Đề án này một đã tập chung vào hai vấn đề chính:
Vấn đề thứ nhất là vấn đề pháp quy về hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu. Hợp đồng loại này thuộc sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng nói chung, vấn đề uỷ quyền và luật chuyên ngành là luật thương mại năm 2005 điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng kinh tế và vấn đề uỷ thác trong việc mua bán hàng hoá - một bộ phận của một số hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ban hành ngày 23 tháng 01 năm 2006 quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1928 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến của giám đốc công ty trong năm nay số lượng hợp đồng loại này sẽ tăng một cách đột biến bởi các yếu tố chính sau:
. Nền kinh tế nước ta có tốc độ phát triển cao
. Nước ta là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO
. Các chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ và chiến lược kinh doanh của công ty
. Hiện nay công ty có chiến lược thu hút khách hàng trong lĩnh vực này bằng các chiến lược chăm sóc khách hàng, bổ sung lực lượng marketting và đặc biệt là việc không thu phí ủy thác xuất nhập khẩu, miễn cho khách hàng một số phí hải quan, mở thêm các đại lý ở các quốc gia khác.
2.2 Các đối tác chủ yếu của công ty trong loại hợp đồng này
Như trong phần I của đề tài đã nêu nên một số nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu, các đối tác chính của công trong loại hình này chủ yếu là các làng nghề truyền thống. Do sản xuất không tập trung và chỉ chuyên vào sản xuất lên các làng nghề thường rất yếu trong việc thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, không đăng ký mã số xuất nhập khẩu, có khi cả trong lĩnh vực thị trường tiêu thụ sản phẩm như thông tin về đối tác, thị hiếu và quy mô của thị trường ..Do vậy các làng nghề thường ủy thác cho các đơn vị vận tải việc xuất khẩu cũng như nhờ họ tìm kiếm thị trường tiêu thụ bởi các doanh nghiệp này nắm bắt được thông tin về khách hàng qua những hợp đồng ủy thác xuất khẩu của các đơn vị cùng ngành khác. Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, các đối tác chính của công ty vận tải quốc tế Châu Giang trong nghiệp vụ này gồm:
Làng nghề gốm sứ Bát Tràng
+ Công ty gốm sứ Minh Hải
+ Công ty gốm sứ Quang Minh
+ Công ty gốm sứ Thủy Toan
Làng lụa Vạn Phúc Hà Tây
+ Của hàng Xuân Hương Silk
+ Của hàng XN dệt lụa tơ tằm Hà Đông
Ngoài ra còn một số đối tác thường xuyên khác như
Làng nghề Đồng Kỵ
Làng nghề mây tre Chương Mỹ - Hà Tây
Đồ gỗ Kinh Bắc, Mỹ Hà
Làng nghề sơn mài Duyên Thái - Hà tây
Làng nghề đay cói Kim Sơn – Ninh Bình
Đồ đá mỹ nghệ Quảng Ninh, Đà nẵng
Và một số các doanh nghiệp chuyên doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu như máy móc thiết bị vật tư như:
Công ty TNHH xuất nhập khẩu thiết bị vật tư Hải Hoàng
Công ty cổ phần Sunco
Công ty cổ phần chè Thái Nguyên
Công ty TNHH Ferroli Việt Nam
Công ty cổ phần Thiên Lộc
Công ty Accord Logistics Việt Nam …..
Lý do chính của các công ty này khi chọn phương án ủy thác là thiếu cán bộ chuyên trách về lĩnh vực xuất nhập khẩu và tâm lý thuận tiện trong việc thiết lập hợp đồng với một đối tác trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa, bên cạnh đó cũng có một vài đối tác do không có năng lực xuất nhập khẩu như chưa đăng ký mã số suất nhập khẩu hoặc chưa có giấy phép xuất nhập khẩu đối với một số hàng hóa trong những trường hợp nhất định
2.3 Các bước thực hiện một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu của công ty.
Đối với mỗi loại hợp đồng ủy thác xuất hoặc nhập khẩu thì các bước thực hiện có sự khác biệt ở việc tổ chức thực hiện và quy trình thực hiện nhưng có thể khái quát chung các bước thực hiện loại hợp đồng này theo các bước dưới đây:
Mở L/C (nếu bên ủy thác có ủy thác và trong trường hợp nhập khẩu ủy thác và hợp đồng quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, tổ chức phương tiện vận tải, làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu (nếu đơn vị thuê vận tải các đơn vị khác) mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có)
2.3.1 Mở LC (đối với hợp đồng ủy thác nhập khẩu).
Nếu bên ủy thác ủy thác cho bên nhận ủy thác mở LC thì bên nhận ủy thác phải mở LC tại một ngân hàng nào đó, có thể tại một ngân hàng do bên bán hàng yêu cầu. Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì, phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu). Căn cứ mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở L/C, công ty dựa vào căn cứ này để điền vào mẫu " Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu". Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng và giấy phép nhập khẩu được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi đã ký quỹ theo quy định về việc mở L/C là công ty - người ủy thác mở LC và một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C là bên ủy thác hoặc là công ty nếu có thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác. Khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu chứng từ hợp lệ, trả tiền cho ngân hàng. Khi hoàn tất thủ tục mở LC công ty đã hoàn tất chứng từ để đi nhận hàng.
Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, công ty phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng việc thu đòi tiền. Chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì sau khi nhận hàng chứng từ ở ngân hàng ngoại thương, đơn vị kinh doanh nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định, nếu trong thời gian này, đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính đáng từ chối thanh toán thì ngân hàng xem như yêu cầu đòi tiền hợp lệ. Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài.
2.3.2 Kiểm tra hàng hóa
Đối với hợp đồng ủy thác nhập khẩu trước khi nhận hàng, công ty kiểm tra đối chiếu các thông số về hàng hóa như số lượng, quy cách đóng gói, các thông số bên ngoài của hàng hóa dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa mà bên ủy thác cung cấp, có quyền từ chối nhận hàng và thông báo cho bên ủy thác biết nếu hàng hóa không có các thông số như đã ghi trên hợp đồng mua bán hàng hóa được lập bởi bên ủy thác và bên bán hàng. Tuy nhiên đơn vị được ủy thác không phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, xuất xứ của hàng hóa, tính hợp pháp của hàng hóa
2.3.3 Mua bảo hiểm
Nếu bên ủy thác thỏa thuận bên được ủy thác sẽ mua bảo hiểm cho hàng hóa thì công ty sẽ tiến hành mua bảo hiểm cho lô hàng đó. Thông thường khi cần mua bảo hiểm công ty thường mua bảo hiểm tại công ty Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, công ty ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng lên phương tiện vận tải công ty gửi đến công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là: "Giấy báo bắt đầu vận chuyển" khi mua bảo hiểm chuyến, công ty phải gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là: "Giấy yêu cầu bảo hiểm ". Trên cơ sở "Giấy yêu cầu..."này, công ty và công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm.
