Đề án Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn

Vốn luôn là vấn đề nổi cộm của những nước muốn thực hiện CNH-HĐH. Với điểm xuất phát thấp như chúng ta thì giữa nhu cầu và khã năng cung cấp vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đang tồn tại sự khác biệt khá lớn. Với nhu cầu vốn đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn của ngân sách nhà nước lại hạn hẹp thì việc thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư,huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển nông nghiệp nông thôn là cần thiết. Nhu cầu vốn đầu tư lớn lại càng đòi hỏi việc sử dụng và quản lý vốn đúng mục đích, chặt chẽ, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, củng như quá trình CNH-HĐH đất nước.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng gí trị của từng khu vực đều bao gồm c+v+m trong đó c là phần tiêu hao vật chất, v+m là phần mới sáng tạo ra. Để đảm bảo qúa trình tái sản xuất mở rộng không ngừng, nền sản xuất xã hội phải đảm bảo v+m của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất của khu vực II tức là:(v+m)I > cII. . hay là (v+c+m)I > ci +cII Như vậy, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao vật chất ci và cII ở cả hai khu vực của nền kinh tế mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong qúa trình tiếp theo. Còn khu vực II thì: (c+v+m)II > (v+m)I+(v+m)II . Có nghĩa là: tư liệu tiêu dùng do khu vực II tạo ra không chỉ bù đắp tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực mà còn phải thừa để đamr bảo thoã mãn nhu cầu tư liệu tiêu dùng tăng thêm do quy mô của nền sản xuất xã hội được mở rộng. Để có dư thừa về tư liệu sản xuất, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I,mặt khác phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Từ đó có thể rút ra kết luận: con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Vấn đề này cũng được kinh tế học hiện đại chứng minh. Nếu gọi GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng của cá nhân và chính phủ, I là tiêu dùng của doanh nghiệp để bổ sung vào vốn cố định và vốn lưu động (tức là vốn để đầu tư) thì : GDP =C+I (1) Phần tiêu dùng I của doanh nghiệp là phần thừa ra không tiêu dùng đến từ GDP. Nếu gọi phần tiết kiệm này là S thì : GDP=C+S (2) Từ (1),(2) ta có S=I Như vậy, tăng GDP cho phép tăng C+I hoặc C+S. trong đó S hoặcI càng lớn, sản xuất càng được mở rộng, đến lượt mình, sản xuất càng mở rộng, GDP càng tăng và có điều kiện để tăng tiêu dùng, nâng cao đời sống của người lao động. Trong điều kiện nền kinh tế mở: GDP =C+I+X-M (3) Trong đó: X. là giá trị hàng hoá xuất khẩu. M .là gía trị hàng hoá nhập khẩu. Mà GDP =C+S (4) Từ (3), (4) ta có S= I+X-M hay I= S+M-X hay I-S=M-X Nếu I-S> 0 thì M-X > 0 S là tiết kiệm trong nước M-X là tiền đầu tư từ nước ngoài. Như vậy, trong điều kiện nên kinh tế mở, nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động từ nước ngoài trong điều kiện tiết kiệm trong nước không đáp ứng được yêu cầu đầu tư. 2.3.2 Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp –nông thôn. xuất phát từ lý luận trên và thực tiễn vai trò của nông nghiệp trong điều kiện hiện nay thì yêu cầu về vốn đầu tư cho nông nghiệp –nông thôn là rất lớn. Do vậy nguồn vốn đầu tư là đa dạng, nó bao gồm : Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp. Vốn đầu tư của dân cư. Trong đó vốn đầu tư của dân cư bao gồm; Nguồn vốn đầu tư của bản thân nông thôn. Nguồn vốn đầu tư của những người sống ở đô thị vào nông thôn. Nguồn vốn đầu tư từ kiều bào. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia qúa trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn đầu tư giàn tiếp nước ngoài ODA: là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như viện trợ có hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài, lãi suất thấp, kể cả cho vay theo hình thức thông thường Nguồn vốn tín dụng: vốn vay của các ngân hàng, tổ chức tài chính ... 2.4. Sử dụng và quản lý vốn đầu tư. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng rất đa dạng và phong phú. Do vậy, bên cạnh việc thu hút tối đa các nguồn vốn thì việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư rất quan trọng đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương và các cơ sở. Mỗi nguồn vốn thường có cơ chế sử dụng và quản lý riêng. Vốn ngân sách nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch của nhà nước, cụ thể là : Các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn thì được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển . đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước theo quy định của pháp luật. Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, các dự án kinh tế ( thuộc ngân sách trung ương). Vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước dùng để đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của nhà nước trong từng thời kỳ và một số dự án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của nhà nước.việc bố trí đầu tư cho các dự án này do chính phủ quyết định cụ thể cho tùng đối tượng trong từng thời kỳ kế hoạch. Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho đầu tư phát triển, được quản lý trong luật ngân sách nhà nước. Vốn thuộc quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ khác của nhà nước dùng cho đầu tư và phát triển . Vốn tín dụng thương mại dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ, các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước bao gồm vốn khấu hao cơ bản, vốn tích luỹ từ lợi nhuận sau thuế, vốn tự huy động... dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. doanh nghiệp phải sử dụng theo đúng các chế độ quản lý vốn đầu tư hiện hành. Doanh nghiệp thuộc tổ chức nào quản lý thì tổ chức đó còn phải chịu trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước: trường hợp các doanh nghiệp nhà nước được phép góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng quyền sử dụng đất hoặc quyền thuê đất, mặt nước, mặt biển, nhà xưởng, thiết bị và các công trình khác thuộc vốn nhà nước phải được cấp có thẩm quyền cho phép và làm thủ tục nhận vốn để có trách nhiệm hoàn trả vốn cho nhà nước theo quy định hiện hành. Vốn do chính quyền cấp tỉnh và các huyện huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc tự nguyện. Các nguồn vốn trên phải được quản lý công khai, có kiểm tra, kiểm soát và đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng với quy định của pháp luật. Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế không thuộc các doanh nghiệp nhà nước và vốn đầu tư của dân. chủ đầu tư phải làm thủ tục trình cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép kinh doanh,giấy phép xây dựng. Việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo quy định của chính phủ. Vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và cơ quan nước ngoài khác được phép xây dựng trên đất Việt Nam, được quản lý theo hiệp định hoặc thoả thuận đã được ký kết giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác và các tổ chức, cơ quan nước ngoài. Việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư có tích chất quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. nếu chỉ thu hút mà không sử dụng một cách ccó hiệu quả và không có sự quản lý chặt chẽ, thống nhất thì sẽ không đạt được mục tiêu và gây lãng phí nguồn vốn. Đối với đầu tư cho phát triển nông nghiệp –nông thôn, do đặc điểm của nó là : tính sinh lợi trong sản xuất nông nghiệp trong điều kiện hiện nay thấp hơn các ngành khác, chu kỳ kinh doanh của nông nghiệp thường dài, năng suất thấp, thời gian khấu hao kéo dài. Bên cạnh đó tính rủi ro và kém ổn định của sản xuất kinh doanh nông nghiệp một mặt ảnh hưởng đến thời gian thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp mặt khác ảnh hưởng đến thòi gian thu hồi vốn đầu tư của các ngành kinh tế nông thôn có sử dụng nguồn lực nông nghiệp hoặc liên quan đến nông nghiệp. Do vậy, việc sử dụng và quản lý vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn càng đồi hỏi phải được thực hiện chi tiết, cụ thể từng ngành, từng cấp, từng địa phương. 2.5 Hiệu quả của đầu tư vào nông nghiệp-nông thôn : Khi tiến hành bất cứ hoạt động đầu tư nào,việc phân tích đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư là một yêu cầu không thể thiếu vì nó là cơ sở để nhà đầu tư quyết định có nên đầu tư hay không ,các tổ chức tài chính có đồng ý cấp vốn ,cho vay vốn hay không ....Tính hiệu quả là việc so sánh giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó . Hiệu quả hoạt động đầu tư baqo gồm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội . Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức đọ đáp ứng nhu cầu phát triễn hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trên cơ sở đã sử dụng socác kỳ khác , cơ sở sản xuất khác hoặc so với định mức chung. Hiệu quả kinh tế xã hội kinh tế đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư . Đối với một dự án phát triễn nông nghiệp nông thôn cụ thể ta thường phân tích hiệu quả tài chính và hiiêụ quả kinh tế xã hội . *Phân tích hiệu quả tài chính: Để phân tích hiệu quả tài chính ta thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá . -Các chỉ tiêu không dùng hiện giá bao gồm: + Vòng quay của vốn lưu động =tổng doanh thu /vốn lưu động . + Tỷ suất lợi nhuận =lãi ròng /tổng vốn đầu tư . - Các chỉ tiêu dùng hiện giá gồm: Thời gian hoàn vốn (T),tổng lãi ròng (NPV),tỷ suất thu hồi nội bộ (IRR),tỷ số lợi ích /chi phí (B/C),tỷ suất lãi ròng (tỷ suất lợi nhuận thuần /vốn đầu tư ). Xác định điểm hoà vốn của dự án. -Đánh giá độ an toàn về mặt tài chính bao gồm: + An toàn về vốn :tỷ lệ vốn tự có =vốn tự có /tổng vốn đầu tư . Hệ số lưu hoạt =tài sản lưu động có /tài sản lưu động nợ + An toàn về khả năng trả nợ =tích luỹ /ngạch số trả nợ . trong đó tích lũy=lợi nhuận + khấu hao . ngạch số trả nợ =nợ gốc +lãi vay đến hạn . Phân tích độ nhạy của dự án . *Phân tích hiệu quả kinh tế xã hội : - xác định tỷ lệ sinh lời xã hội =lời lỗ xã hội /(tổng chi phí sản xuất của dự án + lãi vay đến hạn ) -xác định những lợi ích và những chi phí mà xã hội thu được và bỏ ra . - Xác định giá trị gia tăng gồm: +Giá trị gia tăng gián tiếp . + Giá trị gia tăng trực tiếp =lãi ròng +lương +thuế +các khoản nợ –trợ giá, bù giá . Xác định khả năng tạo việc làm cho người lao động : Ta tiến hành phân tích hai chỉ tiêu : + Mức vốn đầu tư cần thiết tạo ra việc làm cho một lao động + Thu nhập bình quân một lao động . Xác định mức đóng góp cho ngân sách. Xác định mức tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ : + Mức tăng thu ngoại tệ =số ngoại tệ thu được do xuất khẩu –chi phí ngoại tệ cần nhập . + Mức tiết kiệm ngoại tệ = chi phí ngoại tệ nhập khẩu các sản phẩm –chi phí ngoại tệ cần nhập khẩu . Xác định mức đọ ảnh hưởng của dự án đến các ngành khác . Xác định mức đọ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân . Xác định mức đóng góp vào sự phát triễn kinh tế của địa phương :Tăng cương hệ thống kết cấu hạ tầng , tăng thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho người lao động . *Dưới đây ta xem xét hiệu quả của đầu tư vào nông nghiệp-nông thôn . - Góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Thực tế kinh tế nông nghiệp –nông thôn nước ta đóng góp khoảng 40% GDP. Nên có thể khẳng định nếu ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp –nông thôn thì sẽ làm tăng sự đóng góp vào GDP của nghành kinh tế này. Nâng cao cải thiện đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Cái mà người nông dân thiếu là vốn bằng tiền mặt, máy móc, công cụ,dụng cụ, giống cho năng suất cao...và kiến thức về sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do vậy một yêu cầu đặt ra là phải có sự đầu tư thích đáng, hợp lý giúp người nông dân có vốn để sản xuất kinh doanh, tiếp cận được với khoa học kỹ thuật và đời sống văn minh,văn hoá. Đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia,đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Góp phần tạo việc làm cho người lao động. Do sản xuất nông nghiệp có tính chất mùa vụ nên người lao động thường nhàn rỗi vào những kì không phải là mùa vụ. Vì vậy, đầu tư vào các ngành kinh tế nông thôn sẽ huy động được lực lượng lao động nhàn rỗi, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Điều này không những chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có cả ý nghĩa về mặt chính trị, tư tưởng. Nhiều cầu cống được xây dựng, đường xá được khai thông, mở rộng nối liền các vùng. Trường học, bệnh viện, điểm bưu điện văn hoá...cũng được đầu tư xây dựng góp phần đổi mới bộ mặt kinh tế nông thôn , đưa nông thôn tiến gần đến thành thị, giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, đảm bảo công bằng xã hội, giúp nhân dân tin tưởng vào đường lối chính trị của Đảng. Tăng tỷ trọng đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu. Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và hội nhập hiện nay thì yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải phát huy nâng cao lợi thế so sánh của mình. Nước ta là một nước mà nền kinh tế chủ yếu là hoạt động sản xuất nông nghiệp , có nhiều thế mạnh về đất đai, nguồn lực lao động rẻ và dồi dào, khí hậu phong phú thích hợp với nhiều loại cây. Đây là cơ hội để chúng ta tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu, thu ngoại tệ về cho đất nước. Kinh tế nông thôn từ đó cũng phát triển với nhiều ngành nghề như: chế biến nông, lâm sản; các nghề thủ công mỹ nghệ, đan lát, thêu, may... Nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất , trình độ nghề nghiệp của người lao động , nâng cao năng suất vật nuôi , cây trồng. Chương II: Thực tiễn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn trong điều kiện hiện nay. I- Thực trạng nông nghiệp nông thôn Việt Nam : 1. Những thành tựu nổi bật: Thành tựu nổi bật nhất là trong những nâm gần đây, sản xuất lương thực đã phát triển toàn diện, tăng trưởng nhanh và vượt xa mục tiêu đề ra. Năm 2000, sản luợng lương thực quy thóc đạt 35,64 triệu tấn, tăng 6,42 triệu tấn so với năm 1996. Bình quân mỗi năm tăng 1,28 triệu tấn hay 4,2% , lương thực hàng hoá cũng tăng từ 8 triệu tấn năm 1996 lên 13 triệu tấn năm2000. Do sản xuất nông nghiệp được mùa liên tục nên an ninh lương thực quốc gia được đảm bảo vững chắc kể cả trong tình huống phức tạp của thời tiết. Trong 5 năm 96-2000, trên phạm vi cả nước không xẩy ra cơn sốt về thị trường và giá cả lương thực, kể cả những năm thiên tai lớn như lũ lụt ở miền Trung năm 1999, lũ lịch sử ở Đồng bằng Sông Cữu Long năm 2000, hạn hán ở miền Bắc và Tây Nguyên năm 98. Thị trường và giá cả lương thực ổn định ngay cả ở những vùng bị thiên tai nặng nề. Chỉ số giá lương thực chỉ tăng 3,4% so với năm 1995, bằng 92,1% là bằng chứng cụ thể. Trong 5 năm 1996-2000, lượng gạo xuất khẩu đã lên đến 20,5 triệu tấn, nhiều gấp 3 lần lượng gạo xuất khẩu thời kì 1991-1995. Từ năm 1998đến 2000, Việt Nam giữ vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới, sau Thái Lan. Trong sản xuất lương thực, lúa vừa chiếm tỷ trọng lớn nhất lại vừa tăng trưởng nhanh cả về diện tích và năng suất, so với năm 1996 thì đến năm 2000, diện tích lúa tăng thêm 64 vạn hecta ( 9,1%), năng suất bình quân tăng thêm 4,8 tạ trên hecta(27,3%) và sản lượng tăng thêm 6,1 triệu tấn (23,1%) biến Việt Nam thành một nước có tốc độ tăng sản lượng lúa nhanh nhất thế giới và khu vực Châu á -Thái Bình Dương trong thập kỷ 90. Bên cạnh lúa thì sản xuất ngô cũng có nhiều tiến bộ cả về mở rộng diện tích, thâm canh và tăng năng suất. Diện tích ngô năm 2000 dật 717 nghìn hecta, tăng 102 nghìn hecta so với năm 96 (16,2%). Năng suất là 27 tạ/hecta, tăng 2 tạ/hecta và sản lượng xấp xỉ 2 triệu tấn, tăng 40 vạn tấn trong 5 năm tương ứng. Việc áp dụng tiến bộ sinh học trong sản xuất ngô đã đem lại kết quả đáng khích lệ, diện tích ngô lai đến nay chiếm 80% tổng diện tích ngô của cả nước, thay thế dần các giống ngô năng suất thấp. Đa dạng hoá cây trồng, xoá dần thế độc canh lúa là nét mới khá rõ trong 5 năm 1996-2000. Nếu năm 96, tỉ trọng diện tích gieo trồng cây lương thực chiếm 75,2% tổng diện tích gieo trồng và 87,2% diện tích gieo trồng hằng năm thì đến năm 2000 hai tỷ lệ tương ứng là 72,2% và 84,7%. Tỷ trọng cây lâu năm tăng từ 11,6% lên 15,3% từ năm 96 đến năm 2000. ở những vùng có truyền thống độc canh lúa như ĐBSH, ĐBSCL cũng đã có những chuyển biến tích cực về đa dạng hoá cây trồng. Diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm ở ĐBSH tăng từ 60 nghìn hecta năm 96 lên 67 nghìn hecta năm 2000. Còn ở ĐBSCL là 128 nghìn hecta lên 136 nghìn hecta trong thời gian tương ứng. Diện tích cây ăn quả cũng được mở rộng, năm 96 ĐBSH có 38,5 nghìn hecta thì năm 99 là 48 nghìn hecta còn ở ĐBSCL từ 177 nghìn hecta lên 191 nghìn hecta và 200 héc ta trong thời gian tương ứng. Một số cây công nghiệp có giá trị xuất khâu như caphê, cao su, hạt tiêu..... tăng rất nahnh trong 5 năm qua cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2000 so với năm 96 sản lượng caphê tăng hơn 2,1 lần, sẳn lượng cao su tăng 50%. Do sản xuất phát triển nhanh nên caphê và cao su được xuất khẩu ra thị trường nhiều nước với số lượng ngày càng nhiều. Các cây công nghiệp ngắn ngày khác như bông, đay, mía.... cũng phát triển ổn định với xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Chăn nuôi phát triển nhanh, toàn diện theo hướng hàng hoá. Bình quân 5 năm 96-2000 so với thời kỳ trước (91-95) đàn bò tăng 18,5%, dần lợn tăng 26%, đàn gia cầm tăng 41%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 35%, sản lượng trứng tăng 33%. Năm 2000, đàn lợn đạt 19,25 triệu con, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng là 1,4 triệu tấn tăng 67% và gấp 2,3 lần so với năm 98. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản có bước tiến bộ vượt bậc và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều địa phương nhất là vùng ven biển. Năm 2000, sản lượng thuỷ sản đạt trên 2,1 triệu tấn tăng 26,3% (48 nghìn tấn) so với năm 96, bình quân mỗi năm tăng 10% cao nhất từ trước đến nay và vượt mục tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 2000. Các chương trình quốc gia như đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản đã làm xuất hiện nhiều mô hình kinh tế mớicó hiệu quả kinh tế –xã hội rõ nét. đến năm 2000, cả nước có trên 300 tàu đánh bắt xa bờ hoạt động, 49 nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn xuât khẩu vào thị trường EU, giá trị xuất khẩu đạt 1,44 tỷ USD. Nhờ sự phát triển toàn diện của nông nghiệp, thuỷ sản nên giá trị sản xuất khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản thời kỳ 96-2000 tăng bình quân 6%/năm. Trong đó nông nghiệp trên5% và thuỷ sản trên 8%. Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc đă bước đầu có hiệu quả. đã trồng được hơn 1,7 triệu ha rừng tập trung, 320 triệu cây phân tán một năm. ngành nghề trong nông thôn có bước phát triển mới cả về số lượng, cơ sở và chất lượng sản phẩm, thu hút nhiều lao động dôi thừa, lao đọng thời vụ và tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Bình quân mấy năm gần đây, số hộ và cơ sở nghành nghề nông thôn tăng từ 10 %đến 11% và các nhóm hộ nghành nghề cũng tự điều chỉnh phù hợp, hiệu quả cao và giải quyết việc làm cho người lao động. Ngành nghề nông thôn được coi là động lực làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo,nâng cao phúc lợi xã hội cho nông đân. hiện nay, thu nhập bình quân của lao động ở cơ sở chuyên nghành nghề đạt hơn 430.000 đồng/ tháng. Nghành nghề nông thôn còn đóng góp vào kim nghạch xuất khẩu, đạt kim nghạch từ 121 triệu USD năm 1997 lên 168 triệu USD năm 1999 và chỉ 6 tháng đầu năm 2000 đã đạt 150 triệu USD và ước đoán năm 2001 đạt hơn 300 triệu USD. Cơ sở hạ tầng nông thôn có bước tiến bộ đáng kể, hệ thống thủy lợi đã tưới cho khoảng 6,3 triệu ha diện tích gieo trồng lúa( 85%) và tiêu cho 1,5 triệu ha. 95% số xã đã có đưòng ô tô tới khu trung tâm, 78% số xã có điện, 95% số xã có trường cấp một,93% số xã có trạm y tế ,hơn 30% dân số có nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn, hơn 70% dân số đã được phủ sóng phát thanh truyền hình... Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp-nông thôn đang đứng trước những khó khăn thách thức, nhiều mặt yếu kém. 2. Những nhược điểm chủ yếu: Sức cạnh tranh của các hàng hoá nông sản còn hạn chế trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhược điểm này thể hiện trên tất cả các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi trong đó rõ nét nhất là chất lượng còn thấp, chi phí cao chủng loại đơn điệu, vệ sinh an toàn thực phẩm kém.... ví dụ như gạo xuất khẩu, chất lượng chưa cao nên giá trị xuất khẩu vẫn thấp hơn gạo Thái Lan cùng loại từ 10-15USD /tấn. Rau quả xuất khẩu được nhiều nhưng chất lượng và độ sạch thấp nên chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước. Xuất khẩu tăng chậm và không vững chắc: năm 96 đạt 90 triêu USD, năm 97 đạt 71,2 triệu USD, năm98 đạt 52,6 triệu USD, năm 99 đạt 104,9 triệu USD. Năm 2000 tuy có khởi sắc hơn nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Các mặt hàng khác như caphê, thịt lợn.... cũng như vậy. Thêm vào đó tỷ trọng nông sản qua chế biến công nghiệp rất thấp và tăng chậm: chè 55%, rau quả đạt 5%, thịt 1%. Tổn thất sau thu hoạch còn lớn, nông sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế. Qúa trình chuyển sang nông nghiệp hàng hoá phát triển không đều. Trong khi các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá với số lượng hàng hoá lớn, tỷ trọng hàng hoá cao như: lúa gạo ĐBSCL, caphê ở Tây Nguyên. Thì ở Miền Trung và Miền Bắc qúa trình lại diễn ra chậm, nhiều vùng như miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ vẫn duy trì phương thức sản xuất tự cấp tự túc, phương châm sản xuất vẫn là lương thực tự túc, thực phẩm là mục tiêu còn sản phẩm hàng hoá chỉ là phần dư sau khi tiêu dùng. Tình trạng cung vượt cầu diễn ra phổ biến và kéo dài đối với hầu hết các sản phẩm nông nghiệp đã dẫn đến giá lương thực, thực phẩm giảm và đứng ở mức thấp, kéo theo thu nhập của nông dân và sức mua ở thị trường nông thôn tăng chậm. Chỉ số giá cả hàng lương thực, thực phẩm từ năm 96 đến nay tăng không đáng kể: năm 96 là 4,4%, năm 97 là 1,6%, năm 99 giảm 1,9% và năm 2000 tiếp tục giảm. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp dịch chuyển chậm, trong nội bộ nông nghiệp, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi vẫn mất cân đối. Năm 2000, tỷ trọng chăn nuôi mới chiếm 17,1% giá trị sản xuất nông nghiệp, trong khi đó mục tiêu đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính và đến năm 2000 nâng tỷ trọng chăn nuôi lên 30% trong giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn không đạt được. Cơ cấu trong nội bộ nông nghiệp dịch chuyển chậm đã làm chậm qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung. Đến năm 2000 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 24,5% không đạt mục tiêu đề ra là 19-20%. Ngành nghề nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH và phân công lao động, tạo ra năng suất lao động mới trong nông nghiệp. Đồng thời bộ lộ những yếu kém và những bất cập trong sản phẩm và thị trường, trong tổ chức và quy mô sản xuất .... phần lớn kỹ thuật và công nghệ áp dụng trong ngành nghề nông thôn hiện nay là kỹ thuật cổ truyền, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh kém. Đội ngũ lao động tuy có trình độ văn hoá nhưng ít được đào tạo, phần lớn lao động kỹ thuật không qua đào tạo chính quy mà chỉ được đào tạo thông qua kinh nghiệm tích luỹ. Toàn bộ cơ sở ngành nghề nông thôn hiện nay chỉ có hơn 20% nhà xưởng kiên cố, 86 % số cơ sở dùng điện, trình độ cơ khí hoá còn thấp, mới có khoảng 40% công việc được thực hiện bằng máy móc. đặc biệt, sản phẩm của ngành nghề nông thôn thường khó khăn trong khâu tiêu thụ lại ít có điều kiện tham gia xuất khẩu trực tiếp, phải thông qua nhiều khâu trung gian, nên không nắm được yêu cầu của khách hàng về mẫu mã, chất lượng, giá cả.... Rừng nghèo, tỷ lệ che phủ thấp chỉ còn 28%. Rừng tự nhiên chiếm 54% nhưng phần lớn là rừng nghèo và trữ lượng thấp. Rừng trồng năng suất chỉ đạt 40-50m3/ha. Thuỷ sản có tiềm năng lớn nhưng hiệu quả khai thác chưa cao, chủ yếu chỉ tập trung khai thác ở ven bờ. Cơ sở hạ tầng nông thôn vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất đời sống và môi trường. Tỷ lệ mù chữ trong lao động nông thôn chiếm 5,6%, số người được đào tạo các loại ( đại học, trung học, sơ cấp học nghề) ở nông thôn chỉ chiếm 10% nam giới và 5,7% nữ giới. II. Yêu cầu đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn. Qua phân tích tình hình thực tế ta thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong nông nghiệp-nông thôn, một phần do tác động của nhiều yếu tố khách quan như thiên tai, thị trường thế giới biến động, tập quán sản xuất và tiêu dùng của dân cư....nhưng mặt chủ yếuvẫn là do các yéu tố chủ quan như: công tác quy hoạch, kế hoạch, sản xuất nông nghiệp chuyến biến chậm so với yêu cầu của thị trường. Vùng nào, năm nào, trồng gì nuôi con gì, chất lượng, chủng loại như thế nào chưa được xác định rõ ràng. Thêm vào đó công tác tổ chức, chỉ đạo của các ngành,các cấp nhất là địa phường và cơ sở chưa đồng bộ, chưa gắn sản xuất với thị trường, chỉ quan tâm đến số lượng và tốc đọ tăng trưởng, ít chú ý đến chất lượng, giá cả, chủng loại nông sản : đầu tư vẫn còn dàn trải, chú ý chiều rộng xem nhẹ chiều sâu, cơ chế sử dụng và quản lý vốn đầu tư chưa phù hợp, đặc biệt là vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, các chương trình trồng rừng quốc gia, xoá đói giảm nghèo... gây thất thoát vốn. Bên cạnh đó người nông dân hiểu biết quá ít về cơ chế thị trường và sản xuất hàng hoá, lại thiếu vốn nên số đông vẫn sản xuất ngành nghề truyền thống thủ công và công nghệ lạc hậu, sản phẩm kém sức cạnh tranh. Nông dân nhiều vùng vẫn duy trì tình trạng tự cung tự cấp và độc canh lúa với phương thức sản xuất manh mún, phân tán, kỹ thuật lạc hậu nên chất lượng và hiệu quả thấp. Do vậy tăng cường đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn là yêu cầu và cũng là quan điểm chiến lược của Đảng. Yêu cầu đặt ra là đầu tư như thế nào để phát huy được tối đa hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp –nông thôn, góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế xã hội của cả nước nói chung, đẩy nhanh qúa trình CNH-HĐH đất nước. III- thực trạng đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn. 1. Nguồn vốn cho đầu tư nông nghiệp –nông thôn. Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp-nông thôn trong 10 năm qua đã có sự gia tăng dáng kể, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Từ năm 91-2000 , vốn đầu tư phát triển nông nghiệp-nông thôn ước đạt65,2 tỷ đồng, tương đương 5,9 tỷ USD, chiếm 10,4 tổng vốn đầu tư xã hội, trong 5 năm 91-95 chiếm 8,5% và năm 96-2000 chiếm 11,4%, với tốc đọ tăng vốn đầu tư trong 5 năm 96-2000 lên tới 21,8%. Có thể nói rằng trong 5 năm gần đây đã có sự tập trung cao hơn cho đầu tư phát triển nông nghiệp-nông thôn, đặc biệt trong 2 năm gần đây tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội cho lĩnhvực này lên đến 15%. Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp –nông thôn ngày càng đa dạng: vốn ngân sách nhà nước, vốn của dân, vốn của các doanh nghiệp,các thành phần kinh tế và nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Bảng: Vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp.(Đơn vị tỷ USD) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 68.047 79.367 96.870 97.336 103.77 NLNTS 5.209 5.723 7.084 7.629 7.733 So với tổng số 7.7% 7.2% 7.3% 7.8% 7.5% Nguồn tổng cục thống kê 1.1. nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nguồn vốn ngân sách nhà nước đã tang đáng kể cho khu vực nông nghiệp –nông thôn. xem xét vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp và nông thôn. Nếu năm 90 nguồn vốn này là 402 tỷ đồng chiếm 17,34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ ngân sách nhà nước thì các năm 96 đạt 2.882,4 tỷ đồng (bằng 10%) và đến năm 98 số vốn này chiếm 15,3% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội từ ngân sách nhà nước. Lượng vốn này chủ yếu được dành cho việc xây dựng và nâng cấp các công trình thuỷ lợi để tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng nhất phục vụ tưới tiêu, phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong số 2.882,4 tỷ đồng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nông nghiệp năm96 có tới 1.737 tỷ đồng dành cho thuỷ lợi chiếm 60%, 439 tỷ đồng cho trồng trọt, trong đó đầu tư vào trạm trại phục vụ trồng trọt là 143,6 tỷ đồng, chiếm 17,2%. Năm 98, vốn đầu tư cho thuỷ lợi đã tăng lên đáng kể, ở mức 2.800 tỷ đồng và năm 99, khoảng 4000 tỷ đồng, năm 2000 là 3800 tỷ đồng. Xét cả giai đoạn 91-2000 vốn đầu tư cho lĩnh vực này năm 2000 gấp 2 lần năm 97 và gấp 6 lần năm 91. Trong cơ cấu đầu tư hiện nay, đầu tư cho thuỷ lợi chiếm hơn 70% đầu tư toàn ngành. Xét trong 10 năm 91-2000, tổng số vốn đầu tư cho thuỷ lợi ước tính khoảng 20 nghìn tỷ đồng ( khoảng 1,7 tỷ USD). Trong đó thời kỳ 91-95 dật khoảng 5000 tỷ đồng (500 triệu USD). Và thời kỳ 96-2000 ước đạt khoảng 14900 tỷ đồng ( 1,2 tỷ USD), gấp 2,4 lần số vốn đầu tư thực hiện của thời kỳ 91-95. Vốn đầu tư từ ngân sách đã có tác dụng to lớn trong việc tăng năng lực sản xuất nông- lâm nghiệp và kinh tế nông thôn, hình thành nên các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, vùng nuôi trồng thuỷ sản, chương trình trồng rừng, đặc biệt là dự án trồng 5 triệu ha rừng. Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản cũng phát triển nhanh chóng. Bảng. Đầu tư cho thuỷ lợi so với tổng vốn đầu tư từ NSNN. (Đơn vị tỷ USD) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 16500 17400 19500 27900 28700 ĐT thuỷ lợi 1708 2573 2800 4000 3800 Tỷ trọng(%) 10,35 14,78 14,40 14,40 13,24 Nguồn tổng cục thống kê 1.2. Vốn đầu tư của dân cư. Vốn đầu tư của bản thân nông thôn . khi mà nguồn vốn từ ngân sách còn hạn chế thì nguồn vốn của hộ gia đình đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản có xu hướng tăng dần cùng với chính sách của nhà nước khuyến khích nông dân đầu tư chính làm giàu chính đáng. Sau hơn 10 năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được những kết quả to lớn, thu nhập và đời sống của người dân thay đổi ngày càng tăng. điều đó cho phép họ có khả năng tích luỹ cho đầu tư phát triển sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị để thay thế dần lao động thủ công, các ngành nghề dịch vụ nhờ đó phát triển khá nhanh. Số lượng mấy móc thiết bị mà các hộ gia đình tự mua sắm tăng lên nhanh chóng. Thực hiện chủ trương huy động sức dân cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, trong những năm qua ở nhiều địa phương đã xây dựng mới và cải tạo, tu bổ được nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, góp phần đáng kể vào nâng cao đời sống kinh tế văn hoá xã hội ở nhiều làng xã. Vốn đầu tư của dân tăng về số lượng và đã có sự chuyển dần theo cơ cấu đầu tư hợp lý hơn tập trung vào các vùng chuyên canh hàng hoá lớn như lúa gạo ĐBSCL, ĐBSH, caphê ở Tây Nguyên, cao su, hạt điều ở Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển... Những năm gần đây giai đoạn 96-2000, vốn đầu tư của dân đã có sự tập trung và mở rộng sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại ( trồng caphê, cao su, hạt điều, nhãn, vải...) chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, ĐBSCL và Đông Nam Bộ. Nguồn vốn đầu tư của những người sống ở đô thị vào nông thôn . Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và những đổi mới trong đường lối phát triển kinh tế, nhiều doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, công trong trách nhiệm hữu hạn được thành lập, một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và phát triển nhanh, bên cạnh đó, kinh tế hộ gia đình ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ. Thu nhập và đời của đô thị tăng nhanh , số tiền tích luỹ được khá lớn. Số vốn đầu tư của khu vực này thường đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại đô thị nhưng những năm gần đây, nhiều hộ gia đình, nhiều doanh nghiệp nhỏ ở đô thị cũng đã chú trọng đến khu vực đầu tư mà họ có thể có nhiều lợi thế là đầu tưvào nông thôn . Có những hộ gia đình đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để xây dựng vàphát triển các trang trại, trồng các loại cây ăn quả và chăn nuôi. Nguồn vốn đầu tư từ kiều bào. Chúng ta hiện nay có vài triệu người sống ở nước ngoài, hàng năm lượng kiều hối lên đến 800 triệu USD, tương đương 10000 tỷ đồng . Đây là nguồn vốn đáng kể, nó đã bổ sung một phần quan trọng vào nguồn vốn đầu tư của nhân dân cho phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng. Trong những năm qua, một số kiều bào đã đầu tư trực tiếp vào phát triển sản xuất trong nước , trong đó có nông, lâm, ngư nghiệp. 