Đề án Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động cho Việt Nam giai đoạn 2001-2005

Để tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động nữ trong cơ chế thị trường, vấn đề then chốt và cơ bản nhất là phải bằng mọi biện pháp tăng sức cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao động, để lao đông nữ có nhiều cơ hội trong tìm kiếm việc làm có thu nhập đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình. Muốn vậy cần lưu ý đến các vấn đề: -Có chính sách đào tạo, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi. -Khuyến khích chủ doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động nữ bằng các chính sách cụ thể. -Ưu tiên các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực hoạt động phù hợp với lao đông nữ ( may mặc, phi kết cấu.). -Đảm bảo trên thực tế quyền bình đẳng của lao động nữ thuộc mọi thành phần kinh tế, trong các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và ở các khu vực.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động cho Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Thiếu việc làm, không tìm được việc làm, thu nhập thấp, đời sống bấp bênh là tình trạng khá phổ biến, trở thành vấn đề kinh tế xã hội bức xúc hiện nay ở các gia đình nông thôn. Số liệu điều tra xã hội học ở 7 tỉnh năm 1995 về các gia đình trẻ cho thấy: Không có việc làm chiếm 75,7%, thiếu việc làm 42,5%, thu nhập thấp 76,7%, không có thu nhập 23,3%. Thiếu việc làm, không có thu nhập nên đời sống các gia đình gặp nhiều khó khăn: 7,2 số thanh niên được hỏi nói rằng thu nhập không đủ sống, 3,1% quá thiếu, 20,5% thiếu chút ít, 13,8% có dư chút ít, 55,4% đủ sống.Chính vì thiếu việc làm nên năm 1999 cả nước có 2,85 triệu hộ nghèo (thu nhập dưới 15kg gạo/người/tháng) gần bằng 30% tổng số hộ nông thôn. Ngoài ra còn có 5-7% hộ đói (dưới 8kg gạo/người/tháng). Thiếu việc làm là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế, văn hoá, tinh thần, giáo dục con cái các gia đình trẻ ở nông thôn hiện nay. Ta có thể xem bảng sau để thấy được tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn trong thời gian qua: Bảng11: Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn (%) 1996 1997 1998 Toàn quốc 72,11 72,90 70,88 Đồng bằng sông Hồng 75,69 72,46 72,01 Đông Bắc 79,01 74,12 66,83 Tây Bắc 79,01 74,12 66,35 Bắc Trung Bộ 73,35 75,57 68,96 Duyên Hải Nam Trung Bộ 70,69 71,40 72,24 Tây Nguyên 74,98 73,80 76,97 Đông nam Bộ 61,75 74,42 74,46 Đồng bằng sông Cửu Long 68,16 71,47 71,32 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra Lao động- Việc làm hàng năm ở khu vực nông thôn 1996, 1997, 1998 Theo bảng trên ta thấy tỷ lệ lao động được sử dụng ở nông thôn ngày càng giảm. Năm 1996, tỷ lệ này là 72,11%, năm 1998 giảm xuống còn 70,88%. Trong các vùng, năm 1998, thấp nhất làvùng Tây Bắc chỉ có 66,35% trong khi năm 1996 là 79,01% cao nhất trong toàn quốc. Điều này có thể giải thích là do quỹ đất nông nghiệp không đổi mà dân số lại tăng nhanh, do đó diện tchs đất canh tác trên đầu người giảm đi gây ra tình trạng thời gian sử dụng cho nông nghiệp giảm đi. Sau hơn mười năm cải cách, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ nhưng Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế nông nghiệp. Năm 1998, LLLĐ ở nông thôn chiếm tới 74,8% tổng lao động, trong đó 81,8% được thu hút vào hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp, số còn lại hoạt động phi nông nghiệp. Lao động trong nôưng nghiệp không được toàn dụng một mặt do sức ép về tăng số lao động ở nông thôn, mặt khác do chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp thuần tuý sàn hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn cũng như sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ diễn ra rất chậm. Số lao động phi nông nghiệp năm 1998 chiếm 25,2%, tăng 0,4% so với năm 1997, nhưng chỉ có 67% có việc làm thường xuyên, số còn lại thiếu hoặc không có việc làm. 1.2.4.Cơ cấu lao động phân bổ theo khu vực kinh tế diễn ra chậm Số người thu hút vào hoạt động kinh tế ở nước ta tăng lên hàng năm khoảng trên 1 triệu người nhưng cơ cấu lao động phân bổ theo khu vực kinh tế thay đổi rất chậm. Từ năm 1991-1998, lao động trong khu vực nông-lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí hàng đầu, giảm từ 73,26% xuống còn 68,27% tổng lao động tham gia hoạt động kinh tế. Lao động trong khu vực công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp nhất, đạt cao nhất 13,25% năm 1995 và giảm xuống còn 12,725 năm 1998. Lao động trong khu vực dịch vụ mặc dù tăng liên tục nhưng tốc độ rất chậm, từ 14,3% năm 1991 lên 19,01% năm 1998. Tỷ lệ lao động trong khu vực Nhà nước có xu hướng giảm dần từ 10,5% năm 1991 xuống còn 8,28% năm 1998, trong khi đó lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng từ 89,5% lên 91,72% trong cùng thời kỳ. Về số tuyệt đối, lao động có việc làm hàng năm tăng lên, nhưng phần lớn tìm được việc làm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 2.Đánh giá nguyên nhân thất nghiệp thời gian qua. 2.1.Giai đoạn 1989-1992 Giai đoạn này có tốc độ tăng GDP nhanh, từ 2,0% năm 1989 lên 8,1% năm 1993, đã mở ra nhiều chỗ làm việc mới. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm mạnh do mở rộng các ngành sản xuất, dịch vụ, đặc biệt là trong khu vực phi kết cấu. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức lại nên có lao động dôi dư. Trong thời gian này, tỷ lệ thời gian được sử dụng ở khu vực nông thôn giảm, một phần do số người bước vào tuổi lao động lớn, một phần do những người giải ngũ trở về, một phần do mở rộng hoạt động phi nông nghiệp và một nguyên nhân nữa là do bình quân đất canh tác ngày càng giảm trong khi cơ cấu cây trồng vất nuôi và dịch vụ chế biến sanr phẩm nông nghiệp chưa phát triển. Thất nghiệp ở giai đoạn này chủ yếu là thất nghiệp cơ cấu. 2.2.Giai đoạn 1993-1995 Tỷ thất nghiệp ở thành thị tiếp tục giảm nhưng ở mức thấp, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn cũng được cải thiện. Tuy vậy, GDP tăng nhanh ở thời kỳ này chủ yếu là do yếu tố đầu tư, mức độ mở rộng về cầu lao động không lớn. Lao động trong khu vực nhà nước bắt đầu dôi dư mạnh do giảm sút nhu cầu và đình trệ ở một số ngành sản xuất xi măng, sắt, thép, giấy, phân bón, quần áo dệt kim, hoá chất. Lúc này