2.3.4 Làm thủ tục hải quan
Ở khâu này, công ty phải thực hiện các bước:
-. Khai báo hải quan.
Công ty khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Nội dung của tờ khai bao gồm những mục như: Loại hàng, (hàng mậu dịch, hàng trao đổi tiểu ngạch biên giới hàng tạm nhập tái xuất...), tên hàng, số, khối lượng, giá trị hàng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu hoặc nhập khẩu với nước nào…(các thông số trên được cung cấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa do bên ủy thác cung cấp) tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác, mà chủ yếu là: giấy phép xuất nhập khẩu; hoá đơn phiếu đóng gói; bảng kê chi tiết
- Xuất trình hàng hoá.
Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát. Ðể thực hiện thủ tục kiểm tra và giám sát chủ hàng phải nộp thủ tục phí hải quan cho cơ quan hải quan thực hiện chức năng kiểm tra hàng hóa.
- Thực hiện các quyết định của hải quan
Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan có thể ra những quyết định như: Cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...) cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế, lưu kho ngoại quan hàng không được xuất (hoặc nhập) khẩu... nghĩa vụ của công ty là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó và thông báo cho bên ủy thác biết về các quyết định của cơ quan hải quan kèm theo các giấy tờ xác nhận các quyết định đó của cơ quan hải quan, để làm các thủ tục thanh toán sau này.
Sau khi hàng hóa được vận tải về đến địa điểm giao hàng tại địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác nhập khẩu, bên ủy thác hoàn tất thủ tục giao hàng cho bên ủy thác.
2.3.5 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Nếu bên ủy thác phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đỗ vỡ thiếu hụt, mất mát thì đối tượng khiếu nại sẽ là chính công ty bởi hợp đồng vận tải do bên ủy thác ký kết với công ty, trong trường hợp này công ty sẽ tự giải quyết với bên ủy thác bằng các con đường như đàm phán, trọng tài hoặc tòa án. Đối tượng khiếu nại là người bán, nếu hàng có chất lượng, hoặc số lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ, thanh toán nhầm lẫn....Ðối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá - đối tượng của bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tại nạn bất ngò hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.Trong hai trường hợp này, công ty sẽ thay mặt bên ủy thác giải quyết các vấn đề trên với các đối tượng trong từng trường hợp cụ thể. Ðơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại công ty bảo hiểm) v.v...
2.4 Việc tuân thủ các vấn đề pháp lý trong hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu
Trong hợp đồng ủy thác xuất cũng như nhập khẩu, các vấn đề pháp quy được quy định tại Điều 28 của Luật thương mại và tại Nghị định của Chính Phủ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Để xem xét việc áp dụng các vấn đề pháp quy trong hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu ta xét một trong các hợp đồng ủy thác nhập khẩu của công ty dưới đây:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do –Hạnh phúc
Hà nội, ngày 23 tháng 01 năm 2007
Số hợp đồng: 240107/GN-CG
HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU ỦY THÁC
Căn cứ vào Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về pháp lệnh hợp đồng kinh tế
Căn cứ Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 07 năm 1998 của Thủ tướng Chính Phủ
Căn cứ hợp đồng ngoại thương số 23 giữa công ty TNHH TM và XD Giao Ngoan và công ty SISO (Đan Mạch)
Bên A: Công ty TNHH TM & XD Giao Ngoan
Địa chỉ: SHOP 17 và 20 Tháp Hà Nội
Tel/Fax: 04 9347069
Mã số thuế: 0100909092
Do bà: Lê thị Hồng Ngoan - Chức vụ giám đốc làm đại diện
Bên B : CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ VẬN TẢI QUỐC TẾ CHÂU GIANG
Mã số thuế: 0101252363
Tài khoản tiền Việt Nam: Số 60849
Tại ngân hàng Indovina
Do ông: Nguyễn Châu Thành - Chức vụ giám đốc làm đại diện
Hai bên thỏa thuận ký hợp đồng ủy thác nhập khẩu lô hàng theo những điều kiện và điều khoản sau:
Điều 1: Tên hàng, số lượng, giá cả
- Tên hàng: Ray ô kéo, chân nhựa, ốc giường, đỡ đợt nhựa
- Số lượng: Như đơn đặt hàng đính kèm
- Trị giá : 7.462,2USD
- Xuất xứ hàng hóa: Đan Mạch
- Mã số hải quan của hàng
- Bên bán (đối tác nước ngoài) Công ty SISO
- Tel + 45 45 830 900 Fax + 45 45 950 926
-Thời gian giao hàng : sau khi chuyển tiền một tháng
Điều 2: Chất lượng bao bì, đóng gói: Theo tiêu chuẩn xuất khẩu
Điều 3: Trách nhiệm bên A
- Bên A sẽ chuyển đơn hàng đã được bên đối tác nước ngoài của bên A –Công ty SISO đã ký (chuyển bằng email in ra từ máy tính) cho bên B để bên B trình ngân hàng chuyển tiền cho công ty SISO từ tài khoản của bên B – Bên A sẽ chuyển tiền từ tài khoản của bên A số tiền như trong đơn hàng với công ty SISO cho bên B
- Sau khi nhận được thông báo của bên B về việc giao hàng, bên A có trách nhiệm thanh toán cho bên B các khoản chi phí liên quan tới việc giao nhận hàng hóa bao gồm:
+ Phí ủy thác nhập khẩu (2% của trị giá hàng)
+ Phí làm dịch vụ giao nhận lô hàng
+ Phí vận chuyển hàng từ cảng Hải Phòng về kho bên A ở Hà Đông – Hà Tây
+ Thuế nhập khẩu theo biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành
+ Thuế VAT theo biểu thuế hiện hành
+ Các chi phí khác liên quan đến lô hàng: theo hóa đơn
- Tổ chức tiếp nhận hàng hóa nhanh chóng khi có thông báo giao hàng của bên B
- Bên A có trách nhiệm thanh toán cho bên B tiền thuế bổ sung nếu Bộ tài chính có sự thay đổi về thuế đối với các mặt hàng này
- Khách ngoại do bên A chỉ định, nên bên A sẽ chịu mọi trách nhiệm về chất lượng số lượng hàng hóa cũng như bản chất của hàng hóa. Nếu hàng hóa không đúng bên A phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mặt pháp lý và chi phí phát sinh kể cả việc nộp phạt nếu cơ quan hải quan phát hiện sai sót về bản chất hàng hóa. Nếu không bên B có toàn quyền sở hữu lô hàng để bù đắp các chi phí phát sinh.
