Đề án Kiểm toán Nhà nước - Công cụ đắc lực trợ giúp Quốc hội

Hiện nay theo chức năng nhiệm vụ của mình, ngoài nhiệm vụ lập pháp và thực hiện quyền giám sát tối cao, hàng năm Quốc Hội phải xem xét, quyết định nhiệm vụ kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung Ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; một trong những căn cứ tin cậy, chính xác, một công cụ đắc lực cho việc xem xét, quyết định của Quốc hội là ý kiến đánh giá kết luận về các thông tin, tài liệu là cơ sở dữ liệu để KTNN cung cấp, ý kiến độc lập, khách quan, đủ độ tin cậy và mang tính chuyên môn của kiểm toán rất cần và hơn bao giờ hết cho Quốc hội, cho sự nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, nâng cao tính hiện thực, tính thực chất của Quốc hội trong các quyết định. Điều đó giúp cử tri cả nước yên lòng và tin tưởng vào những đại biểu mà họ đã lựa chọn, đã gửi gắm tâm nguyện và sự tín nhiệm. Là một nhà nước pháp quyền hiện đại, một nền kinh tế vận động theo kinh tế thị trường không thể thiếu được hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động của cơ quan KTNN nói riêng trong lĩnh vực tài chính công. Tăng cường hiệu năng hiệu lực của cơ quan KTNN là xu hướng chung của cả thế giới và là vấn đề then chốt để giúp Quốc hội thực hiện đầy đủ các quyền lực tối cao của mình trong việc quản lý và giám sát mọi hoạt động của nhà nước.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kiểm toán Nhà nước - Công cụ đắc lực trợ giúp Quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc Tổng Kiểm toán Nhà nước phân công chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán Nhà nước về nhiệm vụ được phân công. Khi tổng Kiểm toán Nhà nước vắng mặt, một Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước được Tổng Kiểm tóan Nhà nước ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán Nhà nước. Đây là mô hình mới, trong tương lai, chắc chắn mô hình tổ chức Kiểm toán Việt Nam sẽ từng bước được đổi mới, hoàn thiện để nâng cao vị thế và quyền năng của cơ quan Kiểm toán tối cao của một quốc gia có gần 100 triệu dân. II. Mối liên hệ về vị trí pháp lý của cơ quan kiểm toán nhà nước và quốc hội: 1. Vị trí và vai trò của Quốc Hội: Chúng ta đã biết Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyễn Xã hội Chủ nghĩa do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Cơ sở pháp lý chính trị để hình tahnhf tổ chức Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Hiến Pháp. Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và luật tổ chức Quốc hội, luật tổ chức Chính Phủ, luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và ủy ban Nhân dân cùng các luật khác do Quốc hội Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua, đã được Chủ tịch nước công bố. Cơ sở pháp lý đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động Nhà nước là Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hành chính Nhà nước là một khái niệm về tổng thể các quy phạm pháp luật, hệ thống tổ chức Bộ máy hành chính là để tổ chức , điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế xã hội. Đây là hệ thống chấp hành luật pháp (hành pháp ). Trong dó, Chính phủ Trung ương là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Vậy nên, Quốc hội là cơ quan quyền lực của Nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước, Quốc hội thực hiện quỳên quýêt định dự toán Ngân sách Nhà nước , phân bổ Ngân sách Trung Ương và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, Quốc hội thực hiện quyền giám sát việc chấp hành dự toán Ngân sách Nhà nước, thực thi các chế độ tiêu chuẩn định mức chi Ngân sách và các chính sách tài chính vĩ mô thực hiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, bên cạnh việc đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng cường năng lực đại biểu Quốc hội, cần phải có công cụ hỗ trợ hoạt động lập pháp cũng như giám sát về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Một trong những công cụ hữu hiệu để Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình là Kiểm toán Nhà nước. 2. Vị trí pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: Hiện nay hầu hết các nước trên Thế giới đều có nhiều tổ chức thực hiện Kiểm toán (Kiểm toán tối cao, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ) với lực lượng đông đảo Kiểm toán viên hoạt động trong lĩnh vực này và đã hình thành các hiệp hội như : Tổ chức Quốc tế cá cơ quan Kiểm toán tối cao (ASOSAI) mà Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên.Trong khuôn khổ bài viết, đã đề cập đến loại hình kinh tế là Kiểm toán Nhà nước . Mỗi Quốc gia có quy định khác nhau về mô hình tổ chức cũng như về quan hệ trách nhiệm và vị trí của kinh tế Nhà nước trong hệ thống các cơ quan quyền lực Nhà nước(thể hiện quan hệ trực thuộc của kinh tế Nhà nước). Có thể quy vào 4 loại mô hình sau: + Đứng độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp, như: Đức, Pháp… + Trực thuộc cơ quan lập pháp ( Quốc Hội) , như : Thụy Diển , Thai Lan… + Trực thuộc cơ quan Hành pháp (Chính Phủ) như : Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia… + Trực thuộc người đứng đầu Nhà nước (Tổng thống) như : Hàn Quốc… Nhìn chung cơ cơ quan Kiểm toán Nhà nước củahầu hết các nước trên Thế giới được đặt ở vị trí độc lập với cơ quan hành pháp. Khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán nhà nước chỉ tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ để tránh khỏi sự chi phối và tác động của các “can thiệp” từ bên ngoài. Khi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống thì ít nhiều có sự hạn chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của nó, vì người kiểm tra và người bị kiểm tra đều đặt dưới sự kiểm sóat của một chủ thể. ở Việt nam, Kiểm toán là một lĩnh vực mới, một công cụ quản lý mới được sử dụng và nó đã khẳng định tính hiệu quả trong thực tiễn, góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh và ngăn ngừa tham nhũng, gian lận và lãng phí tiền bạc, tài sản Nhà nứơc. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước ở Vệt Nam được thành lập, hoạt động dựa trên Nghị định 70/CP có tính pháp lý chưa cao, chưa có tính ổn định và quyền hạn còn hạn chế chưa phù hợp với tính chất đặc biệt của hoạt động Kiểm toán Nhà nước. III. Hoạt động của kiểm toán nhà nước trong việc trợ giúp quốc hội : Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là Nhà nước và kinh tế hàng hóa - tiền tệ. Nếu dựa vào biểu hiện bên ngoài thì Ngân sách Nhà nước là một bảng dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định ( thường là một năm) do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định . Trên giác độ này, khi đề cập đến Ngân sách Nhà nước, có thể thấy Ngân sách Nhà nước là một quỹ tiền tệ luôn gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Nếu xét về bản chất và luôn dặt trong trạng thái động thì ngân sách Nhà nước được coi là kế hoạch tài chính vĩ mô, là khâu tài chính chủ đạo trong hệ thống tài chính Nhà Nước, được Nhà nước sử dụng để phân phối một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá tại nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính chủ yếu theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp. Như vây, bản chất chung của Ngân sách Nhà nước được hiểu là “Ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa các Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại giá trị của cải xã hội, nhằm chung một phần nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.” Việc quản lý Ngân sách Nhà nước phải tuân theo một chu trình (còn gọi là quá trình) nhật định, đó là toàn bộ hoạt động của Ngân sách từ khi bắt đầu hình thành đến khi kết thúc, chuyển sang Ngân sách mới. Các khâu của quá trình Ngân sách bao gồm lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Mỗi khâu của chu trình Ngân sách có tác dụng quản lý Ngân sách Nhà nước và tác động qua lại lẫn nhau, bổ trợ nhau trong quản lý, đảm bảo quản lý Ngân sách Nhà nức một cách có hiệu quả. Kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước là một hoạt động quan trọng, đảm bảo cho Ngân sách Nhà nước được quản lý chặt chẽ,tuân theo cac quy định của pháp lụât và có hiệu quả. Mặt khác, qua công tác kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước sẽ góp phần kiểm nghiệm tính phù hợp của ácc Văn bản pháp luật, của chính sách Nhà nước, phát hiện những bất hợp lý nhằm bổ sung, sửa đổi kịp thời. Kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước bao trùm tất cả các khâu của quá trình Ngân sách từ lập, chấp hành đến quyết toán Ngân sách Nhà nước. Rất nhiều công cụ được sử dụng trong kiểm tra, kiểm soát ngân sách như: kế toán, thanh tra, kiểm tra, kiểm tóan ngân sách. Mỗi công cụ thực hiện chức năng riêng và có thế mạnh rieng trong qủan lý, đồng thời các công cụ kiểm tra có tác dụng bổ trợ cho nhau nhằm quản lý Ngân sách Nhà nước một cách tốt hơn. Chúng ta đã biết, Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, thực hiện quyền lập pháp và giá sát đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết đinh dự toán Ngân sách Nhà nước và phân bổ Ngân sách Trung ương , phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước. Vậy công cụ nào hỗ trợ Quốc hội trong việc giám sát Ngân scáh Nhà nước, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước cũng như quyết định các chính sách tài chính , tiền tệ quốc gia? Trong rất nhiều công cụ thì Kiểm toán Nhà nước là công cụ đắc lực nhất trợ giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ và quyền lợi của mình. Đa số các nước trên thế giới đã hình thành và phát triển Kiểm toán Nhà nước hàng trăm năm nay để thực hiện chức năng kiểm tra tài chính Nhà nước, mà trọng tâm là ngân sách Nhà nước. Các quốc gia dù có thể chế chính trị khác nhau nhưng đều sử dụng Kiểm toán Nhà nước như một công cụ quan trọng trong kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính của Nhà nước. Mọi hoạt liên quan đến tài chính Nhà nước và tài sản Nhà nước đều chịu sự kiểm tra của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính Nhà nước và tài sản Nhà nước. Ngoài việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của số liệu báo cáo quyết toán Ngân sách, cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới dù trực thuộc Quốc hội , Chính phủ hay tổ chức theo mô hình nào cũng đều được đảm bảo tính độc lập, đây là đặc trưng cơ bản của hoạt động kiểm toán. Cơ quan Kiểm toán chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ một cách khách quan và thực sự hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra và được bảo vệ trước những tác động từ bên ngoài. Qua hoạt động thực tiễn của Ngân sách Nhà nước gần 10 năm qua, và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Kiểm toán Nhà nước có thể thực hiện vai trò của mình trong việc quản lý Ngân sách Nhà nước, trợ giúp Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp thực hiện chức năng giám sát về tài chính thông qua một số nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất: Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin cho Quốc hội, Hội đồng Nhân dân để xem xét, phê chuẩn, quyết toán Ngân sách Nhà nước. Đây là công việc kiểm soát sau ( gọi là hậu kiểm) - Một chức năng vốn có và mang tính chất truyền thống của Kiểm toán Nhà nước. Tất cả các cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên Thế giới đều thực hiện chức năng này và đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc trợ giúp quốc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm. Vấn đề này cũng được khẳng định trong tuyên bố của LIMA của INTOSAI: “…kiểm toán sau là một nhiệm vụ không thể thiếu được của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, không lệ thuộc vào việc nó có được kiểm toán trước hay không”. Kiểm tra sau của Kiểm toán Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xem xét tính tuân thủ trong quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước mà còn xem xét các khía cạnh về tính hợp lý và điều hành của Chính phủ; xem xét tính hiệu lực, hiệu quả trong các khoản chi của Ngân sách Nhà nước. Tuyên bố của LIMA nêu rõ: “ Kiểm toán sau do cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện chỉ rõ trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ báo cáo có thể dẫn tới bồi hoàn thiệt hại đã xảy ra và là việc làm thích hợp để ngăn chặn những tái phạm sau này”. Một số nước còn quy định báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước trình Quốc hội có ý kiến xác nhận của Tổng Kiểm toán Nhà nước rằng báo cáo đã được kiểm toán và đảm bảo tính trung thực, kèm theo các quyết toán trình quốc hội là báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về công tác quản lý, điều hành Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những nguồn thông tin và căn cứ để Quốc hội thảo luận và phê chuẩn Ngân sách Nhà nước, giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ về năm Ngân sách đã qua. Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước(KTNN) góp phần quan trọng trong việc lập, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước hàng năm. Chúng ta có thể thấy rằng, tài liệu về dự toán Ngân sách Nhà nước không chỉ chứa đựng những vấn đề chính trị, kinh tế chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ cao đòi hỏi phải được kiểm tra xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định. Nguồn lực Ngân sách Nhà nước đòi hỏi phải được phân bổ để đạt được những mục tiêu đã đề ra, hạn chế tình trạng lạm dụng trong việc phân bổ Ngân sách. Vì vậy, cần phải có một cơ quan độc lập, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết đánh giá toàn bộ diễn biến của quá trình lập dự toán. Cơ quan kiểm toán Nhà nước có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán Ngân sách Nhà nước so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. Đây là hình thức tiền kiểm của Kiểm toán Nhà nước, đảm bảo các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi cũng như tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của ácc khoản chi của Ngân sách Nhà nước; tránh được những sai phạm ngay từ khi lập và phân bổ dự toán…hình thức Kiểm toán trước và kiểm toán Nhà nước cũng đã được khẳng định trong tuyân bố của LIMA: “ Kiểm toán trước một cách có hiệu quả là điều không thể thiếu được đối với một nền kinh tế công cộng, lành mạnh với tư cách là một nền kinh tế thác quản - phân cấp và ủy quyền”. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong việc Kiểm toán dự toán Ngân sách Nhà nức hàng năm trước khi trình Quốc hội quyết định. Việc tham gia của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong việc lập dự toán ở mỗi nứơc có hình thức và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều đưa ra ý kiến phản biện về dự toán Ngấn sách Nhà nước do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định. Vấn đề tham gia lập dự toán Ngân sách Nhà nước đối với cơ quan Kiểm tóan Nhà nước ở Việt Nam cho đến nay chưa được đề cập đến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hàng năm khi tổ chức hội nghị xem xét, thẩm tra dự toán Ngan sách Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước được mời tham dự theo yêu cầu của ủy ban Kinh tếvà ngân sách của Quốc hội. Cụ thể là, tham gia thẩm định , đánh giá dự toán Chính phủ trình Quốc hội để cung cấp thông tin cho việc thảo luận ngân sách Nhà nước taị Quốc hội: sau khi dự toán Ngân sách Nhà nước hoàn chỉnh trước khi trình Quốc hội được gửi tới cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Bằng kinh nghiệm Kiểm toán cũng như thông tin thu nhập được trong quá trình tham gia với các bộ, ngành, địa phương tham gia với bộ tài chính khi lập dự toán Ngân sách nhà nước, Kiểm toán Nhà nước thực hiện thẩm định, đánh giá tổng thể về Dự toán Ngân sách Nhà nước trình Quốc hội. Yêu cầu Kiểm tóan Nhà nước bày tỏ ý kiến một cách độc lập về dự toán Ngân sách Nhà nước mà Chính phủ trình Quốc hội và khẳng định một số vấn đề : - Khẳng định dự toán đã được lập theo đúng trình tự của quy trình lập ngân sách. - Đối với những khoản chi cho các chương trình, dự án quốc gia, Kiểm toán Nhà nước có ý kiến về sự cần thiết tiến hành xây dựng một công trình hoặc dự án cụ thể trong khả năng của nền kinh tế quốc gia và chiến lược phát triển trong tương lai. - Kiểm toán nhà nước đưa ra ý kién độc lập của mình về phân bổ dự toán thu, chi, cơ cấu thu, chi và mức bội chi; mức huy động từ nội lực nền kinh tế trong dự toán; việc phân bổ vốn đầu tư, cơ cấu chi đầu tư và chi thường xuyên, chi trả nợ…Kiểm toán Nhà nước cũng đưa ra những vấn đề mà ý kiến của Kiểm toán Nhà nước khác với các Bộ, ngành, và Bộ tài chính làm căn cứ cho Quốc hội thảo luận và phê chuẩn. - Kiểm toán Nhà nước đưa ra ý kiến độc lập về chính sách và giải pháp của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện dự toán Ngân sách Nhà nước. Đây là ý kiến quan trọng để Quốc hội thảo luận và quyết định các giải pháp phát triển kinh tế xã hội và dự toán Ngân sách Nhà nước năm kế hoạch. Tuy nhiên, do không đủ nguồn thông tin và thời gian nên việc tham gia của Kiểm toán Nhà nước trong việc lập kế hoạch và quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước hàng năm chưa mấy hiệu quả. Thứ ba: Kiểm toán Nhà nước trợ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của Quốc gia.Việc đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia không chỉ tiêu tốn một lượng lớn tiền của mà còn liên quan đến chiến lược phát triển của một Quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ xem xét về mặt kỹ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế – xã hội…Trong điều kiện đó, nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội thảo luận và quyết định sẽ gây những rủi ro cho những nhà ra quyết định. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là các nước có lịch sử phát triển Kiểm toán Nhà nước lâu đời đều giao cho các cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này. Điển hình về giao cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này ở một số nước như : Đức, áo, ấn độ , Nhật bản, Trung quốc, Malaysia, Indonesia… Thứ tư: Kiểm tóan Nhà nước tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách, trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính ngân sách. Đây là hoạt động tư vấn của cơ quan Kiểm toán Nhà nước với Quốc hội. Bằng kinh nghiệm kiểm toán, Kiểm tóan Nhà nước phát hiện những bất cập trong bản thân những văn bản pháp luật, phát hiện hiện tượng thực tế phát sinh mà luật chưa đề cập. Thông qua đó, kiến nghị với cơ quan lập pháp trong việc ban hành các văn bản pháp luật. Trong quyết định các chính sách về tài chính ngân sách của quốc gia, cơ quan Kiểm tóan Nhà nước , với kinh nghiệm chuyên môn , tư vấn cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội để quyết định chính xác, đảm bảo tính khả thi. Các ý kiến tham gia của Kiểm toán Nhà nước sẽ tạo nên luồng thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định. Vấn đề này được nhiều nước trên thế giới sử dụng một cách có hiệu quả như : Trung Quốc, Malaysia, Đức, Pháp , áo…ở việt Nam, việc tham gia vào các văn bản pháp luật hiện nay được thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan soạn thảo theo quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Như vậy, các ý kiến của cơ quan Kiểm toán Nhà nước chỉ tham gia với cơ quan soạn thảo mà chưa cung cấp cho các cơ quan của Quốc hội. Mặt khác, đây cũng là vấn đề mới ở Việt nam và Kiểm toán Nhà nước cũng mới được thành lập nên hoạt động này chưa mấy phát triển. Thứ năm: Kiểm tóan Nhà nước cung cấp các thông tin dữ liệu cho các cơ quan quản lý phục vụ tốt hơn công tác quản lý Ngân sách Nhà nước. Thông qua kết quả Kiểm toán , ngoài việc cung cấp thông tin cho Quốc hội , Chính phủ, Kiểm tóan Nhà nước còn cung cấp cho các cơ quan quản lý những yếu kém bất cập trong quản lý Ngân sách Nhà nước; những đơn vị vi phạm chính sách Nhà nước, chế độ quản lý Ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm quản lý Ngân sách nhà nước tốt hơn. Đối với những trường hợp vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước mà Kiểm tóan Nhà nước đã phát hiện, các cơ quan quản lý có biện pháp thu hội cho Ngân sách Nhà nước như thu hồi các khoản thuế gian lận, thu hồi các khoản chi sai chế độ, duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý Ngân sách Nhà nước. Việc cung cấp thông tin cho Quốc Hội, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác cũng như các hoạt động tư vấn thông qua những vụ báo cáo của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Dù cơ quan Kiểm toán Nhà nước có trực thuộc Quốc hội ( Chính phủ) hay độc lập với các cơ quan này đều có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về các vấn đề Quốc hội yêu cầu liên quan đến công tác quản lý tài chính Nhà nước và tài sản công. Các báo cáo của Kiểm toán Nhà nước có thể dưới dạng báo cáo thường niên hoặc báo cáo đặc biệt theo sáng kiến của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cũng có thể là báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc các cơ quan của Quốc hội. Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi đã quy định nghĩa vụ của cơ quan Kiểm tóan Nhà nước trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, đây là điều kiện quan trọng để hoàn thiện và phát triển hoạt động Kiểm tóan Nhà nước ở Việt nam. IV. Những thành tựu và hạn chế . 1. Những thành tựu của Kiểm toán Nhà nước trong công việc trợ giúp Quốc hội: Là một cơ quan mới, trước đó chưa có một tổ chức tiền thân và chưa có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức Bộ máy Nhà nứơc, nhưng chi trong thời gjan ngăn, Kiểm tóan Nhà nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng sau đây: + Ngay từ khi mới thành lập, Kiểm toán Nhà nước đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy, tuyển dụng và đào tạo cán bộ, kiểm toán viên; từng bước xây dựng và hoàn thiện pháp lý cho hoạt động kiểm toán thực hiện kiểm toán hàng nămdo Thủ tướng chính phủ giao và các nhiệm vụ kiểm toán khác do Quốc hội, Thủ tướng chính phủ yêu cầu. Sau gần 10 năm thành lập và phát triển, đến nay Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ Trung Ương đến địa phương : - ở Trung ương có 4 đơn vị Kiểm toán chuyên ngành,đó là:Kiểm toán Ngân sách Nhà nước ; Kiểm toán Doanh Nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư và Dự án; Kiểm toán chương trình đặc biệt. Và 01 văn phòng; 01 Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng Cán bộ; 01 phòng Thanh tra và Kiểm tra nội bộ thuộc Kiểm toán Nhà nước; Còn có Trung tâm Tin học và Vụ Tổ chức Cán Bộ và Đào tạo. - ở Địa phương, Gồm có 05 Kiểm toán Nhà Nước Khu vực như đã trình bày ở phần trên. Hiện taị, Kiểm toán Nhà nước có hơn 600 cán bộ công chức, Kiểm toán viên. Đa số cán bộ, công chức, Kiểm toán viên được tuyển chọn từ nhiều ngành, lĩnh vực hoạt động đa dạng, có phẩm chất đạo đức tốt, ít nhiều đều đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế, tài chính, bước đầu đã được đào tạo, bồi dưỡng định kỳ, cập nhật kiến thức cơ bản về kế tóan, kiểm toán, quản lý hành chính Nhà nước và pháp luật. Nhìn chung, tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước gọn nhẹ, phát huy dược hiệu quả. Trong quá trình xây dựng và phát triển, việc tăng thêm các tổ chức đầu mối trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Kiểm toán Nhà nước. Đặc biệt là phát triển hệ thống các Kiểm toán Nhà nước Khu vực đã giúp cho Kiểm toán Nhà nước thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm toán báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách của các địa phương trên từng địa bàn khu vực, tiết kiệm được chi phí triển khai nhiệm vụ Kiểm toán, góp phần giải quyết một phần khó khăn cho đội ngũ Kiểm toán viên dỡ phải đi công tác xa nhà nhiều ngày, và điều đó quan trong hơn là giúp cho Kiểm tóan Nhà nước nắm được chắc hơn, có hệ thống hơn tình hình lập và điều hành ngân sách của các địa phương trên địa bàn, đảm bảo cho công tác kiểm toán được tốt hơn. Với phương châm “vừa xây dựng tổ chức, vừa triển khai hoạt động”, từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay, Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện hàng nghìn cuộc kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả kiểm toán đã giúp cho các bộ, ngành, địa phương nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng tình hình tài chính, khắc phục những yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và kinh doanh, không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ Kiểm toán Nhà nước bước đầu đã cung cấp những thông tin , dữ liệu tin cậy cho Chính phủ và Quốc hội trong quản lý, điều hành kiểm tra và giám sát tài chính Nhà nước và tài sản công. Kết quả kiểm toán từ năm 1996 đến cuối năm 2002 đã tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước trên 10 000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế và thu khác trên 3000 tỷ đồng, tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước trên 1000 tỷ đồng, quản lý qua ngân sách nhà nước trên1000 tỷ đồng: Kiểm toán Ngân sách Nhà nước: Trong thời gian qua, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán lần thứ hai báo cáo quyết toán Ngân sách trên địa bàn của 61 tỉnh, thành phố; 26 Bộ, ngành, cơ quan thuộc Ngân sách Trung Ương; 14 quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục và một số doanh nghiệp thuộc bộ quốc phòng, Bộ công an và Kinh tế Đảng. Kết quả Kiểm tóan đã phát hiện tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước 2681 tỷ đồng, đồng thời Kiểm tóan Nhà nước đã chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước của các cấp, đưa ra nhiều kiến nghị cụ thể và xác thực nhằm hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách Nhà nước. Kiểm tóan Công trình đầu tư xây dựng cơ bản: Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán báo cáo quyết toán 14 công trình trọng điểm và quốc gia, 6 chương trình mục tiêu của chính phủ và nhiều công trình xây dựng cơ bản của các địa phương. Kết quả kiểm toán thu hồi, giảm cấp phát cho Ngân sách Nhà nước 161 tỷ đồng. Đồng thời Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện những tồn tại trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán cũng như các cơ quan quản lý chức năng sửa chữa, khắc phục những tồn tại đó . Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước: Đã kiểm toán báo cáo tài chính của 17 tổng công ty 91 và 30 Tổng công ty 90, một số doanh nghiệp hạng đặc biệt. Kết quả kiểm toán đã tăng thu thêm về thuế và thu khác cho ngân sách Nhà nước là 975 tỷ đồng. Đồng thời qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện những tồn tại trong quản lý công tác tài chính doanh nghiệp và đưa ra các kiến nghị để các doanh nghiệp Nhà nước và các cơ quan quản lý chức năng Nhà nước sửa chữa, khắc phục và hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh việc triển khai thực hiện kiểm toán hàng năm, kiểm toán Nhà nước còn chú trọng tới công tác chuẩn bị cho hướng phát triển lâu daì của ngành, như: nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan đến địa vị pháp lý của cơ chế hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước, nghiên cứu soạn thảo các chuẩn mực và quy trình kiểm toán…Ngoài ra công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho đội ngũ Kiểm toán viên luôn được ngành đặc biệt coi trọng. Hàng năm Kiểm toán Nhà nước đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, mở nhiều khóa tập huấn trong nước và cử nhiều lượt cán bộ, kiểm toán viên đi học tập, nghiên cứu kinh nghiệm kiểm toán ở nhiều nước trên thế giới , như : Cộng hòa Liên bang Đức, ấn độ, Nhật Bản, Thái Lan… Đến nay gần 90% kiểm toán viên đã qua lớp quản lý hành chính Nhà nước và các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. + Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Kiểm toán Nhà nước cũng thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Tháng 4-1996 gia nhập tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao ( INTOSAI ), và tháng 11-1997 trở thành thành viên của tổ chức cơ quan kiểm toán tối cao Châu á ( ASOSAI). Bên cạnh đó Kiểm toán Nhà nước Việt Nam còn mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ quan kiểm toán tối cao của nhiều nước trên Thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm và tranh thủ sự trợ giúp của các nước và các tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt phải kể đến dự án “ Hỗ trợ xây dựng Kiểm toán Nhà nước Việt Nam” do CHLB Đức và dự án ADB do Ngân hàng Châu á tài trợ. Những kết quả trong gần 10 năm đầu thành lập, tuy còn rất khiêm tốn nhưng đã thể hiện sự nỗ lực phấn đấu và đóng góp thiết thực của ngành KTNN còn non trẻ trong sự nghiệp đổi mới đất nước, như đánh giá của Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải trong thư ngày 02-06-1999 gửi CBCNV KTNN “ trong công cuộc đổi mới để xây dựng đất nước, KTNN đã được hình thành và từng bước phát triển nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tài sản và tài chính công, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia”. 2. Những hạn chế của KTNN trong công việc trợ giúp Quốc hội: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cua KTNN còn có những hạn chế nhất định , như sau : + Nền tảng pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN chưa đủ tầm và chưa đầy đủ. Vị trí của cơ quan KTNN liên quan trực tiếp đến những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Nhà nước nhưng hiện tại mới chỉ được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật. Chức năng của KTNN mới chỉ giới hạn trong Kiểm toán Báo Cáo tầi chính và kiểm toán tuân thủ, chưa có các quy định về Kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức, các đơn vị, giá trị pháp lý của các báo cáo kiểm toán , vấn đề công khai kết quả kiểm toán…chưa được quy định đã làm hạn chế vai trò và tác dụng vốn có của KTNN. + Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao là tổ chức kỉêm tra tài chính Nhà nước và tài sản công đối với các hệ thống cơ quan công quyền và mọi đơn vị quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính Nhà nước nhưng hiện tai KTNN mới chỉ là cơ quan trực thuộc Chính Phủ, hiệu lực thực hiện các kết luận, các kiến nghị kiểm toán còn hạn chế. Trong khi đó, việc đánh giá tình hình kinh tế, tiết kiệm, tính hữu hiệu, hiệu quả trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN là một nội dung quan trọng hết sức cần thiết của hoạt động kiểm toán NSNN…ở các nước phát triển, có kinh nghiệm kiểm toán lâu đời vấn đề này được coi là vấn đề trọng yếu trong hệ thống của cơ quan KTNN và được quy định rõ ràng trong luật, còn ở Việt Nam, vấn đề này chưa được đặt ra trong các quy định pháp luật và KTNN. + Bên cạnh những hạn chế về hiệu lực pháp lý của KTNN trong hoạt động Kiểm toán còn có những hạn chế như một số cuộc kiểm toán chưa xác định được trọng tâm, trọng điểm, phạm vi nội dung kiểm toán, nhất là nội dung, phạm vi kiểm tóan tài chính quyết toán đầu tư Xây dựng cơ bản và kiểm toán DNNN; chưa thu thập đầy đủ thông tin về các đơn vị được kiểm toán, do đó phải điều chỉnh kế hoạch trong quá trình thực hiện kiểm toán. Báo cáo kết quả của một số cuộc kiểm toán thường chỉ là kết quả lắp ghép giữa báo cáo phần thu, chi thường xuyên, chi Xây dựng cơ bản; chưa có sự tổng hợp, thống nhất giữa các lĩnh vực thu, chi, nhất là phần nhận xét và kiến nghị. + Với năng lực hiện có, hàng năm KTNN mới chỉ kiểm toán được 20 đến 25% báo cáo quyết toán của các bộ, ngành, các tỉnh thành phố trực thuộc Trung Ương; 10 đến 15 báo cáo tài chính của Tổng công ty Nhà nước và một số dự án đầu tư nhóm A. Vì vậy, việc lựa chọn những nội dung, vấn đề mang tính đại diện, tính điển hình để thực hiện kiểm toán là một yêu cầu hết sức quan trọng mà cũng là vấn đề mà KTNN phải vươn tới để thực hiện tốt. + Các quy định về thời gian, thời hạn lập và gửi báo cáo, phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước các cấp chưa tính đầy đủ đến qũy thời gian cần thiết cho công tác kiểm toán các cấp ngân sách, đặc biệt là đối với ngân sách địa phương. Thực tế hiện nay (tính đến năm ngân sách 2001) các báo cáo quyết toán Ngân sách địa phương, đều chỉ được kiểm toán sau khi Hội đồng Nhân dân phê chuẩn. + Hệ thống chuẩn mực kỉêm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nhiệm vụ và kiểm tra chất lượng kiểm toán còn đang trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, khảo nghiệm, nên chưa đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện. +Ta nói quy trình kiểm tóan chưa hoàn chỉnh bởi vì hiện tại mới chỉ có quy trình kiểm toán ngân sách chung, chưa có quy trình kiểm toán chuyên ngành, như quy trình kiểm toán thu thuế xuất nhập khẩu, quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán một cấp ngân sách, quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách một Bộ và chưa có quy định cụ thể về kết cấu, nội dung, các chỉ tiêu, các biểu mẫu, biên bản kiểm toán, báo cáo kiểm toán, gây khó khăn cho việc thực hiện các nội dung kiểm toán, lập biên bản kiểm toán , báo cáo kiểm toán và kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán. + Quy mô, năng lực của đội ngũ kiểm toán viên còn rất bất cập so với yêu cầu công việc và chức năng, nhiệm vụ được giao. Với dân số hơn 80 triệu nhưng chỉ có 600 cán bộ, kiểm toán viên, quy mô và năng lực của KTNN Việt nam còn rất nho bé so vớ các nước trong khu vực và trên thế giới ( Trung Quốc hiện có 80 000 kiểm toán viên, ấn độ là 65 000, Malaysia là 3500, Thái Lan là 2300….) . Trình