1.3. Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp: Trong những năm qua, cùng với sự tăng trưởng khá nhanh của nền kinh tế , một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lăm, ngư nghiệp, thuỷ sản cũng đã ổn định được sản xuất kinh doanh , bược đầu làm ăn có hiệu quả, nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất và đầu tư thêm sang các lĩnh vực khác cũng tăng nhanh. Từ nhu cầu đầu tư và khả năng tự đáp ứng tăng lên, lượng vốn đầu tư củacác doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể. Tổng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong hai năm 96-97 đạt bình quân trên 3200tỷ đồng trong đó đầu tư bình quân mỗi năm cho nông nghiệp –nông thôn khoãng 380 tỷ đồng . Phương thức đầu tư chủ yếu của nguồn vốn này là hõ trợ kỉ thuật, giống cây con , ứng trước vốn cho nông dân mua vật tư , phân bón để đảm bảo sản xuất . Xây dựng mô hình tỏ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến . Trong lĩnh vực phát triển nông thôn , các doanh nghiệp cũng đã đầu tư vốn và kỉ thuật hỗ trợ các địa phương xây dựng , nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhất là thuỷ lợi , giao thông , trường học, bệnh viện, nước sạch... với nhiều mô hình khác nhau . 1.4. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài . a.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI: Riêng trong giai đoạn 1987 –1994 , FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 784 triệu USD(chiếm 8,2 %tổng số vốn FDIcủa cả nền kinh tế trong giai đoạn này). Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện còn ở mức độ rất thấp 23,5% do sức hấp dẫn của các dự án chưa cao. Tuy nhiên, nhờ có chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước , dòng vốn này tiếp tục tăng qua các năm. Nếu năm 1989 cả nước mới chỉ có năm dự án với 2,8 triệu USD đầu tư vào nông nghiệp –nông thôn thì đến năm 1998 đã có 225 dự án với số vốn đăng ký lên tới 2,4 tỷ USD (gồm 910 triệu USD cho sản xuất nông nghiệp và khoảng 1,5 tỷ USD cho lĩnh vực chế biến lương thực thực phẩm, nông lâm hải sản) chiếm khoảng 7% tổng số vốn đăng ký cả nước, số vốn triển khai đạt 467 triệu USD. Các dự án FDI tập trung vào trồng và chế biến cao su, cà phê, chè, mía, đường, mì chính,gạo, chăn nuôi gia súc, gia cầm... theo phương pháp công nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ hải sản... với mục đích nâng cao năng lực sản xuất và chế biến nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế. Hiệu quả sử dụng vốn FDI cũng đáng khích lệ, năm 1997, doanh thu của các dự án này là 60 triệu USD, lợi nhuận trên 30 triệu USD,kim nggạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu USD, giải quyết việc làm cho trên 20 nghìn lao động trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp với mưcs lương bình quân 60USD/ tháng... Bước sang năm 1998 đến năm 2000, tình hình thu hút FDI trong nông nghiệp có phần ảm đạm hơn. theo số liệ tổng hợp của bộ Kế hoạch đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài năm 2000 đạt khoảng 2,4 tỷ USD, trong khi lĩnh vực nông , lâm, ngư nghiệp chỉ có 36 dự án với tổng số vốn đăng ký là 55,4 triệu USD ( chiếm 2,31% tổng vốn FDI đăng ký). b. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài- ODA. Ngoài các dự án sử dụng vốn FDI, trong các năm qua, nguồnvốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục gia tăng góp phần hỗ trợ nông, lâm phát triển . Đến nay, lĩnh vực nông nghiệp –nông thôn đã thu hút trên 1,5 tỷ USD vốn cam kết hỗ trợ phát triển chính thức. Nguồn vốn này tập trung chủ yếu vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn ( đặc biệt là miền núi), thuỷ lợi, nước sạch, vệ sinh môi trường, sức khoẻ cộng đồng , đặc biệt là sức khoẻ phụ nữ và trẻ em... các dự án này đóng góp hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, một đóng góp quan trọng để tăng nguồn vốn, nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ nông nông nghiệp và nông thôn. 1.5 Nguồn vốn tín dụng . Trong những năm qua, do thực hiện tốt các chính sách và công cụ huy động vốn đặc biệt là sau khi thực hiện lãi suất dương, tổng nguồn vốn kinh doanh của hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tăng lên nhanh chóng, tính đến quí 1 năm 1998 đã lên đến27.000 tỷ đồng. Cùng với các chính sách huy động, các cơ chế và chính sách cho vay cũng thường xuyên được cải tiến nên tổng mức dư nợ cũng tăng nhanh,từ1.525 tỷ đồng vào năm 1991 đã lên đến 24.000 tỷ đồng vào quí 1năm 1998. Tuy nhiên, trong tổng số dư nợ tính đến hết quí 1 năm 1998 thì chỉ có khoảng gần 7.000 tỷ đồng, chiếm28% là dư nợ trung và dài hạn. 2. Tình hình đầu tư - những khó khăn và hạn chế: Nhìn toàn diện có thế thấy những khoản đầu tư khá lớn vào nông nghiệp-nông thôn, đặc biệt trong việc phát triển các công trình thuỷ lợi, trồng cây công nghiệp, nuôi trồng và đánh bbắt thuỷ hải sản... dã tạo ra sự phát triển tương đối nhanh và ổn định. Mặt khác, hiệu quả đầu tư cao hơn trên phương diện đánh giá hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. Phương pháp đầu tư đã có sự tập trung vào các trương trình trọng điểm thông qua các dự án như phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nước sạch nông thôn, dự án thuỷ lợi... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan thì vấn đề đầu tư phát triển nông nghiệp-nông thôn còn bộc lộ nhiều khó khăn cần tiếp tục giải quyết. Vốn đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp-nông thôn chưa dủ mạnh, cơ cấu đầu tư bất hợp lý, nên hiệu quả kinh tế chưa cao.hiện nay vốn đầu tư cho khu vực này mớichỉ đáp ứng1/3 nhu cầu. Cơ cấu vốn đầu tư của nhà nước tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa đầu tư cho nhiều nghành nghề then chốt có tính chất dẫn dắt nền kinh tế nông thôn như: công nghiệp chế biến, ngành nghề truyền thống... Tuy vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào kết cấu hạ tầng nông thôn nhưng ngay cả trong lĩnh vực này vẫn mang tính bình quân, tạo cho các địa phương tư tưởng ỷ lại, hạn chế tính tích cực huy động vốn trong dân vào phát triển kinh tế nông thôn. Vốn đầu tư còn hạn hẹp nên không thể đầu tư phát triển chiều sâu cũng như ứng dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất, do đó năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao và thường bị ép giá trong cuộc cạnh tranh với các sản phẩm đồng loại trong khu vực và trên thế giới. Chưa khai thác tốt các nguồn lực trong dân cư để đầu tư vào phát triển nông nghiệp –nông thôn.theo tính toán hiện nay, vốn trong dân có khoảng 100.000 tỷ đồng nhưng ngân hàng mới chỉ huy động được khoảng40% số vốn trên vào sản xuất, như vậy 60% số vốn nằm dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản... Nguyên nhân chính là người dân chưa đặt niềm tin tuyệt đối vào ngân hàng khi gửi những khoản tiền lớn, dài hạn. ngân hàng vẫn chưa thực hiện phương châm” đi vay để cho vay” và còn ngần ngại đối với khách hàng vay là nông dân. Đặc biệt là ngân hàng chưa phân định rõ khung vốn ngắn hạn và dài hạn để có lãi suất vay và cho vay hợp lý. Khả năng sử dụng vốn đầu tư trong từng dự án còn hạn chế, thậm chí có nơi vốn đầu tư bị lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. Đơn cử như chương trình 327-chương trình đầu tư lớn nhất cho nông nghiệp –nông thôn với tổng kinh phí 2 năm 1995-1996 là 1,315 tỷ đồng, chiếm 27% tổng vốn của tất cả các chương trình phát triển nông nghiệp –nông thôn. Chỉ sử dụng 60% số vốn đúng mục đích, hiệu quả kinh tế không cao. Qua phân tích trên ta thấy vấn đề cấp bách đặt ra là phải tăng cường thu hút các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp –nông thôn. Chương III: những giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp –nông thôn I.Giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp-nông thôn. 1.Đối với hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Phải đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua các hình thức gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng ghi thu bằng tiền Việt Nam, bằng ngoại tệ, băng vàng với nhiều thời hạn khác nhau để có thể phù hợp với các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư. Ưu tiên phát triển các hình thức thu hút nguồn vốn trung và dài hạn để phu hợp với nhu cầu vay vốn đầu tư phát triển trong nông nghiệp và nông thôn, tạo tiền đề cho việc tăng mức dư nợ trung và dài hạn. Chủ động tham gia thị trường liên ngân hàng để huy động và sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả. Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn thông qua các đại lý là hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân. Tích cực đàm phán vay ưu đãi các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến kinh tế trong khu vực và trên thế giới, dự báo kịp thời những biến đọng về tỷ giá để có chính sách vay bằng ngoại tệ và cho vay lãi phù hợp , đảm bảo hiệu quả hoạt động. 2. Đối với các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước phải xây dựng chính sách hấp dẫn để thu hút vốn nội bộ nông thôn, như các chính sách về đất đai: Xem xét lại mức hạn điền cho phù hợp, đồng thời khuyến khích tích tụ ruộng đất theo hướng quy mô lớn ở những nôi có điều kiện, động viên nông dân chuyển đổi ruộng đất , từng bước xoá bỏ tình trạng đất manh mún...Chính sách về thuế, phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật, chính sách về thị trường...Cũng cần được hoàn thiện. Xây dựng chính sach đầu tư phát triển các cơ sở chế biến theo hướng: Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ mọi tổ chức và cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực bảo quản, chế biến nông sản, đầu tư phát triển nhân rộng mô hình kinh tế trang trại, đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn...Có cơ chế cụ thể để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cung được vay tín dụng ưu đãi của nhà nước. 3. Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 3.1. Đối với nguồn vốn ODA. Cần làm tốt quy hoạch phát triển kinh tế của các địa phương, quy hoạch phát triển ngành, đề ra danh mục sử dụng vốn ODA trình chính phủ phê duyệt và công bố rộng rãi để có cơ sở vận động và đàm phán về ODA. Chuẩn bị các dự án có chất lượng cao, thời gian chuẩn bị nhanh, thủ tục trình duyệt đơn giản và khoa học. Tăng cường năng lực cán bộ và tổ chức thực hiện dự án kế hoạch ODA xây dựng có chất lượng tốt sẽ bảo đảm thực hiện được các cam kết quốc tế, thực hiện được tiến độ công trình và bảo đảm hiệu quả đầu tư. 3.2 Đối với nguồn vốn FDI. Để thu hút được nguồn vốn này, một mặt phải có quy hoạch gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trình chính phủ phê duyệt, trong đó có quy định các lĩnh vực khuyến khích đầu tư: Các công trình kết cấu hạ tầng ở những nơi khó khăn, dự án trồng rừng quy mô lớn, đầu tư vào sản xuất ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...Mặt khác cần chủ động cải thiện môi trường đầu tư có kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp có quy mô nhỏ ở nông thôn, từng bước cho ra đời các vệ tinh kinh tế xã hội tại các vùng, tổ chức các cơ sở sơ chế, chế biến nông sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Từ đó chỉ cho đối tác nước ngoài thấy rõ các lợi ích trực tiếp mà họ thu được khi quyết định đầu tư hoặc liên doanh với Việt Nam. II. Giải pháp để sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp –nông thôn . 1. Đối với việc sử dụng vốn. Phải sắp xếp, đánh giá chính xác hiệu quả đầu tư của từng dự án. Đây là công việc đầu tiên nhưng đống vai trò cực kỳ quan trọng, nó cho phép định hướng chiến lược đầu tư trong từng giai đoạn cụ thể, đầu tư có trọng tâm và đủ mạnh, khắc phục tình trạng dàn đều trong đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp –nông thôn phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với tìm kiếm khai thác và mở rộng thị trường tiêu thụ. Điểm đáng lưu ý là sản xuất nông nghiệp luôn phụ thuộc vào thiên nhiên. Vì vậy phải tích cực đầu tư nghiên cứu để nắm bắt các quy luất hoạt động của thiên nhiên từ đó có các biện pháp chế ngự thiên tai, đầu tư cho thuỷ lợi coi trọng việc sửa chữa, tu bổ nâng cấp những công trình hiện có. Cần phải đầu tư một cách đồng bộ, toàn diên và có hiệu quả thiết thực. Về sản xuất nông-lâm ngư nghiệp, cần phải đầu tư từ khâu sản xuất đến khâu chế biến và tiêu thụ cho từng loại sản phẩm, ưu tiên đầu tư cho giống cây trồng, vật nuôi, chú trọng cho đầu tư thuỷ lợi nhỏ, miền núi , tây nguyên. Trứơc mắt đầu tư vào một số ngành sản xuất trọng điểm làm cho nó đủ sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới như: Lúa, gạo, cafê, chè, rau quả... Về phát triển nông thôn, cần đầu tư phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn, thuỷ lợi, thông tin liên lạc, y tế, văn hoá giáo dục...