Điều 4: Trách nhiệm của bên B
- Nhanh chóng ky hợp đồng ngoại thương theo đúng số lượng, trị giá và các điều khoản mà bên B đã thỏa thuận với người bán của Hợp đồng của hợp đồng ngoại thương số:
- Ngay sau khi nhận 7.462,2 USD của bên A, bên B có trách nhiệm chuyển số tiền này cho công ty qua tài khoản của bên B.
- Sau khi bên B giao hàng cho bên A, bên B có trách nhiệm xuất hóa đơn bán hàng có VAT cho bên A với hàng hóa, số lượng, tiền hàng (đã bao gồm thuế nhập khẩu) như bên B đã nhập.
- Thông báo cho bên A biết trước thời hàng giao hàng để chuẩn bị tiếp nhận hàng hóa
- Thay mặt bên A khiếu nại với khách hàng nước ngoài trong trường hợp có phát sinh khiếu nại
- Có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng không đúng như hợp đồng đã ký kết - Trong trường hợp bên B đã mở tờ khai hải quan, nộp thuế nhập khẩu (nếu có), thuế VAT, khi kiểm hóa nếu cơ quan chức năng phát hiện sai sót về bản chất hàng hóa, hàng không đúng như hợp đồng đã ký, bên A phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với các chi phí của mình. Nếu bên A không thực hiện các điều kiện trong hợp đồng này thì bên B có toàn quyền định đoạt lô hàng để bù đắp chi phí phát sinh.
- Bên B giao hàng tại kho cho bên A.
Điều 5: Điều khoản chung
- Hai bên phải thường xuyên thông báo cho nhau về kế hoạch giao nhận hàng.
- Hợp đồng ngoại thương số: GN- 0578 ngày 09 tháng 03 năm 2007 là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng này và bên A có trách nhiệm thực hiện .
- Các bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, các bên sẽ gặp nhau bàn bạc giải quyết.
- Trong trường hợp không giải quyết được, các bên sẽ đưa ra Trung tâm trọng tài quốc tế đặt cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Mọi phán quyết của tòa sẽ là quyết định cuối cùng ràng buộc hai bên phải thực hiện. Chi phí trọng tài sẽ do bên thua kiện chịu.
- Hợp đồng này được làm thành hai bản, mỗi bên giữ một bản có hiệu lực như nhau kể từ ngày ký
Nếu không có vấn đề gì phát sinh thì hợp đồng này sẽ coi như được thanh lý sau thời gian 3 tháng kể từ ngày bên B giao hàng cho bên A
Đại diện bên A Đại diện bên B
Giám đốc: Nguyễn Châu Thành Giám đốc: Nguyễn Giao Ngoan
(đã ký) (đã ký)
Hợp đồng trên là một hợp đồng dịch vụ do vậy nó thuộc sự điều chỉnh của Luật thương mại. Trong hợp đồng trên ta thấy các vấn đề chú ý trong việc áp dụng pháp luật như sau:
- Trong quá trình soạn thảo hợp đông hai bên đã tuân thủ theo các nguyên tắc của việc soạn thảo do Bộ luật dân sự và Luật thương mại quy định là bình đẳng trung thực và ngay thẳng và các nguyên tắc trong hoạt động thương mại do Luật thương mại quy định.
-Về chủ thể ký kết hợp đồng, hai bên đều là thương nhân và thực hiện hợp đồng trên phục vụ mục đích kinh doanh do vậy nó chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại.
- Về nội dung hợp đồng, các bên thỏa thuận về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên trong đó có nêu: chất lượng của dịch vụ là bên nhận ủy thác phải nhận hàng từ đối tác của bên ủy thác; làm thủ tục hải quan; vận chuyển hàng hóa giao cho bên ủy thác tại kho của bên ủy thác, thay mặt bên ủy thác giải quyết các khiếu nại nếu có phát sinh do đối tác của bên ủy thác; giá cả của dịch vụ là các khoản phí bên ủy thác phải trả cho bên nhận ủy thác; các trường hợp miễn trách và các biện pháp giải quyết tranh chấp phát sinh; thời hạn hết hiệu lực của hợp đồng.
- Về hình thức của hợp đồng, hợp đồng này được lập thành văn bản và mỗi bên giữ một hợp đồng có giá trị pháp lý như nhau.
Vậy hợp đồng trên về chủ thể, nội dung và hình thức đều phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự và Luật thương mại
- Việc viện dẫn các văn bản pháp quy để xây dựng hợp đồng như trên ta thấy các bên vẫn căn cứ vào các văn bản đã hết hiệu lực. Theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các văn bản ban hành sau sẽ thay thế văn bản đã ban hành trước đó và các quan hệ trong lĩnh vực của văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh sẽ tuân theo sự điều chỉnh của các quy định của văn bản mới. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế ngày nay đã hết hiệu lực, các quy định về hợp đồng nói chung, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2005, hợp đồng kinh tế sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 .Còn các vấn đề pháp lý quy định về nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu được quy định chi tiết trong Nghị số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Trong Quyết định của Bộ trưởng Bộ thương mại số1172/TM-XNK ngày 23/04/1994 Ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước tại điều 2 có quy định Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với quy định trong Quyết định này đều bãi bỏ. Các bên khi soạn thảo hợp đồng trên vẫn viện dẫn các văn bản pháp quy trước đó. Nếu hợp đồng trên có tranh chấp xảy ra thì việc viện dẫn các văn bản pháp lý để giải quyết tranh chấp sẽ là Luật thương mại năm 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP và Quyết định số 1172/TM-XNK chứ không phải là các văn bản như đã viện dẫn trong hợp đồng trên. Do vậy công ty khi soạn thảo một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu ủy thác nói riêng và các hợp đồng thương mại nói chung phải viện dẫn các văn bản chính xác tránh trường hợp các văn bản pháp quy có quy định khác nhau về cùng một vấn đề gây thiệt hại về phía công ty.
