Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm, làm mục tiêu của phát triển cần tập trung mọi người, mọi nguồn lực cho sự phát triển . Đây là giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong đó vấn đề nguồn lực con người luôn luôn được quan tâm và chú trọng.
Xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin, có trí thức, có trình độ và quyết tâm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vậy chúng ta phải đẩy nhanh đầu tư cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, để từng bước nâng cao được năng lực, trí tuệ, tiếp cận được các công nghệ tiên tiến trên thế giới, đổi mới công tác quản lý nguồn nhân lực một cách hợp lý chặt chẽ, có những chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình y tế, chăm sóc sức khoẻ cộngđồng
Từ đó tạo ra được một nguồn lực về nguồn nhân lực thực sự mạnh cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay cũng như mai sau.
Xây dựng được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của giai đoạn hiện nay hay của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là tạo được nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đó vấn đề chuẩn bị nhân tố con người, nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính ý nghĩa cơ bản lâu dài và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi phải có sự kết hợp những nỗ lực chung của toàn xã hội cũng như bản thân từng người lao động. Làm được tất cả những điều đó sẽ giúp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Nhà nước và nhân dân Việt Nam đạt được thành công tốt đẹp.
43 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thời kỳ 2000- 2010 và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu thống kê năm 2000: a của nước ta khoảng 59% kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực có mục tiêu là làm thế nào để cung và cầu về lao động của nền kinh tế trong các ngành nghề ăn khớp với nhau và tránh được dư thừa, thiếu hụt lao động so với nhu cầu để nhằm được mục tiêu phát triển chung của đất nước.
Bảng 3. Cân đối giữa mục tiêu và khả năng về các chỉ tiêu chủ yếu có liên quan đến dân số, lực lượng lao động và việc làm giai đoạn 2000- 2010
Chỉ tiêu
đơn vị
Thực tế đến năm 2000 (*)
Mục tiêu phát triển (theo dự kiến)
Theo tính toán từ các chương trình mục tiêu (khả năng)
Cân đối về số lượng giữa khả năng và mục tiêu (cao hơn/thấp hơn)
Đến năm 2010
Tăng giảm bình quân hàng năm 2000- 2010
Đến năm 2010
Tăng giảm bình quân hàng năm 2000- 2010
Đến năm 2010
hàng năm 2000- 2010
A
B
1
2
3
4
5
6
7
1. Dân số
1000 người
77697,0
83000
1060,6
82492,6
959,1
-507,4
-101,5
Chia ra: Thành thị
nt
18647,3
22825
835,5
22685,5
725,1
-552
-110,4
- Nông thôn
nt
59049,7
60175
225,1
59807,1
234,0
44,6
8,9
- Hệ số đô thị hoá
%
24,0
27,5
0,70
27,5
0,60
-0,5
-0,1
2. Lực lượng lao động
1000 người
38643,0
42665,0
804,4
42665,0
804,4
Chia ra Thành thị
nt
8726,0
11092,9
473,4
11092,9
473,4
Nông thôn
bt
29917,0
31572,1
331,0
31572,1
331,0
Tỷ lệ LLLĐ thành thị chiếm trong tổng LLLĐ cả nước
%
22,6
26,0
0,68
26,0
0,68
3. Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên
Tổng số
1000 người
35205
40000,0
758,9
40007,5
760,4
7,5
1,5
Chia theo nhóm ngành
Nông, lâm ngư nghiệp
nt
22670,0
22600
-14,0
24020,0
270,0
142,0
284
công nghiệp và xây dựng
nt
4743,7
8000
651,3
7193,7
490,0
-806,3
-161,3
Dịch vụ
nt
8791,9
9400
121,8
8793,8
0,4
606,2
121,4
4. Cơ cấu lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành
Nông, lâm ngư nghiệp
%
62,56
56,5
-1,2
60.04
-0,5
3,54
0,7
Công nghiệp và ngư nghiệp
%
13.15
20.0
1,4
17,98
1,0
-2,02
-0,4
Dịch vụ
%
24,29
23,5
-0,16
21,98
-0,5
-1,52
0,3
5. Lao động không có việc làm thường xuyên
1000 người
2437,4
2665,0
45,5
2657,5
44,0
-7,5
-1,5
Trong đó chia ra
- đi xuất khẩu lao động và chuyên gia
nt
200,0
300,0
20,0
300,0
- GQVL thông qua các hoạt động hỗ trợ trực tiếp
nt
1351,7
1550,0
39,7
1550,0
39,7
- Thất nghiệp
nt
885,7
815,0
14,1
807,5
15,6
-7,5
-1,5
6. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
%
6,44
5,5
5,0
-0,5
-1,5
7. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
%
73,86
80,0
78,0
-2,0
-0,4
2. Xác định cơ cấu nguồn nhân lực
Cơ cấu nguồn nhân lực là trong trạng thái hoạt động của nguồn nhân lực phân chia nguồn nhân lực trong các hoạt động kinh tế của đất nước.
Việc nghiên cứu về cơ cấu nguồn nhân lực là một công việc quan trọng để từ đó tạo lập một cơ cấu nguồn nhân lực mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo định hướng của mỗi quốc gia. Việc lập cơ cấu nguồn nhân lực phải nhằm phục vụ cho được sự chuyển dịch theo các mặt chủ yếu sau:
- Cơ cấu trình độ lành nghề của đội ngũ lao động chuyển dịch theo hướng yêu cầu trí tuệ năng lượng ngày càng cao gắn với cơ cấu công nghiệp, đó là trình độ cơ cấu công nghệ, nhiều loại quy mô trong đó ưu tiên các loại trình độ ưu tiên thích hợp.
Theo kinh nghiệm của thế giới tương ứng với mỗi quốc gia giai đoạn phát triển của tiến bộ kỹ thuật cần có cơ cấu chất lượng theo trình độ thích hợp tương ứng. Từ đó ta xác định cơ cấu nguồn nhân lực cần thiết theo sự phát triển kinh tế của đất nước phù hợp với giai đoạn phát triển tươgn ứng của đất nước ta.
- Cơ cấu phân công lao động theo ngành nghề. Có mối liên quan chặt chẽ giữa bình quân GDP/người và cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. GDP/người càng cao thì tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp càng giảm, trong công nghiệp và dịch vụ tăng và ngược lại. Vì vậy ta cần có phương hướng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng giảm lao động trong nông nghiệp và tăng du lịch trong công nghiệp và dc.
- Cơ cấu tổ chứ lao động theo hướng hình thành bộ máy và cơ chế vận hành mới của ba loại hình tổ chức phổ biến trong xã hội.
Bộ máy Nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp).
Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh dịch vụ phát triển theo yêu cầu của thị trường. Các cơ sở sự nghiệp (khoa học và giáo dục đào tạo).
