Hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán viên nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhất là trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù ra đời chưa lâu và đang trên đà phát triển nhưng kiểm toán Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý tài chính, ngăn ngừa hiện tượng hành vi pháp luật, vi phạm chính sách, chế độ tài chính kế toán, các tiêu cực trong kinh tế xã hội đảm bảo giữ vững kỉ cương phép nước và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
Chính vì vậy không ngừng hoàn thiện để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, và chất lượng kiểm toán viên đặc biệt là nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên để kiểm toán ngày càng phát huy được chức năng của mình.
Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu em đã cố gắng đi sâu và tìm hiểu kiểm toán viên và tính độc lập của kiểm toán viên. Cùng với những kiến đã học được ở nhà trường với một ít hiểu biết thực tế, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, nhận xét kiến nghị nhằm góp một phần nhỏ để hoàn thiện và nâng cao chất lượng kiểm toán và tính độc lập của kiểm toán viên. Do kiến thức han chế và thời gian không nhiều do đó đề án của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô giáo để đề án môn học của em được hoàn thiện hơn.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2449 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kiểm toán viên và tính độc lập của kiểm toán viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được làm các dịch vụ kế toán trừ khi họ đã có chứng chỉ hành nghề. Trong thực tế rất ít kế toán viên chuyên nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề mà cam chịu sử dụng nghề nghiệp của mình để làm thuê cho các văn phòng chuyên nghiệp hay trong ngành.
Ngoài ra, trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu rộng, kiểm toán viên cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng để công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc tế. Mặt khác khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, máy tính trở nên phổ biến kiểm toán viên cần phải có kĩ năng tin học, thành thạo các phần mềm kế toán… Kĩ năng giao tiếp cũng là một kĩ năng quan trọng của kiểm toán viên. Có được một nghệ thuật giao tiếp tốt, kiểm toán viên sẽ tránh được những hiểu lầm, tạo thuận lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán.
1.1.2.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Trình độ chuyên môn là một yêu cầu không thể thiếu của kiểm toán viên trong việc đưa ra ý kiến của mình đối với báo cáo tài chính. Song bên cạnh đó kiểm toán hoạt động mang tính chủ quan, kiểm toán viên căn cứ vào những bằng chứng thu thập được và kiểm toán viên dựa vào những kinh nghiệm nghề nghiệp và óc phán xét để đưa ra những ý kiến nhận xét trên báo cáo tài chính. Do vậy thì chỉ trình độ chuyên môn chưa đủ kiểm toán viên cần phải có một cái tâm trong sáng.
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên với niềm tin của công chúng đang là vấn đề thách thức với nghề kiểm toán trong thế kỉ 21 này_ sau ảnh hưởng của vụ bê bối tài chính năm 2001 và 2002. Đây không phải là vấn đề mà chỉ một số nước gặp phải mà là vấn đề của tất cả các tổ chức của tất cả các nước.
Chúng ta hẳn vẫn chưa quên chuyện một số cá nhân kiểm toán viên thông đồng với tập đoàn viễn thông Worldcom ở Mỹ chưa lâu và ở nước ta, mới đây thôi là việc gian lận trong báo cáo tài chính của công ty Tiếp thị và Đầu tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đó chính là những ví dụ rõ ràng nhất về sự cần thiết của phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trong hành nghề kiểm toán. Phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên là vấn đề bức thiết cần xem xét.
Chuẩn mực kiểm toán số 200 về “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính” có quy định: “Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán như sau: độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, tính bí mật, tư cách nghề nghiệp, tuân thủ chuẩn mực chuyên môn”.
1.1.2.2.1 Tính độc lập
“ Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên” . Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán yêu cầu mọi kiểm toán viên và thành viên nhóm kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán (dịch vụ đảm bảo), công ty kiểm toán phải độc lập với các khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán.
Tính độc lập được xem như là phẩm chất chủ yếu nhất của kiểm toán viên. Bởi thái độ độc lập phụ thuộc vào hai yếu tố là bản chất thực của kiểm toán viên và cách nhìn nhận công chúng đối với kiểm toán viên. Có thể bản chất cua kiểm toán viên là không cho phép bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng tới tính độc lập của mình, ngay cả khi kiểm toán viên có dính líu về mặt kinh tế hoặc tình cảm với đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên chỉ bản chất thì vẫn chưa đủ mà phải đảm bảo về mặt hình thức thể hiện. Chẳng hạn, một kiểm toán viên có dính líu về mặt kinh tế hoặc quan hệ nhân thân thì dù có thực bản chất của kiểm toán viên là độc lập, công chúng vẫn cho rằng không đảm bảo tính độc lập. Những người sử dụng báo cáo kiểm toán phải tin vào tính độc lập và sự vô tư của kiểm toán viên trong việc đánh giá và đưa ra ý kiến trên báo cáo tài chính coi nó như là một căn cứ về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đưa ra những quyết định tài chính kinh tế đúng đúng đắn.
1.1.2.2.2 Tính chính trực, khách quan
Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn, trung thực và có lương tâm nghề nghiệp, phải là người trong sáng không được phép để cho sự định kiến thiên lệch lấn át tính khách quan. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định chính trực là kiểm toán viên phải thẳng thắn, trung thực trong tư tưởng, có chính kiến rõ ràng, đồng thời phải công bằng, tín nhiệm, không có xung đột về lợi ích. Khách quan là kiểm toán viên phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến thiên vị.
Kiểm toán viên căn cứ vào những bằng chứng thu thập được và dựa vào những kinh nghiệm, óc phán xét của mình, để đưa ra những ý kiến của mình về báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên không được chú tâm phản ánh sai sự việc, không được để sự phán xét của mình lệ thuộc vào người khác. Trong quá trình cuộc kiểm toán, việc áp dụng và lựa chọn những đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo nguyên tắc khách quan là rất quan trọng đối với kiểm toán viên. Một số truờng hợp vi phạm đến tính khách quan của kiểm toán viên như: áp lực từ ban quản lý, ban giám đốc… hay có quan hệ gia đình hay cá nhân. Kiểm toán viên không nên nhận, hoặc tặng quà chiêu đãi có thể ảnh hưởng đến đánh giá nghề nghiệp, ảnh hưưỏng đến tính chính trực khách quan, ảnh hưởng đến danh tiếng kiểm toán viên.
Hành vi cho mượn danh kiểm toán viên hành nghề cũng được coi là vi phạm tư cách nghề nghiệp và tính chính trực được quy định trong Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp. Các kiểm toán viên cũng ý thức rằng, việc cho mượn danh để hành nghề sẽ đem đến nhiều rủi ro cho “kiểm toán viên cho mượn danh” như: sẽ làm giảm sự tín nhiệm của kiểm toán viên đối với xã hội nói chung, đối với khách hàng, đồng nghiệp nói riêng.