2.5 Thanh lý hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
Trong các hợp đồng thương mại của công ty nói chung đều có điều khoản quy định về việc thanh lý hợp đồng, thông thường là thời hạn 3 tháng sau khi hoàn tất việc thực hiện hợp đồng và không có vụ việc phát sinh như khiếu nại. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 tại Điều 424 thì hợp đồng được thanh lý trong các trường hợp:
. Hợp đồng đã được hoàn thành;
. Theo thoả thuận của các bên;
. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện;
. Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại;
Như xét hợp đồng thương mại trên ta thấy công ty không thoả thuận các trường hợp mà theo đó hợp đồng đương nhiên thanh lý mà chỉ quy định thời gian hợp đồng đó bị thanh lý bởi việc soạn thảo hợp đồng phải trên cơ sở các quy định cùa pháp luật và các điều kiện nếu không có thoả thuận khác thì sẽ tuân theo quy định của pháp luật do vậy hai bên đã không đưa hết các trường hợp hợp đồng. Đây là một sự linh hoạt trong việc tuân thủ theo pháp luật về hợp đồng của công ty.
2.6 Những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
Trong thực tiễn thực hiện hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu, công ty đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
* Những thuận lợi
- Về phía nhà nước
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã có những lỗ lực to lớn trong việc mở cửa thị trường, thu hút đầu tư khuyến khích xuất nhập khẩu, cải cách các thủ tục hành chính, sửa đổi, bổ sung và ban hành các bộ luật giúp cho nó gắn liền với thực tiễn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu của công ty.
- Về phía doanh nghiệp
Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực vận tải và thương mại quốc tế do vậy công ty có rất nhiều thuận lợi trong việc thực hiện các hợp đồng loại này:
+ Về đội ngũ nhân lực, được tuyển dụng và đào tạo thực tiễn phù hợp với nghiệp vụ do đó kiến thức về thương mại quốc tế nói chung, luật thương mại quốc tế của đội ngũ nhân viên khá vững vàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghiệp vụ này như soạn thảo hợp đồng thành thạo, chặt chẽ, làm các thủ tục hải quan nhanh chóng đúng luật
+ Về phía đối tác, khách hàng. Trong phương châm kinh doanh của công ty là lợi nhuận trên cơ sở chữ tín và đặc điểm khách hàng của công ty trong nghiệp vụ này thường ký kết hợp đồng theo thói quen thương mại, hầu như không có bộ phận chuyên trách về lĩnh vực pháp lý liên quan đến vận tải và thủ tục hải quan do đó tâm lý không muốn thay đổi đối tác trong các hợp đồng loại này. Chính vì vậy mà các khách hàng truyền thống của công ty ngày càng nhiều theo thời gian hoạt động kinh doanh. Mạng lưới đối tác của công ty để thực hiện nghiệp vụ này đã có mặt trên rất nhiều các quốc gia trên thế giới trong đó nhiều nhất là Trung Quốc, Mỹ, Canada và Nhật Bản. Công ty cũng gia nhập các hiệp hội vận tải quốc tế và khu vực như Hiệp hội vận tải quốc tế FIATA, IATA và China Shipping. Các hiệp hội này bên cạnh việc cung cấp những thông tin về vận tải, thủ tục hải quan quốc tế cho các thành viên còn thành lập các quỹ bảo trợ rủi ro cho các thành viên.
+ Các ngành nghề kinh doanh của công ty đều liên quan đến thương mại quốc tế do vậy các trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty đều đóng góp trong việc thực hiện loại hợp đồng này như kho bãi, phương tiện vận tải.
* Những khó khăn
- Do các chính sách pháp quy mang lại
+ Sự không thống nhất của các văn bản pháp luật đã gây khó khăn cho các chủ thể khi chọn luật áp dụng đối với mỗi đối tác. Như trong Luật thương mại có quy định đối tượng điều chỉnh của luật thương mại là các hoạt động kinh tế nhằm mục đích sinh lời, gọi chung là hoạt động thương mại, và trong khoản 3 Điều 1 Luật thương mại có quy định đối tượng điều chỉnh còn bao gồm cả các quan kinh tế giữa một bên là thương nhân và một bên là các cá nhân tổ chức với mục đích không phải nhằm sinh lời nếu thỏa thuận áp dụng luật này, còn trong Bộ luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản như vậy trong một số trường hợp các bên đã lợi dụng khe hở này khi ký kết một hợp đồng kinh tế. Ví dụ như khi hai cá nhân không phải là thương nhân ký kết một hợp đồng mua bán một ngôi nhà, khi mua ngôi nhà,
bên B với mục đích là mua vào và bán cho người khác để kiếm lời nhưng lại nói là mua để ở do vậy khi làm hợp đồng mua bán nhà với bên B hai bên đã lập hợp đồng dân sự và lúc tranh chấp xảy ra thì bên B đã bán ngôi nhà đó lại cho bên C do vậy rất khó cho các cơ quan nhà nước trong việc xác định luật áp dụng trong trường hợp này và việc chọn đúng luật áp dụng còn liên quan tới thủ tục tố tụng, tòa án có thẩm quyền giải quyết và mức phạt vi phạm hợp đồng bởi cùng ở ví dụ trên trong Bộ luật dân sự 2005 tại khoản 2 Điều 422 có quy định mức bồi thường thiệt hại là do hai bên tự thỏa thuận còn trong luật thương mại tại Điều 301 có quy định mức phạt vi phạm không quá 8 % mức giá trị hợp đồng
+ Tình trạng Chính phủ ban hành chậm các nghị định cụ thể hướng đẫn thi hành các đạo luật của Quốc hội và các bộ, các ngành không có đủ thông tư, chỉ thị cụ thể hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ cũng là một khó khăn lớn đối với doanh nghiệp bởi luật chỉ quy định chung chung không thể chi tiết đối với một vấn đề cụ thể, điều này được làm trong các văn bản dưới luật như nghị định, chỉ thị thông tư. Do vậy rất khó để các doanh nghiệp nói riêng và các tổ chức kinh tế nói chung hiểu đúng theo pháp luật và từ đó các quy phạm pháp luật khó được thực hiện một cách đúng đắn. Đối với vấn đề về hợp đồng, hiện nay chỉ có bộ luật khung là Luật dân sự quy định các vấn đề về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, đối với hợp đồng kinh tế thì Luật thương mại cũng chỉ quy định về hình thức và chủ thể của hợp đồng, nhưng cũng chỉ mang tính khái quát như luật dân sự. Riêng vấn đề uỷ thác xuất nhập khẩu, trước đây có Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài và Quyết định Số: 1172/TM-XNK của Bộ trưởng bộ thương mại ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân hướng dẫn chi tiết thi hành các vấn đề pháp lý về nghiệp vụ này, còn hiện nay chỉ có Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ban hành ngày 23 tháng 01 năm 2006 hướng dẫn chi tiết thi hành nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu nhưng cũng chỉ có một chương (chương IV) gồm 4 điều ( từ điều 17 tới điều 20) quy định về vấn đề này, điều này đã không tạo được thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong kĩnh vực này áp dụng pháp luật trong việc thực hiện các hợp đồng ủy thác xuất hoặc nhập khẩu.