Tuỳ theo mỗi tổ chức mỗi loại chức năng cần có những nhân lực tương ứng về ngành nghề, trình độ tư chất cho con người cụ thể và với một cơ cấu thích hợp. Nếu đảm bảo được cho mỗi loại tổ chức đó có bộ máy với cơ cấu thích hợp sẽ bảo đảm hiệu quả hoạt động của toàn xã hội. Vì vậy phải xuất phát từ những yêu cầu phẩm chất của những loại chức năng lao động đó để đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp tránh tình trạng thừa thiếu trong mỗi giai đoạn phát triển. Song song bên cạnh có với mỗi vùng, lãnh thổ, mỗi ngành cần phải chú ý đến cơ cấu lãnh thổ, vùng, để đảm bảo sự tương quan nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Ngoài ra cơ cấu nguồn nhân lực theo độ tuổi và giới tính cũng có ảnh hưởng quan trọng đến cơ cấu ngành nghề của mỗi nước, mỗi vùng, cơ cấu dân số trẻ dẫn đến số lao động trẻ trong nguồn nhân lực lớn, đòi hỏi số lao động trẻ cần phải được đào tạo học tập để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công việc.
Cơ cấu theo giới tính cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của cơ cấu ngành nghề trong nền kinh tế. Do đặc điểm giữa lao động nam và lao động nữ khác nhau do vậy cần thiết phải nghiên cứu cơ cấu giới tính trong nền kinh tế để từ đó bố trí các ngành nghề phù hợp với từng giới, phát huy hết sức mạnh của từng giới và có những phương hướng đào tạo phù hợp.
3. Xác định chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực là trình độ văn hoá, lành nghề của người lao động. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua một số chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân lực
Sức khoẻ là trạng thái thoả mãn về thể chất cũng như tinh thần của người lao động được thể hiện thông qua những tiêu chuẩn và chiều cao, cân nặng trên phạm vi quốc gia, phải nghiên cứu cả đến các chỉ tiêu như tỷ lệ sinh, chết, tỷ lệ tử vong trẻ em, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tuổi thọ trung bình, GDP/người.
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực
Đây là một chỉ tiêu quan trọng nó nói lên mức độ phát triển của xã hội và nó được lượng hoá bằng các quan hệ tỷ lệ.
Số lượng và tỷ lệ biết chữ, số lượng và tỷ lệ người có bằng cấp như tiểu học trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học, trên đại học… trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu những thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật và vận dụng nó vào thực tiễn đó có thể phát triển những ngành nghề có hàm lượng kỹ thuật cao để có trình độ văn hóa cao thể hiện một nước văn minh phát triển.
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực
Là trạng thái biểu hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng làm việc…
Nó được thể hiện qua các chỉ tiêu:
Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo
- Cơ cấu được đào tạo
- Chỉ tiêu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu cực kỳ quan trọng nó phản ánh thực chất chất lượng nguồn nhân lực phản ánh năng lực sản xuất của con người, trong một quốc gia, lãnh thổ.
- Ngoài các chỉ tiêu cơ bản trên người ta còn quan tâm xem xét đến chỉ tiêu như chỉ số phát triển con người HDI, được tính theo 3 chỉ tiêu chủ yếu- Tuổi thọ bình quân, thu nhập bình quân (GDP/người) và trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư).
Xem xét đến năng lực phẩm chất nguồn nhân lực qua truyền thống lịch sử, nền văn minh, văn hoá, phong tục tập quán của dân tộc, quan hệ quốc tế…
Chương II: thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
I. Thực trạng sự phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 96- 2000
1. Thực trạng sự phát triển dân số và cơ cấu dân số.
Nguồn nhân lực là một bộ phận trong dân số quy mô chất lượng và cơ cấu của dân số hầu như quyết định quy mô chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực . Dân số nước ta theo điều tra 4/1989 là 64,4 triệu người và theo điều tra 4/1999 là 76,3 triệu người tức là sau 10 năm tăng 11,9 triệu người. Với dân số đứng thứ 2 ở Đông Nam á (sau Indonexia 204 triệu người) và thứ 13 trong số hơn 200 quốc gia trên thế giới Việt Nam là một nước đông dân trên thế giới và trong khu vực đồng thời cũng là nước có nguồn nhân lực dồi dào thứ 2 trong khu vực (sau Indonêxia 93 triệu lao động). Năm 1999 số người trong độ tuổi lao động chiếm gần 95% dân số Việt Nam. Lực lượng lao động (những người đang có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc) năm 1999 là 38 triệu người, theo điều tra tháng 7/2000, lực lượng lao động là 38,643 triệu người. Đây là tiềm năng quí báu để phát triển kinh tế Việt Nam. Nước ta là một nước có dân số trẻ, tốc độ tăng dân số qua các năm là tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, năm 1996- 1997 là 1,821%, 2000 khoảng 1,8
2. Thực trạng về số lượng nguồn nhân lực
Theo điều tra lao động và việc làm tháng 7/2000 dân số trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60, nữ từ 15-55 tuổi) ở Việt Nam là 46,2 triệu người chiếm 59% tổng dân số trong đó lực lượng lao động là 38.643,89 người. Có thể nói đây là tiềm năng quí báu để phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. ở nước ta mỗi năm có khoảng hơn 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động trong khi đó số người bước ra khỏi tuổi lao động khoảng gần 0,5 triệu người. Vì vậy mỗi năm nguồn lao động Việt Nam tăng thêm hơn 1 triệu người. Nhưng điều đáng ghi nhận nổi bật trong việc thu hút nguồn lao động Việt Nam tham gia vốn sản xuất xã hội trong thời gian qua là tốc độ tăng lao động việc làm cao hơn so với tốc độ tăng dân số. Thời kỳ 96- 2000 tốc độ tăng lao động là 3,42% trong khi tốc độ tăng dân số là 91,84%.
Đúng vậy số lượng lao động luôn trong nền kinh tế quốc dân tăng lên hàng năm nhanh chóng. Năm 1996 là 35,791 triệu người, năm 1997 là 36,994 triệu người năm 1998 là 38,09 triệu người, năm 1999 là 38.239 , năm 2000 là 38,693 triệu người. Như vậy bình quân hàng năm số lao động làm việc tăng bình quân là hơn 1 triệu . Ta có bảng quy mô lực lượng lao động cả nước thời kỳ 96- 2000 là:
Bảng 2: Quy mô lực lượng lao động cả nước 1996- 2000
(Tổng hợp từ tư liệu điều tra mẫu quốc gia về lao động- việc làm 1/7/1996 và 1/7/2000)
Chỉ tiêu
1996(*)
Người
2000 (Người)
Tăng/giảm bình quân hàng năm 96-2000
Tuyệt đối (người)
Tương đối (người)
A
1
2
3
4
1. Tổng lực lượng lao động (LLLĐ)
34.740.509
38.643.089
975.645
2,70
2. LLLĐ chia theo khu vực:
- Thành thị
6.621.541
8.725.998
526.124
7,14
- Nông thôn
28.448.968
29.917.091
449.521
1,56
3. LLLĐ trong độ tuổi lao động
33.166.761
36.725.277
889.628
2,58
4. LLLĐ chia theo 3 nhóm
-LLLĐ trẻ (15-34 tuổi)
19.394.169
19.339.302
-13.717
0,07
- LLLĐ trung niên( 35- 54 tuổi)
12.365.505
16.719.276
1.088.443
7,83
- LLLĐ cao tuổi (55 tuổi trở lên)
2.980.835
2.581.511
99.081
-3,50
5. LLLĐ chia theo trình độ học vấn
- Chưa biết chữ
1.999.144
1.517.901
-112.810
-6,19
- Đã tốt nghiệp cấp 1
6.367.790
225.