độ cán bộ, kiểm toán viên nhìn chung còn hạn chế so với yêu cầu nghề nghiệp chưa được đào tạo một cách cơ bản và đầy đủ vè nghề nghiệp và các kiến thức cần thiết của kinh tế thị trường; trình độ phân tích tổng hợp, ngoại ngữ, tin học, quản lý Nhà nước và thủ tục hành chính còn yếu. Ngoài ra, một số kiểm toán viên chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân về kiểm tra kế tóan thuế và thanh tra, chưa nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc quy trình, chuẩn mực kiểm toán để áp dụng vào công việc kiểm toán. Một số kiểm toán viên có ý thức trách nhiệm chưa cao, vì vậy chưa hoàn thành nhiệm vụ kiểm toán được giao, chất lượng kiểm toán thấp. + Hệ thống tổ chức bộ máy của KTNN chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, đặc biệt là con rất thiếu các KTNN Khu vực ( đến nay mới chỉ có 5 kiểm toán nhà nước Khu vực so với yêu cầu là phải có 9 đến 10 KTNN Khu vực). Điều này đã hạn chế nhiều khả năng kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước điạ phương, đồng thời cũng gây khó khăn lúng túng cho công tác phân cấp , phân công nhiệm vụ kiểm toán giữa các KTNN Khu vực với KTNN chuyên ngành ở Trung ương. + Cơ sở vật chất và trang thiệt bị còn rất thiếu thốn; hạ tầng công nghệ thông tin hầu như chưa có gì; do thiếu kinh phí và phương tiện nên ít nhiều còn phải trông chờ vào sự trợ giúp của đơn vị được kiểm toán, làm hạn chế tính độc lập của cơ quan kiểm toán. Nhà nước chưa có chế độ và chính sách đãi ngộ thỏa đáng theo tính chất hoạt động đặc thù của ngành kểm toán viên nên khó thu hút được nhân tài và cán bộ, kiểm toán viên kếm phấn khởi trong công tác. + Mức độ hội nhập của KTNN với Khu vực và Thế giới còn rất hạn chế, các hình thức hội nhập còn ở trình độ thấp chưa đủ điều kiện và khả năng để tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động của INTOSAI và ASOSAI. + Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng kiểm toán cần nghiên cứu hoàn thiện hơn để đảm bảo tính độc lập, khách quan của người đứng đầu cơ quan có vai trò đặc biệt này. ở một số quốc gia việc bổ nhiệm Tổng kiểm toán dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn ở Trung Quốc Tổng kiểm toán do Thủ tướng đề cử, Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm. Có nước việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng kiểm toán Nhà nước do Tổng thống thực hiện sau khi có sự đồng ý của Quốc hội. Việc bổ nhiệm được tuân thủ theo thủ tục như vậy đã tạo nên vị thế độc lập bền vững, không phụ thuộc vào những thay đổi về chính trị, để thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng kiểm toán, đồng thời không bị chi phối bởi những ảnh hưởng từ phía các chủ thể chịu sự kiểm tóan. Cùng với thủ tục bổ nhiệm là các nghi thức khác thể hiện tính quan trọng của chức vụ tổng kiểm toán. Có những nước còn quy định trong luật về quyền bất khả xâm phạm của người đứng đầu cơ quan kiểm toán trong một số trường hợp cụ thể. Điều đó đã tạo điều kiện ngăn ngừa sự can thiệp từ các thế lực đối với hoạt động kiểm toán. ở nước ta, nếu Tổng kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu và Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm sẽ có vị thế ngang tầm và xứng đáng với chức năng và nhiệm vụ theo quy định của pháp luât. Ngoài những vấn đề chủ quan thuộc về nội bộ ngành kiểm toán , nguyên nhân của các yếu tố kếm và bất cập trước hết là do KTNN là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta, chúng ta còn hiểu biết chưa đầy đủ và chưa có nhiều kinh nghiệm. Những chậm trễ trong cải cách hành chính Nhà nước, trong đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương…cũng là những yếu tố cản trở giải quyết kịp thời và có hiệu quả những vướng mắc, khó khăn của KTNN trong công việc trợ giúp Quốc Hội . V. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp Quốc hội của KTNN. Để mở rộng qui mô và nâng cao chất lượng công tác kiểm toán ngày càng tốt hơn cho Quốc hội trong việc giám sát Ngân sách Nhà nước,tài sản quốc gia , xin được đề xuất một số ý kiến cụ thể sau: + Thứ nhất: Để KTNN thực hiện được chức năng của mình trong việc trợ giúp Quốc hội thì một trong những vấn đề quan trọng là tăng cường năng lực và địa vị pháp lý cho cơ quan KTNN. - Hoàn thiện cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện cho tổ chức và hoạt động của KTNN .Đây là giải pháp có ý nghĩa tiền đề và điều kiện cho tổ chức và hoạt động của KTNN.Trên thế giới , địa vị pháp lý của KTNN thường được thể chế hóa trong đạo luật cơ bản(hiến pháp của cả nước) . Các vấn đề cụ thể hơn sẽ đựoc quy định trong luật kiểm toán của nhà nước .Chẳng hạn ,các vấn đề về KTNN ở Trung Quốc đã được qui định trong hiến pháp từ năm 1982 và sau đó là luật KTNN .Tổ chức các vấn đề khá mới mẻ .Tuy vậy ,vơi những kinh nghiệm và kiến thức đã tích lũy được tronh gần 10 năm hoạt động và các bài học kinh nghiệm Quốc tế phong phú ,hoàn toàn có thể và cần xác định một lộ trình hợp lý cho việc xây dựng các văn bản pháp luật về KTNN .Ngoài việc xây dựng dự án pháp lệnh KTNN trình chính phủ vào tháng 8/2003 để chính phủ trình ủy ban thường vụ Quốc hội vào tháng 8/2003 như nhiệm vụ chính phủ giao hiện nay ,cần tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng luật KTNN trong nhiệm vụ của Quốc hội khóa XII(2006-2010) và đến năm 2010 có thể nghiên cứu để đề xuất bổ sung một số điều về KTNN trong hiến pháp. Trong phạm vi chức năng và thẩm quyền của KTNN ,dự kiến đến năm 2005 cơ bản xây dựng xong và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn hệ thông chuẩn mực ,qui trình và phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính ( hoàn thiện các chuẩn mực và qui trình hiện có ,bổ sung thêm các qui trình kiểm toán cần thiết như qui trình kiểm toán các trương trình mục tiêu quốc gia ,qui trình kiểm toán các dự án trong quá trình thi công ;qui trình kiểm toán các tổ chức tài chính ,ngân hàng…) ;triển khai nghiên cứu và từng bước ứng dụng các qui trình kiểm toán hoạt động ,kiểm toán chuyên đề (kiểm toán tách nhiệm kinh tế cán bộ lãnh đạo ;kiểm toán chương trình ở chính phủ…) trong giai đoạn 2006-2010 .