- Về phía doanh nghiệp
Doanh nghiệp mặc dù thực hiện nghiệp vụ này đã đạt được nhũng thuận lợi nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn gặp phải một số khó khăn chủ yếu:
Về phía đội ngũ nhân lực và công tác tổ chức nhân lực thực hiện nghiệp vụ này còn một số vấn đề cần phải chú ý một số vấn đề:
+ Chưa có chính sách hợp lý giữ chân người tài và tuyển dụng các lao động mới có trình độ chuyên môn vững vàng nhằm mở rộng phạm vi các mặt hàng trong hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu của công ty. Chưa thành lập một bộ phận chuyên trách về pháp luật thương mại nhằm chuyên môn hóa lao động trong công ty và nâng cao hiệu quả công việc của các bộ phận. Bộ phận này sẽ có chức năng tư vấn các vấn đề pháp lý cho giám đốc và đội ngũ cán bộ công nhân viên và tham gia vào việc đàm phán ký kết hợp đồng thương mại, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trinh hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
+ Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận. Trong qua trình thực hiện công việc của mình, các bộ phận còn mang tính riêng lẻ thiếu sự phối hợp đồng bộ, ví dụ bộ phận marketting chưa giúp đỡ bộ phận kế toán trong việc thu hồi công nợ ở những khác hàng mà mình chăm sóc và ngược lại bộ phận kế toán cũng không giúp đỡ bên marketting tìm hiểu những thông tin về khách hàng.
2.7 Các tranh chấp xảy ra và hướng giải quyết
Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của đơn vị do một phần khách hàng là các khác hàng truyền thống và các đối tác đa phần chưa có bộ phận chuyên trách pháp lý riêng biệt nên hầu như không có một tranh chấp đáng kể nào xảy ra trong việc thực hiện hợp đồng loại này nói riêng và hợp đồng kinh tế nói chung. Chỉ có một số các tranh chấp nhỏ xảy ra đối với các khách hàng mới về các vấn đề như thời gian giao nhận hàng hóa, thời gian thanh toán. Trong quý II năm 2006 đã có một tranh chấp đáng kể giữa công ty với một doanh nghiệp kinh doanh gốm sứ Bát Tràng (Xin được giấu tên doanh nghiệp) về thời gian giao hàng và thời gian thanh toán. Trong hợp đồng có quy định trong khoảng thời gian là 18-20 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng ủy thác, công ty phải hoàn tất thủ tục giao hàng cho khách hàng của bên ủy thác là một công ty Nhật bản tuy nhiên do yếu tố khách quan là đối tác của công ty chậm tàu lên thời gian giao hàng lên tới 26 ngày, bên ủy thác đã từ chối thanh toán mức phí như đã thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác với công ty là 40 USD/m3 tương đương với mức phí loại 1 và chỉ chấp nhận thanh toán với mức phí loại 2 là 30 USD/m3, bằng con đường thương lượng với lý do bất khả kháng do phía đối tác của công ty gây ra (Trong hợp đồng uỷ thác xuất khẩu này công ty không soạn thảo điều khoản các trường hợp miễn trách) công ty đã giải quyết được tranh chấp trên và bên ủy thác đã chấp nhận thanh toán với mức phí ở loại 1 tuy nhiên thời gian thanh toán đã chậm lại 2 tháng so với hợp đồng. Nhìn chung các tranh chấp xảy ra công ty đều chọn phương án thương lượng để giải quyết và chưa lần nào phải giải quyết bằng trọng tài hoặc tòa án.
CHƯƠNG III
NHỮNG ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN VÀ ÁP DỤNG CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
TRONG HỢP ĐỒNG ỦY THÁC XUẤT NHẬP KHẨU
I. Đánh giá chung về nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác
1. Thị trường của nghiệp vụ này
Trong thời kỳ kinh tế mở hiện nay, nhà nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường có định hướng do vậy thị trường của nghiệp vụ này có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
* Những thuận lợi
- Thứ nhất một nền kinh tế mở khuyến khích sự đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài làm thúc đẩy nhu cầu sản xuất cũng như tiêu dùng, việc xuất nhập khẩu cũng tăng mạnh nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng nhiều của nền kinh tế nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 155 của tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc tự do hóa thương mại của nước ta với các nước trên thế giới được cải thiện rất nhiều do sự điều chỉnh của các chế tài của tổ chức này việc này đồng nghĩa với việc thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng. Ví dụ trước đây khi nước ta chưa trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, thị trường của các nước thuộc tổ chức này có rất nhiều rào cản về thuế quan và phi thuế quan nhằm hạn chế việc xuất khẩu một số mặt hàng của nước ta vào thị trường của họ hoặc ngược lại ta cũng áp đặt các rào cản để nhằm hạn chế nhập khẩu các mặt hàng từ thị trường của các nước này. Khi đã là thành viên của WTO thì các rào cản đó được giảm xuống hoặc bãi bỏ bởi nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia của tổ chức này. Theo nguyên tắc này, mỗi quốc gia phải giành sự ưu tiên cho quốc gia khác không kém hơn cho một quốc gia thứ ba, ví dụ Mỹ, Việt nam và Thái lan đều là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, nếu như các hàng hóa nhập khẩu từ Thái lan vào Mỹ với thuế xuất là 0 % thì mặt hàng đó của Việt nam xuất vào thị trường Mỹ cũng được hưởng mức thuế xuất là 0 % . Song song với việc xuất nhập khẩu được mở rộng thị trường là việc ủy thác xuất nhập khẩu cũng ngày một tăng lên.
-Thứ hai, nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới do vậy pháp luật kinh tế của nước ta nói riêng đang trong quá trình sửa đổi bổ sung rất nhiều để phù hợp với các điều ước quốc tế nên việc cập nhật thông tin về pháp luật của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn tới việc không nắm bắt được các vấn đề pháp quy về thủ tục xuất nhập khẩu, đây là một yếu tố thúc đẩy nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu phát triển
-Thứ ba là sự chuyên môn hóa về ngành nghề ngày càng tăng, các doanh nghiệp thường tập chung vào các ngành nghề có thế mạnh nhằm hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm tăng tính cạnh tranh trên thị trường nên các nghiệp vụ phụ thường thuê các doanh nghiệp khác thực hiện, bên cạnh đó việc khuyến khích kinh doanh của pháp luật kinh tế trong nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra đời của các doanh nghiệp mới, các doanh nghiệp mới với quy mô vừa và nhỏ thường không đủ năng lực trong việc tự mình xuất nhập khẩu.