- Đã tốt nghiệp cấp 2
12.798.073
402.285
3,43
- Đã tốt nghiệp cấp 3
4.681.162
6.662.193
495.258
9,32
6. LLLĐ phân theo trình độ CMKT
- Không có chuyên môn kỹ thuật
30.
32.650.666
503.562
1,60
- Đã qua đào tạo (từ sơ cấp/học nghề trở lên)
4.404.090
5.992.428
472.083
9,92
Trong đó, chia ra:
- Sơ cấp/học nghề/CNKT
1.955.404
2.618.746
165.835
7,58
- Trung học chuyên nghiệp
1.312.515
1.870.136
134.905
8,044
- Cao đẳng, đại học trở lên
800.171
1.503.541
171.313
16,86
7. Cấu trúc đào tạo của LLLĐ đã qua đào tạo
- Cao đẳng, đại học trở lên
1
1
- Trung học chuyên nghiệp
1,7
1,2
- Sơ cấ/học nghề/CMKT
2,4
1,7
(*)Số liệu 1998 đã được điều chỉnh theo kết quả Tổng điều tra dân số 7/1999
Về cơ cấu lao động giữa nông thôn và thành thị còn bất hợp lý 80% ở nông thôn, 20% ở thành thị.
3. Thực trạng về chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ở nước ta
3.1. Tình trạng sức khoẻ
Mặc dù Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo trên 90% dân số biết chữ song hiện tại ở nước ta cứ 3 trẻ em (dưới 5 tuổi) thì có 1 trẻ bị suy dinh dưỡng, cứ 3 bà mẹ mang thai thì 1 người bị thiếu máu thậm chí ở những vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn cứ 2 trẻ em thì có 1 trẻ bị suy dinh dưỡng. Tuy chưa có số liệu chung cả nước song các nghiên cứu cho thấy thể lực của thanh niên Việt Nam tiến bộ rất chậm trong nhiều năm qua. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam chỉ là từ 165cm-167 cm hầu như không tăng nhiều so với trước đây. Tại khu vực thành thị như Hà Nội tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp nhưng lại xuất hiện hiện tượng thừa dinh dưỡng đang có xu hướng gia tăng. Tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục có xu hướng tăng và lây lan trong cộng đồng trong số 26.000 người bị nhiễm HIV/AIDS có khoảng gần 50% ở độ tuổi thiếu niên. Đối với tệ nạn ma tuý gần 70% trong số 100.000 người nghiện ma tuý ở nhóm dưới 30 tuổi.
Nói tóm lại số lượng người lao động tuy tăng và thừa nhưng lại yếu về sức khoẻ. So với các nước khác trong khu vực và trên thế giới sức khoẻ của lao động Việt Nam còn hơn rất nhiều. Từ đó đề ra cho chính phủ phải có những chính sách, giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề sức khoẻ, trí lực cho người lao động đây cũng là một vấn đề cần quan tâm và rất quan trọng vì có sức khoẻ tốt cũng mới làm việc tốt và đạt kết quả tốt.
3.2. Về trình độ Việt Nam và trình độ chuyên môn kỹ thuật
Thực tế cho thấy trình độ văn hóa của lao động Việt Nam ngày càng nâng cao rõ rệt. Năm 1997 điều tra 36,3 triệu lao động thấy 5% số lao động chưa biết chữ, 2% chưa tốt nghiệp cấp 1, 28% đã tốt nghiệp cấp 1, 32% tốt nghiệp cấp 2, 15% đã tốt nghiệp cấp 3 thì giờ đây người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1 ngày càng giảm. Năm 1996 tỷ lệ này là 26,6% năm 1997 là 25,36%, năm 1998 là 22,36% năm 1999 là 22,10%.
Đồng thời số người tốt nghiệp cấp 2 và 3 không ngừng tăng lên trong đó tăng nhanh nhất là số người tốt nghiệp cấp 3. Năm 1996 số người tốt nghiệp cấp 3 chiếm 13,48% tổng số đến năm 1999 chiếm 17,09%.
Bên cạnh có trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động đã được nâng cao số người được đào tạo bồi dưỡng ngày càng nhiều qua các năm. Năm 2000 tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng 1,71% so với năm 1999 và tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 2,3% lực lượng lao động. Đến 1/10/1999 toàn quốc có
Bảng 4: Cơcấu lực lượng lao động cả nước 1996- 2000
Đơn vị : %
Chỉ tiêu
1996
2000
A
1
2
1. Tổng lực lượng lao động (LLLĐ) cả nước
111,00
100,00
2. Cơ cấu LLLĐ cả nước
2.1. Chia theo khu vực thành thị, nông thôn
- Thành thị
19,06
22,56
- Nông thôn
80,94
77,44
2.2. Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động
95,47
95,04
2.3. Lực lượng lao động chia theo 3 nhóm tuổi
-LLLĐ trẻ (15-34 tuổi)
55,83
50,04
- LLLĐ trung niên( 35- 54 tuổi)
35,59
43,26
- LLLĐ cao tuổi (55 tuổi trở lên)
8,58
6,70
5. LLLĐ chia theo trình độ học vấn
- Chưa biết chữ
5,75
4,01
- Đã tốt nghiệp cấp 1
20,92
16,48
- Đã tốt nghiệp cấp 2
27,78
29,29
- Đã tốt nghiệp cấp 3
32,05
32,99
2.5. Tỷ lệ LLLĐ đã qua đào tạo từ sơ cấp /học nghề trở lên
11,81
15,51
Trong đó chia theo kỹ năng/trình độ đào tạo
- Sơ cấp/học nghề/CNKT
5,63
6,78
- Trung học chuyên nghiệp
3,86
4,84
- Cao đẳng, đại học trở lên
2,32
3,89
3. Cơ cấu LLLĐ có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành
- Nông, lâm, ngư nghiệp
69,80
62,56
- Công nghiệp, xây dựng
10,55
13,15
- dịch vụ
19,65
24,29
Tuy vậy cơ cấu lực lượng lao động ở nước ta hiện nay còn khá bất hợp lý. Nếu năm 1997 cứ 1 cán bộ đại học, cao đẳng có 1,25 cán bộ trung học chuyên nghiệp và 1,1 công nhân kỹ thuật thì năm 1999 là 1- 1,16- 0,95 thậm chí có những tỉnh còn quá bất hợp lý. Đây chính là tình trạng thầy nhiều hơn thợ.
