1. Giải pháp điều chỉnh dân số bằng điều chỉnh mức sinh
Chương trình kế hoạch hoá gia đình ở nước ta là công cụ trực tiếp hữu hiệu làm giảm mức sinh, kiểm soát quy mô dân số nguồn nhân lực nâng cao chất lượng dân số.
2. Giải quyết việc làm theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường.
Nhà nước cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ lớn trong các hoạt động tác nghiệp của mình kể cả việc được tự do tiếp nhận lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cá nhân người lao động trong thời kỳ này cũng bắt đầu theo kiểu bung ra. Đây chính là giai đoạn bột phá tự phát vào thị trường lao động so với thị trường kinh tế kế hoạch hoá tập trung
3. Ban hành chính sách, luật tạo điều kiện cho người lao động
Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm tạo cơ hội cho người lao động có thể chủ động tìm hoặc tự tạo việc làm kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng.
Các văn bản pháp luật liên quan đến thị trường lao động vốn dĩ được thiết lập và đưa vào áp dụng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và quan hệ lao động mới. Các cơ chế, chính sách về lao động dôi dư của các doanh nghiệp Nhà nước, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp, phát triển các ngành nghề mới.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế hoạch lao động - Việc làm và những giải pháp giải quyết việc làm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc dân nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực có giới hạn. Điều đó cũng có nghĩa kế hoạch có nhiệm vụ xác định mục tiêu phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân và đề ra giải pháp thực hiện các mục tiêu đó. Qua công cụ kế hoạch, Nhà nước phải thể hiện cách nhìn dài hạn, bền vững để điều tiết thị trường vốn vận hành theo những mục tiêu thiển cận trước mắt.
Kế hoạch hoá là phương thức quản lý của Nhà nước đến nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Các mục tiêu của kế hoạch hoá nhằm cố gắng ngăn chặn nền kinh tế không đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn định.
Kế hoạch và kế hoạch hoá là hai phương diện khác nhau, thể hiện ở một số điểm phân biệt sau:
Về bản chất, kế hoạch là công cụ quản lý thể hiện ý đồ của Nhà nước về sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế xã hội và các giải pháp để thực hiện. Kế hoạch hoá là phương thức quản lý, là sự tác động có ý thức của Nhà nước nhằm định hướng và điều khiển sự biến đổi của một số biến kinh tế chính để đạt được mục tiêu đã đặt trước. Kế hoạch hoá không chỉ là lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức, thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Lập kế hoạch là lựa chọn một trong những phương án hoạt động cho tương lai của toàn bộ hay từng bộ phận của nền kinh tế 1, trang 30]
Về tính chất.
Là một công cụ quản lý, kế hoạch mang các tính chất sau:
Tính tổ chức phối hợp: Nghĩa là muốn đạt được mục tiêu kế hoạch không chỉ một ngành, một cấp đạt được mà cần có sự phối hợp chặt chẽ trong cơ chế chung, thống nhất. Do đó tổ chức thực hiện kế hoạch là khâu đảm bảo thành công.
Tính mục tiêu: Bản chất của kế hoạch là đặt ra mục tiêu để làm định hướng. Việc huy động các nguồn lực thực hiện mà không có mục tiêu thì vô nghĩa.
Tính khả thi: Mục tiêu kế hoạch phải được đặt ra trong một giới hạn cụ thể về thời gian, không gian, nguồn lực cụ thể tránh xây dựng mục tiêu quá tham vọng hoặc quá thấp.
Khác với kế hoạch, kế hoạch hoá với chức năng là phương thức quản lý gồm có những tính chất chung như sau:
Tính tập trung, dân chủ: Nền sản xuất nước ta vẫn dựa trên cơ sở lao động tập thể. Mỗi cá thể khi tham gia sản xuất đều đi tìm lợi ích cho riêng mình. Để những lợi ích riêng đó không ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội cần có chức năng quản lý tập trung_ một chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác nước ta có nền kinh tế đa thành phần sở hữu bao gồm các mắt xích quan trọng, do đó cần tăng cường tính dân chủ trong kế hoạch đảm bảo cho mọi thành phần đều có quyền lợi và nghĩa vụ hợp lý.
Tính định hướng: Một bản kế hoạch thường xác định hướng đi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một thời gian thường là 5 năm. Bằng các biện pháp và chính sách cụ thể, kế hoạch hoá sẽ hướng nền kinh tế xã hội đến một cái đích cụ thể
2. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo nội dung
2.1 Chiến lược phát triển
Chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá, lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội nhằm thực hiện mục tiêu trong khoảng thời gian dài [ 1, trang 61]
. Như vậy một bản hoạch định mang tính định hướng dài hạn, phải đưa ra những hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển và các cách thực hiện. Thời gian của một chiến lược khá dài: khoảng 10 năm đến 20 năm và 25 năm. ở Việt Nam, chiến lược được thực hiện trong 10 năm còn các chiến lược 20, 25 năm được gọi là “tầm nhìn”.
Với chức năng định hướng dài hạn, chiến lược phát triển có những đặc điểm sau:
Tính chất định tính: Mỗi bản chiến lược đều được xây dựng trong những điều kiện về kinh tế – xã hội nhất định do đó chiến lược phát triển phải đưa ra được các cơ hội, thách thức của đất nước trong thời kỳ đó. Đồng thời cũng phải đưa ra những quan điểm phát triển cũng như các mục tiêu đạt được trong thời kỳ chiến lược
Tính mềm dẻo: Chiến lược phát triển được thực hiện trong những tác động của môi trường trong nước và quốc tế. Bất cứ lúc nào các môi trường đó cũng có thể thay đổi và ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chiến lược. Vì vậy cần xây dựng nhiều phương án chiến lược, coi mỗi phương án là một kịch bản, mỗi kịch bản tương ứng với một điều kiện thực hiện khác nhau.
Tính đột phá: Mỗi bản chiến lược cần vạch ra những đột phát mang tính chất là bước ngoặt của thời kỳ chiến lược. Nhờ đó, nền kinh tế xã hội mới có thể thực hiện các mục tiêu của chiến lược một cách toàn vẹn nhất.
Chiến lược phát triển là công cụ hoạch định phát triển trong dài hạn. Trong một bản chiến lược của một thời kỳ đều vạch ra những đường nét cơ bản cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đó. Những đường nét đó được thể hiện thông qua các quan điểm, phương hướng, chính sách phát triển mang tính chất định tính và thể hiện qua các tính toán, các dự báo, các luận chứng cụ thể mang tính chất định lượng.
Bên cạnh đó chiến lược phát triển còn là cơ sở cho việc xác định nội dung của các công cụ hoạch định khác như: quy hoạch, kế hoạch, chương trình. Các quan điểm phát triển của chiến lược sẽ được triển khai cụ thể bằng các quy hoạch phát triển ngành, vùng, kế hoạch phát triển và cụ thể hơn là các chương trình dự án. Nói cách khác, chiến lược là cương lĩnh hoạt động trong quản lý kinh tế – xã hội.