* Những khó khăn
Cùng với các thuận lợi do việc hội nhập kinh tế mang lại cho thị trường của nghiệp vụ này thì bên cạnh đó cũng có nhũng khó khăn do chính hệ quả của việc hội nhập mang lại. Như trên đã trình bày bên cạnh việc thuân lợi do việc thường xuyên sửa đổi bổ sung các văn bản luật cũng mang lại khó khăn cho chính các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề này trong việc cập nhật pháp luật có liên quan. Hơn nữa, việc hội nhập đồng nghĩa với việc sẽ có các đối thủ cạnh tranh trong ngành này từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển hơn cả về tài chính lẫn chuyên môn nghiệp vụ. Đây là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước kinh doanh ngành nghề này.
2. Thực tiễn thực hiện loại hợp đồng này tại cơ sở
Trong quá trình kinh doanh, việc thực hiện hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu của cơ sở đã đạt được một số những thành tựu nhất định, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế.
* Những mặt làm được
- Về việc xúc tiến ký kết hợp đồng, không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc những khách hàng cũ công ty còn có chính sách cụ thể khuyến khích các nhân viên tìm kiếm ký kết hợp đồng với các khách hàng mới. Giám đốc công ty có quyết định mức thưởng đối với bộ phận marketting là 5 % giá trị lợi nhuận của hợp đồng mà nhân viên đó ký được, với các bộ phận khác đều có chính sách thưởng phạt hợp lý do vậy đã khuyến khích được nhân viên trong việc thực hiện công việc của mình. Việc soạn thảo hợp đồng nhìn chung đã tuân thủ đúng theo các vấn đề pháp quy về hợp đồng, linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức hợp đồng để kịp thời nắm bắt thời cơ.
- Về việc thực hiện hợp đồng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty luôn lấy chữ tín làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, nên mọi khâu đều được thực hiện chu đáo. Khi có tranh chấp xảy ra thì biện pháp thương lượng tự giải quyết luôn là phương pháp giải quyết tối ưu mà công ty lựa chọn trên phương diện hợp tác hai bên cùng có lợi do vậy thường để lại một hình ảnh tốt đối với các khách hàng. Sau khi hợp đồng đã dược thanh lý công ty vẫn có sự liên hệ tư vấn cho khách hàng thông qua chế độ chăm sóc khách hàng.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong nhiều lĩnh vực và trên nhiều quốc gia khác nhau do vậy đã tạo được mạng lưới rộng, đáp ứng được các nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng.
Chủ động tham gia vào các hiệp hội ngành nghề trong nước và trên thế giới mở rộng mối quan hệ thông qua các tổ chức này, cũng từ việc gia nhập các hiệp hội mà rủi ro về ngành nghề được giảm xuống bởi các thông tin về ngành nghề được hiệp hội cung cấp cho các thành viên và mỗi hội đều có quỹ hỗ trợ các thành viên khi một thành viên của hội gặp rủi ro.
* Những hạn chế
Việc thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu của công ty nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung công ty còn mắc phải một số hạn chế sau:
Quan điểm về hợp đồng, công ty luôn có quan điểm hợp đồng chỉ là hình thức do đó việc thương lượng ký kết hợp đồng không được coi trọng đúng mức, có những hợp đồng mẫu được soạn và áp dụng cho nhiều năm trong khi đó các vấn đề pháp quy về hợp đồng kinh tế lại thường xuyên thay đổi nhằm phù hợp với sự phát triển của hoạt động kinh tế. Ví dụ minh hoạ trên về hợp đồng uỷ thác nhập khẩu giữa công ty với công ty Giao Ngoan cho ta thấy rất rõ điều này qua việc lấy căn cứ là Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế năm 1989, và Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 07 năm 1998 của Thủ tướng Chính Phủ làm cơ sở pháp lý đẻ giao kết hợp đồng.
Chưa thực sự thấy hết được ảnh hưởng của các chế định pháp lý đến hoạt động kinh doanh, nó biểu hiện qua sự cập nhật các thông tin về pháp luật của đội ngũ nhân lực trong công ty còn hạn chế mặc dù các cán bộ của công ty được trang bị máy vi tính 100% điều này cho thấy việc không coi trọng đến sự ảnh hưởng của pháp luật kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đây cũng là hạn chế chung của các doanh nghiệp Việt nam do vậy thường bất lợi trong việc ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các vấn đề pháp quy trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
1. Về phía nhà nước
- Vấn đề ban hành các văn bản pháp luật kinh tế
Hợp đồng kinh tế nói chung trong một thời gian dài được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế điều chỉnh và pháp lệnh này đã đạt được những hiệu quả nhất định, nó đi sát với thực tiễn của hoạt động kinh tế, điều đó thể hiện ngày nay trong tâm trí người soạn thảo hợp đồng vẫn muốn viện dẫn Pháp lệnh này vào trong các hợp đồng kinh tế, Mặc dù trong giai đoạn hiện nay pháp lệnh trên đã hết hiệu lực bởi một số quy phạm không còn phù hợp với thực tiễn và các vấn đề về hợp đồng thương mại do Luật thương mại điều chỉnh. Vì sao người soạn thảo hợp đồng lại có tâm lý như vậy măc dù các vấn đề về hợp đồng kinh tế đã có bộ luật khung là Bộ luật dân sự và luật chuyên ngành là Luật thương mại điều chỉnh, đây là một câu hỏi đặt ra mà các nhà lập pháp phải quan tâm bởi khi ban hành một văn bản pháp luật thì nó phải đi vào thực tiễn được các đối tượng điều chỉnh nghiêm túc chấp hành. Trả lời câu hỏi này, ngày nay xuất hiện hai dòng quan điểm khác nhau
- Thứ nhất vấn đề hợp đồng thương mại lên để pháp lệnh điều chỉnh và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay và tư tưởng này không quen việc điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng kinh tế bằng một bộ luật khung và một luật chuyên ngành.