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
Tổng số lao động
35866.2
36296.9
37467.2
37782.6
LLLĐ không có trình độ CMKT
Số lượng
31452.2
31837.3
32431.1
32543.4
Tỷ lệ
87.69
67.71
86.69
Lực lượng Lao động có CMKT
Tổng số
4414
4459.6
4976.1
5241.7
Tỷ lệ
12.31
12.29
13.31
13.87
Trong đó chia theo trình độ đã qua đào tạo
- Công nhân
1571.2
1590.2
1775.9
1780
- Sơ cấp
636.2
546.4
544.6
573
- Trung cấp
1378.3
1380.1
1516.4
1590
- Cao đẳng, đại học và trên đại học
828.3
942.9
1139.2
4310
Trong khi đó tại các nước phát triển cứ 1 thầy có 10 thợ nhưng ở nước ta bình quân 1 thầy có 10 thợ nhưng ở nước ta bình quân 1 thầy chỉ có 0,95 thợ. Trong khi số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật lại giảm dần năm 1999 có 20,3% trong tổng số lực lượng lao động kỹ thuật, trong năm 96- 98 bình quân công nhân kỹ thuật chỉ tăng 6,3% năm nhưng số sinh viên đại học, cao đẳng tăng 27,5%. Đây chính là một thực tế đáng lo ngại cho lực lượng lao động ở Việt Nam hiện nay.
Theo số liệu tương đối thì ta có tỷ lệ lao động đã được đào tạo năm 1997 là 16% trong đó tỷ lệ lao động kỹ thuật trong tổng lực lượng lao động của kinh tế quốc doanh là 215,6%, kinh tế tập thể là 2,1%, kinh tế cá thể và tư nhân 4,8%, số công nhân làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật chất 93%, lĩnh vực sản xuất công nghiệp chiếm 10%, lao động xã hội nhưng chiếm 256% lao động kỹ thuật, nông nghiệp chiếm 73% lao động xã hội nhưng chỉ có 15% lao động kỹ thuật.
Nói chung nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay rất dồi dào về số lượng nhưng do cơ cấu nguồn nhân lực còn nhiều bất hợp lý và chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại nên chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
II. Mục tiêu phương hướng phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam giai đoạn 96- 2000.
Trước hết, ta thấy mục tiêu tổng quát của phát triển kinh tế xã hội giai đoạn này là cơ sở là nền tảng cho các mục tiêu cụ thể và các định hướng phát triển nguồn nhân lực.
1. Mục tiêu
1.1. Nhiệm vụ tổng quát
Giai đoạn 1996- 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng tranh thủ thời cơ vượt qua thử thách đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế năm 2000.
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát thì nhất thiết phải có các kế hoạch cụ thể với các mục tiêu và định hướng cụ thể. Ta đi nghiên cứu xem xét mục tiêu và định hướng của kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 96- 2000
1.2. Mục tiêu về dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Giảm nhịp độ phát triển dân số vào năm 2000 xuống dưới xoá nạn đói đến năm 2000 tỷ lệ người có thu nhập quá thấp giảm xuống một nửa so với hiện nay. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 30%, tăng tuổi thọ bình quân lên 70 tuổi.
1.3. Mục tiêu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Phát triển toàn diện các mặt hoạt động về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y tế, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người về tinh thần, vật chất, về thể lực trí tuệ, tạo ra một cuộc sống lành mạnh trong dân cư, tạo ra những con người đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập vào cộng đồng quốc tế.
- Thanh toán nạn mù chữ và hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học, trong cả nước phổ cập trung học cơ sở ở những thành phố lớn v à những nơi có điều kiện, số lao động qua đào tạo chiếm khoảng 22,25% tổng số lao động, chuyển mạnh về chất lượng giáo dục đào tạo. Xây dựng thêm nhiều trường mới, lớp mới. Để từ đó nâng cao mặt bằng dân trí đảm bảo trí thức, cần thiết cho cuộc sống. Bảo đảm nguồn lao động có chất lượng cho lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng đội ngũ cán bộ và khoa học công nghệ vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra trong chương trình phát triển khoa học và ngh của đất nước trong hiện nay cũng như mai sau.
Phát triển và chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh và dồi dào theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật trong toỏng lực lượng lao động.
2. Đánh giá tổng quát về tình hình thực hiện kế hoạch nguồn nhân lực giai đoạn 1996- 2000
Trong 5 năm qua Đảng Nhà nước cùng toàn thể nhân dân ta đã thực hiện những kế hoạch, chính sách đề ra về các vấn đề kinh tế- xã hội và đã đạt được những thành tựu khả quan đáng ghi nhận cùng với những hạn chế, khó khăn cần khắc phục.
2.1. Những kết quả đạt được của kế hoạch hoá nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của đất nước đã được nâng cao cả về mặt số lượng và chất lượng từng bước đáp ứng tốt cho nhu cầu về lao động của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Các chỉ tiêu về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 96- 2000 đều hầu hết đạt kế hoạch và còn tăng vượt kế hoạch đặt ra.
Giáo dục và đào tạo phát triển cả về quy mô và cơ sở vật chất và trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên rõ rệt. Nước ta đã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Năm học 1999- 2000 so với năm học 1994- 1995 quy mô học sinh mẫu giáo gấp 1,2 lần học sinh trung học cơ sở gấp 1,6 lần, học sinh phổ thông gấp 2,3 lần, đào tạo đại học gấp 3 lần, đào tạo nghề gấp 1,8 lần.
Phong trào học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ… phát triển mạnh số sinh viên trên 1 vạn dân vào năm 2000 đạt 117 người, số năm đi học trung bình của dân cư là 7,3/năm.
Cơ sở vật chất của các trường được nâng cao cải thiện. Mạng lưới trường phổ thôn đã được xắp xếp ổn định, mạng lưới các trường đại hộc và cao đẳng các trường chuyên nghiệp đang từng bước tổ chức, xắp xếp lại, hệ thống các trường đào tạo nghề phát triển rộng khắp theo như kế hoạch đã đề ra.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và bảovệ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng đã đạt được những kết quả tích cực tỷ lệ sinh mỗi năm bình quân giảm 0,78% (mục tiêu là 0,6%) tỷ lệ tăng dân số năm 1995 là 1,7% năm 2000 là 1,4% vượt mục tiêu đề ra. Cơ sở vật chất phục vụ công tác dân số kế hoạch hoá gia đình được tăng cường đáng kể, bình quân mỗi huyện đã có 2 trung tâm liên xã làm dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, bảo đảm 100% tuyến từ huyện và 70% tuyến xã có trang thiết bị phù hợp. Tạo được phong trào toàn dân chăm sóc và bảo vệ trẻ em, thực hiện các mục tiêu của chương trình quốc gia về trẻ em 51% quận huyện có điểm văn hoá, vui chơi cho trẻ em, 70% trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được chăm sóc.