1.1.3.2.3 Tính thận trọng
Chuẩn mực này đòi hỏi kiểm toán viên phải luôn đa nghi nghề nghiệp chẳng hạn như luôn đặt ra những câu hỏi cho các dấu hiệu nghi ngờ, phân tích các bằng chứng và đánh giá hoặc để khẳng định, hoặc loại bỏ những nghi ngờ đó. Thận trọng nghề nghiệp thích đáng cho phép kiểm toán viên đảm bảo một cách hợp lý rằng các các báo cáo tài chính không còn tồn tại các sai phạm trọng yếu.
Sự thận trọng gắn liền với trình độ chuyên môn, thận trọng trong việc lập kế hoạch và giám sát chuyên môn. Thận trọng đưa ra ý kiến trong báo cáo kiểm toán. Mặt khác kiểm toán viên được khuyến cáo là tránh trước những mâu thuẫn quyền lợi, vì vậy họ nên thận trọng khi làm thêm các dịch vụ ngoài kiểm toán. Ví dụ, họ đồng ý thương lượng một hợp đồng vay tiền, thì kiểm toán có thể bị cám dỗ chấp nhận một loạt báo cáo tài chính giả dối. Kiểm toán viên cũng phải hết sức thận trọng, tránh tham gia vào việc chuẩn bị các báo cáo tài chính hay những sổ sách kế toán cơ bản làm cơ sơ cho báo cáo tài chính. Để giảm rủi ro kiểm toán, giảm bớt trách nhiệm của kiểm toán viên thì thận trọng là một nguyên tắc không thể thiếu trong khi hành sự kiểm toán.
1.1.2.2.4 Tính bảo mật
Tính bảo mật của kiểm toán viên là phải tôn trọng các bí mật của những thông tin đã thu thập được trong quá trình kiểm toán, không được để lộ bất cứ thông tin kiểm toán nào cho người thứ ba khi không có sự uỷ quyền đặc biệt hoạc có trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu phải công bố. Như vậy, trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thu được một số lượng đáng kể thông tin bảo mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm, các kế hoạch quảng cáo, và số liệu chi phí sản phẩm... Nếu kiểm toán viên tiết lộ những thông tin này cho những người ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng (là những người không được quyền tiếp cận với các thông tin đó), thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên, công ty kiểm toán với ban giám đốc công ty khách hàng sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng và trong trường hợp cực đoan có thể sẽ làm phương hại đến công ty khách hàng. Vì những lý do trên, việc cẩn trọng để bảo vệ các bản tư liệu mật của công ty khách hàng là rất quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên có nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng thu được trong quá trình kiểm toán, kể cả sau khi kết thúc hợp đồng kiểm toán. Trừ khi thông tin cần được cung cấp cho cơ quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu phải báo cáo, kiểm toán viên không được tiết lộ thông tin, không được sử dụng các thông tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Kiểm toán viên không được công bố thông tin bảo mật về khách hàng kể cả thông tin khác nếu không được sự đồng ý của công ty khách hàng. Như vậy, kiểm toán viên có thể cung cấp thông tin cho người khác chỉ khi được sự cho phép của công ty khách hàng. Đây là một điều kiện bắt buộc, kể cả trong trường hợp kiểm toán viên bán kết quả làm việc của mình cho một công ty kiểm toán khác hoặc muốn cho phép người kiểm toán viên kế tục xem xét tư liệu lập cho công ty khách hàng trước đây.
1.1.2.2.5. Tư cách nghề nghiệp và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc của chuẩn mực, một vài hành vi sau của kiểm toán viên có thể được xem là ví dụ (theo văn bản hướng dẫn thi hành chuẩn mực đạo đức của Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ):
Kiểm toán viên giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Ví dụ, giả sử ban quản trị công ty khách hàng không trả thù lao cho công ty kiểm toán và do đó các kiểm toán viên từ chối trả lại sổ sách của khách hàng.
Một công ty kiểm toán phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, hoặc quốc tịch cũng được xem là một hành vi làm mất tín nhiệm.
Nếu một kiểm toán viên đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan Nhà nước, mà cơ quan này qui định các thể thức kiểm toán khác với các chuẩn mực kiểm toán đã được thừa nhận, thì trách nhiệm đối với uy tín nghề nghiệp thể hiện ở chỗ kiểm toán viên phải tuân thủ cả các thể thức của cơ quan Nhà nước đó và các chuẩn mực kiểm toán đã được chấp nhận, trừ khi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác.
Trong tất cả mọi ngành nghề, chuẩn mực chính là những nguyên tắc hay quy tắc tối thiểu mà các thành viên của một nghề tuân theo và xem đó như là cơ sở để đánh giá chất lượng công việc. Chuẩn mực kiểm toán là những quy phạm pháp lý, là thước đo chung chất lượng công việc kiểm toán và dùng để điều tiết những hành vi của kiểm toán viên và các bên hữu quan theo hướng đạo và mục tiêu xác định. GAAS là những chuẩn mực có hiệu lực mà kiểm toán viên phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán và là cách thức đảm bảo chất lượng công việc kiểm toán. Có 3 nhóm chuẩn mực chính mà kiểm toán viên cần phải tuân thủ là:
Nhóm chuẩn mực chung
Nhóm chuẩn mực thực hành
Nhóm chuẩn mực báo cáo
1.2 Tính độc lập của kiểm toán viên
1.2.1. Khái niệm về tính độc lập của kiểm toán viên
Một vấn đề cực kì quan trọng là kiểm toán viên phải được người sử dụng báo cáo kiểm toán tin tưởng. Và họ không thể tin vào báo cáo kiểm toán nếu họ cảm thấy nội dung của báo cáo đó đã chịu ảnh hưởng của ban giám đốc. Theo một số định nghĩa thì kiểm toán là “ việc kiểm tra độc lập và trình bày ý kiến về các báo cáo tài chính của một doanh nghiệp…” Và để tăng thêm mức độ tin cậy của báo cáo tài chính thì người đọc báo cáo kiểm toán tin rằng kiểm toán viên không chịu ảnh hưởng của ban giám đốc. Vậy ở đây độc lập là gì? Độc lập được mô tả như là: “ luôn luôn có thái độ suy nghĩ chính trực và có quan điểm khách quan trong công tác nghiệp vụ”. Cũng có ý kiến cho rằng: “ đối với kiểm toán viên hai đức tính quan trọng nhất là tính thẳng thắn và tính cách mạnh mẽ “ , điều này có nghĩa là sự độc lập tuy là quan trọng, song cũng rất khó đo lường. Bởi không thể nào quan sát được quan điểm ở trong đầu của một người hay bản chất trung thực của cá nhân người đó. Tuy nhiên những chỉ dẫn đối với kiểm toán viên còn đi xa hơn nữa. Kiểm toán viên phải và phải tỏ ra là không có bất kì một quyền lợi nào mất đi tính khách quan. Nhưng điều đó thì vẫn chưa đủ để đảm bảo kiểm toán viên đó là độc lập. Người đó phải đảm bảo chắc chắn sẽ không có bất kì điều gì có thể gây nghi ngờ về sự vô tư của mình. Và tất nhiên là cần phải đảm bảo chắc chắn rằng kiểm toán viên được xem là độc lập. Rất khó làm cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán tin cậy vào sự trung thực của một người mà họ không quen biết trực tiếp nhất là nếu người đó có thể sẽ được lợi trong việc lừa dối họ. Dù cho kiểm toán viên có khả năng tiếp cận với nhiệm vụ được giao trong đó phải đương đầu với một mâu thuẫn quyền lợi với thái độ hoàn toàn khách quan thì người sử dụng báo cáo vẫn không thể hoàn toàn không nghi ngờ gì về tính khách quan của người đó. Sự nghi ngờ đó sẽ làm tan vỡ hoàn toàn sự tin cậy mà kiểm toán cần bổ sung cho các báo cáo tài chính.