Để tăng sức cạnh tranh và chiếm được những thị trường ổn định phải đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông hải sản nhằm tạo ra được những sản phẩm có tiêu chuẩn quốc tế, chú trọng phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ của các thành phần kinh tế phù hợp với loại hình công nghiệp này. Sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn vốn, đặc biết là vốn từ ngân sách nhà nước và vốn ODA. Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tăng cường tập trung hơn nữa vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi cho phát triển nông nghiệp –nông thôn. Tuy nhiên cũng càn giảm tỷ trọng cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chú trọng hơn vào đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, nghiên cứu giống cây, con... Đối với nguồn vốn ODA, cần sử dụng nguồn vốn này để đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao công nghệ đến hộ nông dân như: Chương trình chuyển dịch cơ cấu mùa vụ phù hợp với vùng sinh thái, chương trình mở rộng các giống mới, chuyển giao rộng rãi kỹ thuật phân bón có hiệu quả cao về kinh tế và sinh thái... Các tổ chức tín dụng như ngân hàng thương mại, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải: Cải tiến các cơ chế thủ tục và hình thức cho vay theo hướng đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng đồng thời vẫn đảm bảo các yếu tố cần thiết để quản lý tiền vay và thu nợ. Cần có cơ chế cho vay theo hình thức thế chấp , tín chấp và khống chế mức vay sao cho có thể vay được ,tạo điều kiện cho người nghèo có thể vay vốn để đầu tư . Cần có cơ chế cho vay để tăng tỷ lệ trung và dài hạn,phù hợp với nhu cầu phát triễn của lĩnh vực sản xuất nông lâm như nghiệp và nông thôn . 2. Đối với việc quản lý vốn . Triển khai thanh tra,kiểm tra toàn diện các dự án đầu tư,đông thời tăng cường công tác kiểm tra nội bộ ngành ngân hàng, đấu tranh tích cực chông tham nhũng ,xử lý những hành vi tiêu cực, thực hành chi đúng mục đích và tiết kiệm. Các tổ chức tín dụng cho vay cần cải tiến cơ chế quản lý trước khi cho vay và trong quá trình sử dụng tiền vay,gắn trách nhiệm của người cho vay với thu hồi nợ để giảm bớt tổn thất trong cho vay . Nghiên cứu xây dựng quy chế thành lập và hoạt động quỹ bão lãnh tiền gữi và tiền vay đầu tư phát triển sản xuất nhằm đối phó với nhưng biến động của nền kinh tế ,rủi ro trong thiên tai,dịch bệnh. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ đảm bảo cho cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất hoạt động trong lĩnh vực đầu tư ,thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. Kết luận Vốn luôn là vấn đề nổi cộm của những nước muốn thực hiện CNH-HĐH. Với điểm xuất phát thấp như chúng ta thì giữa nhu cầu và khã năng cung cấp vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đang tồn tại sự khác biệt khá lớn. Với nhu cầu vốn đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn của ngân sách nhà nước lại hạn hẹp thì việc thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư,huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển nông nghiệp nông thôn là cần thiết. Nhu cầu vốn đầu tư lớn lại càng đòi hỏi việc sử dụng và quản lý vốn đúng mục đích, chặt chẽ, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, củng như quá trình CNH-HĐH đất nước. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hồng Minh đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Hà nội 11/2001 Tài liệu tham khảo Công nghiệp hoá nông thôn. (Trần Đức)-NCNN 9/1999 Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trong nông nghiệp –KTDB 8/2000 Định hướng của chính phủ về phát triển nông nghiệp –nông thôn –KTDB 10/2000 Một số vấn đề lớn về phát triển nông nghiệp –nông thôn –TTTC 12/99 Vốn đầu tư cho nông nghiệp- nông thôn-TC 6/2001 Ưu tiên phát triển nông nghiệp –nông thôn –KTDB 7/2000 Tiếp tục tháo gỡ khó khăn để phát triển nông nghiệp –nông thôn –TTLL 5/2000 Lý luận và thực tiễn về CNH_HĐH nông nghiệp –nông thôn (Hồng Vinh-NXB Thống kê 1998) Đầu tư cho phát triển nông nghiệp –nông thôn (Trần Đức-NXB Nông nghiệp 1998) Giáo trình kinh tế đầu tư (TS. Nguyễn Ngọc Mai). Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I- Những vấn đề lý luận chung cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp - nông thôn 2 I- Lý luận về đầu tư phát triển 2 1. Khái niệm đầu tư phát triển 2 2. Vốn đầu tư 2 3. Quan hệ giữa đầu tư và phát triển 2 II- Đầu tư cho phát triển nông nghiệp - nông thôn 3 1. Vai trò của nông nghiệp - nông thôn trong điều kiện hiện nay 3 2. Nội dung đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn 4 2.1. Cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển nông nghiệp- nông thôn 4 2.2. Phương thức đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn 6 2.3. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp - nông thôn 9 2.4. Sử dụng và quản lý vốn đầu tư 11 2.5. Hiệu quả của đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn 13 Chương II- Thực tiễn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn trong điều kiện hiện nay 17 I- Thực trạng nông nghiệp nông thôn Việt Nam 17 1. Những thành tựu nổi bật 17 2. Những nhược điểm chủ yếu 19 II- Yêu cầu đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn 21 III- Thực trạng đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn 22 1. Nguồn vốn cho đầu tư nông nghiệp - nông thôn 22 2. Tình hình đầu tư - những khó khăn và hạn chế 27 Chương III- Những giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn 29 I- Giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn 29 1. Đối với hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 29 2. Đối với các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế 29 3. Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài 30 II- Giải pháp để sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn 30 1. Đối với việc sử dụng vốn 30 2. Đối với việc quản lý vốn 32 Kết luận 33 Tài liệu tham khảo 34

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35149.doc
Tài liệu liên quan