Khi xác định nội dung một bản chiến lược phát triển, các vấn đề đặt ra là phải xác định được thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mục tiêu phát triển, các quan điểm phát triển và cách để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Bộ phận cấu thành của chiến lược được thể hiện ở sơ đồ sau:
2.2. Quy hoạch phát triển
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn và bố trí không gian lãnh thổ, thời gian nhằm chủ động hướng tới mục tiêu chiến lược nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế - xã hội
Quy hoạch là một văn bản mang tính chất cụ thể hoá định hướng và tính định định hướng ở đâu cụ thể hơn của chiến lược, thể hiện ở tính chất không gian và thời gian của quy hoạch. Quy hoạch chủ yếu đi vào không gian phát triển, bố trí các cực phát triển, các điểm phát triển trong vùng với thời gian ngắn và cụ thể hơn.
Chức năng đầu tiên của chiến lược là sự thể hiện của chiến lược trong thực tế phát triển kinh tế - xã hội. Từ chiến lược cụ thể, quy hoạch tổng thể được xây dựng theo hướng bố trí sơ đồ sản xuất, chiến lược phát triển ngành được cụ thể hoá để phát triển ngành, mạng lưới phát triển cơ sở sản xuất. Mặt khác quy hoạch phát triển còn có chức năng là cầu nối giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực hiện chiến lược. Điều đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững hơn.
2.3. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một công cụ định hướng trên cơ sở cụ thể hoá chiến lược phát triển. Kế hoạch phát triển được thể hiện bởi hệ thống các chỉ tiêu mục tiêu, chỉ tiêu biện pháp và các giải pháp chính sách cơ bản, áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Kế hoạch phát triển có đặc điểm nổi bật là mang tính chất định hướng phát triển bao gồm các quan điểm mục tiêu và hướng đi cơ bản cụ thể hơn quy hoạch phát triển. Bên cạnh đó, kế hoạch phát triển còn có tính chất phân đoạn cụ thể, chính xác có điểm đầu điểm cuối, có thời gian phân đoạn ngắn thường là 4 năm và tính định hướng cụ thể thể hiện ở các chỉ tiêu được xây dựng cụ thể.
Chức năng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là công cụ triển khai chiến lược và quy hoạch. Nó cụ thể hoá các mục tiêu định hướng bằng các hệ thống mục tiêu và và chỉ tiêu, biện pháp định hướng phát triển. Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội còn xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Tích luỹ – tiêu dùng, tích luỹ - đầu tư, lao động – việc làm, cân đối về tài chính, cân đối cán cân thương mại quốc tế…
2.4. Chương trình – dự án
Chương trình – dự án là một công cụ để triển khai và cụ thể hoá chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển bằng việc đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu và tổ chức quy trình thực hiện với các vấn đề bức xúc nổi cộm trong thời kỳ kế hoạch.
Kế hoạch 5 năm và chương trình dự án được tiến hành song song nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển. Chương trình – dự án mang những đặc điểm riêng khác kế hoạch 5 năm. Chương trình dự án có thể mang lại hiệu quả cao nhất trong giải quyết vấn đề bức xúc vì mỗi dự án chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề nên không bị giàn trải. Mặt khác trong phương thức tổ chức phân bổ nguồn lực cụ thể theo đầu ra cuối cùng, khác phân bổ theo đối tượng: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
Chương trình – dự án là công cụ để triển khai thực hiện kế hoạch. Với chúc năng này, một chương trình quốc gia phải vạch ra các mục tiêu cụ thể, biện pháp cụ thể để thực hiện. Đồng thời chương trình dự án cũng là công cụ xử lý các vấn đề, các khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Các vấn đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia đều là những vấn đề nổi cộm bao gồm các khâu, các mắt xích quan trọng
3. Vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, kế hoạch đã từng tồn tại trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh nhưng nó cũng không mất đi trong nền kinh tế thị trường. Điều đó khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của kế hoạch hoá. Dưới đây là những vai trò quan trọng đó.
Trong mọi nền kinh tế - xã hội, kế hoạch có vai trò phát triển phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển và gắn liền với nó là sự hợp tác giữa các ngành nhằm phát huy tính năng động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để sự phân công lao động – xã hội được phát triển một cách lành mạnh, Nhà nước đã thể hiện vai trò điều tiết của mình thông qua hệ thống kế hoạch phát triển mang tính chất định hướng và thuyết phục.
Nền kinh tế thị trường luôn tồn tại trong nó những khuyết tật. Có hai cách để xử lý: một là để thị trường tự điều tiết, hai là Nhà nước điều tiết bằng kế hoạch. Với cách thứ 2, khi Chính phủ can thiệp có thể khuyết tật vẫn chưa được khắc phục hoặc nảy sinh ra hệ quả phụ. Vì vậy để đảm bảo hiệu quả với chi phí thấp, Chính phủ tổ chức sự can thiệp của mình thông qua kế hoạch hoá.
ở các nước đang phát triển, nguồn lực khan hiếm nên không thể phí phạm. Mọi dự án đầu tư lựa chọn đều phải bảo đảm lợi ích kinh tế - xã hội với chi phí thấp nhất có thể. Khi đó kế hoạch có vai trò lựa chọn và phối hợp những dự án đầu tư nhằm chuyển những yếu tố khan hiếm vào lĩnh vực sản xuất có hiệu quả trước mắt và lâu dài.
Không những đảm bảo huy động và sử dụng nguồn lực khan hiếm trong nước, kế hoạch còn có vai trò huy động và phát huy nguồn lực nước ngoài, Thông qua các bản kế hoạch, các nhà đầu tư nước ngoài có thể yên tâm đầu tư vào Việt Nam, và đó cũng là cơ sở để chúng ta chủ động trong việc mời gọi các nhà đầu tư.
Thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, các chỉ tiêu kế hoạch về kinh tế - xã hội được công bố rộng rãi đến người dân: một mặt tạo sự yên dân, mặt khác tạo ra sự đoàn kết nhất trí của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hiện việc phát triển. Qua đó có thể huy động được mọi nguồn lực trong nhân dân. Nói chung kế hoạch phát triển có những ảnh hưởng tích cực đến thái độ và tâm lý dân cư.
4.Kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh và nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh Chính phủ thực hiện khống chế trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định từ Trung ương. Những chỉ tiêu mà Nhà nước đặt ra đều rất cứng nhắc và mang tính chất áp đặt. Các mục tiêu cụ thể được quyết định trước bởi các nhà kế hoạch ở Trung ương. Kế hoạch xây dựng xong thì trở thành bắt buộc vì chỉ cần một đơn vị phá vỡ kế hoạch có thể dẫn đến phá vỡ những cân đối lớn của nền kinh tế.