thị trường lao động Việt Nam không chỉ tồn tại thất nghiệp cơ cấu mà còn có thất nghiệp nhu cầu, mặc dù tốc độ tăng trưởng vẫn cao. 2.3.Giai đoạn 1996-nay Giai đoạn này có nhịp độ tăng trưởng chững lại, thấp hơn so với giai đoạn trước, thất nghiệp ở thành thị gia tăng, thời gian không được sử dụng ở nông thôn có giảm rồi lại tăng. Lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước dôi dư mạnh (30%) vừa do hoạt động kém hiệu quả, vừa do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Khủng hoảng làm cho đầu tư trực tiếp nước nggoài vào Việt Nam giảm mạnh, trong khi FDI là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng cao và là nhân tố góp phần tạo, giải quyết công ăn việc làm ở Việt Nam thời gian qua. Bên cạnh việc làm giảm tốc độ tăng GDP, cuộc khủng hoảng còn tác động trực tiếp đến khả năng tiêu dùng và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chỉ số giá cả hầu như không tăng thời gian qua là dấu hiệ của tình trạng thiểu phát, làm đình đốn sản xuất, gây sức ép sa thải công nhân trong các doanh nghiệp. Giai đoạn này, dưới áp lực của di dân nông thôn ra đô thị để tìm việc làm, cả thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp nhu cầu có xu hướng tăng mạnh. 3.Một số biện pháp giải quyết việc làm Thứ nhất, Chính phủ cần tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế và tạo việc làm ở nông thôn trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở đa dạng hoá việc làm. Thứ hai, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế, phát triển các doanh nghiệp với kỹ thuật và công nghệ cao để tạo ra mũi nhọn tăng trưởng, đồng thời phải khuyến khích các ngành, các lĩnh vực đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ ba, thực hiện tốt việc kết hợp giữa sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân hàng loạt, thông qua chính sách trợ giúp của Nhà nước về thuế, vốn, công nghệ, lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên cơ sở mở rộng thị trường, phấn đấu đạo tạo nghề để đưa lao động có nghề đi xuất khẩu lao động, đảm bảo mỗi năm đưa đi được khoảng 20-25 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Thứ năm, tổ chức tốt việc quản lý hiện tượng di dân tự phát vào thành phố tìm kiếm việc làm tiếp tục hỗ trợ di chuyển lao động và dân cư để xây dựng các vùng kinhtế mới. Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện Luật Đầu tư nước ngoài và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước vì kinh nghiệm cho thấy rằng đây không những là nguồn vốn quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước mà còn là nhân tố hàng đầ góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng thiếu việc làm ở Việt Nam hiện nay... Iii.thực trạng cân đối lao động việc làm thời gian qua 1.Khủng hoảng thiếu về chất lượng lao động Sức ép về việc làm ở nước ta hiện nay là rất lớn. Trong khi cơn sốt dôi dư lao động trong các doanh nghiệp ngày càng có xu hướng gia tăng thì rất nhiều doanh nghiệp cần tuyển dụng lao động kỹ thuật nhưng lại không tuyển đủ. Năm 1998, cả nước có hơn 22.000 sinh viên tốt nghiệp đại học song gần một nửa không có việc làm. Trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang cần tuyển dụng lao động kỹ thuật, nhưng các trường kỹ thuật dạy nghề đã thiếu lại ít người nộp đỡnin nhập học. Năm 1999, Viện Khoa học Nhật Bản phối hợp với Viện Khoa học Lao động Việt Nam điều tra nhu cầu về lao động của 300 doanh nghiệp ở Hải Phòng, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, kết quả là: 88,6% số doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động là công nhân kỹ thuật nhưng người đáp ứng vẫn thiếu.Ví dụ: ở khu công nghiệp Đồng Nai mỗi năm cần 50.000 lao động có tay nghề, trong đó 10% là trung cấp kỹ thuật, 60% là thợ lành nghề và 25-30% lao động phổ thông. Nhưng trên thực tế chỉ đáp ứng được 9,2% lao động kỹ thuật. Còn ở các khu công nghiệp, khu chế xuất TP Hồ chí Minh cần tuyển 13.000-15000 lao động đã qua đào tạo, nhưng khó đáp ứng. Tại Đồng Nai, các doanh nghiệp cần tuyển 35.000 lao động vào làm việc nhưng 6 công ty xúc tiến việc làm của tỉnh chỉ giới thiệu được 10.000 người. Rõ ràng, thị trường lao động đang tồn tại một nghịch lý: nguồn lao động vừa quá thừa lại vừa quá khan hiếm. Đây quả là một bài toán nan giải. Nghịch lý này là do đâu? Phải chăng là do chất lượnglao động của chúng ta đã không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Trong quá trình CNH, HĐH chất lượng lao động có ý nghĩa quan trọng, nó là một trong những yếu tố có vai trò quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Chất lượng lao động cao sẽ làm tăng năng suất lao động, chất lượng của sản phẩm được đảm bảo, giảm chi phí sản xuất và do đó giá thành sản phẩm giảm. Trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực cũng như với nhiều các nước trên thế gới, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất là sự bất cập về trình độ của người lao động. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào doanh nghiệp tạo ra một cung cách quản lý mới, một nền công nghệ mới và tất yếu đòi hỏi một đội ngũ những người lao động có trí thức, có chuyên môn để tiếp thu, vận dụng đáp ứng yêu cầu của dự án. Nếu như trước đây, chúng ta đã quá đề cao lợi thế lao động rẻ trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thì hiện nay, trên thực tế đối với nhà đầu tư nước ngoài yếu tố này không phải là yếu tố hàng đầu thu hút đầu tư của họ và số lao động không có kỹ thuật, giá rẻ lai là một gánh nặng cho Việt Nam. Nhìn chung, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của LLLĐ nước ta còn rất thấp so với yêu cầu CNH, HĐH. Theo kết quả điều tra Xã hội học của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 1997, trình độ văn hoá của công nhân lao động nước ta như sau: 4,1% trình độ văn hoá cấpI, 19% cấp II, 32% cấp III, 14% cấp trung học chuyên nghiệp, 4,35% đại học và trên đại học. Về trình độ tay nghề cả nước ta còn 13,24% thợ bậc 1,2; 36,36% thợ bậc 3-4; 25% thợ bậc 5-7 trong đó chỉ có 2,45% là thợ bậc 7. Như vậy, sự thiếu hụt lao động được đào tạo nghề và trình độ nghề nghiệp quá thấp thể hiện sự mất cân đối nghiêm trọng trong quá trình sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tại thành phố HCM, theo điều tra của Viện kinh tế ở 400 