Độc lập bao gồm độc lập về tư tưởng và độc lập cả về hình thức. Độc lập về tư tưởng là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá nghề nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. Độc lập về hình thức là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được duy trì.
Sự độc lập về tư tưởng yêu cầu kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan trong việc đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính. Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá... Mặt khác kiểm toán viên cũng phải tránh tình huống mối quan hệ cá nhân với một hay nhiều thành viên trong số cán bộ nhân viên của khách hàng có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của mình và kiểm toán viên không được vừa làm dịch vụ kiểm toán vừa làm dịch vụ kế toán( như trực tiếp ghi chép, giữ sổ kê toán, lập báo cáo tài chính) cho cùng một khách hàng.
Ngoài ra một kiểm toán viên không thể được xem là độc lập, nếu người đó phụ thuộc quá nhiều vào thù lao do khách hàng trả. Quy định đối với tiền thù lao do bất kì khách hàng nào trả cũng không được vượt quá 15% mức tổng thu nhập lệ phí lặp đi lặp lại theo thông lệ.
1.2.2 Các hình thức của tính độc lập
Có rất nhiều lý do làm cho kiểm toán viên có thể đi đến mâu thuẫn với ban giám đốc. Kiểm toán viên có thể được xem là độc lập nếu giải quyết mâu thuẫn này một cách thành thực, không lẫn trốn trách nhiệm của mình trước người sử dụng báo cáo kiểm toán. Điều này có thể đòi hỏi phải yêu cầu ban giám đốc thay đổi quan điểm của mình về một vấn đề kế toán hay kiên quyết công bố báo cáo kiểm toán biểu lộ thái độ dè dặt về những con số mà các giám đốc đã công bố. Có rất nhiều cách để tính độc lập của kiểm toán viên có thể bộc lộ tính độc lập nhưng trong đó có ba hình thức chính đó là: độc lập trong việc lên chương trình, độc lập điều tra và độc lập làm báo cáo. Môi điều này đều có nghĩa vô cùng quan trọng đối với tin cậy của kiểm toán viên.
1.2.2.1 Độc lập trong việc lên chương trình
Hiển nhiên là báo cáo kiểm toán sẽ ít có giá trị, Trừ khi nó dược xác nhận bằng những kết quả điều tra kĩ lưỡng. Tuy nhiên đièu này có thể làm bất lợi cho các giám đốc, doanh nghiệp. Nếu như họ muốn che giấu điều gì đó, thì họ sẽ muốn giảm đến mức tổi thiểu khả năng khám phá ra nó. Ngay cả khi họ không có điều gì muốn che giấu, thì các giám đốc vẫn có thể muốn giảm bớt phí kiểm toán hay công bố sớm nhất các báo cáo tài chính ngay sau khi kết thúc năm. Nếu kiểm toán viên có thể thuyết phục giảm bớt việc điều tra tìm hiểu, thì điều đó có tác dụng tốt đến việc giảm chi phí hay đến thời hạn hoàn thành việc kiểm toán
Do vậy kiểm toán viên phải tự do sắp xếp theo cách mà họ thấy là thích hợp. Cách tiếp cận của kiểm toán viên phải thay đổi cho phù hợp khi công ty khách hàng phát triển lên và mở ra những hoạt động mới. Hơn nữa cá kĩ thuật kiểm toán không ngừng được phát triển lên, kiểm toán viên có thể lựa chọn những chiến lược cơ bản mà họ có ý định vân dụng vào công việc của mình, từ đó lên chương trình kiểm toán thích hợp
1.2.2.2 Độc lập điều tra
Việc độc lập trong việc lên chương trình đảm bảo cho việc kiểm toán viên có thể lựa chọn chiến lược phù hợp nhất cho công việc kiểm toán của mình. Độc lập điều tra sẽ đảm bảo cách thức họ thực hiện chiến lược đó. Kiểm toán viên phải có quyền tự do tiếp cận các tài liệu và sổ sách ghi chép của công ty. Mọi câu hỏi mà họ đặt ra cho công ty về hoạt đông kinh doanh hay cách thức hạch toán giao dịch đều phải được trả lời.
Việc nhấn mạnh luận cứ cho rằng kiểm toán viên không bị hạn chế trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán là ý tưởng cho rằng việc kiểm toán cần được thực hiện với sự hợp tác đầy đủ của ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên của công ty đó. Nếu kiểm toán viên có khó khăn trong việc thu thập những thông tin mà họ cần thì việc kiểm toán trở nên tốn kém hơn và việc cản trở có thể có hại cho quyền lợi cuả các giám đốc vì có thể gây ấn tượng cho việc muốn che giấu hành vi của họ.
1.2.2.3 Độc lập làm báo cáo
Nếu các giám đốc muốn làm sai lệch những thông tin kế toán cho người sử dụng thì họ sẽ ngăn cản kiểm toán viên công khai những thông tin chính thực. Đó là lúc mà sự độc lập của kiểm toán viên trở nên cực kì quan trọng. Điều này có thể dẫn đên sự bất đồng , tuy nhiên nếu kiểm toán viên ngả theo giám đốc trong tất cả những ý kiến bất đồng thì việc tiến hành kiểm toán không còn ý nghĩa nữa.
1.2.3 Những hạn chế và những quy định về sự độc lập
Độc lập là nhân tố rất quan trọng, tính độc lập là điều mà các công ty kiểm toán cũng như người sử dụng. Tuy nhiên đó là nhân tố mang tính chủ quan, về mặt khách quan thì cái gì cũng có những hạn chế của nó, và tính độc lập cũng vậy và vì vậy có những quy định để bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên.