Khác với kế hoạch trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, kế hoạch trong nền kinh tế thị trường không mang tính mệnh lệnh. Nhà nước không có quyền ra lệnh cho các doanh nghiệp mà chỉ định hướng cho nền kinh tế. Kế hoạch chỉ xác định ra những mục tiêu cần phấn đấu và Chính phủ sử dụng công cụ của mình để đề ra những chính sách thuận lợi hướng vào mục tiêu, không can thiệp trực tiếp vào các quyết định sản xuất kinh doanh của cơ sở. Chính vì vậy kế hoạch trong nền kinh tế thị trường mang tính chất linh hoạt mềm dẻo, không ra mệnh lệnh mà căn cứ vào các quy luật khách quan. Các mục tiêu được đặt ra dựa trên thực tế và khả năng nguồn lực của đất nước. Kế hoạch lấy thị trường làm căn cứ và căn cứ và đối tượng điều chỉnh. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường vẫn tồn tại như một yêu cầu khách quan nhưng bản chất và nội dung của kế hoạch có sự thay đổi.
II. Lý luận chung về kế hoạch lao động – việc làm.
1. Lao động và việc làm
1.1.Phân biệt nguồn lao động và lực lượng lao động
Nguồn lao động và lực lượng là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính toánh cân đối lao động và việc làm trong xã hội [2, trang 167]
.
Nguồn lao động là bộ phận dân cư từ 15 đến 60 tuổi có khả năng lao động, mong muốn lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang làm việc tạo ra thu nhập. Như vậy bộ phận cấu thành nguồn lao động gồm:
Những người trong và ngoài tuổi lao động đang có việc làm
Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
Lực lượng lao động là bộ phận dân cư đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người đang thất nghiệp. Lực lượng lao động được cấu thành bởi các bộ phận:
Từ 15 tuổi trở lên có việc làm
Những người chưa có việc làm nhưng mong muốn tìm được việc làm
Như vậy lực lượng lao động khác nguồn lao động là: lực lượng lao động không bao nhiêu gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không mong muốn tìm được việc làm
1.2 Phân biệt thất nghiệp và việc làm
Thất nghiệp là tình trạng một bộ phận dân cư trong tuổi lao động, có khả năng lao động, có mong muốn tìm việc làm nhưng chưa tìm được. Những người thất nghiệp là một bộ phận cấu thành nên lực lượng lao động và nguồn lao động.
Việc làm là những hoạt động tạo ra nguồn lao động theo đúng pháp luật bao gồm:
Hoạt động lao động tạo ra thu nhập.
Hoạt động không bị pháp luật cấm.
Những người có việc làm là những người trong và ngoài tuổi lao động đang hoạt động trong nền kinh tế quốc dân và đóng góp tạo ra thu nhập cho xã hội
1.3Những nhân tố ảnh hưởng đến lao động - việc làm
a. Nhân tố ảnh hưởng đến lao động
Lao động là một phạm trù có tính hai mặt: mặt số lượng và mặt chất lượng.
Về số lượng
Yếu tố dân số: Dân số là cơ sở hình thành lực lượng lao động. Sự biến động của quy mô và tốc độ tăng dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động cũng như cơ cấu tuổi của lực lượng lao động. Sự biến động đó bao gồm những biến động tự nhiên và biến động cơ học. Nhà nước cần có sự điều chỉnh dân số sao cho tốc độ tăng dân số phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời phải kiểm soát biến động cơ học bằng cách lựa chọn chính sách giải quyết vấn đề tăng cung lao động và thất nghiệp ở thành thị.
Yếu tố tỉ lệ tham gia lực lượng lao động:. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có sự khác nhau giữa nam và nữ. Sự khác nhau này chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố kinh tế - xã hội – văn hoá
Về chất lượng: Chất lượng lao động được đánh giá bằng trình độ học vấn, chuyên môn và kĩ năng lao động cũng như sức khoẻ của họ. Điều này phụ thuộc vào các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Trình độ học vấn cho phép người lao động có khả năng tiếp thu kiến thức, còn sức khoẻ giúp người lao động có khả năng chịu sức ép của công việc, tạo ra sự bền bỉ trong công việc
Về chất lượng: ảnh hưởng đến chất lượng lao động là các nhân tố phản ánh về mặt giáo dục đào tạo, sức khoẻ y tế và đời sống văn hoá tinh thần của người lao động.
b. Nhân tố ảnh hưởng đến việc làm
Nhân tố ảnh hưởng đến việc làm bao gồm các yếu tố thuộc về kinh tế như: quy mô, tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế. Các nhân tố trên sẽ tác động đến cầu lao động trên thị trường và cơ cấu lao động.Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm sẽ là một nội dung quan trọng của kế hoạch lao động - việc làm
2. Kế hoạch lao động - việc làm
2.1.Khái niệm
Kế hoạch lao động việc làm là bộ phận của kế hoạch phát triển. Nó xác định, đưa ra các con số về cung, cầu lao động trong kỳ kế hoạch. Trên số đó xác định các chỉ tiêu và góp phần nhằm khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội.
Kế hoạch lao động việc làm là kế hoạch bộ phận vì nó nhằm vào các mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng kinh tế. Nó đảm bảo về nguồn nhân lực cho việc thực hiện thành công các kế hoạch này. Đồng thời, kế hoạch lao động việc làm còn là kế hoạch mục tiêu vì bản thân nó cũng xác định mục tiêu nằm trong hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội: giải quyết việc làm, các chỉ tiêu thất nghiệp, các chỉ tiêu về trình độ lao động….
b.Nhiệm vụ của kế hoạch lao động việc làm trong kế hoạch phát triển 5 năm:
- Xác định, dự báo các yếu tố cung, cầu lao động. Cung lao động được xác định thông qua quy mô dân số và số dân hoạt động kinh tế. Cầu xác định thông qua quy mô nền kinh tế cũng như cơ cấu việc làm.
-Xác định các chỉ tiêu lao động, việc làm: bao gồm tổng quy mô lực lượng lao động, mức gia tăng lực lượng lao động, tổng quy mô việc làm, mức gia tăng việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ sử dụng thời gian trong lao động.
-Thông qua mối quan hệ giữa cung- cầu lao động và các chỉ tiêu về lao động- việc làm, kế hoạc lao động việc làm có nhiệm vụ thiết lập các giải pháp chính sách khai thác, huy động sử dụng có hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu do chính kế hoạch lao động đặt ra.