doanh nghiệp và của Sở Lao động-Thương binh-Xã hội tại 650 doanh nghiệp về nhu cầu lao động năm 1998-2000, cho thấy thiếu trên 27% chuyên gia kỹ thuật và thiếu trên 32% công nhân kỹ thuật, trong lúc đó doanh nghiệp thừa 17% lao động không có tay nghề, riêng doanh nghiệp Nhà nước thừa trên 30%. Tóm lại chúng ta đang thiếu nghiêm trọng những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và dư thuà lao động giản đơn, dư thừa lao động không được đào tạo. Điều này cho thấy cơ cấu lao động của Việt Nam còn nhiều bất cập và sẽ có nhiều biến động lớn, phải phân công lại và ít có khả năng bắt nhịp với quá trình phân công lao động quốc tế. Chỉ riêng các doanh nghiệp có công nghệ trung bình trong nước cũng đòi hỏi một lượng lao động lành nghề gấp nhiều lần số hiện có. Nguyên nhân của sự thiếu hụt trầm trọng của LLLĐ có tay nghề là do chúng ta chưa có một qui hoạch tổng thể ở tầm vĩ mô đối với lĩnh vực đào tạo dạy nghề củng như bố trí và sử dụng đội ngũ lao động đã qua đào tạo một cách phù hợp. Chúng ta chưa có chính sách khuyến khích dạy nghề và học nghề đối với lao động, chưa thực sự đầu tư thoả đáng cho đào tạo lao động, chậm đổi mới định hướng lĩnh vực dạy nghề phù hợp với thị trường lao động. 2. Một số biện pháp để cân đối tốt hơn giữa nhu cầu lao động và khả năng cung cấp Tốc độ tăng trưỏng kinh tế những năm qua chững lại, tìnhtrạng thừa thiếu lao động giả tạo đã làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, buộc chúng ta phải thận trọng hơn để tìm ra lối thoát cho sự thiếu hụt lao động lành nghề. Có thể đưa ra một số biện pháp cơ bản sau để phần nào giải quyết tình trạng này: Thứ nhất, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, thực hiện các chính sách khuyến khích dạy và học nghề đối với mọi người lao động theo phương châm xã hội hoá - đầu tiên là thanh niên nông thôn, phụ nữ, lao động dư dôi do sắp xếp lại doanh nghiệp. Phổ cập học vấn phổ thông trung học cho những lực lượng lao động còn thấp, gắn liền vói các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong các cấp. Nhằm tạo ra một mặt bằng dân trí tối thiểu và nâng cao năng lực cho ngưòi lao động, để người lao động có trình độ năng lực tiếp cận với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kién thức sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, khoa học, công nghệ và họ có thể tự kiếm được việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường Thứ hai, phát triển mạnh mẽ các trường dạy nghề, nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý giữa LLLĐ, cân đối lại tỷ lệ lao động lành nghề với tỷ lệ lao động có trình độ đại học cao đẳng, giữa kỹ sư thực hành và kỹ sư lý thuyết, phân bổ lại số lượng chuên gia giữa các lĩnh vực kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH. Hướng nghiệp dạy nghề cần được tiến hành có hệ thống tại các trường, các trường dạy nghề cần chuẩn hoá các sách giáo khoa, giáo trình, đúc rút kinh nghiệm để đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đặt ra, phù hợp với thị trường lao động. Thứ ba, khuyến khích và động viên sự đóng góp tài chính của toàn dân, các thành phần kinh tế các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và lĩnh vực đào tạo, dạy nghề. Các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có quy mô lớn cần tổ chức các trường lớp, các tổ chức dạy nghề cho người lao động trong doanh nghiệp, kể cả ngoài doanh nghiệp. Thứ tư, tăng dần tỷ lệ đầu tư cho giáo dục, cần thường xuyên kiểm tra đánh giá chất lượng dạy nghề tại các trung tâm, tránh tình trạng thả nổi như thời gian vừa qua, để dẫn tới hậu quả học sinh học nghề nhiều nhưng lại không giỏi một nghề nào cả, làm cho lao động tay nghề vững đã thiếu lại càng thiếu hơn. IV. kết luận Qua những phân tích về lực lượng lao động, tình hình giải quyết việc làm cũng như thực trạng cân đối lao động-việc làm thời gian qua ở những phần trên, ta có thể đi tới một số kết luận sau: Thứ nhất, về lực lượng lao động. Trong thời gian qua Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng lao động, có bổ sung một số lao động có chuyên môn kỹ thuật, nhưng trên thực tế chất lượng lao động nước ta còn rất thấp, khó có thể đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tỷ lệ LLLĐ có kỹ thuật đã thiếu ở thành thị lại càng thiếu hụt hơn rất nhiều ở khu vực nông thôn dẫn đến tình trạng chậm phát triển ở khu vực này, càng làm tăng khoảng cách về phát triển cũng như thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Do vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp và chính sách để giảm tỷ lệ tăng LLLĐ đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ lao động hiện có nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ mới. Thứ hai, về tình hình giải quyết việc làm. Thời gian qua chúng ta đã có những thay đổi căn bản về việc làm, mỗi năm đã giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Tuy nhiên, do số lượng người bước vào tuổi lao động ngày càng tăng và số người mất việc cũng nhiều nên làm cho tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng mạnh, tạo áp lực lớn cho toàn xã hội.Tình trạng lao động thiếu việc làm xảy ra hàng loạt đã gây ra nũng tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Thiếu việc làm ở nông thôn cao gây ra hiện tượng di dan rất tự do vào thành thị làm cho thành thị bị quá tải, việc quản lý trật tự an toàn xã hội trở nên khó khăn hơn. Thứ ba, về thực trạng cân đối lao động-việc làm thời gian qua. Chúng ta thiếu lao động kỹ thuật có tay nghề nhưng lại dư thừa rất nhiều lao động giản đơn. Không đáp ứng được nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp cũng không tìm được cách để sử dụng những lao động giản đơn dư thừa. Vì vậy, đây cũng là một nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn qua và cũng là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay cần được giải quyết. Với tình hình như trên, đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục về trước mắt cũng như lâu dài để tạo nên sự phát triển bền vững và hiệu quả của đất nước. Cần kết hợp tốt giữa khả năng cung cấp và khả năng giải quyết việc làm của nền kinh tế. Tạo ra nhiều việc làm và giảm tốc độ tăng lao động đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển và nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn lao động. Chương iii Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động ở việt nam giai đoạn 2001-2005 I.Mục tiêu phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 1.Mục tiêu tổng quát Kế hoạch 5 năm (2001-2005) thể hiện các quan điểm phát triển và mục tiêu chiến lược trong mười năm tới. Theo đó, mục tiêu của kế hoạch này là: “Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ. Giải quyết các vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định và cải thiện hơn đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo ,giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. 2. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế, xã hội chủ yếu 2.1 Các mục tiêu kinh tế -Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hành năm ít nhất là 7%. Tổng GDP năm 2005 gần gấp 2 lần so với năm 1995. -Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trên 4% /năm. -Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 11,2%/năm. -Giá trị dịch vụ tăng trên 7%/năm. -Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 12-14.5%/năm. -Lạm phát dự kiến 5-6% /năm. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến -Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp là 20-21%. -Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39%. -Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%. Dự kiến cơ cấu lao động trong tổng số lao động có việc làm đén năm 2005 -Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp 56-57%. -Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 20-21%. -Lao đông trong lĩnh vực dịch vụ 23-24%. 2.2.Các mục tiêu xã hội Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 40% vào năm 2005, thực hiên chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở Giảm tỷ lệ sinh trung bình hàng năm 0,5-0,5%; tốc độ phát triển dân số vào năm 2005 khoảng 1,23%. Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho 7,5-8,0 triệu người lao động, bình quân 1,5-1,6 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005. Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ nghèo (theo tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam ) xuống còn 5% vào năm 2005. Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh trong nước; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuông còn 20-25% vào năm 2005. Nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi, cung cấp nước sạch cho 80% dân số nông thôn. ii.kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005 1.Số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động Vào năm 2000, số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động là 43,8 triệu người, dự kiến và năm 2005 khoảng 50,8 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu người. Số lao động cần có việc làm vào năm 2005 khoảng 47 triệu người, trong đó số lao động nông thôn khoảng 34,8 triệu người, chiếm 74%, lao động ở thàng thị khoảng 12,2 triệu người, chiếm 26%. Ngoài số lao động đã có việc làm ổn định trong nền kinh tế, số lao động cần giải quyết thêm việc làm trong 5 năm trên 15 triệu người, bao gồm tăng tự nhiên 7 triệu người, công với số chưa có việc làm cũ chuyển qua khoảng 8 triệu người; trong đó ở nông thôn trên 12 triệu người (tính theo ngày công quy đổi), chiếm 79%, thành thị khoảng 3 triệu người, chiếm 21%. 2.Dự kiến thu hút nguồn lao động mới tăng thêm vào các khu vực Tại khu vực nông thôn, dự kiến có thể thu hút thêm trong 5 năm khoảng 6,3 triệu người, trong đó 3,7 triệu người cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (tính theo ngày công quy đổi), 2,6 triệu người cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 28-29 triieụ người, trong đó 22-23 triệu người sản xuất nông nghiệp (tính theo ngày công quy đổi); 6-7 triệu người sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số lao đông chưa có việc làm (tính theo ngày công quy đổi) khoảng 5,8-6,8 triệu người, chiếm 12-15% số lao động trong độ tuổi và khoảng 17-20% số lao động cần có việc làm ở nông thôn. Tại khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút thêm khoảng 1,8 triệu người, trong đó 80 vạn người vào sản xuất công nghiệp và xây dựng, 1 triệu người vào các ngành dịch vụ. Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở thành thị là 11,4-11,6 triệu người, trong đó 5,2-5,5 triệu người sản xuất công nghiệp và xây dựng, 6,1-6,2 triệu người vầo các ngành dịch vụ; số lao động chưa có việc làm khoảng 0,6-0,8 triệu người, chiếm 4,3-4,5% số lao động trong độ tuổi và khoảng 5-6% số lao động chưa có việc làm ở thành thị. 3.Định hướng phát triển việc làm Giải quyết việc làm và ổn dịnh việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ cơ bản, bức xúc mà các ngành, các cấp phải đặc biệt quan tâm. Phấn đấu giải quyết việc làm và ổn định việc làm cho 7,5-8 triệu người trong 5 năm, bình quân 1,4-1,5 triệu người/năm; phấn đáu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống khoảng 5-6% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%. Xuất khẩu lao động được xem là một khâu quan trọng trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16,7% (năm 2000) lên 20-21% (năm 2005), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 22% (năm 2000) lên 23-24% (năm 2005).Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 56-57% (năm 2005).Tăng nhanh lao động kỹ thuật từ 18-20% năm 2000 lên 30% năm 2005. Iii.những chính sách cơ bản để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005 Để nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để cho người lao động có điều kiện hoàn thiện năng lực, tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua các chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu lao động, đồng thời làm cho cung và cầu lao động phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Có thể đưa ra một số chính sách chủ yếu có tính chất định hướng như sau nhằm thực hiện tốt hơn kế hoạch về lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005: 1.Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ Mục tiêu của người lao động là có thu nhập tương ứng khả năng của mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình. Vì vậy, càng có những yếu tố vật chất và tinh thần để khuyến kích và đãi ngộ thì người lao động càng nâng cao trình độ của mình, đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình đồng thời phải có những hình thức đãi ngộ riêng cho những người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động lực hơn cho mọi lao động phấn đấu. 2.Chính sách khuyến khích dạy và học nghề Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có kỹ thuật, vì vậy nâng cao số lượng lao động này để đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH là những việc cần làm ngay trong thời gian tới. Do đó phải có những chính sách cụ thể về khuyến khích dạy và học nghề như tạo điều điều kiện ưu đãi cho cho những giáo viên dạy nghề bằng cách tăng phụ cấp, tiền lương, tạo ra nhiều việc làm cho những học sinh học nghề, có kế hoạc sử dụng ngay nguồn lực, này khi họ tốt nghiệp và đảm bảo những điều kiện tốt nhất về nơi làm việc, điều kiện sinh hoạt hàng ngày cho họ... 3.Chính sách phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là vốn quý của quốc gia nhưng làm sao để có thể sử dụng được thì mới là kết quả cuối cùng. Do vậy, phải phát triển nguồn nhân lực ngay từ thời kỳ đầu nhằm cung cấp đầy đủ cho sự phát triển của đâts nước. Cần tập trung vào vấn đề y tế, chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng để năng cao khả năng làm việc đông thời phải đầu tư để nâng cao trình độ của người lao động như đầu tư vào giáo dục đào tạo, đầu tư vào dạy nghề... 4.Bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô 4.1.Chính sách tạo vốn Yếu tố cơ bản trước tiên của giải quyết việc làm là phải có vốn.Chính sách tạo vốn phải chú ý hai hướng: Một là, tập trung nguồn lực vốn cho mở rộng việc làm thông qua các chương trình tổng thể, nhất là các chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình khai thác tiềm năng các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ... Hai là, huy động đến mức cao nhất nguồn vốn trong nhân dân bằng các chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển việc làm như chính sách cho thuê, mượn đất đề người có vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh... Trong chính sách tạo vốn, quan trọng nhất là hoàn thiện chính sách về hệ thống tín dụng. Cần phải hình thành hệ thống tín dụng với cấu trúc như sau: -Hệ thống tín dụng thương mại. Hệ thống này chủ yếu phục vụ các đối tượng là chủ thể sản xuất, kinh doanh đúng theo cơ chế thị trường. Người vay được áp dụng theo chính sách lãi suất đúng thị trường. -Hệ thống tíndụng có tính chất tài trợ của Nhà nước cho các chương trình xã hội. Thực chất là Nhà nước trợ giúp tạo mở việc làm thông qua chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ. -Hệ thống tín dụng nhân dân.Là hình thức tín dụng trong cộng đồng, giúp nhau tạo vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. 4.2.Chính sách đất đai Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nhân dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra nhiều việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Cụ thể là: -Đối với người nghèo ở nông thôn không được thu bớt ruộng đất của họ trong trường hợp người nghèo nợ sản lượng khoán, mà phải viện trợ cho họ về vốn, kinh nghiệm làm ăn... -Trợ giúp vốn kỹ thuật, và công nghệ, thị trường tiêu thụ để nông dân thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, trước mắt là nâng vòng quay của đất bằng cách phát triển vụ đông, chuyển một phần ruộng trồng lúa sang làm vườn kinh tế... -Xác định giá đất hợp lý theo hướng ưu đãi cho các gia đình khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở quê cũ để đến vùng kinh tế mới, tạo cho họ có thêm vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. -Khuyến khích người có vốn đến khai hoang và kinh doanh theo kiểu trang trại ở các vùng đất còn hoang hoá bằng cách cho vay vốn với lãi suất nâng đỡ, cho mượn hoặc thê đất lâu dài với giá thấp... -Quy hoạch lại các vùng nông, lâm trường để giao phần đất chưa sử dụng cho các hộ gia đình theo mô hình “nông, lâm trường mở”, trong đó nông, lâm trường là trung tâm, các hộ gia đình là vệ tinh. 4.3.Chính sách thuế Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đỏi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế, song để khuyến khích các chủ kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần bổ sung, hoàn chỉnh một số vấn đề trong chính sách thuế theo hướng: Thứ nhất, cần áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đưa công nghệ thích hợp vào sản xuất, trong đó vừa đảm bảo yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vừa tạo thêm việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là tạo ra các tầng khác nhau để sử dụng được nhiều lao động. Thứ hai, đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ cần phải nghiên cứu tách chi phí xã hội ra khỏi chi phí sản xuất để Nhà nước có chính sách trợ giúp thông qua chính sách xã hội dưới hình thức giảm thuế tương ứng. Thứ ba, thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình mới ra đăng kí kinh doanhlần đầu (2-3 năm đầu) thu hút được thêm lao động. Thực hiện chính sách này phải có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đứng mức, trước hết là: -Các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn (làng nghề). -Các hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn sử dụng lao động nhàn rỗi. -Các cơ sở sản xuất của người tàn tật, thương binh, các đối tượng tệ nạn xã hội, người thôi việc trong khu vực Nhà nước, lao động hợp tác nước ngoài trở về, người mãn hạn tù... Thứ tư, miễn giảm thuế cho sự nghiệp dạy nghề xã hội gắn với việc làm của các trung tâm xúc tiến việc làm. Trung tâm dạy nghề, khuyến nông, các cơ sở dạy nghề tư nhân là cơ sở vệ tinh của hệ thống các Trung tâm thuộc chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Thứ năm, nghiên cứu, xacs định hợp lý suất miễn thu để trừ ra trong tổng doanh thu chịu thuế với các hộ sản xuất, kinh doanh ở quy mô gia đình có thuê hoặc không thuê lao động. 5.Hình thành hệ thống đồng bộ các chính sách chủ yếu khuyến khích các hình thức và lĩnh vực thu hút được nhiều lao động 5.1.Chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Để giải quyết việc làm cho lao dộng nông thônthông qua hình thức kinh tế hộ gia đình, Nhà nước cần bổ sung một số chính sách cụ thể sau: -Tăng tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn từ ngân sách thông qua các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện chuyển các hộ gia đình sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá. -Lập quỹ tín dụng cho các hộ gia đình vay theo món nhỏ với lãi suất hợp lý và theo chu kỳ sản xuất. Tăng dần tỷ lệ cho vay trung hạn để mọi người có điều kiện tập trung đầu tư theo chiều sâu. Đặc biệt khuyến khích các hộ gia đìng vay vốn để phát triển tiểu thủ công nghiệpvà dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại... -Thiết lập hệ thống chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, và các hộ gia đình để sản xuất các mặt hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. -Có chính sách trợ giá cho nông nghiệp hoặc nghiên cứu lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ gia đình, xác lập mối quan hệ giá cánh kéo hợp lý trong từng thời kỳ. 5.2.