1.2.3.1 Những hạn chế đối với sự độc lập của kiểm toán viên
Kiểm toán viên sống bằng nghề cung ứng dịch vụ, để tồn tại thì công ty phải có khả năng thu hút va giữ chân khách hàng và hạn chế đó là có thể mâu thuẫn từ với các giám đốc của công ty đó, và từ đó có khả năng phá hoại ngầm sự độc lập của kiểm toán viên. Những vấn đề này nảy sinh từ hai nguồn chính là mối quan hệ cuả kiểm toán viên với công ty đó và bản chất của chính những người làm nghề kiểm toán
Mối quan hệ với khách hàng
Không thể nào khắc phục được một thực tế là kiểm toán viên nhận được phí kiểm toán. Điều này tạo ra một nhu cầu khẩn cấp và bức bách đối với kiểm toán viên là phải đảm bảo chắc chắn rằng mình không gây nguy hiểm cho nguồn thu nhập đó. Trong thực tế, số phí kiểm toán có xu hướng sẽ được thương lượng với các giám đốc. Điều này có nghĩa là các giám đốc có thể thúc ép kiểm toán viên hạn chế mức độ điều tra của mình, hay trừng phạt kiểm toán viên vì đã bày tỏ ý kiến trung thực trong báo cáo bằng cách từ chối chi trả một khoản phí thích đáng. Các giám đốc công ty cũng có thể gây ảnh hưởng đến khả năng của kiểm toán viên tiếp tục nhận được phí của mình trong những năm tới bằng cách cố gắng thay thế họ bằng công ty khác. Điều này có nghĩa là kiểm toán viên phải đối mặt với mâu thuẫn quyền lợi rõ ràng và khả năng mất khách hàng là rất dễ xảy ra. Dĩ nhiên rất khó đo lường mức độ bất đồng giữa kiểm toán viên và các giám đốc và những ảnh hưởng của những mâu thuẫn đó.
Tuy nhiên phí kiểm toán không phải là động lực duy nhất của sự hợp tác giữa kiểm toán với khách hàng. Các công ty kiểm toán đều có phần thu nhập ngày càng tăng từ việc cung ứng dịch vụ tư vấn trong tổng thu nhập của mình. ở Anh tình hình phổ biến là kiểm toán viên của công ty đảm bảo tư vấn về thuế cũng như cố vấn quản lý về các mặt kinh doanh khác nhau và khác với phí kiểm toán là những khoản dịch vụ này ít khi được công bố. Điều này có nghĩa là kiểm toán viên có thể bị phụ thuộc của giám đốc đối với việc tiếp tục một hợp đồng tư vấn có lợi mà giá trị của nó không bao giờ được công bố và sự tồn tại của nó có thể được giữ bí mật. Vấn đề liên quan ở đây là thực tế những dịch vụ mà kiểm toán viên cung ứng có thể không tương thích với vai trò của kiêm toán viên
Cơ cấu của những những người làm nghề kiểm toán
Với sự phát triển của nền kinh tế thì sự cạnh tranh trong những người làm nghề kiểm toán ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Điều này có thể gây sức ép với kiểm toán viên theo một số cách. Chi phí kiểm toán là một yếu tố, sự cạnh tranh giữa của công ty kiểm toán cũng đã buộc họ có ý thức hơn. Bản chất chủ quan của nghề kiểm toán cũng gây ra sự cọ xát giữa kiểm toán viên và các giám đốc, đây là một phương tiện để gây sức ép.
Để khắc phục hạn chế đó, các công ty kiểm toán đã có những quy định để bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên.
1.3.2 Những quy định về sự độc lập
Kiểm toán viên sẽ chỉ thực sự độc lập nếu họ được bảo vệ, từ đó có nhiều quy định chi phối về sự độc lập của kiểm toán viên, tuy nhiên nó sẽ không thể đảm bảo cho kiểm toán viên giữ một vị trí vững chắc với khách hàng, mà khuyến khích họ đảm bảo dịch vụ có hiệu quả với chi phí hợp lý.
Các công ty khi mà cảm thấy rằng công ty khác có thể đảm bảo dịch vụ tốt hơn, thì họ hoàn toàn có quyền tự do chỉ định công ty đó thay thế, thì các giám đốc có thể chỉ định kiểm toán viên trong những tình huống ngoại lệ. Họ có thể chỉ định kiểm toán viên đầu tiên của công ty và cũng có thể chỉ định một người nào đó để lấp vào chỗ khuyết đột xuất. Các quan chức và công nhân viên của công ty, các đối tác kinh doanh cũng như nhân viên của họ bị cấm làm kiểm toán viên của công ty đó. Ngoài ra luật công ty còn có một số quy tắc nhằm bảo vệ tính độc lập trong điều tra của kiểm toán viên. Trong đó một số quy tắc quan trọng đó là
Kiểm toán viên của công ty có quyền tiếp cận vào bất kì lúc nào các sổ sách, tài khoản, biên lai chứng từ, và có quyền yêu cầu cung cấp những thông tin và những lời giải thích mà mình cho là cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của một kiểm toán viên
Đối với một quan chức của công ty việc cung cấp những lời tuyên bố làm lạc hướng hay giả dối về những tài liệu liên quan đến kiểm toán là một hành vi phạm tội..dù đó là những lời tuyên bố viết lẫn tuyên bố miệng, những lời tuyên bố lạc hướng có chủ tâm hay do thiếu thận trọng.
Báo cáo kiểm toán phải nói rõ các báo cáo tài chính có được phản ánh đúng đắn và trung thực tình trạng tài chính và thành tích của công ty hay không.
Mặt khác có những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, các tiêu chuẩn và những nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán và các tiêu chuẩn kế toán nhằm bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên. Trong đó có tiêu chuẩn tác nghiệp hỗ rợ tính độc lập của kiểm toán viên trong việc lên chương trình và điều tra, tiêu chuẩn báo cáo bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên trong việc làm báo cáo. Những tiêu chuẩn này được hỗ trợ bằng một số nguyên tắc chỉ đạo,các nguyên tắc này không phải tuân thủ như đối với tiêu chuẩn, nhưng chúng giúp đỡ kiểm toán bằng cách gợi ý một thông lệ tốt.
Những quy tắc bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên có nhiều sai sót, tuy nhiên chúng hoàn toàn không có tác dụng. ít nhất thì chúng cũng đặt ra một tiêu chuẩn tối thiểu để dựa vào đó mà đo lường công việc của kiểm toán viên
Phần II: Thực trạng kiểm toán viên và tính độc lập của kiểm toán viên tại việt nam hiện nay
2.1 Thực trạng kiểm toán viên và tính độc lập kiểm toán viên ở Việt Nam
2.1.1 Thực trạng kiểm toán viên ở Việt Nam.
Ngày nay, kiểm toán đã và đang có sự thay đổi đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Các nhân tố mới xuất hiện có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kiểm toán, chẳng hạn như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử trên nhu cầu của xã hội ngày càng đặt lên vai KTV những trọng trách trong việc kiểm tra, rà soát và báo cáo về các vấn đề phi tài chính như sự tuân thủ đối với Luật bảo vệ môi trường, tuân thủ các chuẩn mực quản trị chất lượng quốc tế (ISO). ở Việt Nam vấn đề kiểm toán là tương đối mới mặc dù nó đã được ra đời cũng khá lâu, từ khi nước ta gia nhập WTO và thị trường chứng khoán bắt đầu phát triển mạnh mẽ thì xu hướng các công ty cần công khai báo cáo tài chính trên thị trường ngày càng tăng và kiểm toán ở việt nam thật sự nóng bỏng và ngày càng gia tăng. Tuy nhiên kiểm toán viên ở nước ta còn non nớt, trình độ chuyên môn còn chưa cao. Theo VACPA hiện cả nước có 136 công ty kiểm toán, nhưng 80% là của doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập chưa đầy 10 năm, số kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề còn ít. Nếu lấy con số 888 kiểm toán viên đã có chứng chỉ hành nghề chia cho 136 công ty đang có trên thị trường thì mỗi công ty chỉ có trung bình 6,5 người có chứng chỉ hành nghề.