III. Mối quan hệ giữa kế hoạch lao động - việc làm với kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Kế hoạch lao động - việc làm và kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Lao động là một đầu vào quan trọng cho quá trình sản xuất, đặc biệt là đối với nước ta do đó kế hoạch chuyển dịch cơ cấu có ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch lao động - việc làm. Hiện nay nền kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Chính sự chuyển dịch chuyển đó đã tạo nên nhu cầu lao động giữa ở vùng có sự thay đổi dẫn đến. Tỷ trọng lao động ở ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động ở các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Ngược lại, việc thực hiện kế hoạch dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tích cực sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh chóng hơn và đạt kế hoạch
2. Mối quan hệ giữa kế hoạch lao động - việc làm và kế hoạch tăng trưởng
Kế hoạch tăng trưởng xác định nhu cầu về nguồn lực trong đó có nguồn lao động là cơ sở cho kế hoạch lao động - việc làm xác định chỉ tiêu giải quyết việc làm trong kỳ kế hoạch. Đồng thời kế hoạch lao động - việc làm cũng xác định những mục tiêu dài hạn và khung khổ chung để phát triển đáp ứng yêu cầu cho kế hoạch tăng trưởng.
IV. Nội dung và phương pháp kế hoạch hoá lao động - việc làm:
1. Nôị dung:
a. Kế hoạch lao động - việc làm xác định các chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động xã hội
Chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động xã hội phụ thuộc vào những yếu tố sau: Quy mô dân số kỳ kế hoạch, tỷ lệ dân số trong tuổi lao động, tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế, cơ cấu dân số tuổi lao động theo khu vực (thành thị, nông thôn…), cơ cấu lao động trong các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ).
Quy mô, tốc độ phát triển dân số chi phối sự biến động của dân số trong thời kỳ kế hoạch. Vì vậy cần xác định và điều chỉnh tốc độ tăng dân số một cách có kế hoạch đẻ đảm bảo điều tiết nguồn lao động.
Cấu tạo dân số tuổi lao động: Nguồn lao động của một đất nước phụ thuộc vào cơ cấu tuổi lao động của nước đó. Vì vậy để điều chỉnh lực lượng lao động xã hội thì kế hoạc lao động việc làm cần có sự ăn khớp giữa cấu tạo tuổi với các mục tiêu đặt ra.
Tỷ lệ dân số tuổi lao động, tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế cho biết nguồn lực lao động hiện tại của đất nước đó đồng thời cho phép chúng ta dự báo được số lượng lao động trong kỳ kế hoạch. Qua các chí số này chúng ta có thể đánh giá mức độ phù hợp giữa dân số tuổi lao động, quy mô việc làm hiện có của nền kinh tế.
Tóm lại, cung lao động phụ thuộc vào trình độ phát triển dân số của đất nước. Kế hoạch lao động việc làm phải xác định các yếu tố ảnh hưởng cung lao động để điều chỉnh sao cho phù hợp với mục tiêu đặt ra.
b. Xác định các chỉ tiêu cầu lao động mà nền kinh tế quốc dân có thể đem lại cho xã hội trong kỳ kế hoạch:
Cầu lao động phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế. Coi quy mô nền kinh tế là một hàm số bao gồm các biến số: công nghệ, tài nguyên, lao động và vốn với quan hệ đồng biến. Giả sử các yếu tố về vốn, công nghệ, tài nguyên không đổi thì quy mô của nền kinh tế càng lớn thì nhu cầu sử dụng lao động càng lớn.
Bên cạnh đó nhu cầu lao động còn phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến việc tính toán nhu cầu lao động trong mối quan hệ với quy mô nền kinh tế như: năng suất lao động, định mức lao động. Trong đó năng suất lao động càng cao thì nhu cầu sức lao động càng ít. Ngược lại, trong điều kiện nguồn lực có hạn, định mức lao động càng lớn thì nhu cầu sức lao động lại càng lớn.
Xuất phát từ nhu cầu sử dụng sức lao động lao động khác nhau, có lĩnh vực đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động nhưng có ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng công nghệ. Chính vì vậy cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu lao động
c.Cân bằng cung và cầu lao động
Xác định cân bằng cung và cầu lao động là nội dung quan trọng của kế hoạch lao động - việc làm. Hiện nay ở nước ta có tình trạng cung lớn hơn cầu, do đó Đảng và Nhà nước cần có chính sách một mặt hạn chế tốc độ tăng dân số, mặt khác thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhằm tạo việc làm mới sao cho phù hợp với tình hình đất nước hiện nay.
d.Các chính sách vĩ mô điều tiết sự lưu chuyển sức lao động
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, sự lưu chuyển sức lao động cũng là một điều cần thiết. Nó vừa đảm bảo cho người lao động thực hiện đầy đủ quyền lực lao động, nó vừa là yêu cầu tất yếu của xã hội, là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế hàng hoá.
2. Phương pháp xác định các nội dung của kế hoạch lao động
2.1.Phương pháp xác định chỉ tiêu cung cấp lực lượng lao động xã hội
a. Quy mô dân số kỳ kế hoạch
Bằng các chỉ số quy mô dân số kỳ gốc, tốc độ tăng dân số được dự báo qua các số liệu thống kê và sự biến động dân số cơ học ta có thể xác định quy mô dân số theo công thức
Dk = D0 x (1 + k) ± M
Với Dk, D0 là dân số kỳ kế hoạch và kỳ gốc
k là tốc độ tăng dân số kỳ kế hoạch
M là biết động dân số cơ học
b.Xác định quy mô dân số tuổi lao động
Có 3 cách để xác định quy mô dân số tuổi lao động
Cách1: Phương pháp chuyển đổi trực tiếp: xác định bằng các chỉ tiêu dân số lao động kỳ gốc, dân số bước vào tuổi lao động và dân số hết tuổi lao động
Ưu điểm: Theo dõi được lượng lao động trong từng độ tuổi
Nhược điểm:Tính toán dân số trong từng độ tuổi khá phức tạp vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Cách 2: Phương pháp suy ra từ trạng thái động: dựa vào tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm
Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính
Nhược điểm: Kết quả thu được có sai số lớn
Cách 3: Phương pháp quan hệ tỷ lệ: Dựa vào tỷ lệ dân số tuổi lao động so với quy mô dân số
Ưu điểm: Thể hiện được mối quan hệ giữa dân số tuổi lao động và quy mô dân số
- Nhược điểm: Kết quả thu được có sai số lớn vì tỷ lệ dân số tuổi lao động so với quy mô dân số là con số không cố định và có tính tương đối
c. Xác định quy mô dân số hoạt động kinh tế.
Dựa vào dân số tuổi lao động và thực trạng dân số tuổi lao động và phần trăm dân số không hoạt động kinh tế
Ưu điểm: Cho biết xác định bộ phận không tham gia hoạt động kinh tế
Nhược điểm: Phương pháp này khá phức tạp, đặc biệt là trong xác định dân số không hoạt động kinh tế.
d.Xác định cơ cấu dân số tham gia hoạt động kinh tế
Nội dung này có thể xác định ở các góc độ khác nhau: theo không gian (thành thị và nông thôn), theo giới tính, theo lứa tuổi hoặc theo ngành kinh tế…
2.2 Xác định các chỉ tiêu cầu lao động
a. Tính theo định mức hao phí lao động đối với đầu vào không phải là lao động.