Đổi mới chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế, xã hội dân cư mới để gắn lao động với đất đai và tài nguyên đất nước Những định hướng cơ bản đổi mới chính sách này có thể khái quát như sau: -Thay đổi chính sách đầu tư khai thác các vùng trên cơ sở đó thực hiện phân bố lại lao động, dân cư và giải quyết việc làm. -Tiếp tục đổi mới các hình thức di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo chương trình, dự án quốc gia, vùng và địa phương. Nhà nước tập trung vào một số vùng trọng điểm theo dự án quốc gia, còn lại cần quy hoạch để dân tự đến khai thác, trong dó cần chú ý luồng di dân tự do từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. -Sửa đổi, bổ sung một số chính sách cụ thể liên quan đến di dân xây dựng các vùng kinh tế mới như: thực hiện việc đánh thuế đất đai để sử dụng tiết kiệm đất, trao quyền sử dụng đất lâu dài cho dân, tạo vốn cho các hộ gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới... 5.3.Chính sách khuyến khích phát triển khu vực kinh tế quy mô nhỏ và linh hoạt trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở thành thị để giải quyết việc làm Đây là loại chính sách tác động vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực phi kết cấu ở thành thị phù hợp với cơ chế thị trường. Để khuyến khích khu vực này phát triển, chính sách của Nhà nước cần tập trung vào các hướng sau: -Cụ thể hoá Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho sát với thực tế để tạo hành lang pháp luật cho dân tự do kinh doanh. Trong đó, đặc biệt là cần đơn giản hoá thủ tục và giảm lệ phí thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. -Sớm ban hành một số chính sách khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình có cơ sở sản xuất, kinh doanh như miễn, giảm thuế cho họ trong 2-3 năm đầu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi... -Quy hoạch, tổ chức lại phố phường, vỉa hè, chợ ở các thành phố để tạo điều kiện cho các khu vực phi kết cấu phát triển song không ảnh hưởng đến vệ sinh đô thị và mỹ quan thành phố. -Phát triển sự nghiệp đào tạo các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chủ hộ kinh doanh về kiến thức quản lý doanh nghiệp theo cơ chế thị trường như marketing, hạch toán doanh nghiệp. 5.4.Chính sách khôi phục và phát triển nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động Nghề truyền thống có khả năng thu hút được nhiều lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người, kể cả nông thôn và thành thị. Để khôi phục và phát triển nghề truyền thống, Nhà nước cần phải có một chính sách khuyến khích và trợ giúp, cụ thể là: -Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cơ sở snr xuất, các hộ gia đình làm nghề truyền thống như cho vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, giảm đến mức tối đa các lệ phí, cho mượn hoặc thuê mặt bằng để sản xuất... -Tổ chức lại các cơ sở làm nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức hợp tác kiên gia đình, các làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ... 5.5.Chính sách khuyến khích tự do di chuyển lao động và hành nghề theo pháp luật Dưới góc độ việc làm, tự do di chuyển và hành nghề là hiện tượng tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sụ phát triển của thị trường lao động ở nước ta nhằm điều chỉnh quan hệ cung-cầu lao động, giảm thất nghiệp kết cấu. Bởi vậy, việc ứng xử của Nhà nước không phải là cấm nó phát triển, mà trái lại phải có cơ chế và chính sách để quản lý và kiểm soát nó, khuyến khích nó phát triển đúng hướng. Các chính sách quan trọng nhất là: -Ban hành đồng bộ các thể chế, biện pháp quản lý và kiểm soát về mặt Nhà nước đối với thị trường lao động, đảm bảo người lao động được di chuyển và hành nghề một cách tự do theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. Trước hết đó là các chính sách về tiền lương tối thiểu, an toàn vệ sinh lao động, hợp đồng lao động... -Tổ chức hệ thống văn phòng dịch vụ giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, thông tin về thị trường lao động ở các địa phương và các vùng. -Trong các thành phố, ở các địa phương cần có chương trình phối hợp để quản lý được tốt đối tượng hành nghề tự do phù hợp với chính sách quản lý hộ khẩu, chính sách nhà ở... theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được tự do hành nghề theo pháp luật. 5.6.Chính sách đối với hình thức thanh niên xung phong làm kinh tế và giải quyết việc làm cho thanh niên Thanh niên xung phong là một trong những hình thức quan trọng thu hút lực lượng trẻ tuổi của thanh niên ta. Trong điều kiện hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức này theo hướng vừa gắn với nghĩa vụ của thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới, tham gia gải quyết những nhiệm vụ khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm cho thanh niên, vừa phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả trong hoạt động của lực lượng thanh niên xung phong. Về mặt chính sách, Nhà nước cần tập trung vào một số định hướng sau: -Nhà nước cần định hướng hoạt động chủ yếu của lực lượng thanh niên xung phong là lực lượng xung kích trong việc thực hiện những công trình trọng điểm của quốc gia. Nhà nước ưu tiên dành cho những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội theo kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho lực lượng thanh niên xung phong đảm nhận dưới hình thức nhận thầu