2.1.1.1 Thực trạng kiểm toán viên nhà nước
Ngày 11-7-1994 Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ và là cơ quan kiểm tra nền tài chính công của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các việc kiểm toán đối với các cơ quan Nhà nước các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi Ngân sách Nhà nước và các tổ chức đơn vị có quản lý, sử dụng công quỹ, tài sản quốc gia.
Hơn 12 vừa học vừa làm, vừa xây dựng phát triển, vừa tìm tòi vừa cống hiến, từng bước vươn lên ngang tầm với cuộc sống là không hề đơn giản. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo KTNN và đội ngũ của họ đã khẳng định được mình thông qua những thành tích được đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và công sức mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước bằng kết quả của những cuộc kiểm toán. Những thành tích ấy như những viên đá tảng xây đắp cho nền móng cho KTNN tiến lên.
Nhìn một cách khách quan thì đó mới chỉ là bước đầu. Yêu cầu của đất nước đối với đội ngũ KTV hiện nay chưa thể đáp ứng được.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ KTV của KTNN đã thể hiện những thế mạnh sau đây:
- Đội ngũ KTV đã thể hiện là những người trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Hiến pháp và Pháp luật.
- Đội ngũ KTV là những người có bản lĩnh chính trị, vượt qua được thử thách, đã được tôi luyện trong đấu tranh.
- Đội ngũ KTV có trình độ ngày càng được nâng cao và hoàn thiện không ngừng.
- Lần đầu tiên cấp thẻ kiểm toán viên Nhà nước kể từ khi kiểm toán Nhà nước được thành lập, đánh dấu việc thực hiện mục tiêu chính quy hoá chuyên môn hoá và từng bước hiện đại hoá hoạt động của kiểm toán Nhà nước. Đã có 552 kiểm toán viên đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật kiểm toán Nhà nước.
Song đội ngũ KTV cũng có những hạn chế nhất định, đó là:
- Phạm vi và đối tượng phải được kiểm toán rất rộng, nhưng số lượng KTV quá ít ỏi chưa thể đáp ứng đủ yêu cầu.
- Nghề kiểm toán là một nghề mới mẻ, phức tạp, đội ngũ hiện có được tập hợp từ nhiều nguồn, nhiều ngành khác nhau, chưa thật sự thành thạo với nghề mới và còn nhiều lúng túng.
- Trình độ và năng lực hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của các cuộc kiểm toán và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế
Sau 12 năm thành lập và phát triển, việc tổ chức bộ máy cán bộ, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức được coi là nhiệm vụ hành đầu của KTNN. Được sự quan tâm chỉ đạo của chính phủ, sự phối hợp giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan, quốc hội đã thông qua luật KT6 số 37/2005/QH11 thành lập luật kiểm toán Nhà nước có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006. Với nguyên tắc làm việc của hội đồng kiểm toán là thảo luận tập thể, biểu quyết theo đa số, ý kiến thiểu số được bảo lưu. Các ý kiến của thành viên hội đồng kiểm toán Nhà nước được ghi vào biên bản của hội đồng, biên bản và các tài liệu khác của hội đồng KTNN được bảo quản lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán của KTNN.
Là cơ quan không có tổ chức tiền thân, đội ngũ cán bộ, công chức phải xây dựng từ đầu. KTNN luôn đứng trước đòi hỏi phải sớm có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong từng thời kỳ. Đến nay, KTNN đã tuyển dụng trên 600 cán bộ công chức, trong đó KTV chiếm trên 70%, tất cả KTV đều có trình độ Đại học trở lên. Đội ngũ cán bộ được tuyển dụng nhìn chung đảm bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo về phẩm chất, đạo đức.
Bên cạnh đó, theo lộ trình 2010, kiểm toán Nhà nước sẽ đào tạo từ 30 đến 40 kiểm toán viên Nhà nước đạt chứng chỉ quốc tế ACCA- mộtloại chứng chỉ kiểm toán được công nhận và đánh giá cao ở 170 nước trên thế giới.
2.1.1.2. Thực trạng kiểm toán viên độc lập
Hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta ra đời từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ trước với việc Bộ Tài chính thành lập Công ty Kiểm toán Việt Nam. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở nước ta là Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ về việc ban hành “Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” được thay thế bằng Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về “Quy chế tổ chức kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các Quyết định và Thông tư về “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên”, hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán, ban hành và công bố Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Cho đến nay, hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng các công ty kiểm toán, số lượng các KTV độc lập cũng như quy mô hoạt động của các công ty. Đến tháng 11/2007, ở Việt Nam còn có hơn 70 công ty kiểm toán của Việt Nam được thành lập trong đó có 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán BCTC. Trong 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán có 3 công ty nước ngoài, 1 công ty hợp danh mới được thành lập, còn lại là các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. So với đội ngũ KTV Nhà nước vốn xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau, đội ngũ KTV độc lập được đánh giá là chuyên nghiệp hơn và ngày càng hoàn thiện về mặt chuyên môn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Có thể thấy việc ban hành “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ KTV hành nghề” cho KTV độc lập là một động thái tích cực của Bộ Tài chính nhằm nâng cao chất lượng của KTV độc lập. Việc thành lập và phát triển nhiều công ty kiểm toán độc lập hiện nay đòi hỏi các công ty phải quan tâm đến chất lượng kiểm toán của mình ngay từ khầu đầu tiên là lựa chọn KTV nếu muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường kiểm toán. Có thể đánh giá rằng đội ngũ kiểm toán viên độc lập ở Việt Nam hiện nay dần đáp ứng được xu thế của hội nhập và thực tiễn, hiện nay có 1000 kiểm toán viên độc lập có chứng chỉ hành nghề, đây không phải là một con số lớn, sự thiếu hụt về kiểm toán viên làm cho các kiểm toán viên làm thêm giờ và tăng thêm sức ép cho kiểm toán viên. Mặt khác đa số kiểm toán viên độc lập ở nước ta còn trẻ, khả năng tiếp nhận công nghệ mới cao, khả năng thích ứng và phù hợp với chất lượng công việc.