Các sức khoẻ chỉ số cộng đồng được nâng lên tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 30% năm 1995 xuống 33- 34% năm 2000. Số căn bệnh được thanh toán, một số bệnh viện được nâng cấp cải tạo, xây dựng mới hầu hết các xã đều có trạm y tế, các chính sách về bảo hiểm y tế và chế độ thu một phần viện phí đã đóng góp phần khắc phục những khó khăn của ngành. Đã tạo điều kiện cho mọi người dân tới khám và chữa bệnh đảm bảo sức khoẻ để tiếp tục lao động và sản xuất tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Những thành tựu 5 năm qua nguồn nhân lực đã tăng cường thêm sức mạnh, góp phần làm thay đổi bộ mặt củađất nước, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên việc thực hiện kế hoạch hoá nguồn nhân lực đại hội 8 vẫn có những mặt hạn chế khó khăn chưa thực hiện được.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của việc chưa đạt được kết quả như mong muốn.
- Nguồn nhân lực vẫn chưa đủ sức chưa phù hợp với sự đòi hỏi của nền kinh tế. Sự phân bố nguồn lực là chưa phù hợp giữa các vùng, các ngành trongcả nước chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Mục tiêu nội dung, sách giáo khoa, thi cử, cơ cấu đào tạo trình độ quản lý còn nhiều thiếu sót. Giáo dục và đào tạo ở miền núi vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, bất cập.
Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ đã phát triển nhưng vấn còn nhiều vấn đề tiêu cực xấu xa.
Cái gì cũng có nguyên nhân của nó, việc tồn tại những hạn chế trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là cơ cấu lao động theo ngành nghề nhiều năm qua chuyển dịch còn chậm.
Gần 70% lực lượng lao động làm việc trong cả nước vẫn tập trung trong nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt. Các ngành công nghiệp xây dựng tỷ trọng lao động đã được nâng lên song còn rất chậm, đến nay mới đạt trên 10% ngành dịch vụ có tăng nhưng cũng chỉ chiếm trên 20%.
Tỷ lệ thất nghiệp trong lực lượng lao động còn có xu hướng gia tăng, ở thành thị tỷ lệ thất nghiệp năm 1997 là 6,1%, năm 1998 là 6,9%, năm 1999 lên tới 7,4%. ở nông thôn thời gian lao động chưa được sử dụng là 26,6% năm 1996, 25,5% năm 1997, 28,33 năm 1998 và 30% năm 1999.
Ba là tỷ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn thấp trong tổng lực lượng lao động.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 1997 chiếm 12,2% trong lực lượng lao động, năm 1997 chiếm 13,3%, 1999 chiếm 18% năm 2000 chiếm khoảng 20%. Trong đó thì tỷ lệ lao động giữa các trình độ còn bất hợp lý.
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999 trong tổng số lao động có bằng cấp công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ chiếm 30,3%, lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%, lao động có trình độ cao đẳng và đại học chiếm 31,6%, người có trình độ trên đại học 1,3%.
Không những vậy có lao động sau khi được đào tạo đã làm việc không đúng với ngành nghề đã học, cá biệt có người làm những công việc của lao động giản đơn.
Bốn là năng suất lao động và thu nhập của Việt Nam còn thấp và có sự chênh lệch rất lớn giữa các ngành kinh tế.
Năm là nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là bất cập.
Sáu là, do cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù hợp chưa hợp lý đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số chính sách biện pháp còn thiếu chưa nhất quán chưa sát với sự phát triển của nguồn nhân lực và thiếu tính khả thi.
Có rất nhiều nguyên nhân làm cho mục tiêu phương hướng của kế hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 1996- 2000 không được như mong muốn và từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách biện pháp thích hợp để khắc phục hạn chế những nguyên nhân đó trong giai đoạn mới làm cho nguồn nhân lực một sức mạnh, một nguồn lực to lớn của đất nước ta ngày càng phát triển hoàn thiện hơn cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.
Chương III : Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010
I. Căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch hoá nguồn nhân lực (2000- 2010)
Sự phát triển của nguồn nhân lực vừa chính là kết quả cuối cùng vừa phải đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế xã hội vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Do đó nghiên cứu xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cần phải đựa trên những căn cứ sau.
1. Phải xuất phát từ mục tiêu phương hướng quyết định phát triển trong giai đoạn 2000- 2010 của Đảng. Đất nước ta tiếp tục chuẩn bị nguồn lực về mọi mặt tạo tiền đề để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp. Nguồn nhân lực chính là một nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy để đạt những mục tiêu đặt ra cần phải từng bước phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý phù hợp, cân đối với các mục tiêu tạo tiền đề để cho sự phát triển đạt thành tựu, hiệu quả nhất.
2. Phải xuất phát từ vị trí của con người trong sự phát triển của thế giới hiện đại.
Con người đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và mục đích của sự phát triển "Mục tiêu phát triển con người là mục tiêu cuối cùng và cao nhất của quá trình phát triển".
Song con người cũng vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Các thị trường chỉ là phương tiện, sự phát triển của con người mới là mục đích.
Trong tương lai việc phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hoặc người Việt Nam sẽ là các ông chủ hoặc là người làm thuê cho các ông chủ nước ngoài? hoặc nguời Việt Nam sẽ là người lao động sáng tạo làm chủ các công nghệ tiên tiến hiện đại hay sẽ chỉ là những lao động giản đơn, những lao động cơ bắp nặng nhọc, phục vụ… điều này hoànt toàn phụ thuộc vào kế hoạch phát triển nguồn nhân lực con người và nó được bắt đầu thực hiện ngay tù bây giờ.
3. Xuất phát từ nhận thức vai trò của chính phủ
Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, nếu chính phủ tự nhận mình phải làm tất cả như chế độ bao cấp trước đây là không còn phù hợp nữa nhưng nếu thả nổi hoàn toàn cho thị trường thì lại càng không thể được. Bởi vậy chính phủ có nghĩa vụ phải chủ động hoạch định chiến lược và chính sách điều hành vĩ mô để tạo lập được một cơ cấu mới của nguồn nhân lực đáp ứng cho công đoạn chuẩn bị của yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Cơ cấu mới của nguồn nhân lực được xây dựng trong các giai đoạn sẽ là cơ sở để định hướng cho các kế hoạch và chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặcbiệt cho quy hoạch, kế hoạch và các chính sách phát triển giáo dục đào tạo nhằm đảm bảo các loại hình lao động có nhu cầu.
Chính phủ phải là người giữ vai trò quản lý, tổ chức, định hướng, giám sát những khía cạnh pháp lý trong việc tổ chức thực hiện theo kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của quốc gia và các vùng lãnh thổ đã được vạch ra phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, giữa chính quyền các cấp và tất cả các tổ chức xã hội, cùng tổ chức với chính quyền trong và ngoài nước và các cộng đồng dân cư, đồng thời phải trực tiếp thực hiện những vấn đề then chốt nhất sao cho đạt được mục tiêu đã đề ra.