Phương pháp này mô phỏng mô hình tăng trưởng của Harrod Domar. Phương pháp này coi hệ số kết hợp vốn và lao động là con số cố định
Ưu điểm:
Đơn giản, dễ tính.
Thể hiện được quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng vốn sản xuất với tăng trưởng lao động
Nhược điểm: Chưa đặt vấn đề thay đổi công nghệ kinh tế và phương thức tổ chức kế hợp
b.Tính theo năng suất
Phương pháp này dựa trên mối quan hệ giữa quy mô kinh tế với lao động bao gồm các bước sau:
Xác định năng suất lao động kỳ gốc bằng phương pháp thông kê
Dự báo tốc độ tăng năng suất lao động kỳ kế hoạch
Tính năng suất lao động kỳ kế hoạch
Dự báo GDP kỳ kế hoạch
Tính nhu cầu lao động kỳ kế hoạch theo lao động
Ưu điểm: Gắn nhu cầu lao động với tăng trưởng kinh tế
Nhược điểm:
Phức tạp, khó tính
Sai số lớn
c. Căn cứ vào độ co giãn của việc làm với kết quả sản xuất
-Xác định hệ số co giãn giữa lao động và GDP
-Xác định nhu cầu tăng trưởng lao động bằng công thức
lk = gk x e
- Xác định nhu cầu lao động theo công thức
Lk = L0x(1+lk)
Với: L0, Lk là lao động kỳ gốc và kỳ kế hoạch.
lk là tốc độ tăng lao động trong kỳ kế hoạch.
e là hệ số co giãn giữa lao động và GDP
Ưu điểm: Có thể tính cho toàn bộ nền kinh tế theo từng ngành, từng địa phương để xác định cơ cấu nhu cầu lao động theo ngành hoặc theo địa phương.
Phương pháp xác định cung cầu lao động xã hội
Cân bằng cung và cầu xã hội bằng cácg giữ quy mô dân số tăng không quá cao, đồng thời nâng cao chất lượng của dân số nhất là sức lao động để thoả mãn nhu cầu.
Điều chỉnh sắp xếp hợp lý kết cấu sản phẩm, đặc biệt là căn cứ vào tình hình nhân lực của đất nước để điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội tạo thêm việc làm mới
Phương pháp điều tiết sự lưu chuyển sức lao động
Phương pháp này khống chế trực tiếp bằng các chỉ tiêu cụ thể
Ưu điểm: Thực hiện đúng kế hoạch đặt ra về lao động - việc làm có tác dụng tích cực trong một thời gian đối với nước ta. Về sau không còn phù hợp nữa
Nhược điểm
- Hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp trong việc tuyển dụng cũng như sử dụng lao động theo tình hình và nhu cầu của doanh nghiệp mình
- Trong một số doanh nghiệp có hiện tượng dư thừa nội bộ
- Bên cầu thì không chọn được nhân lực theo nhu cầu của mình, bên cung thì công có cạnh tranh, đây là một dạng thất bại của thị trườngd lao động
Hiện nay, phương pháp được áp dụng là phương pháp lưu chuyển theo cơ chế thị trường. Bởi vì phương pháp này có thể khắc phục được tất cả các nhược điểm của phương pháp trên một cách hoàn thiện nhất.
Chương II: Đánh giá thực hiện kế hoạch lao động - việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2005
Tình hình lao động - việc làm ở nước ta hiện nay
Số lượng
Quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số
Quy mô dân số Việt Nam ngày càng tăng. Năm 2001 dân số Việt Nam khoảng 78,68 triệu người với tốc độ tăng là 1,4% đã đạt 79,72 triệu người (năm 2002), 80 triệu người (năm 2003). Đến tháng 8 năm 2005 đạt 83,14 triệu người với tốc độ tăng trung bình là 1,3%/năm và xu hướng là giảm dần tốc độ tăng dân số. Đó là thành tích của chương trình kế hoạch hoá gia đình ở nước ta. Mặc dù tốc độ gia tăng dân số nói chung và mức sinh nói riêng của nước ta trên đà giảm dần nhưng con số 1,3% vẫn là con số lớn. Điều tiết hợp lý mức độ gia tăng dân số vẫn là yêu cầu cho sự phát triển xã hội nói chung vừa là một giải pháp để điều tiết nguồn lao động và giải quyết việc làm nói riêng.
So với tốc độ tăng dân số thì tộc độ tăng của dân số trong độ tuổi lao động cao hơn nhiều. Năm 2001, dân số trong tuổi lao động của nước ta là 46,63 triệu, năm 2002 là 48,48 triệu người tăng 3,9%, các năm sau có xu hướng tăng cao hơn. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,3 triệu người bước vào tuổi lao động. Nếu so với mức tăng việc làm trong cùng thời kỳ (khoảng từ 1,4% đến 2,9%/ năm) thì có thể thấy rõ hiện có một bộ phận người lao động trong tuổi không thể tìm kiếm việc làm.
b. Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động
Do dân số tăng nhanh trong thời gian gần đây, tỷ trọng dân số trẻ tăng lên đáng kể và trở thành nguồn lao động tiềm năng. Năm 2001, tỷ lệ dân số trong tuổi lao động là 59,25% tăng lên 60,66% năm 2002 và tăng nhanh ở các năm tiếp theo. Tuy nhiên tỷ lệ này sẽ giảm dần vì quá trình già hoá dân số đã phát huy tác dụng. Nếu so sánh số lao động giữa hai nhóm tuổi 15 – 19 và 55 – 59 tuổi trong cùng một thời điểm thì có thể thấy cứ một người bước ra khỏi tuổi lao động thì có bao nhiêu người bước vào tuổi lao động. Năm 1999 con số này là 4,55 ; năm 2002 giảm xuống còn 4,47; năm 2004 là 4,2 và có xu hướng giảm nhẹ.
Qua các cuộc điều tra cho thấy, tỷ trọng nhóm người trong độ tuổi lao động tăng còn tỷ trọng tham gia vào lực lượng của dân số giảm. Theo trình độ phát triển kinh tế, nhu cầu về giáo dục và đào tạo tăng theo, chính vì vậy số lượng dân cư trẻ từ 15 – 25 tuổi tham gia vào các trường lớp ngày càng tăng làm tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ngày càng giảm. Năm 1989 tỷ lệ này là 90,8% thì năm 2002 tỷ lệ này còn 83,9% và có xu hướng giảm hơn nữa trong các năm tiếp theo.
Chất lượng
Trình độ học vấn của người lao động
Trình độ học vấn của người lao động ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ người biết chữ trong tổng số lực lượng lao động Việt Nam nói chung tương đối cao và đang có xu hướng tăng lên. Năm 2001 tỷ lệ người tốt nghiệp cấp I là 30,02%; tốt nghiệp cấp II là 32,7%; tốt nghiệp cấp III là 17,58%. Đến năm 2003 tỷ lệ này có sự thay đổi tương ứng như sau: 31,51%; 30,4%; 18,37% (xem bảng1).