Đây là điều kiện cơ bản để nâng cao chất lượng kiểm toán và kiểm tra đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Hoàn thiện cơ bản địa vị pháp lý của KTNN : Xác định đúng đắn vai trò vị trí pháp lý và cơ cấu tổ chức bộ máy kinh tế nhà nước ,nâng cao vị thế của cơ quan KTNN tương xứng với chức năng ,nhiệm vụ được giao .Dù tổ chức theo mô hình nào (trực thuộc chính phủ hay quốc hội) thì địa vị pháp lý của cơ quan KTNN cũng cần được qui định trong đạo luật cơ bản của quốc gia ,đó là hiến pháp và sau đó là luật kiểm toán .Các đạo cần luật qui định đảm bảo cho KTNN có quyền độc lập về tổ chức và hoạt động chuyên môn nghiệp vụ .Trong thời gian trước mắt cần xây dựng pháp lệnh KTNN để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động của KTNN .Tiến tới đề nghị bổ sung vào hiến pháp những vấn đề thiết thực liên quan đến KTNN .Một số vấn đề đảm bảo cho hoạt động của KTNN qui định trong luật ngân sách nhà nước sửa đổi cần cụ thể hơn ,như cụ thể hóa trách nhiệm báo cáo ,hình thưc báo cáo cụ thể hóa công việc công khai kết quả kiểm toán và các điều kiện khác….Xác định trách nhiệm của KTNN trong việc tham gia xây dựng ,thảo luận dự toán ngân sách nhà nước ,tham gia nhận định các dự án lớn và các văn bản pháp luật liên quan đén tài chính ngân sách. + Thứ hai: Yêu cầu về hoạt động của KTNN : KTNN phải là cơ quan độc lập , hoạt dộng khách quan , trung thực, công tâm để thực hiện kiểm tra từ bên ngoài đối với các chủ thể quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công. Hoạt động của KTNN nhằm đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả của việc quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước và tài sản công: ở các nước có nền kiểm toán phát triển, do yêu cầu quản lý của Nhà nước, KTNN không chỉ thực hiện việc kiểm tra, xác định đúng đắn, trung thực, hợp pháp của các số liệu, tài liệu kế toán, mà còn qua đó mở rộng sang thực tiễn chức năng đánh giá tính kinh tế của việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính Nhà nước và tài sản công. Với sự phát triển đó ,vai trò của KTNN được thể hiện ngày càng đầy đủ. Hoạt động của KTNN góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật về kinh tế tài chính vì KTNN có chức năng kiểm tra và tư vấn về các giải pháp nhằm quản lý và sử dụng theo đúng pháp luật các nguồn lự tài chính Nhà nước. + Thứ ba:Yêu cầu xây dựng chiến lược phát triển Kiểm tóan toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài: Nội dung của chiến lược kiểm tóan là phải xác định mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp , hoàn thiện phát triển KTNNvà nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN hiện nay và những năm tiếp theo. Chiến lược phát triển KTNN là cơ sở để KTNN xây dựng kế hoạch hành động với các chương trình ưu tiên và các biện pháp có tính đột phá nhằm tạo ra sự chuyển biến có tính mạnh mẽ, thúc đẩy nhanh, vững chắc tiến trình xây dựng KTnn đạt quy mô hiện đại, trình độ kiểm tóan loại khá so với các nước tiên tiến trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Phát triển KTNN thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt tài chính Nhà nước và tài sản công. Phát triển KTNN mạnh về số lượng và chất lượng. Nhiệm vụ trọng tâm và lâu dài của hoạt động kiểm toán là kểm toán tính hiệu quả của đầu ra hay tính kinh tế của Kiểm toán. Muốn như vậy , phải đặt ra mục tiêu nâng cao năng lực hoạt động kiểm toán, hiệu lực thực hiện các kết luận và kiến nghị kiểm toán. + Thứ tư: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy : Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy trên cơ sở củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN Trung Ương theo hướng chuyên môn hóa; tăng cường năng lực các bộ phận có chức năng tham mưu thuộc khối văn phòng; tách Kiểm toán Ngân sách Nhà nước thành Kiểm toán Ngân sách Nhà nước I và Ngân sách Nhà nước II; tách kiểm toán doanh nghiệp nhà nước thành kiểm toán doanh nghiệp và kiểm toán các tổ chức tài chính – tiền tệ; thành lập: Vụ Tổ chức- cán Bộ và đào tạo, Trung tâm tin học, Vụ Tổng hợp- Pháp chế; Phát triển phòng thanh tra và kiểm tra nội bộ thành vụ , kiểm tra chất lượng kiểm toàn và đạo đức hành nghề; Kiện toàn các bộ phận tổng hợp tại các kiểm toán chuyên ngành và KTNN cac Khu vực. Phát triển mạng lưới KTNN Khu vực một cach hợp lý, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ kỉêm toán hàng năm đối với các đơn vị thu hưởng ngân sách nhà nước và sử dụng công quỹ quốc gia. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các quy chế hoạt động của các đơn vị thuộc và trực thuộc KTNN. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy chế phân cấp quản lý đối với Kiểm toán chuyên ngành và KTNN Khu vực theo hướng: Tiếp tục xây dựng và phát triển cơ quan KTNN theo mô hình tập trung thống nhất trực quyền như hiện nay gồm KTNN Trung Ương và kiểm toán Khu vực; Khâu tổ chức hệ thông KTNN theo các cấp chính quyền ( Như mô hình kiểm toán Trung Quốc, tổ chức từ cấp Huyện trở lên) để đảm bảo bộ máy gọn nhẹ và tính độc lập trong kiểm toán Ngân sách Nhà nước các cấp. Đến năm 2005, cơ bản củng cố và hoàn thiện Tổ chức bộ máy KTNN ở Trung Ương theo hướng chuyên môn hóa theo ngành hẹp; tăng cường năng lực cho các bộ phận có chức năng tham mưu, tổng hợp; thành lập Bộ máy giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán và đạo đức ngề nghiệp của kế tóan viên. đến năm 2010 dự kiến hình thành đủ 09 KTNN Khu vực để đáp ứng yêu cầu kiểm toán Ngân sách Nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước; nghiên cứu để có thể thành lập một số văn phòng đại diện của KTNN tại một số Bộ, Ngành có số chi, thu ngân sách Nhà nước lớn ( như kinh nghiệm của hầu hết các cơ quan KTNN trên thế giới) . + Thứ năm: Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung và thiện hệ thống chuẩn mực KTNN và quy trình kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán: Việc hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm tóan Nhà nươc được dưạ trên cơ sở có chọn lọc các chuẩn mực kiểm toán của tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) và kinh nghiệm của các nước phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Tổ chức biên sọa tài liệu hướng dẫn chuẩn mực kiểm toán làm chuẩn mực cho hoạt động của KTNN. Đối với quy trình kiểm toán cần nghiên cứu để tách quy trình kiểm toán Ngân sách Tỉnh ( cấp ngân sách) và quy trình kiểm toán ngân sách các bộ, nghành ( các đơn vị dự toán). Xây dựng quy trình kiểm toán các công trình, dự án đàu tư xây dựng cơ bản đang thi công. Quy trình kiểm toán các chương trình, dự án viện trợ, vay nợ của Chính phủ. Đồng thời sửa đổi, bổ sung quy trình kiểm toán doanh nghiệp Nhà Nước. Đặc biệt cần hoàn thiện mẫu báo cáo kiểm toán; quy trình lập, xét duyệt và công bố báo cáo kiểm toán . Xây dựng và ban hành văn bản và lập và lưu trữ các tài liệu , hồ sơ kiểm toán. Nghiên cứu để soạn thảo và ban hành các quy trình, kiểm tóan hoạt động nhất là đối với lĩnh vực kiểm toán ngân sách nhà nước. + Thứ sáu: Phát triển nguồn nhân lực: đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với nghề nghiệp kiểm tóan. Định hướng chung là phải phát triển đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán . Đối với cơ cấu đội ngũ kiểm toán viên, do tính chất nghề nghiệp đòi hỏi phải có trình độ tổ chức công việc độc lập và khả năng tổng hợp, phân tích cao nên dự kiến tỷ lệ kiểm tóan viên chính phải dạt từ 30 đến 35% ( cao hơn so với các ngành khác). Do tiêu chuẩn kiểm toán viên hiện quy định phải có thâm niên nghề nghiệp kiểm toán ít nhất là 3 năm, nên dự kiến đối với ngành kiểm tóan có thêm chức danh trợ lý kiểm tóan viên ( tất cả các nước trên thế giới đều có chức danh này và có cơ cấu khoảng 20% trong tổng số kiểm toán viên). Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên phải tăng cường năng lực cho trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ, dự kiến đến năm 2006 phát triển thành học viện kiểm tóan ( thực hiện chức năng đào tạo cử nhân về kiểm tóan). Đồng thời phải áp dụng đồng bộ các giải pháp để đào tạo một số lượng thích đáng các Kiểm toán viên có trình độ tiếp cận khu vực và thế giới. Về mặt số lượng, đến năm 2005 với mục tiêuc ơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan KTNN ở Trung Ương và với biên chế củ toàn ngành KTNN tối thiểu cần có từ 700 đến 750 người. đến năn 2010, khi thành lập đủ 09 KTNN Khu vực thì cần có khoảng 1200 người. Lúc đó sẽ đạt tỷ lệ khoảng 1.2 đến 1.5 Kiểm tóan viên trên 100 000 dân, xấp xỉ mức trung bình của các nước trong khu vực như hiện nay. + Thứ bảy: Phát triển cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin: Tổ chức và hoạt độngc ủa cơ quan KTNN mang tính đặc thù, không hoàn toàn giống với các cơ quan hành chính khác. Số lượng nhân viên mỗi KTNN chuyên ngành và Khu vực ( các tổ chức tương đương các Vụ) là rất lớn so với các Vụ ở các bộ , ngành khác, kiểm toán viên thường xuyên phải đi công tác xa cơ quan trên phạm vi cả nước; chi phí đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán viên ở các nước được xếp vào chi nghiệp vụ….Nhưng hiện nay định mức sử dụng kinh phí về ô tô, điện thoại, công tác phí, chi đào tạo , bồi dưỡng, trang thiết bị, máy tính xách tay… của KTNN vẫn chỉ được tính toán và cấp phát như những ngành khác. Vì vậy, hàng năm kinh phí cấp không đủ chi, còn phải nhờ vả các đơn vị được kiểm toán làm hạn chế tính độc làp của kiểm tóan .Do đó cần xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu phù hợp với đặc thù ngành kiểm toán và đề nghi Nhà nước có chế độ ưu tiên thích đáng xây dựng trụ sở, trang bị làm việc, hạ tầng công nghệ thông tin … cho kiểm tóan Nhà nước để đáp ứng được mục tiêu phát triển nói trên. đồng thời đề nghị chính phủ cho trích một tỷ lệ phần trăm thích hợp theo kết quả kiểm toán hàng năm để bổ sung kinh phí hoạt động, mua sắm tài sản cố định và khuyến khích vật chất cho cán bộ, kiểm tóan viên ( Trước đay bộ tài chính đề nghị chính phủ là 2% tổng số thu hồi cho ngân sách nhà nước theo kết quả kiểm toán) nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Tiến hành xây dưng, trang bị đầy đủ trụ sở, phương tiện làm việc cho KTNN ở Trung Ương và các KTNN trong giai đoạn 2001-2005. Phấn đấu đến năm 2010 hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin điện tử, củng cố và nâng cấp mạng diện rộng (WAN), xây dựng và đưa vào sử dụng mạng LAN tại các KTNN Khu vực; xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu điện tử, các phẩn mềm trợ giúp nghiệp vụ kiểm toán. +Thứ tám: Chiến lược Hội nhập và Hợp tác Quôc tế : Duy trì và phát triển các mối quan hệ, hợp tác quốc tế đã có, mở rộng hơn nữa, đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ, các hình thức hợp tác song phương và đa phương với INTOSAI, ASOSAI và với cơ quan KTNN các nước trong khu vực và trên thế giới.Thực hiện lộ trình hội nhập ,giai đoạn 2001-2005 sẽ chuẩn bị các tiên đề cơ bản cho hội nhập và hợp tác quốc tế; giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn hội nhập tích cực và đến 2020. KTNN Việt Nam có thể hoàn toàn hội nhập năng động với KTNN các nước trên thế giới. “Có nhiều việc phải làm nhưng quan trọnh nhất vẫn là nhận thức ,là phưong pháp ,là con người thực hiện. Tôi tin rằng với truyền thống và kinh nhgiệm sau gần 10 năm họat động, sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và Nhà Nước, và KTNN sẽ có vị trí xứng đ áng trong nền hành chíng công quyền của Nhà Nước pháp quyền XHCN và ngày càng trưởng thành và phát triển” ( Phó chủ nhiệm ủy ban kinh tế và ngân sách nhà nước của Quốc hội ,PGS-TS Đặng Văn Thanh trả lời phỏng vấn của Tạp chí Kiểm toán ) . c - Kết luận Hiện nay theo chức năng nhiệm vụ của mình, ngoài nhiệm vụ lập pháp và thực hiện quyền giám sát tối cao, hàng năm Quốc Hội phải xem xét, quyết định nhiệm vụ kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung Ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; một trong những căn cứ tin cậy, chính xác, một công cụ đắc lực cho việc xem xét, quyết định của Quốc hội là ý kiến đánh giá kết luận về các thông tin, tài liệu là cơ sở dữ liệu để KTNN cung cấp, ý kiến độc lập, khách quan, đủ độ tin cậy và mang tính chuyên môn của kiểm toán rất cần và hơn bao giờ hết cho Quốc hội, cho sự nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, nâng cao tính hiện thực, tính thực chất của quốc hội trong các quyết định. Điều đó giúp cử tri cả nước yên lòng và tin tưởng vào những đại biểu mà họ đã lựa chọn, đã gửi gắm tâm nguyện và sự tín nhiệm. Là một nhà nước pháp quyền hiện đại, một nền kinh tế vận động theo kinh tế thị trường không thể thiếu được hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động của cơ quan KTNN nói riêng trong lĩnh vực tài chính công. Tăng cường hiệu năng hiệu lực của cơ quan KTNN là xu hướng chung của cả thế giới và là vấn đề then chốt để giúp Quốc hội thực hiện đầy đủ các quyền lực tối cao của mình trong việc quản lý và giám sát mọi hoạt động của nhà nước. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình “Lý thuyết kiểm toán”. GS.TS Nguyễn Quang Quynh. Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội tháng 1-2003. 2. Giáo trình “Kiểm toán tài chính”. GS. TS. Nguyễn Quang Quynh. Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội thánh 7-2001. 3. Giáo trình “Kiểm toán căn bản” của PGS-TS Nguyễn Đình Hựu Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia- Hà Nội 2003. 4. “Kiểm toán Auditing” (Alvin A.Aren) của Nhà xuắt bản Thống kê - 2000 . 5. “Kiểm toán” (John Dunn) của Nhà Xuất Bản Thống Kê - 2001. 6. Tạp chí Kiểm toán: các số chuyên đề sau: Số 3- Tháng 6/2000. Số 3- Tháng 6/2001; Số 5- tháng 10/2001 Số 1- Tháng 2; Số 2- Tháng 4; Số 3-Tháng 6; Số 4-Tháng8; Số 5- Tháng 10;Số 6 -Tháng 12; của năm 2002. Số 1- Tháng2; Số 3- Tháng 6; Số 4-Tháng 8; Số 5- Tháng 10; Số 6- Tháng 12 của năm 2003. 7. Tạp chí Kế toán- Số chuyên đề của Tháng 4-2003. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35619.doc
Tài liệu liên quan