- Thứ hai không công nhận sự tồn tại của pháp lệnh trên trong giai đoạn hiện nay vì các vấn đề về hợp đồng thương mại đã có Luật thương mại điều chỉnh và pháp lệnh về hợp đồng kinh tế đã không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
Các quan điểm trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn của nó tuy nhiên ở đây chúng ta đứng trên phương diện pháp quy để nhìn nhận vấn đề, trong phần trên của đề tài này đã nêu ra rằng theo luật ban hành văn bản pháp luật thì các văn bản pháp luật mới được sửa đổi bổ sung từ văn bản pháp luật cũ và thay thế cho văn bản pháp luật cũ do vậy trên đây, ý kiến thứ hai vẫn là hợp lý hơn, nhưng vì sao khi soạn thảo hợp đồng kinh tế, các bên soạn thảo lại thích viện dẫn Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hơn, phải chăng đó là một thói quen khó sửa. Đây chỉ là một yếu tố ảnh hưởng tuy không nhỏ nhưng không phải là yếu tố duy nhất, còn một yếu tố quan trọng khác là các vấn đề pháp quy về hợp đồng kinh tế trong Luật thương mại năm 1997 cũng như Luật thương mại năm 2005 còn chung chung, muốn chi tiết như về nội dung của hợp đồng, các nguyên tắc giao kết hợp đồng phải tìm hiểu trong luật dân sự, các nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thương mại lại không nhiều và không bao chùm được hết các vấn đề do đó đã là nguyên nhân hạn chế áp dụng các vấn đề pháp quy về hợp đồng của luật thương mại vào thực tiễn. Do đó để giải bài toán trên nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng kinh tế trong thực tiễn các cơ quan nhà nước có chức năng phải ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật một cách chính xác, cụ thể và dễ hiểu cho các đối tượng áp dụng thi hành. Như vấn đề về uỷ thác xuất nhập khẩu mà đề tài này đề cập thì các văn bản dưói luật hướng dẫn chi tiết còn rất hạn chế, nó chỉ được quy định trong một chương gồm 4 điều tại nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ. Trong khi đó Bộ thương mại chưa có quyết định nào hướng dẫn chi tiết thi hành chương này của nghị định trên, nhìn lại trước đây, bộ trưởng bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 1172/TM-XNK Ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước, trong đó có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Vậy tại sao ngày nay bộ Thương mại lại không có một quyết định hướng dẫn chi tiết nghiệp vụ này, tình hình nợ các văn bản hướng dẫn thi hành luật và nghị định của các cơ quan có chức năng là một nguyên nhân làm cho pháp luật kinh tế chưa thật sự đi vào các quan hệ kinh tế.
- Cần có sự thống nhất trong các chế định pháp luật, để thấy được vấn đề này ta xem xét các vấn đề pháp quy về cùng một vấn đề huỷ hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại. Việc các hợp đồng kinh tế phải tuân theo các quy định của Bộ luật khung - Bộ luật dân sự năm 2005 là điều phù hợp với pháp luật tuy nhiên pháp luật có quy định các quy định về cùng một vấn đề mà có sự khác nhau giữa luật chuyên ngành và luật khung thì sẽ áp dụng luật chuyên ngành. Trong Bộ luật dân sự có quy định một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định (Khoản 1 Điều 425). Theo như quy định này, các bên có quyền huỷ hợp đồng khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ hợp đồng đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc tại một biên bản khác. Việc huỷ hợp đồng theo quy định của pháp luật là trường hợp bên vi phạm đã vi phạm các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng. Trong Luật thương tại Khoản 4 Điều 312 có quy định: Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Điều 294 của Luật thương mại là điều khoản quy định về các trường hợp miễn trách đối với hành vi vi phạm bao gồm:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Vậy khi bên có hành vi vi phạm thuộc các trường hợp miễn trách trên thì bên bị vi phạm không có quyền huỷ hợp đồng đã giao kết còn trong trường các trường hợp: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng chế tài huỷ hợp đồng. Như vậy giữa Luật thương mại và Bộ luật dân sự có sự quy định khác nhau về cùng một vấn đề huỷ hợp đồng, theo Luật thương mại thì chế tài huỷ hợp đồng không áp dụng cho trường hợp pháp luật có quy định huỷ hợp đồng bởi Điều 312 là một điều luật đóng. Lẽ ra để thống nhất giữa hai văn bản này, trong Khoản 4 Điều 312 của Luật thương mại phải có thêm một quy định mở “ Các trường hợp khác do pháp luật quy định ” .
- Vấn đề liên quan tới việc truyền tải các vấn đề pháp quy tới nhận thức của người dân
Hiện nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, có nhiều kênh thông tin mà qua đó các chế định pháp quy đến với người dân một cách thuận lợi, như Internet, truyền thanh, truyền hình, báo chí. Tuy nhiên nhà nước ta chưa thực sự quan tâm đúng mức trong việc truyền tải pháp luật nói chung đến với người dân. Hiện nay, một bộ luật do quốc hội ban hành được các nhà xuất bản bán với giá khá cao trên thị trường, khiến cho những người có thu nhập trung bình thấp khó có khả năng đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của mình, đây là một vấn đề khó chấp nhận bởi việc phổ biến pháp luật đến với người dân là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có chức năng cần phải có quỹ riêng tài trợ cho hoạt động này.
2. Về phía công ty
Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang, quá trình thực tập được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn thực tập tổng hợp và giai đoạn thực tập chuyên ngành. Khoảng thời gian thực tập chuyên ngành là 10 tuần tôi đã tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp quy và thực tiễn áp dụng các vấn đề đó trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu của công ty, từ đó thấy được một số mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế trong việc áp dụng các vấn đề pháp quy về loại hợp đồng này của cơ sở như đã trình bày trong phần đánh giá ở trên, dưới đây theo quan điểm và sự hiểu biết của mình tôi xin nêu ra mật số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong loại hợp đồng này:
* Về những mặt đã làm tốt, công ty lên tiếp tục thực hiện và phát huy như soạn thảo các hợp đồng mẫu đáp ứng nhanh yêu cầu về tiến độ giao kết hợp đồng kinh tế nói chung trong hoạt động kinh doanh. Các vấn đề quy định về hợp đồng kinh tế như về chủ thể giao kết hợp đồng, nội dung và hình thức hợp đồng công ty đã thực hiện phù hợp với các vấn đề pháp quy về hợp đồng kinh tế. Thực hiện các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu theo các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật về nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác một cách đầy đủ và chu đáo tạo nên ấn tượng tốt đối với các đối tác trong loại hợp đồng này như cung cấp các thông tin về giá cả, thị trường đối tác của bên uỷ thác một cách chính xác kịp thời.
