Đề án Hội nhập AFTA với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực là một xu hướng tất yếu của thời đại. Mỗi một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không thể tách rời ra khỏi xu thế chung đố. Hội nhập kinh tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia, nhưng đồng thời nó cũng đem lại những khó khăn và thách thức cho mỗi quốc gia trên con đường hội nhập cần phải giải quyết, nhất là đối với những quốc gia đang phát triển, đất nước còn đang ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng còn yếu kém, trình độ khoa học thấp, xuất phát điểm cho quá trình hội nhập nói chung là thấp (như Việt Nam chẳng hạn).

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hội nhập AFTA với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I- Mở đầu Hiện nay xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, hầu hết tất cả các nước đều không muốn bị tách rời hay bị cô lập trong sự phát triển chung của thế giới. Sự hội nhập kinh tế có tác động rất lớn tới sự tăng trưởng và phát triển của mỗi một Quốc gia, đặc biệt nó lại càng có ý nghĩa to lớn đối với những nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Phù hợp với xu thế chung của lịch sử phát triển loài ngoài, đồng thời nhằm đưa nước ta thoát khỏi thực trạng nghèo nàn, lạc hậu, hướng tới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh" và trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020, Nhà nước ta đã và đang không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Từ năm 1993, Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của IMF, WB, ADB; là thành viên chính thức ASEAN (1995), APEC (1998). Quá trình tham gia vào các tổ chức này đã mở ra những cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế nước ta, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta không ít thách thức và khó khăn cần tìm hiểu và giải quyết. Trước sự gợi ý và hướng dẫn của các thầy cô trong Khoa Kế hoạch và Phát triển, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô Vũ Thị Ngọc Phùng, em xin mạo muội được tìm hiểu rõ hơn về quá trình hội nhập AFTA - Khi mậu dịch tự do Đông Nam á - mà Việt Nam chúng ta đã tham gia từ năm 1996. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giúp đỡ, hướng dẫn cho em để em có thể hoàn thiện hơn trong nhận thức và hiểu biết về đường lối, chính sách phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại của nước ta và quá trình tham gia AFTA đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2004. Sinh viên thực hiện Lê Phúc Thắng Phần II- Nội dung Chương I- Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam trong quá trình phát triển. I- Cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế khu vực. 1. Toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế và sự hội nhập. 1.1. Các khái niệm. a. Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu, là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - công nghệ giữa các nước trên qui mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái,... b. Khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu mậu dịch tự do, đồng minh (liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung, đồng minh kinh tế,... nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những cản trở trong công việc di chuyển tư bản, lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ,... tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Giữa khu vực hoá kinh tế và toàn cầu hoá kinh tế có những mặt thống nhất nhưng cũng có những mặt mâu thuẫn với nhau, và có mối liên hệ nhất định. c. Hội nhập kinh tế là một xu hướng khách quan và chủ đạo của thời đại chúng ta, đã, đang và sẽ tiếp tục định hướng, chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các nước trên thế giới. Về bản chất kinh tế, đó là quá trình được đảm bảo bằng thể chế, mà theo đó mỗi quốc gia ngày càng tạo điều kiện tự do hoá và hỗ trợ thuận lợi nhất cho các hoạt động của các dòng vốn, hàng hoá, dịch vụ và công nghệ qua biên giới nước mình theo cả hai chiều dòng vào và dòng ra, cũng như trên thị trường trong nước và quốc tế, phù hợp với các cam kết chính phủ song phương và đa phương. 1.2. Nội dung. Toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế nhằm mục tiêu tạo ra những mỗi quan hệ mở, hợp tác và hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa các quốc gia. Cụ thể: tạo lập mối quan hệ mậu dịch giữa các nước, chuyển hướng mậu dịch, trao đổi công nghệ, trình độ quản lý, vốn,... Hội nhập kinh tế là việc thực hiện đường lối kinh tế mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, nhằm tạo ra những cơ hội cho việc phát triển kinh tế đất nước và tận dụng tốt lợi thế và nguồn lực mà mình hiện có. 2. Các hình thức liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của mỗi quốc gia. 2.1. Các hình thức. a. Khu vực mậu dịch tự do hoá hay khu buôn bán tự do (Freetrade Area) trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia nhằm mục đích tự do hoá việc buôn bán đối với một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo lập một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thươngđộc lập đối với các quốc gia ngoài liên minh. b. Liên minh thuế quan (Customs Union). Đây là giai đoạn hai của quá trình hội nhập, nhằm tăng cường mức độ hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giưã các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách mậu dịch nói chung đối với các nước không phải là thành viên. c. Thị trường chung. Đây là liên minh quốc tế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan. Ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương mại, còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất. d. Liên minh tiền tệ. Là liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Các nước thành viên phối hợp chính sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối. e. Liên minh kinh tế. Là liên minh dựa trên cơ sở mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. 2.2. Sự hội nhập. Sự hội nhập của mỗi một quốc gia vào nền kinh tế các nước trên thế giới nói chung và khu vực nói riêng với nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng khu vực liên kết và hình thức liên kết. Việc tham gia vào các hiệp định thương mại song phương và đa phương, các tổ chức thương mại tự do và thị trường chung, các liên minh thuế quan hay các liên minh kinh tế và các khối kinh tế khu vực, liên khu vực và toàn cầu,... là những nấc thang khác nhau trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cũng như nhân thức và quyết tâm của mỗi nước. 3. Hội nhập kinh tế - sự tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi một quốc gia. 3.1. Xu thế của thời đại. Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với qui mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế ngày càng rộng, tính chất ngày càng phức tạp, trình độ phát triển ngày càng cao. Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, quan hệ thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, sự phân công lao động diễn ra ở tầm quốc tế, các doanh nghiệp tìm cách mở rộng thị trường ra nước ngoài, các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra không những trên lĩnh vực thương mại, mà cả trên các lĩnh vực khác như: đầu tư, chuyển giao công nghệ, di chuyển quốc tế sức lao động và nhiều lĩnh vực khác. Do sự phát triển của các hoạt động thương mại quốc tế và các hoạt động trao đổi quốc tế khác, thị trường thế giới được hình thành. Sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia và các quan hệ kinh tế quốc tế làm cho các nền kinh tế quốc gia liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau tạo nên tính thống nhất, tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới đang tronng thiên niên kỷ thứ 3 với những đặc điểm mới trong tốc độ tăng trưởng, trong sự thay đổi cơ cấu và đặc biệt là sự sống động trong các quan hệ kinh tế quốc tế - quan hệ ra đời trên cơ sở phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế, hoạt động xuất và nhập khẩu sức lao động, các hoạt động dịch vụ quốc tế, hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động tài chính và tín dụng quốc tế. Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, bởi vì thế giới là sự thống nhất của các mâu thuẫn. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động của một loạt những xu thế mới, trong đó nổi bật lên là: - Xu thế phát triển mang tính bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ. - Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. - Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Do sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động mới của các Công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu trên 2 cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới và đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính - tiền tệ; sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc gia tăng làn sóng sáp nhập các Công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của tri thức và sự phát triển loại hình kinh tế tri thức. Trong những bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới như trên, với sự tác động mạnh và đa dạng của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, chỉ có hội nhập thông qua các mối quan hệ hợp tác, trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau mới làm cho mỗi quốc gia tránh được sự cô lập, tụt hậu. Nói cách khác xu thế hội nhập là một tất yếu trong thời đại ngày nay. 3.2. Sự tác động của hội nhập kinh tế với quá trình phát triển. Việc hội nhập kinh tế sẽ đem lại cho một nước hai kết quả: tích cực và hạn chế. a. Về mặt tích cực. Hội nhập kinh tế sẽ làm tăng phúc lợi do thương mại tạo nên. Do có sự thay thế các ngành công nghiệp có chi phí cao của nước chủ nhà bằng những ngành công nghiệp có chi phí thấp của những nước được nhận ưu đãi, mà tiết kiệm được chi phí trong việc chế tạo sản phẩm. Những tác động tích cực do thương mại đem lại cả trong lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng: - Tác động về sản xuất là sự thay thế của ngành sản xuất trong nước bằng ngành sản xuất của nước đối tác. - Tác động về tiêu dùng là thay thế tiêu dùng hàng nội địa bằng hàng của nước đối tác. Song ý nghĩa tích cực mang tính lâu dài nhất là ở chỗ hội nhập kinh tế, tự do hoá thương mại sẽ có tác động nâng cao mức tăng trưởng trung bình của các nước thành viên. Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập cũng đưa lại những tác động tiêu cực hay hạn chế sau. b. Về mặt hạn chế. Hội nhập kinh tế cũng làm giảm phúc lợi tạo ra từ thương mại. Do có sự thay thế người cung cấp có chi phí thấp nhưng không được hưởng ưu đãi bằng người cung cấp có chi phí cao, nhưng được hưởng ưu đãi. Tác động tổng thể đối với các nước thành viên phụ thuộc vào mức độ tác động tiêu cực mà thương mại gây nê. Nếu những tác động tích cực vượt trội hơn tác động tiêu cực thì khi đó, hội nhập xét về tổng thể là có lợi đối với nước gia nhập.. Như vậy, hội nhập sẽ có lợi nếu như những người sản xuất có hiệu quả nhất là các nước thành viên hoặc khi hội nhập không làm giảm đi những hoạt động thương mại giữa các đối tác với khu vực còn lại trên thế giới. Ngoài những ý nghĩa có tính ngắn hạn, hội nhập khu vực còn đem lại những ý nghĩa mang tính năng động như: - Sự tăng trưởng của thị trường trong nước, của thương mại và đầu tư giữa các vùng nhờ hình thành mậu dịch tự do. - Sự mở rộng thị trường trong nước có tác động quan trọng tới hiệu quả sản xuất của các Công ty và tác động tới đầu tư và những cơ hội khai phá lợi ích tăng dần theo qui mô. Tuy nhiên, những Công ty của nước thành viên sẽ là đối tượng chịu sự tăng lên của cạnh tranh. Cạnh tranh sẽ buộc sản xuất phải có hiệu quả và trình độ chuyên môn hoá sản phẩm cao hơn với chi phí sản xuất thấp nhất. Trong quá trình thâm nhập thị trường lẫn nhau như vậy, những nhà sản xuất có hiệu quả sẽ thu được khoản tiết kiệm từ quá trình sản xuất mang tính dài hạn hơn, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm bán ra.. Ngoài ra, tự do hoá thương mại và tự do hoá đầu tư vừa đem lại cái lợi lẫn cái bất lợi nên chưa thể chắc chắn rằng hiệp định mậu dịch tự do sẽ có lợi cho một nưóc thành viên từ khi áp dụng những biện pháp thích hợp để giảm thiểu những bất lợi và tối đa cái lợi nhờ thương mại tự do hơn. Gia nhập khu vực mậu dịch tự do có đem lại lợi ích thực tế hay không tuỳ thuộc phần lớn vào phản ứng của người tiêu dùng và người cung cấp khi được hưởng ưu đãi mậu dịch, vào mức độ cạnh tranh thương mại giữa các thành viên và không phải thành viên, vào mức bổ sung giữa các nước thành viên và mức độ liên kết mậu dịch với các nước không phải thành viên. Do vậy mỗi quốc gia cần phải cân nhắc trong quá trình đưa các quyết định về tiến trình hội nhập của mình. II- Cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế khu vực ở Việt Nam. 1. Khu mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) vàCEPT. Khu vực Đông Nam á là nơi hội tụ của các giao lưu kinh tế quốc tế, đang trở thành khu vực phát triển năng động nhất của Châu á cũng như trên toàn thế giới với một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Để có thể vươn lên trong cạnh tranh và từng bước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ngày 8/8/1967 các Bộ trưởng ngoại giao của 5 nước: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đã ký bản tuyên bố ASEAN tại Bângkok và từ đó Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN được chính thức thành lập. Ngày 8/1/1984 Brunei Darusalem được kết nạp. Ngày 27-28/1/1992 Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 ở Singapore đã nhất trí thành lập khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và cùng nhau thoả thuận bắt đầu xây dựng khối từ ngày 1/1/1993, với chương trình giảm thuế nhập khẩu giữa các nước thành viên ASEAN đối với 15 nhóm sản phẩm công nghiệp trong vòng 15 năm tới, hoàn thành vào năm 2008. Tiếp sau đó, hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 tổ chức tại Chiềng Mai (Thái Lan) đã quyết định đẩy thời gian thực hiện AFTA xuống còn 10 năm tức là hoàn tất vào năm 2003. Khu vực mậu dịch tự do AFTA được hình thành thông qua các yếu tố sau: - Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT - The Common Effectiive Prefrenialtaif Scheme) - Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên. - Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau. - Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với ngoại thương. - Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô. Với mục tiêu kinh tế: - Tự do hoá thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ khu vực và những hàng rào phi thuế quan (NTBS). - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng cách mở ra một thị trường phối hợp rộng hơn. - Làm thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi, đặc biệt là quá trình thành lập các khối thương mại trên thế giới. Và để thực hiện thành công khu vực mậu dịch tự dô AFTA, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN đã quyết định ký chương trình thuế quan ưu đã có hiệu lực chung (CEPT) vào năm 1992. CEPT chính là trụ cột chính để thành lập AFTA và cho biết tiến trình hội nhập AFTA của các nước ASEAN. Theo CEPT, các nước thành viên sẽ đưa ra lịch trình giảm dần thuế quan nội bộ khu vực đối với toàn bộ hàng hoá chế tạo. Các hàng hoá có thể cắt giảm được đặt vào lịch trình thực hiện nhanh hoặc thông thường. - Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu đãi phải đạt 0-5% trong thời gian dài nhất là 7 năm (5 năm đối với hàng hoá chịu thuế thấp) đó là: Đồ nhựa Sản phẩm gốm và thuỷ tinh Sản phẩm cao su Đá quý và đồ trang sức Sản phẩm da Cực âm đồng Bột giấy Hàng điện tử Hàng dệt Nội thất bằng gỗ và mây Dầu thực vật Hoá chất Xi măng Dược phẩm Phân bón - Đối với nhóm giảm thông thường, tốc độ giảm chậm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao thì việc giẩm có thể thực hiện trong 15 năm. Ban đầu người ta dự định áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với sản phẩm các ngành dễ bị tổn thương và có tính cạnh tranh trực tiếp. Đối với các hàng hoá thực hiện cắt giảm bình thường thì nếu các mặt hàng có mức thuế suất >20% sẽ tiến hành cắt giảm xuống <20% vào ngày 1/1/1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào ngày 1/1/2003. Nếu các mặt hàng đã có mức thuế suất dưới mức 20% thì sẽ tiến hành cắt giảm còn 0-5% voà ngày 1/1/2000. - Đối với các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục tạm thời. - Đối với hàng nông sản chưa qua chế biến trong danh mục cắt giảm thuế ngay được chuyển vào chương trình giảm thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm thuế bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong danh mục tạm thời của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang danh mục giảm thuế trong 5 năm từ 1/1/1998 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%. Các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm sẽ được xem xét riêng và không phụ thuộc vào thời hạn 1/1/2003 và mức thuế quan cuối cùng 0-5%. CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là ASEAN bao gồm: Tư liệu sản xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác. 2. ảnh hưởng của hội nhập kinh tế khu vực với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. 