2.1.1.3. Thực trạng kiểm toán viên nội bộ
Kiểm toán viên nội bộ ở nước ta vẫn đang còn là một khái niệm mới mẻ và rộng rãi. Hệ thống kiểm toán viên nội bộ còn đang mới mẻ, hầu như tất cả các công ty đều không có kiểm toán viên nội bộ. Kiểm toán viên nội bộ chỉ tồn tại trong các Ngân Hàng lớn, như ngân hàng Ngoại Thương, các Tổng công ty 90, 91. Nhìn chung kiểm toán viên nội bộ chia thành hai bộ phận như sau:
Một là một bộ phận không chuyên được chuyển từ bộ phận khác trong công ty. Họ hầu hết có kinh nghiệm kế toán, kiểm toán nhưng không chuyên sâu, công việc chủ yếu của họ là giám sát về mặt tài chính, những ý kiến của họ đóng góp cho ban quản trị là không đáng kể
Hai là một bộ phận kiểm toán viên chuyên nghiệp được tuyển chọn rất gắt gao và có thể là từ một số kiểm toán viên độc lập, thường là ở các ngân hàng ảnh hưởng của họ là rất lớn, thậm chí nếu thấy làm việc không hiệu quả thì có thể kiểm toán viên nội bộ có thể đề nghị thay toàn bộ hệ thống kế toán.
Theo xu thế hiện nay, việc các công ty phải tự nâng cao chất lượng hoạt động của mình là một vấn đề tất yếu. Do vậy việc tổ chức hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp ngày càng trở nên rộng rãi. KTV nội bộ tại Việt Nam vì thế mà ngày càng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phải phát triển một đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp đảm bảo cho việc hội nhập một cách chủ động.
2.1.2 Tính độc lập của kiểm toán viên tại Việt Nam
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cũng là tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp không thể thiếu được trong nghề kiểm toán. Nhưng đây là điểm yếu trong nghề kiểm toán Việt Nam.
Trong kết quả kinh doanh năm 2005, các công ty kiểm toán vừa được hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam ( VACPA) công bố ba chức vị cao nhất thuộc về kiểm toán nước ngoài E&Y, PWC, KPMG sau đó mới đến Deloitte Việt Nam vốn là công ty kiểm toán lớn nhất của Việt Nam. Điều này không khó hiểu vì các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam dù trong hay ngoài nước khi có nhu cầu đều thuê kiểm toán nước ngoài. Vậy tại sao họ không chọn kiểm toán trong nước? Nguyên nhân trước hết là để thu hút các nhà đầu tư quan trọng, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do năng lực, uy tín của các công ty kiểm toán Việt Nam chưa đạt trình độ khu vực và quốc tế, chứng chỉ hành nghề của các kiểm toán viên Việt Nam chưa được khu vực và quốc tế công nhận.
Vì kiểm toán là ngành đòi hỏi tính độc lập tuyệt đối nên theo thông lệ quốc tế không cho phép kiểm toán thuộc cơ quan quản lý của nhà nước. ở hầu hết các quốc gia kiểm toán do hội hành nghề hoặc cơ quan độc lập với chính phủ quản lý. Tại Việt Nam từ đầu năm đến nay, Bộ Tài Chính đã chuyển giao chức năng kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán trong các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán và người hành nghề kế toán và người hành nghề kế toán cho hiệp hội kiểm toán viên. Tuy nhiên các cuộc kiểm tra của bộ tài chính vẫn chưa đi vào thực chất, còn mang tính hành chính, mang nặng kiểm tra về các loại giấy phép, chứng chỉ. Một biểu hiện cho thấy việc chuyển giao còn mang nặng tính hình thức là người giữ trách nhiệm vụ trưởng vụ kế toán và kiểm toán của Bộ tài chính tức người trực tiếp quản lý thị trường và chủ tịch VACPA vẫn là một. Sự độc lập của ngành kiểm toán Việt Nam vì thế xa vời khu vực và quốc tế.
Mặt khác trên thị trường sự cạnh tranh thiếu lành mạnh về giá phí còn phổ biến, mức phí dịch vụ trung bình của các công ty kiểm toán Việt Nam chỉ bằng một nửa, thậm chí bằng một phần ba so với mức phí cùng loại so với công ty kiểm toán nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khách hàng nên lệ thuộc quá nhiều vào giá dịch vụ và do đó lệ thuộc cả chất lượng dịch vụ vào khách hàng. Điều này ảnh hưởng tính độc lập của kiểm toán viên. Khi nhìn nhận thị trường dịch vụ kiểm toán Việt Nam thấy dấu hiệu của một cuộc ’’cạnh tranh xuống đáy” lâ Cuộc cạnh tranh xuống đáy thể hiện rõ nét qua việc một số công ty do cạnh tranh để thu hút khách hàng bằng cách đua nhau cách giảm giá phí và chất lượng kiểm toán cũng giảm tương ứng với mức phí tương ứng. Một số giá phí đã cắt giảm thường là giá phí một số thủ tục và quy trình soát xét chất lượng kiểm toán nên chất lượng cung cấp dịch vụ giảm hoặc còn những sai sót. Vì năng lực còn yếu nên doanh thu thấp, thị phần tăng khá chật vật. Năm 2005 tổng doanh thu của 78 công ty Việt Nam là 351 tỷ đồng, trong khi đó tổng doanh thu của bốn công ty nước ngoài là trên 310 tỷ đồng. Khách hàng chiến lược và lâu dài của công ty kiểm toán Việt Nam không nhiều, chỉ trừ các công ty có thương hiệu của các hãng kiểm toán quốc tế như: AASC, AFC, A&C...Mặt khác hiện tại có tới 60% khách hàng của các công ty kiểm toán trong nước là theo luật định, thị phần khách tự nguyện tuy tăng lên nhưng chưa đáng kể, doanh thu nhỏ.
Một đặc thù của kiểm toán Việt Nam là môi trường kinh doanh còn phụ thuộc quá nhiều vào những mối quan hệ nên kiểm toán viên vẫn chưa thể độc lập. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn quan điểm trốn thuế. Kiểm toán viên hay kế toán trong doanh nghiệp vẫn biết mình làm sai nhưng nhiều khi không thể một mình chống lại chủ. Trong quá trình làm việc vẫn còn tình trạng nể nang vì bạn học, vì đồng hương, vì người quen giới thiệu... Thậm chí đã có trường hợp kiểm toán viên làm hộ báo cáo tài chính của doanh nghiệp rồi sau đó kiểm toán chính báo cáo đó, cho nhau mượn thẻ hành nghề. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên xét thấy có những thông tin sai phạm về thương mại, về hoàn thuế giá trị gia tăng nhưng không thông báo với nhà nước. Hơn nữa có không ít kiểm toán viên đã không phê ”loại trừ” với những khoản mục có nghi vấn trong báo cáo tài chính. Bên cạnh những nhân tố chủ quan trên còn không ít nhân tố khách quan làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên. Các công ty mới chỉ chú trọng đến kiểm toán báo cáo tài chính chiểm 60% trên tổng doanh thu, còn tư vấn thuế tài chính chiếm 20%, tư vấn quản lý 14%, nên thu nhập của kiểm toán viên của các dịch vụ này không đáng kể, trong khi đó năng lực kiểm toán báo cáo tài chính còn yếu. Do đó hạn chế tính độc lập của kiểm toán viên ở nước ta.
2.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên
2.2.1 Nhận xét về đào tạo kiểm toán viên.
Việc nâng cao cả về số lượng, cũng như chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với nền kinh tế đang là vấn đề trăn trở để tìm ra lời giải Trong năm 2006 và từ đầu năm đến nay nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, hoạt động trên thị trường tài chính chứng khoán trở nên sôi động, yêu cầu hội nhập mở cửa nền kinh tế cao hơn đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên hướng đến mục tiêu quốc tế hoá đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam. Vì lý do này nên việc cải cách nội dung chương trình thi và tổ chức thi kiểm toán viên là hết sức cần thiết. Mặt khác việc tổ chức ôn, thi, cấp chứng chỉ kiểm toán viênViệt Nam còn nhiều hạn chế, đối tượng được mời tham dự còn ít, thời gian hướng dẫn ôn thi còn quá ngắn( chỉ trong vài tuần), vì thế nó mới chỉ phục vụ cho việc thi chứ chưa nhằm mục đích trang bị kiến thức và nâng cao nghề nghiệp sau này. Cần có hai sự đổi mới cơ bản là nội dung thi và môn thi. Từ trước đến nay kì thi có 8 môn nhưng nội dung thi chủ yếu vẫn như chương trình đại học. Quá trình ôn thi chủ yếu vẫn là kiến thức lý thuyết, hầu như kinh nghiệm thực tế. Nội dung thi mới các môn học không nên tương đương với các trường đại học nữa, mà phải được lồng ghép cả kiến thức quản trị doanh nghiệp, kiến thức phân tích đánh giá, tư vấn...Số lượng và nội dung môn thi có thể được cơ cấu thành 3 bậc: đại cương, trung cấp, cao cấp, đối tượng thi nên được mở rộng cho tất cả những người tốt nghiệp đại học có 2 năm kinh nghiệm.
Cần có những chính sách nâng cao trình độ chuyên môn hoá cho kiểm toán viên Nhà nước, đào tạo kiểm toán viên Nhà nước đạt chứng chỉ quốc tế ACCA như theo kế hoạch đề ra năm 2010. Đồng thời phổ biến sự nhận thức về vai trò và trách nhiệm của kiểm toán nội bộ đến các cấp giám đốc, hội đồng quản trị, cơ quan công cộng, kiểm toán viên bên ngoài và các tổ chức nghề nghiệp có liên quan. Hình thành cơ sơ chỉ đạo và đánh giá thành tích hoạt động kiểm toán nội bộ... Bên cạnh đó các công ty cần cải tiến thực hiện kiểm toán nôi bộ,cần có những chính sách đào tạo kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp.
2.2.2 Nhận xét về đào tạo kiểm toán viên liên quan đến tính độc lập.
Kiểm toán là một hoạt động kinh tế. Những lợi ích do kiểm toán mang lại nhiều hơn chi phí phải bỏ ra. Dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán là loại hoạt động kinh doanh, hoạt động sinh lời. Khách hàng kiểm toán có quyền nhận được các dịch vụ tốt nhất với giá mua có tính cạnh tranh. Thách thức lớn nhất đối với các ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và kiểm toán nói riêng trong tiến trình hội nhập là xuất phát điểm và trình độ còn thấp, công nghệ, tổ chức, trình độ chuyên môn và quản lý còn non yếu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Với trình độ phát triển như hiện nay, nếu không tự đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh, các công ty kiểm toán sẽ phải đối đầu với khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi trong tiến trình hội nhập. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới nâng cao chất lượng dịch vụ có hai nội dung đổi mới đó là đổi mới nội dung chương trình trong đào tạo lấy bằng học vị, đổi mới trong đào tạo lấy chứng chỉ.
Đổi mới trong đào tạo lấy bằng học vị hiện nay trong các trường cao đẳng vẫn còn những tồn tại sau:
- Chương trình khung đào tạo kế toán và kiểm toán được đào tạo ban hành chưa được thử nghiệm nhiều trong thực tế. Việc kiểm tra chương trình còn hạn chế.
- Chương trình giảng dạy môn học kế toán và kiểm toán thường là theo các quy định chuẩn mực của nhà nước. Khi bộ ban hành các chuẩn mực mới thì chương trình đào tạo được đổi mới
Do có những hạn chế nhất định về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy nên thực tế cho thấy những sinh viên sau khi tốt nghiệp thì kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng và sự am hiểu các vấn đề thực tế thuộc nghiệp vụ chuyên môn chưa thật tốt, kỹ năng giao tiếp (viết và nói), kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề chưa được chú ý trong quá trình đào tạo; khả năng làm việc độc lập và theo nhóm của sinh viên khi học tập cũng như khi ra trường làm việc còn rất hạn chế.
Trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học và khả năng cập nhật khoa học, công nghệ thông tin còn nhiều bất cập so với yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Trong đào tạo lấy chứng chỉ
Đặc trưng cơ bản ở Việt Nam là do chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung nên hầu hết mọi nguồn cung ứng hoạt động hành chính hay chuyên môn, quản lý hay đào tạo ... trước đây đều do cơ quan Nhà nước đảm trách. Tình trạng đề cao bằng cấp do cơ quan công quyền chính thức phát hành là phổ biến và sẽ còn tồn tại lâu dài. Trong lĩnh vực đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán cũng vậy.
Công tác tổ chức thi lấy chứng chỉ kiểm toán viên vẫn còn mang nặng tính lý thuyết, chưa gắn liền với thực tế thực hiện công việc.
Khó khăn nhất hiện nay trong công tác đào tạo là chưa có một giáo trình chuẩn cho công tác đào tạo kiểm toán viên nâng cao. Mặt khác Việt Nam cũng đang rất cần những chuyên gia giỏi trong công tác đào tạo.
Về tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về kế toán, kiểm toán: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hiệp hội kế toán, kiểm toán, các hãng cá nhân hành nghề với các trường đại học liên quan để cập nhật thực tiễn và hoàn thiện hệ thống lý thuyết kế toán, kiểm toán. Vì vậy các đề tài nghiên cứu khoa học vẫn còn tồn tại tình trạng dàn trải, trùng lặp nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành.