hoặc giao cho thanh niên xung phong đứng ra lập luận chứng kinh tế xã hội các dự án lớn có sự đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước. -Khuyến khích tổ chức thanh niên xung phong phát triển sản xuất và dịch vụ hoạt độngtheo cơ chế thị trường và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. -Nhà nước có chính sách tiền công hợp lý, chính sách bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của thanh niên và có những chính sách ưu đãi thích hợp như đào tạo, dạy nghề... sau khi hết hạn phục vụ trong thanh niên xung phong để thanh niên yên tâm cống hiến. -Phát triển các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm, trung tâm dịch vụ cung ứng lao động cho thanh niên xung phong, có sự đầu tư trợ giúp ban đầu của Nhà nước. 5.7.Chính sách khuyến khích lực lượng vũ trang tham gia phát triển kinh tế và tạo việc làm Lực lượng vũ trang có một đội ngũ khoa học, kỹ thuật, lao động và cơ sở vật chất kỹ thuật đáng kể. Vì vậy, lao động sản xuất và tham gia hoạt động kinh tế là một trong những nhiệm vụ chiến lược của lực luượng vũ trang, thể hiện quan điểm nhất quán kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Định hướng cơ bản của chính sách này như sau: -Hoạt động kinh tế của lực lượng vũ trang chủ yếu là kết hợp và tận dụng năng lực sản xuất hiện có để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho công nhân viên quốc phòng, an ninh. -Cần hình thành các đơn vị vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng để thực hiện xây dựng hạ tầng cơ sở, là những công trình có tính chất tạo mở và phát triển việc làm để thu hút lao động xã hội ở các ddịa bàn chiến lược kinh tế-quốc phòng, nhưng cũng phải trên cơ sở chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước. -Nhà nước cần có cơ chế và chính sách riêng đối với mô hình lực lượng vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng như các chính sách tín dụng cho vay với với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm... -Phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm trong hệ thống quốc phòng để dạy nghề và tạo việc làm cho bộ đội trước khi xuất ngũ. Các trung tâm này nằm trong hệ thống Trung tâm xúc tiến việc làm quốc gia và được đầu tư trợ giups một phần ban đầu từ ngân sách Nhà nước. 5.8.Chính sách mở rộng đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là hướng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển kinh tế, xã hội trong nước, vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết việc làmcho một bộ phận lớn lao động xã hội. Trong thời gian tới, đổi mới chính sách này theo hướng đa dạng hoá phương thức và hình thức đưa lao động đi vlàm việc có thời hạn ở nước ngoài đảm bảo mục tiêu hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Mở rộng địa bàn sang tất cả các nước có nhu cầu sử dụng lao động của Việt Nam. Nhà nước sớm ban hành quy chế hoặc pháp lệnh đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, khẩn trương tổ chức hệ thống dạy nghề cho người lao động để chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ tay nghề và ngoại ngữ đpá ứng yêu cầu của nước sử dung lao động, dần dần hình thành đội quân chuyên nghiệp đi lao động ở nước ngoài, từng bước hoà nhập vào thị trường lao động quốc tế. Iv.những biện pháp cơ bản để thực hiện công tác kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005 1.Tiếp tục thực hiện tốt công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình Trong giai đoạn tới sẽ giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,04-0,05%, tốc độ tăng dân số vào năm 2005 là 1,23%, quy mô dân số khoảng 83 triệu người, trong đó ở nông thônkhoảng 60 triệu người, thành thị khoảng 23 triệu người, từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư nhằm hạn chế việc mở rộng chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư và các nhóm xã hội khác nhau, đưa các yếu tố tích cực của dân số vào các kế hoạch phát triển. 2.Phổ cập giáo dục tiểu học Tiếp tục phổ cập giáo dục tiểu học, xoa mù chữ ở người lớn, đặc biệt tập trung cho các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Đối với một số thành phố lớn nên phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, một số nơi có điều kiện có thể thực hiện phổ cập phổ thông trung học. Để thực hiện, Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho giáo dục tiểu học và thực hiện công bằng trong chi tiêu cho giáo dục. Đối với một số tỉnh giàu, thành phố lớn, nên đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục để tăng nguồn lực cho giáo dục, qua đó Nhà nước có thể ưu tiên ngân sách Nhà nước cho vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. 3.Nâng cao chất lượng nguồn lao động Thứ nhất, khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung vào ba hướng sau: -Với đào tạo đại học, cao đẳng: Giảm ngay chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường mà quy mô đào tạo hiện đang quá tải so với điều kiện cho phép và ở những ngành học có quy mô đào tạo quá nhu cầu như báo chí, luật, kinh tế. Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp nhất là các trường nằm ngay ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh kịp thời chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu, mặt khác phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học. -Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội, phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đổi mới phương pháp, nội dung và giáo viên dạy nghề cho phù hợp với thực tế. -Thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việc phân luồng này, một mặt phải được điều khiển bằng cơ chế, chính sách vĩ mô của Nhà nước trên cơ sở nhận thức rõ ràng giá trị xã hội của từng loại lao động và có chính sách khuyến khích vật chất cho học sinh vào học các trường nghề, mở ra cho họ có khả năng phát triển trong tương lai, mặt khác, đòi hỏi các trường phổ thông phải làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trong đó cần đặc biệt coi trọng các chính sách sau: tập trung đầu tư thoả đáng vào đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề; khuyến khích người học nghề phát triển tài năng và mở đường cho họ phát triển không hạn chế tài năng; khuyến khích vật chất và đãi ngộ tài năng thoả đáng (tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất) cho các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề ... Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm vào việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động, cũng như nhu cầu vay vốn dài hạn với lãi xuất ưu đãi cho kinh tế hộ nông thôn nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này, giải toả sức ép di dân đến đô thị. 4.Biện pháp tăng cầu lao động trong thời gian tới. Thứ nhất, đối với nước nghèo và nhiều lao động như Việt Nam thì tăng cầu lao động là một mục tiêu quan trọng nhưng phải đảm bảo hai nguyên tắc: chi phí thấp và tạo được càng nhiều việc làm càng tốt thông qua biện pháp kinh tế là chính. Các kiến nghị là: -Cần nhanh chóng cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực. -Cần có chính sách rõ ràng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo được nhiều việc làm. Khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp lớn-vừa-nhỏ, qua đó có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kỹ thuật cao, vừa thực hiện chuyển giao kỹ thuật giữa doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học vừa làm. Thứ hai, khuyến khích các hoạt độngphi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm tại chỗ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. Thứ ba, nâng cao hiệu quả các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, điều chỉnh chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình khi không đạt được mục tiêu. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng căng thẳng về giải quyết lao động và cần sự giúp đỡ của nhà nươc trung ương. Tuy nhiên, chương trình cũng chỉ nên triển khai tại một số nơi đã có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ địa phương am hiểu thực tế và có khả năng giám sát đánh giá hiệu quả của các biện pháp giải quyết việc làm, ở nơi người lao động có đủ khả năng vay vốn để tự tạo công ăn việc làm. Thứ tư, do thị trường lao động mới được hình thành, nên việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ luật pháp cho nó vận hành trong nền kinh tế thị trường là rất cần thiết. Cụ thể là cần hoàn thiện khung khổ luật pháp về lao động, như quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động khi chuyển việc, thôi việc, mất việc .... 5.Giải quyết việc làm cho các khu vực. 5.1.Khu vực thành thị. Thành thị mặc dù có tỷ trọng về dân số và lao động không lớn hơn so với khu vực nông thôn, nhưng lại là địa bàn tập trung mật độ dân cư, lao động cao, cũng là nơi chịu tác động mạnh của cơ chế thị trường, dễ nảy sinh những điểm nóng về các vấn đề kinh tế xã hội, nhất là vấn đề việc làm. Phương hướng rất quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động ở thành thị là phải gắn với chương trình phát triển doanh nghiệp có quy mô lớn, nhất là ở địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển mạnh các tập đoàn sản xuất mạnh của nhà nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn .... Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu cũng là hướng rất lớn để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi trọng gia công xuất khẩu là một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta có nhiều lao động với giá rẻ, dễ tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới lại có nguồn nguyên liệu trong nước tại chỗ dồi dào Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị, đặc biệt là ở một số thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung. Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố, thị xã, trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội-ngoại thành là hướng quan trọng để tạo việc làm cho lao động thành thị. 5.2.Khu vực nông thôn. ở nông thôn vấn đề cơ bản nhất cần phải giải quyết là nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả và thu nhập thấp dấn đến đời sống thấp, một bộ phận lớn dân cư còn ở trong tình trạng nghèo khổ. Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, phải làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm dần về số hộ thuần nông để giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng bình quân đầu người diện tích đất nông nghiệp quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế, chính sách và luật pháp tập trung dần ruộng đất có điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn nhưng cần ít vốn và hướng vào xuất khẩu như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao... 5.3.Đối với lao động nữ. Để tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động nữ trong cơ chế thị trường, vấn đề then chốt và cơ bản nhất là phải bằng mọi biện pháp tăng sức cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao động, để lao đông nữ có nhiều cơ hội trong tìm kiếm việc làm có thu nhập đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình. Muốn vậy cần lưu ý đến các vấn đề: -Có chính sách đào tạo, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi. -Khuyến khích chủ doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động nữ bằng các chính sách cụ thể. -Ưu tiên các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực hoạt động phù hợp với lao đông nữ ( may mặc, phi kết cấu...). -Đảm bảo trên thực tế quyền bình đẳng của lao động nữ thuộc mọi thành phần kinh tế, trong các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và ở các khu vực. Kết luận chung Qua những phân tích ở trên có thể thấy lao động và việc làm đang là một vấn đề xã hội hết sức rộnglớn, muốn giải quyết thì nó đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn xã hội bên cạnh sự quyết tâm cao nhất của Nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội để chúng ta có thể thể hiện được sự khéo léo trong việc quản lý xã hội, tạo đà cho sự phát triển mới trong tương lai. Trong giai đoạn 2001-2005, giải quyết được vấn đề lao động và việc làm sẽ là một thành công lớn để tạo cơ sở cho việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005. Tài liệu tham khảo 1) Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 2) Tạp chí “thị trường lao động” số 1,2,3 năm 2000 3) Tạp chí “nghiên cứu lý luận” 6/2000 4) Tạp chí “lao động và xã hội” 5,6/1998, 11/1999, 9/2000 5) Tạp chí “nghiên cứu kinh tế” 12/1999, 1/2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29351.doc
Tài liệu liên quan