Làm tốt vấn đề này chính là để nâng cao hiệu quả phát triển nguồn nhân lực nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung
4. Xuất phát từ nhu cầu, chất lượng của con người lao động đáp ứng cho tương lai lâu dài.
Do sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học- công nghệ sự đòi hỏi tăng trưởng nhanh kinh tế ở mỗi nước mà những giá trị con người cũng có những yêu cầu mỗi con người phải thay đổi về chất lượng sao cho phù hợp. Đó là đề cập đến con người thông minh, sáng tạo, đặc biệt đang đưa ra quan niệm về con người hiện đại là con người gắn bó chặt chẽ với nền sản xuất hiện đại, nền kinh tế tri thức và với dân tộc mình.
5. Xuất phát từ nhận thức con người là một thực thể năng động có tiềm năng vô hạn của cải là có hạn song sự sáng tạo, trí tuệ của con người là vô hạn nên cần phải xây dựng cho được một cơ chế sao cho phát huy được hết những mặt tích cực của nguồn lực con người, phục vụ cho sự phát triển của con người và xã hội đồng thời hạn chế được những mặt tiêu cực do con người tạo ra.
6. Việc xây dựng kế hoạch hoá nguồn nhân lực là một yêu cầu tất yếu khách quan của một đất nước như nước ta hiện nay và sẽ được làm từng bước từng giai đoạn một.
II. Mục tiêu phương hướng đặt ra cho nguồn nhân lực giai đoạn 2000- 2010.
Để xây dựng được một kế hoạch hoàn hảo phù hợp trong từng giai đoạn ta phải xác định được mục tiêu và phương hướng cụ thể của giai đoạn đó. Đảng ta có đề ra những mục tiêu và phương hướng cho nguồn nhân lực trong giai đoạn 2000- 2010 như sau:
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2000- 2010 là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người, tạo nhiều việc làm cơ bản xoá đói, giảm nghèo đẩy lùi các tệ nạn xã hội tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Từ mục tiêu tổng quát trên ta có thể rút ra mục tiêu phương hướng của kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực là phải tiếp tục đổi mới tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở, các chỉ tiêu như: tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80% tỷ lệ học sinh trung học đi học trong độ tuổi đạt 45% vào năm 2010, tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở, giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm là 0,5% tốc độ tăng dân số vào năm 2010 khoản 1,2%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 30% vào năm 2010. Cơ bản xoá hộ đói giảm hộ nghèo xuống còn 10% vào năm 2010. Đưa tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22- 25% năm 2010
Nói tóm lại mục tiêu phương hướng phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn 2000- 2010 là làm tăng chất lượng dân số và nguồn nhân lực là chủ yếu đồng thời giảm nhịp độ tăng dân số và phân bố dân cư hợp lý đây không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là sự chuẩn bị để đón trước thời cơ, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển cao hơn trong tương lai đồng thời phải phát triển các ngành giáo dục- đào tạo y tế, văn hoá thông tin, là những biện pháp quan trọng và cần được thực hiện một cách đồng bộ trong mối quan hệ tương tác và kinh tế nhằm phát triển toàn diện nguồn nhân lực.
Phải ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động quản lý, tham mưu, các nhà kinh doanh giỏi, các nhà khoa học và công nghệ thành thạo, các công nhân lành nghề trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội chủ động hình thành và phát triển nguồn nhân lực với chất lượng cao phục vụ những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có hiệu quả cao.
Coi đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá coi trọng sự năng động, sáng tạo củ nhân dân, người lao động trong việc đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề tạo việc làm và giải quyết việc làm.
Chủ động quy hoạch và tổ chức lại hệ thống các điểm dân cư lâu dài theo hướng đô thị hoá việc hiện đại vừa văn minh.
Chủ động thực hiện những biện pháp nhằm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển nguồn nhân lực
Sự phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp do dân vì dân nên cần coi trọng và thu hút sự tham gia của các cộng đồng dân cư và toàn thể nhân dân tạo cơ hội đồng đều cho mọi tầng lớp nhân dân và phải cải thiện đời sống dân cư.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng 16% năm 2000 lên 20- 21% năm 2010 lao động trong cá ngành dịch vụ tăng lên 22-23% giảm lao động nông lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 63% xuống còn 56-57% tăng nhanh lao động kỹ thuật từ 20% năm 2000 lên 30% vào năm 2010. Tốc độ tăng dân số vào năm 2010 xuống 1,2% quy mô dân số đến năm 2010 khoảng 83 triệu người trong đó ở nông thôn khoảng 60 triệu, thành thị khoảng 23 triệu phân bố hợp lý nguồn nhân lực giữa các vùng từng bước nâng cao chất lượng dân số nguồn nhân lực, phát động phong trào toàn xã hội bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Thực hiện các mục tiêu vì trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, dưới 1 tuổi xuống còn 30%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 35%, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 22- 25% vào năm 2010 không còn trẻ em bị mù chữ ở tuổi 15, 70% trẻ em được phổ cập trung học cơ sở, 50% cơ sở có điểm văn hóa vui chơi cho trẻ em, 80% trẻ emcó hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc.
Phát triển y tế dự phòng cải thiện các chỉ tiêu sức khoẻ nâng thể trạng và tầm vóc của con người. Từ đó có thể nâng cao được chất lượng, số lượng nguồn nhân lực Việt Nam lên cao ngày càng đáp ứng được những yêu cầu thách thức mới để phát triển kinh tế.
III. Giải pháp và chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010
1. Thực hiện kế hoạch hoá chính sách
Cần làm tốt công tác dân số, kế hoạch hoá dân số kế hoạch gia gia đình. Đây là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước mắt và lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay dân số nước ta khoảng 78 triệu người, phấn đấu đến năm 2010 dân số nước ta là 83 triệu người do vậy chúng ta phải bằng nhiều biện pháp để giảm tốc độ phát triển dân số phấn đấu dân số trong giai đoạn 2000- 2010 tỷ lệ sinh bình quân hàng năm giảm 0,5%0 và tốc độ tăng dân số vào năm 2010 khoảng 1,2% phải có những biện pháp như:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao chất lượng các dịch vụ về dân số kế hoạch hoá gia đình, đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hoá gia đình.
Nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân lực và phân bố dân cư hợp lý giữa cá vùng miền đây là sự chuẩn bị để đảm bảo tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển cao trong tương lai.
- Phân bố và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo tạo sự bình đẳng trước cơ hội được giáo dục của mọi người dân.
- Thay đổi cơ chế đào tạo các cấp theo hướng mở rộng cơ hội cho người lao động đi học mở rộng
- Đổi mới hoàn toàn phương pháp dạy và học so với hiện nay
- Coi trọng sự sáng tạo, năng động của toàn dân nâng cao chất lượng lao động trong việc tạo việc làm và giải quyết việc làm.