Bảng 1: Cơ cấu lao động chia theo trình độ văn hoá phổ thông của cả nước
Đơn vị %
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Tỷ lệ tốt nghiệp cấp I
30,02
31,71
31,51
Tỷ lệ tốt nghiệp cấp II
32,7
30,46
30,4
Tốt nghiệp cấp III
17,58
18,29
18,37
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004.
Điều này chứng tỏ việc nâng cao trình độ văn hoá đã được chú trọng hơn. Chất lượng và dạy học được nâng cao ở tất cả các cấp, điều đó không chỉ giúp nâng cao mặt dân trí cho xã hội nói chung, người lao động nói riêng mà còn đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Vấn đề đặt ra là có sự khác biệt về trình độ giữa các vùng: thành thị và nông thôn. ở khu vực nông thôn tỷ lệ lao động chưa biết chữ là 0,8%, ở khu vực đô thị chỉ chiếm 0,17%, tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp phổ thông trung học ở thành thị là 58,5% thì trình độ này ở nông thôn thấp hơn rất nhiều: 16,63%. Riêng tám vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ lực lượng lao động mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học cao nhất là Tây Bắc (34,9%) tiếp đến là Tây Nguyên (25,9%); thấp nhất là đồng bằng sông Hồng (2,8%); các vùng khác tỷ lệ này từ 8,1% đến 15,1%. Vùng có tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học cao nhất đồng bằng sông Hồng (26,5%), tiếp đến là Đông Nam Bộ (25,6%); thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long (10,5%) và Tây Bắc (11,7%); các vùng khác tỷ lệ này từ 15,6% đến 21,6%. Nhìn chung trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên còn thấp hơn khá nhiều so với các vùng khác.
Lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng
Mặc dù trình độ học vấn được nâng cao nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng còn quá nhỏ. Năm 2003 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn là 20,99% tăng 1,3% so với năm 2002. Con số này tăng đều qua các năm nhưng tỷ lệ vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt là lao động có trình độ cao đẳng, đại học. Cơ cấu chất lượng lao động cũng còn nhiều bất hợp lý vì tỷ lệ công nhân kỹ thuật còn thấp và lao động giản đơn quá nhiều. Tóm lại, trình độ kỹ thuật tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của đội ngũ lao động Việt Nam còn thấp.
Trầm trọng hơn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. ở khu vực thành thị, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 44,6%, nông thôn là 11,89%. Đặc biệt ở các tỉnh miền núi, các nông – lâm trường trình độ văn hoá và tay nghề của công nhân còn thấp hơn nhiều so với các nơi khác. Số lượng lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp còn quá thiếu so với yêu cầu và cũng chủ yếu tập trung ở thành phố và đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh….
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo nghề được chú trọng và có thành tích cao. Các trung tâm đào tạo và cơ sở dậy nghề xuất hiện ngày càng nhiều và phát huy tác dụng. Các địa phương, bộ ngành đều xúc tiến đào tạo, đào tạo lại nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
Tuổi đời, tuổi nghề và tình trạng thể lực của lao động nước ta.
Lực lượng lao động hiện có ở lứa tuổi từ 18 đến 34 chiếm tỷ lệ cao (chiếm khoảng 60% tổng số người trong độ tuổi lao động) đặc tập trung ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tay nghề của người lao động ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy, lao động Việt Nam không những có ưu thế trẻ mà còn có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lao động.
Tuổi nghề cũng có sự chuyển biến lớn. Số lao động có tuổi nghề từ 1 đến 10 năm chiếm 58%, hầu hết số công nhân này làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những công nhân có tuổi nghề cao hơn thường tập trung ở các doanh nghiệp nhà nước.
Về thể lực, lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trọng lượng và chiều cao của thanh niên Việt Nam đều thấp (trung bình cao 154cm nặng 42,4 kg)bù lại có sự chăm chỉ, siêng năng và dẻo dai. Tuy nhiên điều đó cũng ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của phương pháp tổ chức và cường độ lao động theo kiểu công nghiệp
Kỷ luật lao động
Phần lớn lao động nước ta còn mang tác phong sản xuất của nền kinh tế tiểu nông: tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi… Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc. Điều này thấy rõ qua các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một số vụ đình công bắt nguồn từ ý thức kỷ luật kém. Tuy nhiên xét về ý thức công dân, ý thức pháp quyền, người công dân có những bước tiến bộ rõ rệt.
Bước vào thế kỷ XXI, một bộ phận đáng kể những người lao động Việt Nam nhạy cảm với thông tin, văn hóa, văn minh của nhân loại. Tất cả những diễn biến phức tạp của thế giới đều theo luồng thông tin mà đến với Việt Nam. Những thông tin đó hình thành nên nhân cách mới của người lao động Việt Nam.
Tình hình thực hiện kế hoạch lao động - việc làm ở nước ta giai đoạn 2001 – 2005
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu lao động - việc làm
Việc làm mới. Đường lối mới phát triển kinh tế hành hoá nhiều thành phần do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để người lao động có cơ hội tự tạo việc làm và có việc làm mới đáp ứng được yêu cầu bức xúc và góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Số việc làm mới được tạo ra hàng năm tăng nhanh, bình quân mỗi năm tăng hơn 1,4 triệu người đạt 112% kế hoạch. Trong các năm tiếp theo, con số này tiếp tục tăng và đều hoàn mục tiêu đặt ra (xem bảng 2). Riêng năm 2005 kế hoạch đặt ra là tạo 1,6 triệu việc làm mới thì đến tháng 8 năm 2005 số việc làm mới đã là 1,3 triệu người. Dự báo sẽ hoàn thành mục tiêu đặt ra.
Xuất khẩu lao động. Nước ta đã thực hiện xuất khẩu lao động và chuyên gia theo cơ chế thị trường từ thập kỉ 90, đến nay đã có chỗ đứng vững chắc tại các thị trường lao động chủ yếu trên thế giới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, mục tiêu đặt ra là trong giai đoạn 2001 – 2005 xuất khẩu được 26,69 vạn lao động. số lượng lao động xuất khẩu giai đoạn này đạt 29,3 vạn người vượt 9,7% kế hoạch. Cụ thể: năm 2001 xuất khẩu được 3,7 nghìn người đạt 100% kế hoạch và đến tháng 8 năm 2005 số lao động được xuất khẩu là 6,8 vạn người dự báo sẽ vượt kế hoạch là 7 vạn người. Số lượng xuất khẩu lao động tăng lên một mặt phản ánh thành tích của Đảng và Chính phủ trong công tác xuất khẩu lao động, mặt khác cũng phản chất lượng lao động Việt Nam đã được nâng cao nên được thị trường lao động thế giới tín dụng.