* Về những mặt hạn chế công ty lên có những giải pháp cụ thể dần khắc phục và hoàn thiện:
- Thứ nhất : Cần có một quan điểm đúng về ảnh hưởng của pháp luật kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty từ đó có những chính sách cụ thể trong việc nâng cao trình độ pháp lý kinh tế cho các cán bộ phụ trách các mảng có liên quan tới việc thiết lập các quan hệ hợp đồng kinh tế tránh những bất lợi khi tham gia ký kết hợp đồng do không nắm bắt được các vấn đề pháp quy cụ thể cho các vấn đề liên quan nhất là trong thời gian này khi công ty chưa có bộ phận chuyên trách về các vấn đề pháp lý. Cần mạnh dạn trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh bằng con đường Trọng tài và Toà án nhằm giảm thiểu các thiệt hại về kinh tế và uy tín đối với công ty bởi giải quyết bằng con đường thương lượng hoặc hoà giải công ty thường chấp nhận những yêu cầu của bên đối tác do tâm lý lo ngại việc mất đối tác nếu như giải quyết tranh chấp bằng con đường Trọng tài hoặc Toà án, việc mạnh dạn giải quyết các tranh chấp phát sinh bằng hai con đường trên khi giải quyết bằng biện pháp thương lượng hoặc hoà giải có những khó khăn nhất định còn bổ xung các kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp của công ty giúp công ty có được bản lĩnh, kinh nghiệm trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.
- Thứ hai: Cẩn trọng trong việc thiết lập các hợp đồng kinh tế, các điều khoản trong hợp đồng kinh tế thể hiện những quyền lợi và nghĩa vụ của công ty do vậy cần thận trọng trong việc đàm phán ký kết hợp đồng, trong nền kinh tế hiện nay, nhất là khi thiết lập các quan hệ kinh tế với đối tác nước ngoài, công ty nên có các điều khoản thoả thuận luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp nếu có và các trường hợp miễn trách, không nên có tư tưởng hợp đồng kinh tế chỉ là hình thức ghi nhận quan hệ kinh tế đơn thuần. Việc ký kết thực hiện hợp đồng công ty cần khắc phục những hạn chế sau:
- Về việc xác định cơ sở hình thành hợp đồng kinh tế, công ty không được căn cứ vào các văn bản pháp quy đã hết hiệu lực thi hành, cần có sự cập nhật những thay đổi của các văn bản pháp luật để có nhứng căn cứ xác lập hợp đồng chính xác.
- Về hình thức hợp đồng, cần có sự linh hoạt trong việc xác định các hình thức hợp đồng kinh tế phù hợp với các quy định của Luật thương mại về hợp đồng thương mại và đáp ứng được yêu cầu nắm bắt thời cơ trong kinh doanh
- Về nội dung của hợp đồng, các điều khoản về hàng hoá dịch vụ, công ty đữ thực hiện khá tốt, phù hợp với các quy định của pháp luật kinh tế. Tuy nhiên các điều khoản về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp miễn trách, hợp đồng vô hiệu chưa được công ty thực chú trọng trong một số hợp đông do tâm lý chủ quan và các thói quen thương mại giữa công ty và các đối tác, điều này có thể gây bất lợi cho công ty khi có tranh chấp xảy ra.
- Thứ ba: Công ty nên thành lập bộ phận chuyên trách về các vấn đề pháp quy trong kinh doanh, bộ phận này có chức năng trong việc soạn thảo và tham gia đàm phám ký kết các loại hợp đồng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, tư vấn cho các bộ phận khác về các vấn đề pháp quy trong lĩnh vực của các bộ phận. Để bộ phận này hoạt động một cách hiệu qủa cần phải tuyển chọn nhân lực một cách chu đáo, có văn bản quy định nhiệm vụ và chức năng của bộ phận này. Bộ phận này phải thường xuyên cập nhật những thay đổi của các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động kinh tế của công ty, nhất là trong lĩnh vực thương mại trong nước và thương mại quốc tế.
Vậy trong thời gian tới công ty cần phải lỗ lực trong việc khắc phục một số hạn chế trên nhằm nâng cao hiệu quả pháp lý của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung. Có như vậy công ty mới có thể phát triển được trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO, việc gia nhập tổ chức này đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường nước ta, khi đó việc ký kết các hợp đồng với các đối tác nước ngoài sẽ thường xuyên hơn do vậy việc nắm vững luật là một điều kiện tiên quyết khi thực hiện hợp đồng kinh tế với các đối tác nước ngoài.
C. KẾT LUẬN
Đề án này một đã tập chung vào hai vấn đề chính:
Vấn đề thứ nhất là vấn đề pháp quy về hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu. Hợp đồng loại này thuộc sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng nói chung, vấn đề uỷ quyền và luật chuyên ngành là luật thương mại năm 2005 điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng kinh tế và vấn đề uỷ thác trong việc mua bán hàng hoá - một bộ phận của một số hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ban hành ngày 23 tháng 01 năm 2006 quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu.
Vấn đề thứ hai là việc áp dụng các vấn đề pháp quy về loại hợp đồng này vào thực tiễn hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu tại đơn vị thực tập, những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn của các vấn đề pháp quy về hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các vấn đề pháp quy trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu của công ty.
Do sự hạn chế về thời gian cũng như về kiến thức, Báo cáo này chưa đi sâu phân tích được các vấn đề đã nêu ra và mới chỉ dừng lại trên góc độ so sánh đơn thuần. Em xin chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp của các thầy cô nhằm hoàn thiện hơn vấn đề mà đề tài này nghiên cứu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản luật
1. Bộ luật dân sự năm 1995
2. Bộ luật dân sự năm 2005
3. Luật thương mại năm 1997
4. Luật thương mại năm 2005
II. Các văn bản dưới luật
1. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989
2. Pháp lệnh trọng tài kinh tế năm 2003
3. Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998
4. Nghị định số 12/2006/NĐ/CP ngày 23 tháng 01 năm 2006
5. Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH ngày 25tháng 02 năm 2003
6. Quyết định Số: 1172/TM-XNK của bộ trưởng bộ thương mại Ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước
III. Các tài liệu khác
1. Giáo trình luật thương mại quốc tế - NXB Đại học kinh tế quốc dân
2. Các văn bản pháp luật kinh tế - NXB Đại học kinh tế quốc dân
3. Điều lệ công ty cổ phần công ty Châu Giang
4. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty Châu Giang
5. Nội quy công ty
6. Báo cáo tài chính công ty năm 2005 & năm 2006
Và một số bài viết khác về vấn đề ủy thác
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31994.doc