- Mở rộng và phát triển thị trường lao động trong toàn nước
- Chủ động thực hiện những biện pháp làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển nguồn nhân lực.
- Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp vì dân do dân nên cần coi trọng và thu hút sự tham gia của các cộng đồng dân cư và toàn thể nhân dân .
2. Phát triển giáo dục và đào tạo
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với thế mạnh lớn nhất hiện có là lực lượng lao động đông đảo. Đây là cơ sở để Đảng ta xác định nguồn lực cơ bản nhất để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nguồn nhân lực. Tuy nhiên chỉ với lực lượng lao động hiện có thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải có những giải pháp chính sách để chuẩn bị con người Việt Nam như thế nào để có được một đội ngũ nhân lực đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất là cái quyết định sức mạnh của đội ngũ nhân lực, do vậy chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải là sự chuẩn bị về trí thức theo đó giáo dục và đào tạo cần phải được coi trọng từ giáo dục phổ thông đến đào tạo đại học trên đại học để phải được ưu tiên và đầu tư thoả đáng. Bởi đây là con đường cơ bản để nâng cao trí tuệ cho nguồn nhân lực và phải khẳng định đào tạo là giải pháp quyết định nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực tế hiện nay đào tạo nhân lực ở nước ta chưa ăn khóp với nhu cầu sử dụng lao động đã được đào tạo rất nhiều nhưng lại thiếu, do cơ cấu phân bố sử dụng lao động không hợp lý.
Trong cơ chế thị trường, chất lượng và hiệu quả đào tạo phải đáp ứng yêu cầu và được xác định bằng hiệu quả sử dụng nhân lực bằng chính uy tín của sản phẩm đào tạo. Nhận thứ được những điều đó Đảng và Nhà nước ta nên có những giải pháp và chính sách về đào tạo
Cần mở rộng hình thái đào tạo thích hợp như mở các trường đào tạo của ngành nhằm đào tạo nghề mới, đào tạo công nghiệp kỹ thuật bằng các khoá huấn luyện bồi dưỡng dài ngày và ngắn ngày, đào tạo bằng kèm cặp tại chỗ ở xí nghiệp công xưởng.
Duy trì quy mô đào tạo nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng trên đại học hiện có, tăng cường kiểm tra, thanh tra chất lượng đào tạo lập lại kỷ cương của Nhà nước trong giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng của sản phẩm đào tạo trong điều kiện trang thiết bị và đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học có xu hướng thay đổi đáng kể, nâng cao chất lượng, sinh viên tốt nghiệp đại học, sinh viên khi ra trường đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nhanh chóng mở rộng các hình thức đào tạo cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, các trường trung ương khong có thể đáp ứng đủ nhu cầu cán bộ trung học và công nhân của các thành phần kinh tế mà phải tăng cường đào tạo ở các cấp địa phương. Các tỉnh thành phố cần tăng số lượng các trường trung học chuyên nghiệp và các trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật, và không những thế còn phải cải cách đào tạo nhằm cải thiện một cách toàn diện công tác đào tạo từ việc cải tiến mục tiêu đến nội dung đào tạo, cơ cấu lại các ngành học.
Đẩy mạnh thực nghiệm khoa học triển khai công nghệ và lao động sản xuất, cải tiến điều kiện vật chất và kỹ thuật cho đào tạo đào tạo nghề phải xuất phát từ nhu cầu về nhân lực Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ vốn, án bộ trong việc đào tạo nghề ở nông thôn nhằm bổ sung lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật. Cần các trường các trung tâm đào tạo nghề cho lao động xuất khẩu hiện nay xuất khẩu lao động Việt Nam phần lớn là lao động phổ thôn nên khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động ở nước ngoài rất kém
Cần có các giải pháp chính sách về tổ chức quản lý, sử dụng nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta cần về nguồn nhân lực thấp hơn cung rất nhiều nên
3. Các giải pháp về tổ chức, quản lý, sử dụng nhân lực
Hiện nay, ở nước ta cầu nhân lực thấp hơn cung rất nhiều nên theo quy luật giá trị thì giá nhân công thấp, sự cạnh tranh trên thị trường cung lao động diễn ra gay gắt, quyết liệt tạo nên sự biến động khác biệt về tiền lương. Trong nền kinh tế thị trường quy mô cầu quyết định quy mô cung, cầu nhân lực chính là việc làm trong mọi thành phần kinh tế, việc làm ở nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Hiệu quả sử dụng nhân lực là thước đo hiệu quả của đào tạo nhân lực. Cơ chế phân bổ, tuyển dụng lao động của thời bao cấp đã không còn. Lao động đã được đào tạo phải được thị trường chấp nhận. Hiệu quả lao động việc làm là tiêu chuẩn căn bản đánh giá chất lượng và uy tín của sản phẩm đào tạo. Quản lý sử dụng nhân lực ở nước ta không chỉ tính đến hiệu quả kinh tế mà còn hiệu quả chính trị- xã hội. Chính sách kinh tế phải kết hợp hài hoà với các chính sách xã hội, vậy cần hướng vào một số giải pháp cụ thể như sau:
- Phát triển sản xuất để tăng cầu lao động việc làm. Việc làm và hiệu quả việc làm chỉ có thể được giải quyết dựa vào tăng trưởng, phát triển bền vững của nền kinh tế
Cầu lao động nhỏ hơn cung, người lao động ở thế bất lợi so với người sử dụng lao động, đó là quy luật của nền kinh tế thị trường. Nhà nước bảo vệ lợi ích, quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động bằng cách thiết lập quan hệ lao động lành mạnh, bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Khả năng giải quyết việc làm phụ thuộc sự phát triển kinh tế. Vậy, Nhà nước cần tạo môi trường, điều kiện kinh tế và pháp lý để mở rộng phát triển ngành nghề, tạo nhiều chỗ làm mới cho người lao động cụ thể.
Nhà nước tăng cường chống buôn lậu để bảo vệ sản xuất trong nước. Chủ trương quản lý bằng dán tem đối với một số mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu là hợp lý. Các mặt hàng tiêu dùng khác như bánh kẹo cũng cần được bảo hộ sản xuất để tránh được sự cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập khẩu, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
- Bằng chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý để khuyến khích sản xuất trong nước, như chính sách tín dụng, chính sách thuế, tăng cường vốn đầu tư tạo thêm việc làm, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tận dụng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, chương trình xây dựng vùng kinh tế mới, khu vực kinh tế thanh niên… tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế trong nước.