Tình hình sử dụng lao động được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu: tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn và tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
Về chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Năm 2002, kế hoạch đặt ra là: giảm tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 78%, tuy nhiên kết quả đạt được là 75,41% chưa hoàn thành kế hoạch đặt ra và trong các năm tiếp theo, tình hình trên vẫn tiếp tục xảy ra. Riêng năm 2005 mục tiêu đặt ra là 80% nhưng đến tháng 8 năm nay về cơ bản đã hoàn thành kế hoạch.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị. Mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2001 – 2005 là giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống còn 5,4%, tuy nhiên việc thực hiện chỉ tiêu này vẫn chưa đạt được kế hoạch đặt ra. Năm 2002, tỷ lệ sử dụng lao động là 6,01% (mục tiêu là 6%). Năm 2005, tỷ lệ này là 5,5% trong khi mục tiêu đặt ra là nhỏ hơn 5,4% (xem bảng 2). Điều này chứng tỏ, công tác giải quyết việc làm cho thành thị vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước cần có những chính sách tạo công ăn việc làm, đồng thời có quy hoạch về việc lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Theo mục tiêu Đại hội IX, đến năm 2005 giảm tỷ trọng lao động lao động ngành nông nghiệp xuống còn khoảng 56 đến 57%, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp lên 20 – 21% và ngành dịch vụ là 22 – 23%. Tuy nhiên đến tháng 8 năm 2005 các tỷ trọng này đạt lần lượt là 57,44%; 18,7%; 23,79% không hoàn thành kế hoạch.
Không những cơ cấu lao động theo ngành kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực mà cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế cũng dịch chuyển theo xu hướng phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Năm 2001 cả nước có 10,2% tổng số lao động có việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh ngoài nhà nước là 89,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,94%. Đến năm 2004 tỷ lệ này tương ứng là 10,3%; 88,2%; 1,5%. Điều này chứng tỏ đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong công tác tạo công ăn việc làm.
Xét về thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng lao động. Hàng năm có rất nhiều lao động được đào tạo và đều vượt mức kế hoạch. Năm 2005 kế hoạch đặt ra là nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, tuy nhiên kết quả đạt được là 25% chưa hoàn thành kế hoạch. Bài toán nâng cao chất lượng lao động ở Việt Nam vẫn còn là bài toán khó.
chỉ tiêu
Giai đoạn
2001 – 2005
NĂM 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH Thực hiện đến tháng 8 năm 2005
Tạo việc làm mới
(triệu người)
7,5
7,54
1,2
1,4
1,4
1,42
1,5
1,52
1,5
1,555
1,6
1,3
Thời gian sử dụng la động ở nông thôn (%)
80
80
78
75,41
80
77,94
80
78,75
80
80
Thất nghiệp ở thành thị (%)
< 5,4
5.5
6
6,28
< 6
6,01
< 6
5,78
< 5,4
5,53
< 5,4
Cơ cấu lao động theo ngành:
(%)
+ Nông nghiệp
+ Công nghiệp
+ Dịch vụ
100
56-57
20-21
22-23
100
57,44
18,79
23,78
100
60,54
14,41
25,05
100
60,67
15,13
24,2
100
59,04
16,4
24,55
100
57,9
17,4
24,7
100
57,44
18,79
23,78
Xuất khẩu lao động (vạn người)
29,3
3,7
3,7
4,0
4,6
6,0
7,5
6
6,7
7,0
6,8
Tỷ lệ lao động qua đào tạo (%)
30
25
Bảng 2: Tình hình thực hiện kế hoạch lao động việc làm nước ta giai đoạn 2001 - 2005
2. Thành tựu và hạn chế trong thực hiện kế hoạch lao động - việc làm
Thành tựu:
Qúa trình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 đạt được những thành tựu như sau:
Một là số việc làm mới ngày càng tăng. Năm 2001, nền kinh tế tạo ra 1,4 triệu việc làm mới. Con số này tăng dần qua các năm, đây là thành tích của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Số việc làm mới này chủ yếu được tạo bởi khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hai là cơ cấu lao động ở các ngành có sự chuyển dịch hợp lý. Cơ cấu lao động ngành cũng có sự chuyển dịch theo xu hướng tăng dần tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp.
Ba là cơ cấu việc chia theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Đến nay hai thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thể hiện vai trò tích cực của chúng: không những đóng góp một phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế mà còn có những đóng góp phần giải quyết việc làm cho người dân. Trong nhưng năm gần đây tỷ lệ lao động ở hai khu vực này không ngừng tăng lên.
Bốn là hiệu qủa sử dụng lao động tăng lên rõ rệt thể hiện qua tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn tăng lên và tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống.
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ như trên vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế.
Một là tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng chậm. Trong giai đoạn 2001 – 2005 hai chỉ tiêu này đã chưa đạt kế hoạch. Cần có những chính sách phù hợp cải thiện những chỉ tiêu trên.
Hai là lao động trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn tăng liên tục. Trong khi đóng góp thu nhập của khu vực này bị hạn chế thì số lượng lao động vẫn tăng lên làm cho thu nhập bình quân đầu người giảm, như thế là sử dụng nguồn lực lao động không hợp lý.
Ba là tổng việc làm mới tuy tăng nhưng còn chậm chưa đáp ứng được nhu cầu việc làm.
Nguyên nhân
Chất lượng lao động còn thấp. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có khả năng tạo nhiều việc làm nhưng đòi hỏi chất lượng lao động cao nên khả năng đáp ứng là rất thấp.
Lao động không những yếu kém về trình độ mà còn kém cả về thể lực, khả năng chịu đựng cường độ lao động không cao.
Chính sách lao động việc làm vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chính sách nâng cao trình độ lao động. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ đang là vấn đề bất cập hiện nay. Đồng thời chính sách di dân cũng ảnh hưởng khá lớn đến phát triển kinh tế cũng như ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm và đặc biệt là làm cho số lượng thất nghiệp ở thành thị gia tăng.
Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế hoạch lao động - việc làm
Những nguyên nhân khách quan:
Trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước kế hoạch về xuất khẩu lao động đã được thực hiện thành công. Thành công đố một phần do sự ổn định về kinh tế và chính trị nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu lao động Việt Nam như: Malaysia, Hàn Quốc, Singapo….Sự ổn định về kinh tế giúp duy trì và tăng con số lao động được xuất khẩu. Sự ổn định về chính trị đảm bảo cho người lao động sống và làm việc “an cư lạc nghiệp”.
Không những ổn định về chính trị nước ngoài mới giúp chúng ta hoàn thành kế hoạch lao động - việc làm mà cả ở trong nước sự ổn định này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự ổn định về kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra nhiều việc làm mới và cơ cấu lao động theo ngành chuyển dịch theo hướng tích cực. Những năm gần đây, nước ta không những ổn định về kinh tế mà còn là một nước có tình hình chính trị ổn định nhất. Sự ổn định đó thu hút sự đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam _một nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế.
Sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế được nâng cao. Sản phẩm của nước ta chủ yếu là sản phẩm mang nhiều hàm lượng lao động như giày da, dệt may. Những sản phẩm này đang chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường quốc tế bởi chất lượng tốt mẫu mã đẹp mà giá cả lại phải chăng. Thành tích này cũng đóng góp một phần quan trọng vào giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Chủ quan
Các chính sách lao động - việc làm của Nhà nước có những phát huy tích cực trong công tác thực hiện kế hoạch lao động - việc làm. Các cơ chế chính sách, pháp luật được hoàn thiện nhằm giải phóng sức lao động,sức sản xuất và nâng cao chất lượng lao động đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình phát huy tác dụng. Tốc độ phát triển dân số được hạn chế giúp kiểm soát tốc độ tăng trưởng nguồn lao động, tạo điều kiện cho công tác cân bằng cung và cầu lao động.
Chương III. Một số giải pháp giải quyết việc làm và thực hiện kế hoạch lao động - việc làm trong giai đoạn 2006 – 2010
1. Mục tiêu kế hoạch lao động - việc làm giai đoạn 2006 – 2010
Trong kế hoạch 2006 – 2010 tiếp tục thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ đã cam kết trong đó có các mục tiêu về lao động - việc làm.
Năm 2010, quy mô dân số khoảng 88,3 triệu người, tốc độ phát triển dân số khoảng 1,2%. Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động, dạy nghề cho 7,5 triệu lao động trong đó 25 – 35% dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp dưới 5%.
2. Quan điểm của Đảng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực và việc làm
Một là nhận thức đúng đắn quan điểm con người là trung tâm trong giải quyết vấn đề lao động - việc làm. Con người vừa là mục đích vừa là động lực của phát triển, phát triển vì con nguời và con người tạo ra sự phát triển.
Hai là kết hợp hài hoà phát triển lao động và việc làm cả về số lượng lẫn chất lượng, phát triển theo chiều rộng và chiều sâu tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Ba là giải quyết vấn đề lao động việc làm là nhiệm vụ của từng gia đình tập thể và cả xã hôị, các ngành và thành phần kinh tế từ Trung ương đến địa phương. Do vậy cần đẩy mạnh xã hội hoá lao động - việc làm gắn với tạo việc làm và tự tạo việc làm.
II. giải pháp giải quyết việc làm trong giai đoạn kế hoạch 2006 - 2010
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng như sau:
Tăng tỷ trọng của các khu vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp nhằm tạo cơ cấu của một nền kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới và thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động.
Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phần công lao động ở nông thôn. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương.
2. Cải tiến cơ chế huy động, sử dụng, quản lý vốn
Cải tiến cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý theo xu hướng:
Đa dạng hoá hình thức huy động vốn với lãi xuất hợp lý. Cải tiến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước theo hướng chủ yếu dành để xây dựng cấu trúc hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm phát triển.
3. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Chuẩn bị tốt điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, kết hợp đổi mới quan hệ kinh tế đất nước cởi mở thông thoáng. Tập trung vào đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng lao động hình thành và phát triển nguồn nhân lực các ngành chế biến. Tìm kiếm mở rộng thị trường đồng thời làm tốt công tác đào tạo để đưa người lao động đi làm việc ở nứôc ngoài.
4. Hình thành phát triển và điều tiết có hiệu qủa giữa các vùng, các khu vực, các ngành nghề của thị trường lao động.
Quản lý tốt thị trường này có nghĩa quan trọng trong quá trình sắp xếp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tính cơ động linh hoạt của lực lượng lao động cũng như ngăn chặn và khắc phục nhiều hậu quả kinh tế.
5. Quan tâm đến việc đào tạo chất lượng lao động.
Hiện nay tay nghề lao động của người Việt Nam còn rất hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là nhu cầu nhân lực của khu vực kinh tế vốn nước ngoài. Cần quan tâm đến đào tạo nâng cao chất lượng lao động bằng cách xây dựng hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
III. giải pháp thực hiện kế hoạch lao động - việc làm
giải pháp điều chỉnh dân số bằng điều chỉnh mức sinh
Chương trình kế hoạch hoá gia đình ở nước ta là công cụ trực tiếp hữu hiệu làm giảm mức sinh, kiểm soát quy mô dân số nguồn nhân lực nâng cao chất lượng dân số.
giải quyết việc làm theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường.
Nhà nước cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ lớn trong các hoạt động tác nghiệp của mình kể cả việc được tự do tiếp nhận lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cá nhân người lao động trong thời kỳ này cũng bắt đầu theo kiểu bung ra. Đây chính là giai đoạn bột phá tự phát vào thị trường lao động so với thị trường kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Ban hành chính sách, luật tạo điều kiện cho người lao động
Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm tạo cơ hội cho người lao động có thể chủ động tìm hoặc tự tạo việc làm kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng.
Các văn bản pháp luật liên quan đến thị trường lao động vốn dĩ được thiết lập và đưa vào áp dụng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và quan hệ lao động mới. Các cơ chế, chính sách về lao động dôi dư của các doanh nghiệp Nhà nước, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp, phát triển các ngành nghề mới.
Phát triển nguồn nhân lực và việc làm
Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực thông qua đổi mới và đầu tư cho công tác đào cán bộ, giáo viên dạy nghề nhằm nâng cao trình độ của nguồn nhân lực. Đồng thời quan tâm đến đời sống tinh thần cho lao động. Phát triển việc làm bằng cách đầu tư phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân góp phần đào tạo nâng cao tay nghề nguời lao động. Sự phát triển khu vực này không chỉ phát triển việc làm mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang mất cân đối.
Tạo thêm việc làm theo hướng xuất khẩu lao động
Tập trung mọi giải pháp mọi nguồn lực về củng cố, ổn định và phát triển thị trường đã có, tăng thị phần tại các thị trường đó. Muốn vậy phải tập trung đầu tư nâng cao chất lượng lao động và tăng cường quản lý cả trong và ngoài nước, tiếp đến là đầu tư mở rộng thị trường mới.
Kết luận
Kế hoạch lao động - việc làm là một bộ phận vô cùng quan trọng trong bộ phận kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó xác định những mục tiêu cần đạt được về lao động - việc làm trong thời kỳ kế hoạch và đưa ra những giải pháp để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu đó luôn hướng tới những mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, em đã củng cố được những cơ sở lý luận về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kế hoạch lao động - việc làm nói riêng cũng như tình hình thực hiện kế hoạch lao động - việc làm ở Việt Nam.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung đã giúp em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển
Giáo trình Kinh tế phát triển
Tạp chí kinh tế và phát triển
Tạp chí lao động – xã hội
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28121.doc