2.1. Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trởthành thành viên chính thức thứ 7 của Hiệp hội các nước Đông Nam á - ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế, thực hiện đúng đường lối kinh tế của Đảng là. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bên vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh". Trong đó chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đóng vai trò chủ đạo, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường, coi trọng việc nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam tham gia vào khối mậu dịch tự do AFTA, thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan CEPT bắt đầu từ ngày 1/1/1996 và hoàn thành vào năm 2006. 2.2. Những ảnh hưởng của Hội nhập với AFTA. Việc tham gia của Việt Nam vào AFTA là một tất yếu, không những vì Việt Nam đã là thành viên của ASEAN mà còn do các tác động mạnh của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Hội nhập vào AFTA sẽ đem lại những cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Đó là: - Tham gia AFTA, Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thành viên của ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp, khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ được giảm thuế nhập khẩu tới mức 0-5%. Như vậy, luồn hàng nhập khẩu được mở rộng nhanh chóng, ASEAN ảnh hưởng rất lớn tới việc xuất khẩu số lượng lớn thành phẩm của các cơ sở sản xuất sử dụng các nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ASEAN. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến, nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất loại mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Có thể nói AFTA sẽ tạo những ưu thế tuyệt đối cho việc phát triển sản xuất của Việt Nam, chúng ta có thể xuất khẩu hàng hoá của mình một cách thuận tiện hơn vào thị trường của các nước thành viên khác. Mặt khác ASEAN còn là nhịp cầu để Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới, tăng lợi thế và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng quốc tế và cũng từ đó Việt Nam ít bị phụ thuộc vào một số thị trường lớn như Nhật Bản và Tây Âi. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung cầu hàng hoá của mình trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả hàng hoá. - Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nước, việc thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp theo hướng công nghiệp hoá hươnggs vào xuất khẩu là rất cần thiết. Tham gia AFTA - CEPT, Việt Nam có cơ hội để phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế thích hợp. Vậy thực chất của việc tham gia AFTA, CEPT là tạo đòn bẩy thúc đẩy cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới chỉ đạt 18%, nông sản thực phẩm 48%, nhiên liệu 34% thì việc thực hiện chương trình CEPT là cơ hội để chúng ta chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp chế biến chịu sự điều chỉnh của CEPT trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tỏ chức lại sản xuất theo mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu. - Tham gia AFTA, Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư vào nước nào, lĩnh vực nào để mang lại hiệu quả là sự cân nhắc của các nhà đầu tư nước ngoài. Cơ sở để thu hút các dự án đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự ổn định về chính trị, môi trường thuận lợi, thủ tục đơn giản, rõ ràng là những chỉ tiêu rất quan trọng. Việt Nam tham gia AFTA là sự biểu hiện cụ thể của sự hoà nhập vào nền kinh tế thế giới do đó chắc chắn sẽ thu hút được nhiều nước đầu tư vào Việt Nam. Mấy năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN có xu hướng tăng mạnh. Hiện nay một số nước ASEAN đang mất đi lợi thế về nguồn lao động rẻ, họ đang di chuyển một số ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao động sang Việt Nam, họ còn quan tâm đến Việt Nam - một thị trường đông dân với 80 triệu dân. Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra một số thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những thuận lợi trên, cũng đặt ra cho chúng ta không ít khó khăn. Đó là: - Tham gia vào AFTA là thừa nhận tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu chuyển hàng hoá trong khu vực. Đây là những việc làm mà nước ta chưa thực hiện bao giờ. Bắt đầu tham gia AFTA, Việt Nam đang ở trình độ kinh tế thấp, các chỉ tiêu kinh tế thấp hơn các nước khác từ 20-30 năm. Các nước như Singapore, Thái Lan, Malaysia... đều đã hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Hiện tại sức cạnh tranh của hàng hoá, Việt Nam còn rất yếu, yếu toàn diện cả về giá cả và chất lượng. Hàng nhập ngoại tràn vào sẽ xảy ra tình trạng rất nhiều ngành công nghiệp địa phương không cạnh tranh được, sản xuất ra không có ai tiêu thụ, tiêu biểu là các ngành dệt may, giày dép, điện gia dụng, .... trước sức ép của thị trường do hàng rào thuế quan giảm đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất, làm sao cho các mặt hàng không đủ sức cạnh tranh phải đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật để hàng hoá sản xuất ra đủ sức tiêu thụ trên thị trường cạnh tranh với hàng ngoại, hàng hoá của các nước ASEAN, tạo nên thế liên kết sản xuất giữa các ngành, giữa các nước trong khu vực. Trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, chính phủ Việt Nam phải xác định rõ các ngành sản xuất tạo ra được những mặt hàng có khả năng cạnh tranh được trên thị trường ASEAN, thì tập trung phát triển cho ngành đó. Đồng thời phải tập trung đầu mối xuất khẩu vào các Công ty chuyên ngành lớn để giảm mọi chi phí liên quan đến xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá. - Tham gia AFTA sẽ tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá, cùng với việc cắt giảm thuế, đơn giản thủ tục xuất nhập khẩu thì giá thành hàng hoá sẽ hạ. Hiện nay hàng hoá của ta còn chịu nhiều loại thuế khác nhau, nhiều chi phí khác không cần thiết đã góp phần làm đẩy giá lên. Do đó giá cả hàng hoá của Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá của các nước cùng loại. Như vậy ưu thế về giá thuộc về hàng hoá của các nước khác là thành viên của ASEAN. Vấn đề đặt ra trước mắt là ta phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá nằm trong danh mục cắt gỉam thuế CEPT thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu sang các nước ASEAN. - Để hội nhập về kinh tế và mậu dịch với ASEAN, một thách thức không nhỏ đặt ra cho Việt Nam là xây dựng một chính sách quản lý Nhà nước thích hợp nhằm đảm bảo tự do hoá thương mại nhưng không làm mất đi chức năng quản lý về Nhà nước, về thương mại. Xoá bỏ thủ tục hành chính rườm ra, quan liêu, không hiệu quả. Đơn giản hoá các thủ tục để hàng hoá tham gia vào CEPT có hiệu quả. Cần có sự nghiên cứu các hiệp định, các chương trình hợp tác trong ASEAN một cách đầy đủ và khách quan, khoa học, lường trước những khó khăn sẽ xảy ra, tận dụng những cơ hội tốt để có những giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và chủ trương phát triển kinh tế trong nước. - Tham gia AFTA, Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhưng thực sự là không ảnh hưởng lớn. Trong danh mục cắt giảm thuế có tới 57% mặt hàng hiện có mức thuế từ 0%-5%, trong đó tới hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có nghĩa là trên thực tế, hầu như chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi. Số mặt hàng có miễn thuế đến 20% chỉ chiếm tỷ trọng vào khoảng 17-21%. Nói chung nguồn thu ngân sách sẽ không bị tác động gì lớn khi đưa những mặt hàng có thuế suất cao vào chương trình giảm thuế, ngân sách sẽ bị ảnh hưởng nhưng không lớn vì theo chương trình cải cách thuế của nước ta, thuế xuất nhập khẩu sẽ không còn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Nó sẽ trở thành một công cụ để ứng xử trong các quan hệ ngoại thương và bảo hộ sản xuất trong nước. Tóm lại, nhìn tổng thể vào sự đóng góp vào ngân sách Nhà nước thì tham gia AFTA sẽ tạo nên sự hẫng hụt trong ngân sách Nhà nước. Chương II- Thực trạng quá trình tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á - AFTA của Việt Nam. I- Thực tiễn thực hiện AFTA - CEPT ở Việt Nam. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10/12/1995, Việt Nam đã công bố các danh mục và lộ trình cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996 - 2000 gồm 1.633 nhóm mặt hàng, chiếm 50,1% tổng các nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Danh mục này chiếm tỷ lệ thấp so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện CEPT (trung bình các nước ASEAN 6 là 85%). Danh mục các mặt hàng tham gia cắt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp hơn 5%. Danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời gồm 1.168 mặt hàng, chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm chưa được Việt Nam đưa ra. 1. Lịch trình cắt giảm thuế của Việt Nam. a. Đến cuối giai đoạn (1/1/2006), thuế suất đối với toàn bộ các mặt hàng trong danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) và loại trừ tạm thời (TEL) phải được cắt giảm xuống 0-5%. b. Đối với danh mục cắt giảm thuế ngay đến 1/1/2006 các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải được giảm xuống bằng 20% theo công thức mỗi năm cắt giảm một lượng bằng 20% mức chênh lệch giữa thuế suất gốc và mức 20%. Trong các năm tiếp theo tiếp tục cắt giảm cho đến khi đạt 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất dưới 20% sẽ phải đạt thuế suất bằng 0-5% vào 1/1/2003. c. Đối với danh mục loại trừ tạm thời, trong vòng 5 năm, bắt đầu từ 1/1/1999 và kết thúc vào 1/1/2003, mặt hàng thuộc loại này phải được đưa vào danh mục cắt giảm thuế, mỗi năm chuyển 20% số mặt hàng. Sau khi được đưa vào danh mục cắt giảm thuế ngay, việc cắt giảm thuế phải được thực hiện ít nhất 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 50%. Từ 1/1/2001, các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải được giảm ngay xuống 20% khi đưa vào cắt giảm. Mỗi năm phải ban hành văn bản pháp lý thể hiện việc chuyển các mặt hàng và cắt giảm thuế đó. d. Các mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm (SEL) bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2003 với thuế suất cuối cùng bằng 0-5%. Trong 2 năm 1996 - 1997 Việt Nam sẽ không thực hiện cắt giảm mà chỉ đưa ra các sản phẩm đạt mục tiêu của CEPT (có thuế suất từ 5% trở xuống) vào thực hiện Hiệp định. Đối với các sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong danh mục cắt giảm thuế quan hướng thực hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế chỉ bắt đầu từ 1998 để đảm bảo cho nguồn thu và hỗ trợ một phần cho sản xuất trong nước. Cũng trong 2 năm này, Việt Nam thực hiện bước 2 cải cách thuế, trong đó đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam sẽ thực hiện việc phân tích 2 loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng (hiện đang là thuế doanh thu) hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu rra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trước khi cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích 2 loại thuế trên. 2. Tiến trình triển khai thực hiện CEPT của Việt Nam. Theo lịch trình trên, việc thực hiện CEPT của Việt Nam từ 1996 đến nay như sau: - Năm 1996 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo chương trình CEPT, theo nghị định 91/CP ngày 18/12/1995 của Chính phủ, 875 mặt hàng đã được đưa vào danh mục mặt hàng tham gia CEPT của Việt Nam. Danh mục này gồm các mặt hàng đã có thuế suất thông thường bằng 0-5% hoặc nhỏ hơn 20%. Cũng như đối với năm 1996, đây mới chỉ là việc đưa mặt hàng vào chương trình CEPT chứ thực sự chưa thực hiện cắt giảm thuế. - Năm 1998, chương trình CEPT của Việt Nam được thực hiện theo Nghị định số 5/1998.NĐ-CP ngày 12/3/1998 của Chính phủ. Danh mục CEPT 1998 gồm 1733 mặt hàng trong đó có 1496 mặt hàng đã được đưa vào từ năm 1996 - 1997 và 137 mặt hàng mới. Do có việc tách mã số của một số mặt hàng được thực hiện trong năm 1998, tổng số mặt hàng của danh mục này được nâng lên thành 1719, chiếm 1/2 toàn bộ biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Trong số 137 mặt hàng được đưa vào danh mục 1998, phần lớn các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như: một số rau, quả, chè, cà phê, quần áo, hàng may mặc... có thuế nhập khẩu khá cao vào thời điểm đó. - Năm 1999: Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 1999 được ban hành kèm theo Nghị định số 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 của Chính phủ. Danh mục CEPT 1999 gồm 3591 mặt hàng, tăng 1949 mặt hàng so với danh mục CEPT 1998. Số mặt hàng tăng lên này bao gồm cả các mặt hàng được chuyển vào từ danh mục loại trừ tạm thời theo qui định và cả những mặt hàng tăng lên do việc chi tiết hoá một số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu vừa qua. - Năm 2000: Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 2000 được ban hành kèm theo Nghị định số 9/2000/NĐ-CP ngàyu 21/3/2003 của Chính phủ. Danh mục CEPT 2000 gồm 4234 mặt hàng, trong đó có 3591 mặt hàng đã đưa vào thực hiện chương trình CEPT từ năm 1999 trở về trước và 643 mặt hàng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời (Danh mục loại trừ tạm thời TEL) sang danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) để thực hiện chương trình CEPT từ năm 2000. - Tính đến 5/2/2002 Việt Nam đã thực hiện cắt giảm 5.500 mặt hàng (đạt gần 90% tổng các mặt hàng Việt Nam cam kết thuế, trong số này đã có 2/3 mặt hàng có mức thuế từ 0%-5%. - Năm 2003 được xem là năm sự kiến đối với tiến trình hội nhập AFTA của Việt Nam. 750 mặt hàng còn lại được cắt giảm thuế theo AFTA. Các mặt hàng có mức bảo hộ cao thuế suất 30%-100% giảm xuống còn 20% vào tháng 1/2003 và tiếp tục giảm xuống còn 0% đến 5% vào năm 2006. Các mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng 20% giảm xuống còn 0%-5%. 20% danh mục loại trừ tạm thời đã được đưa sang danh mục cắt giảm thuế. Thực hiện giảm thuế cho các sản phẩm công nghiệp thuộc chương trình AICO xuống còn 0%-5% (giai đoạn 2003 - 2008). Việt Nam đã giảm mạnh hàng rào phi thuế quan theo đúng lộ trình cam kết ASEAN, Việt Nam dự kiến thực hiện xong chương trình CEPT vào năm 2005. II- Một số thành tựu về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Nền kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính - viễn thông, đường sá, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Cụ thể GDP năm 2000 đã tăng 2,07 lần so với năm 1991, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế năm 2000 đã đạt 27% GDP, sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Số việc làm mới tăng cao, tỷ lệ thấp nghiệp giảm. Trong đó nổi bật lên và đáng chủ yếu là sự phát triển của kinh tế đối ngoại. Cụ thể là: 1. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá. Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá và tập trung ở những nhóm mặt hàng công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt trên 186 USD/người. Đặc biệt thị trường các nước ASEAN chiếm trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 29% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm (1999 - 2000) khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%. Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6% năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá 1995) gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng 34% so với thời kỳ trước. Trong đó tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc Liên bang Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kỳ 1991 - 1995, tăng lên 25,8% thời kỳ 1996 - 2000; tỷ lệ vốn đăng ký các dự án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ 17,3% lên 29,8%) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 93% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài. 3. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng. Hàng năm, nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện tăng đáng kể. Tính chung trong 5 năm 1996 - 2000 khoảng 6,1 tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như điện, giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước; phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục và đào tạo; tăng cường năng lực và thể chế trong các lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quản lý kinh tế; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất như chế biến nông sản, thuỷ sản... Nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã được đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Những thành tựu đáng kể ở trên do có sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân ta trong những năm qua, đặc biệt là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã vạch ra đường lối kinh tế thích hợp, trong đó nổi bật lên là đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong đó có hội nhập kinh tế với khu vực tự do Đông Nam á - AFTA tạo nên sự đóng góp rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế. III- Những tồn tại (khó khăn) đang gặp phải trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam. 1. Khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn kém thậm chí có nguy cơ ngày càng kém nếu không có ngay những giải pháp khắc phục. Có thể kể ra một loạt sản phẩm của Việt Nam có giá thành cao hơn từ 20% đến 40% giá thành sản phẩm của các nước trong khu vực như: đường, giấy, xi măng, vải phân bón, hoá chất cơ bản, thép... Nguyên nhân là do chi phí trung gian còn cao. Mức chi phí này trong công nghiệp chiếm tới 60%, trong đó 80% là chi phí vật chất; những con số tương ứng trong nông nghiệp là 40% và 70%. Chi phí đầu vào của một số sản phẩm, nhất là nông phẩm có chiều hướng gia tăng. Chi phí đầu vào của cả nền kinh tế cao là do lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu, phần nguyên liệu sản xuất trong nước chất lượng không cao, không ổn định. Chi phí dịch vụ sản xuất kinh doanh cũng ở mức cao so với các nước trong khu vực, trình độ trang thiết bị lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với các nước trong khu vực; công nhân kỹ thuật yếu, tay nghề thấp. Tất cả những điều đó làm cho năng suất lao động thấp, 80% tăng trưởng dựa vào đầu tư về vốn. Phần đóng góp tăng trưởng từ năng suất chỉ vào khoảng 20% (con số này ở các nước trong khu vực là từ 35% đến 45%) và vẫn nằm trong xu hướng ngày càng giảm. 2. Về hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR của nền kinh tế vẫn nằm trong xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, năm 2002 là 3,3 cao gấp 2,3 lần so với năm 1998. Nguyên nhân do đầu tư chuyển dịch cơ cấu chậm, do tập trung vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng, do phải dành không nhỏ một phần vốn cho công việc khắc phục hậu quả thiên tai. Đặc biệt là những yếu kém trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm. 3. Hệ thống tài chính - ngân hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể chưa mạnh. 4. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Nihều cấp, nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi những qui định về quản lý Nhà nước không còn phù hợp; chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải pháp mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội. Chương III- Các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA ở Việt Nam. I- Nguyên tắc Hội nhập hiệu quả và định hướng hội nhập trong thời gian tới. 1. Nguyên tắc Hội nhập hiệu quả. Hội nhập kinh tế khu vực mở ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế, song cũng đặt ra cho chúng ta không ít thách thức và những khó khăn cần giải quyết. Để hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập kinh tế khu vực nói riêng có thể đem lại kết quả tốt nhất, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những nguyên tắc nhất định đối với việc hội nhập. Đó là: - Chủ động hội nhập trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. - Hội nhập trên cơ sở sự chuẩn bị cả về tiềm năng, vị trí, về kế hoạch bước đi, không ngừng phát huy nội lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế. - Hội nhập theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. 2. Định hướng hội nhập trong thời gian tới. 2.1. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế. - Đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001 - 2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. - Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm - Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm - Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. * Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến: - Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21% - Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39% - Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42% 2.2. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại. - Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ... để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan. Thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn phù hợp với tiến trình hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú ý đến các cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO...), APEC, ASEM; xúc tiến đàm phán để gia nhập WTO. Từng ngành, từng doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thông và mở rộng thị trường mới. - Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động xuất, nhập khẩu mà pháp luật cho phép, bao gồm cả xuất, nhập khẩu dịch vụ. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh, thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, cũng như các biện pháp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội chợ... Đầu tư đồng bộ từ nghiên cứu, sản xuất, chế biến, vận chuyển, tiếp thị.... nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô trong kim ngạch xuất khẩu, tăng số lượng các mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo có giá trị gia tăng cao. Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, giảm các chi phí giao dịch phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu. - Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) phù hợp yêu cầu phát triển đất nước. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu vực công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; tiếp tực nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. II- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình gia nhập AFTA của Việt Nam. Nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế khu vực (AFTA) nói riêng, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau: 1. Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế, bao gồm việc thống nhất ý chí và hành động, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương, hoàn thiện từng bước các văn bản pháp lý theo hướng hội nhập kinh tế. 2. Tập trung nhân tài, vật lực để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng vào một số ngành và lĩnh vực lựa cọhn, tạo thực lực cho quá trình hội nhập kinh tế. 3. Xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế với sự tính toán tỉ mỉ, nêu rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành với mốc thời gian rõ ràng và phù hợp với yêu cầu của tổ chức kinh tế (QFTA). 4. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tổ chức và hoàn thiện các loại hình doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong hội nhập. 5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, bao gồm cán bộ quản lý kinh tế và kinh doanh, cán bộ khoa học - công nghệ và cả cán bộ quản lý Nhà nước ca chính sách cấp có đủ năng lực và phẩm chất để tổ chức triển khai quá trình hội nhập ở các đơn vị cơ sở phù hợp với chiến lược chung của Nhà nước. Tăng cường và nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng xứng ngang tầm với đòi hỏi của quá trình hội nhập. 6. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc ban hành "quy chế đầu tư ra nước ngoài" để các doanh nghiệp Việt Nam chủ động đầu tư ra nước ngoài, trước hết là trong khối AFTA. Đồng thời, cần tích cực khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thu hút công nghệ của các thành viên AFTA dưới hình thức liên doanh, liên kết nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ cũng như từng bước tạo ra nền tảng công nghệ, hiện đại hoá hệ thống doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Việc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nên được coi trong và"tăng tốc". 7. Các doanh nghiệp cần nhanh nhạy trong việc nắm bắt và chinh phục thị trường, không ngừng nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ và nâng cao tay nghề cho công nhân viên của doanh nghiệp. Cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Chủ trương thành lập các tổng Công ty mạnh là một trong những bước đi có tính chất quan trọng. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn manh mún, nhỏ bé, sức cạnh tranh thấp sẽ được tập trung lại để hình thành lên một dạng Công ty mẹ có tiềm lực và khả năng lớn hơn đủ sức để chống chọi với các Công ty lớn, việc sản xuất - xuất khẩu một mặt hàng nào đó sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng và đầu tư với quy mô lớn, có chiều sâu và phạm vi rộng. Những mặt hàng do các tổng Công ty nắm giữ được sản xuất ra mang tính đồng bộ hơn, công nghệ cao hơn và giá thành rẻ hơn. Tất cả các yếu tố này tạo nên sức cạnh tranh mạnh hơn cho hàng hoá Việt Nam. Đào tạo những cán bộ quản lý có năng lực kinh doanh thực sự đủ đảm đương trách nhiệm ở các tổng Công ty lớn. 8. Thúc đẩy có một thị trường thuận lợi cho sự phát triển của khu vực tư nhân và có chính sách tiền tệ phù hợp, vừa đảm bảo giá trị đồng tiền vừa góp phần nâng cao kim gạch xuất khẩu, có chính sách tỷ giá hối đoái, lãi suất phù hợp. Tận dụng c ác ưu thế riêng biệt của thị trường nội địa như giàu khoáng sản, giá nhân công rẻ, thị trường Việt Nam sẽ còn trở nên hấp dẫn hơn với chính sách nhà đầu tư ASEAN. Họ sẽ tới Việt Nam không chỉ với mực tiêu bán hàng mà còn sản xuất hàng hoá để xuất khẩu ngược lại thị trường nước mình. Phần II- Kết luận. Hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực là một xu hướng tất yếu của thời đại. Mỗi một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không thể tách rời ra khỏi xu thế chung đố. Hội nhập kinh tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia, nhưng đồng thời nó cũng đem lại những khó khăn và thách thức cho mỗi quốc gia trên con đường hội nhập cần phải giải quyết, nhất là đối với những quốc gia đang phát triển, đất nước còn đang ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng còn yếu kém, trình độ khoa học thấp, xuất phát điểm cho quá trình hội nhập nói chung là thấp (như Việt Nam chẳng hạn). Nhưng nếu biết cách tháo gỡ những khó khăn, cùng đoàn kết vì một mục đích, một lý tưởng chung về phát triển kinh tế, chủ động hội nhập và mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế một cách hợp lý thì nhất định sẽ thành công trên con đường hội nhập và phát triển./. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, XI - NXB chính trị Quốc gia. 2. Giáo trình Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 3. Giáo trình Kinh tế Quốc tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 4. Thời báo kinh tế Việt Nam 2002 - 2003; 2003 - 2004 5. Hội nhập AFTA - Cơ hội và thách thức. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35522.doc
Tài liệu liên quan