- Cần có cơ chế quản lý lao động thống nhất trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân
Người lao động trong mọi thành phần kinh tế đều được pháp luật Nhà nước bảo vệ. Mọi quan hệ lao động được xác lập, thực hiện trên cơ sở Luật lao động. Do việc làm gắn liền với sự tồn tại của cá nhân, gia đình khiến người lao động trong nhiều trường hợp phải chấp nhận những đòi hỏi gắt gao của bên cầu lao động, không đủ khả năng để tự bảo vệ mình khỏi những quan hệ lao động không lành mạnh giữa chủ- thợ. Do đó Nhà nước thực hiện giám sát, kiểm tra việc chấp hành các văn bản pháp luật lao động, tiền lương… của chủ sử dụng lao động để bảo vệ lợi ích chính đáng, theo quy định của pháp luật của người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Trên thực tế sự giám sát kiểm tra này phải thật cụ thể đến các quy định về giờ làm việc trong ngày, định mức, đơn giá tiền lương… chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý mức lương tối thiểu như hiện nay
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động để giải quyết việclàm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước. Muốn vậy, phải tăng cường tìm kiếm, mở rộng thị trường lao động ở nước ngoài, coi đây là giải pháp quan trọng để giải quyết việclàm. Nhà nước đẩy mạnh nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để đào tạo chuẩn bị nhân lực cho xuất khẩu lao động.
Thực hiện tín dụng ưu đãi để nguời nghèo có tiền học nghề, tham gia vào xuất khẩu lao động, cải cách thủ tục hành chính rườm rà ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động, tiến tới xuất khẩu lao động có chuyên môn kỹ thuật, xuất khẩu chuyên gia…
- Tăng cường công tác thông tin dịch vụ lao động, phát triển thị trường sức lao động. Các trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung cấp nhân lực cho cơ sở sử dụng lao động, mà phải trở thành trung tâm nghiên cứu, điều tra tình hình cầu lao động, giữa cung- cầu lao động ở các thành phần kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp về cung- cầu lao động.
Bên cạnh đó còn phải đào tạo bồi dưỡng giáo viên cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo
Đào tạo bồi dưỡng người giỏi và phát triển đội ngũ cho một số ngành mũi nhọn. Kết hợp chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động với tạo thêm việc làm để hạn chế thất nghiệp ở thành thị và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở nông thôn nâng cao thu nhập cho người lao động
Phải từng bước nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để nâng cao năng suất lao động. Tăng cường hệ thống pháp luật trong giáo dục, tăng tỷ trọng pháp luật trong giaió dục, tăng tỷ trọng ngân sách huy động các nguồn đầu tư trong dân, viện trợ y tế vay vốn nước ngoài để phát triển giáo dục đào tạo.
Tóm lại để góp phần đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực cho tương lai đất nước ta cần có sự đổi mới toàn diện trong hệ thống giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Không chỉ mở rộng về quy mô mà phải chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đào tạo chuyên nghiệp dạy nghề và đại học cao đẳng.
4. Phát triển dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
Sau yếu tố trí tuệ là sự chuẩn bị về sức khoẻ cho người lao động. Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sức khoẻ là điều kiện rất quan trọng để duy trì và phát triển trí tuệ là phương tiện chủ yếu để chuyền tải trí thức vào hoạt động thực tiễn, vì vậy chăm sóc sức khỏe cho người lao động, phát triển dịch vụ y tế sẽ góp phần quan trọng, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
Chăm sóc sức khoẻ là phải chăm sóc sức khoẻ cả về cơ thể, về tinh thần chỉ những người khoẻ mạnh cả về cơ thể lẫn tinh thần mới có thể nâng cao sức mạnh cho bản thân, bắt nhịp được cuộc sống hiện đại chúng ta phải ưu tiên và quan tâm là chăm sóc sức khoẻ trẻem. Nâng cao sức khoẻ cho trẻ em hiện nay chính là để có những người lao động khoẻ mạnh trong tương lai.
Phải xây dựng và nâng cấp các bệnh viện và hệ thống bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em là điều kiện để đảm baỏ cho người lao động (hiện tại và tương lai) có thể làm việc với năng suất và hiệu quả cao hơn, góp phần tạo ra sự cường tráng về thể lực của người lao động với quản lý để tạo ra tài sản trí tuệ và tinh thần cho xã hội.
Xây dựng cuộc sống lành mạnh, lối sống xã hội văn minh cho người dân, nâng cao được sức mạnh về mặt tinh thần. Đời sống văn hóa lành mạnh phong phú và tiến bộ sẽ làm tăng các giá trị tinh thần làm cho con người biết sống cao đẹp, sống có ý nghĩa, biết hướng tới cái đúng, cái hợp lý, phát huy khả năng sáng tạo và nhân lên sức mạnh của con người của nguồn nhân lực
Hình thành phong trào rộng lớn trong việc nâng cao chất lượng công tác y tế chăm sóc sức khoẻ đẩy mạnh phong trào tập thể dục thể thao trong mọi tầng lớp nhân dân mọi lứa tuổi
Làm tốt công tác phòng bệnh, phòng dịch vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, an toàn lao động
Đẩy mạnh hoạt động của các hội quần chúng hội đồng y, hội về thể dục thể thao
Chính phủ phải chú trọng đầu tư nâng cấp các bệnh viện, trạm y tế tại cá vùng tại địa phương nhất là các vùng sâu, vùng xa
Có những chính sách ngăn ngừa các tệ nạn xã hội như nghiện hút ma tuý. Khuyến khích phát động các phong trào vì môi trường xanh, sạch đẹp trong toàn dân.
Kết luận
Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm, làm mục tiêu của phát triển cần tập trung mọi người, mọi nguồn lực cho sự phát triển . Đây là giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong đó vấn đề nguồn lực con người luôn luôn được quan tâm và chú trọng.
Xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin, có trí thức, có trình độ và quyết tâm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vậy chúng ta phải đẩy nhanh đầu tư cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, để từng bước nâng cao được năng lực, trí tuệ, tiếp cận được các công nghệ tiên tiến trên thế giới, đổi mới công tác quản lý nguồn nhân lực một cách hợp lý chặt chẽ, có những chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình y tế, chăm sóc sức khoẻ cộngđồng
Từ đó tạo ra được một nguồn lực về nguồn nhân lực thực sự mạnh cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay cũng như mai sau.
Xây dựng được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của giai đoạn hiện nay hay của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là tạo được nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đó vấn đề chuẩn bị nhân tố con người, nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính ý nghĩa cơ bản lâu dài và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi phải có sự kết hợp những nỗ lực chung của toàn xã hội cũng như bản thân từng người lao động. Làm được tất cả những điều đó sẽ giúp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Nhà nước và nhân dân Việt Nam đạt được thành công tốt đẹp.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 - Tạp chí nghiên cứu lý luận
Tạp chí Kinh tế và dự báo
Tạp chí nghiên cứu và trao đổi
Tạp chí Kinh tế và phát triển
Tạp chí lao động và xã hội
Thông tin thị trường lao động
Thời báo kinh tế thế giới Việt Nam
Thời báo kinh tế Việt Nam
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0105.doc