đầu tư phát triển trong toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận
Sử dụng vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn là vấn đề cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta phải học hỏi nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước. Thực hiện chính sách “đi tắt đón đầu”, dùng những lợi thế của nước đi sau để rút kinh nghiệm, tránh những sai lầm, rút ngắn được những giai đoạn và thời gian phát triển. Điều này đòi hỏi những nhà hoạch định chính sách cần phải hiểu được tuần hoàn vốn và các biện pháp huy động sử dụng, quản lý vốn có hiệu quả. Bản thân các doanh nghiệp phải sử dụng vốn làm sao có hiệu quả cao nhất. Các giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Là một sinh viên kinh tế, một nhà kinh doanh trong tương lai thì vấn đề quản lý vốn và tuần hoàn vốn là hết sức cần thiết. Qua thực tiễn và những kiến thức đã học được cùng với quá trình nghiên cứu tham khảo tài liệu liên quan đến đề án này, giúp em hiểu rõ được bản chất của học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản, nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, huy động và sử dụng vốn hiệu quả. Đây là những kiến thức cần thiết tạo nên hành trang cho sinh viên chúng em vững tin bước vào hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và sôi động.
đề tài
Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản
Sự vận dụng của nó vào nền kinh tế nước ta hiện nay
Tài liệu tham khảo
Báo đầu tư
Bài giảng
Giáo trình KTCT , NXB Giáo dục-1998
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Thời báo kinh tế
Tư bản ,quyển 2
Văn kiện đại họi Đảng lần VIII, IX
_-
gfgfgfgf
y4klklkkkjjj75553432333335ttthuhjjdewweweefghjklloiiifdfffffhhkkdd
gg
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV130.doc