2.2.3 Một số kiến nghị nằm nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên
Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi, phù hợp cho hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, sự hỗ trợ về các nguồn lực chưa được nhiều, Nhà nước nên đành một phần một phần ngân sách hoặc thông qua các chương trình hợp tác quốc tế để hỗ trợ cho hoạt động đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, và coi đó như một hình thức hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp. Việc Nhà nước hỗ trợ ngân sách cho công tác đào tạo kiểm toán viên của Việt Nam cả trong nước và ngoài nước là một trong những biện pháp thiết thực nhằm thực hiện chủ trương công khai, minh bạch về tài chính trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, hội kiểm toán viên hành nghề và các tổ chức nghề nghiệp thì hoật động của hiệp hội mới chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng lực chuyên môn, chưa đưa ra các giải pháp kiểm soát về đạo đức nghề nghiệp đối với những người hành nghề kế toán và kiểm toán. Vì vậy hội phải hết sức năng động và phối kết hợp với các tổ chức nghề nghiệp khu vực và quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp của Chính phủ để phát huy vai trò của mình. Đồng thời hội cũng phải có kế hoạch đào tạo, việc đào tạo cần phải được thực hiện bởi các chuyên gia uy tín và đưa ra các giả pháp kiểm soát về đạo đức nghề nghiệp.
Đối với các công ty kiểm toán lợi ích thiết thực nhất trong công tác đào tạo kiểm toán viên vẫn là cá nhân các kiểm toán viên và các công ty kiểm toán đang quản lý đội ngũ này. Do vậy các công ty kiểm toán phải cố gắng hơn nữa trong công tác đào tạo, phải xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên trở thành các chuyên gia giỏi về nghiệp vụ, có kỹ năng hành nghề và có đạo đức nghề nghiệp. Cần thấy rõ được trách nhiệm nặng nề của công ty nếu để xảy ra rủi ro kiểm toán trong quá trình hoạt động. Từ đó kiểm toán viên tự đặt ra mục tiêu phấn đấu để vượt qua chính mình trong quá trình hành nghề kiểm toán.
Sự đòi hỏi của khách hàng và bên thứ ba góp phần nâng cao chất lượng tính độc lập của kiểm toán viên. Khách hàng cầu hiểu đúng bản chất, dịch vụ của hoạt động kiểm toán. Cần sử dụng các dịch vụ này để góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, phát hiện và ngăn ngừa những sai sót, gian lận, trên cơ sở đó hạn chế những rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi trước hết của khách hàng đối với kiểm toán phải là chất lượng dịch vụ chứ không phải là sự thoả hiệp hoặc giá rẻ. Đối với các bên thứ ba: các chủ nợ, các nhà đầu tư, thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng cần hiểu sâu sắc hơn đến dịch vụ kiểm toán để có thể sử dụng kết quả kiểm toán và đưa ra các quyết định quản lý thích hợp và có hiệu quả.
2.3 Những so sánh quốc tế
Về đào tạo kiểm toán viên, hiệp hội kế toán,kiểm toán viên công chứng có hiệp hội kế toán viên công chứng hoàng gia Anh ACCA. Đây là hiệp hội của kể toán, kiểm toán viên, những người hoạch định tài chính rất có uy tín trên thế giới hiện nay. ACCA tổ chức các kỳ thi để đánh giá trình độ của các thành viên và khi đã vượt qua được các kỳ thi thì sinh viên của ACCA mới được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, ACCA không cung cấp các khoá học về kế toán phục vụ cho các kỳ thi mà chỉ làm việc theo nguyên tắc “hợp tác” với các trường Đại học, Cao đẳng để cấp chứng chỉ ACCA. Học viên có thể học ở bất cứ trường nào họ muốn, miễn là họ đăng ký với ACCA để làm thành viên, được phép tham gia các kỳ thi do ACCA tổ chức và có kết quả ở mức độ ít nhất là qua thì sẽ được cấp bằng, chứng chỉ. Các kỳ thi này được tổ chức 2 lần trong năm.
Là tổ chức ra đề thi và cấp bằng chứng nhận, ACCA không tham gia vào việc giảng dạy để đảm bảo tính khách quan cho tất cả các thí sinh. Tuy nhiên, ACCA hỗ trợ học viên trong việc tìm những trung tâm giảng dạy phù hợp thông qua một chương trình đăng ký chất lượng giảng dạy (gọi tắt là UCRS). Những trung tâm đăng ký trong chương trình này phải đạt được những yêu cầu tối thiểu của ACCA về chất lượng giảng dạy và những hỗ trợ cần có cho học viên.
Về tính độc lập của kiểm toán viên đã có những quy định quy tắc ở các nước. Vấn đề kiểm toán viên cung ứng cho khách hàng của mình những dịch vụ khác đã được khắc phục ở Bỉ và Italia bằng cách nghiêm cấm giao thêm những nhiệm vụ như vậy, có thể làm giảm bớt khả năng mâu thuẫn về quyền lợi nhưng ở Anh và Mỹ những quy định này bị ngăn cản áp dụng. Nhu cầu tái chỉ định hàng năm có thể làm cho kiểm toán viên phụ thuộc vào thiện chí của giám đốc. Các kiểm toán viên ở Bỉ được chỉ định cho một nhiệm kì ba năm, ở Italia cũng vậy, làm giảm bớt nguy cơ ban lãnh đạo can thiệp vào. giới hạn của số lần tái chỉ định cũng làm giảm mức độ kiểm toán viên sẽ bị phụ thuộc vào một công ty khách hàng nào, nhưng ở một số nước khác những quy tắc về tính độc lập của kiểm toán viên tương đối lỏng lẻo. Các kiểm toán viên ở Brazin và Venezuela do các giám đốc chỉ định nên có vẻ như mâu thuẫn về tính độc lập.
Tại Việt Nam thi kiểm soát việc kiểm toán là do bộ tài chính và các hiệp hội kiểm toán viên. Tuy nhiên vẫn chưa thuộc sự quản lý theo đúng nghĩa của hội nghề nghiệp, bởi từ trước tới nay các văn bản pháp lý vẫn do Nhà Nước soạn thảo và ban hành kể cả những quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp hay chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Chúng ta đang chuyển dần từng bước sang cho hiệp hội. Nhưng quá trình này vẫn chậm bởi tư duy cái gì Nhà Nước cũng quản. Tuy vậy lâu nay nhiều nhà phân tích mới chỉ quan tâm đến việc công ty đã được kiểm toán hay chưa? mà ít quan tâm đến việc báo cáo tài chính của công ty được kiểm toán như thế nào? Khi một số khoản mục được coi là trọng yếu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như hàng tồn kho, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang…cần phải được kiểm toán. Vấn đề cạnh tranh thị trường kiểm toán đang là” cuộc cạnh tranh xuống đáy” làm thế nào để thị trường dịch vụ kiểm toán hoạt động được hiệu quả và bền vững, các nhà đầu tư yên tâm khi đọc báo cáo tài chính. Và điều này thể hiện vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán.
Kết luận
Hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán viên nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhất là trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù ra đời chưa lâu và đang trên đà phát triển nhưng kiểm toán Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý tài chính, ngăn ngừa hiện tượng hành vi pháp luật, vi phạm chính sách, chế độ tài chính kế toán, các tiêu cực trong kinh tế xã hội đảm bảo giữ vững kỉ cương phép nước và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
Chính vì vậy không ngừng hoàn thiện để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, và chất lượng kiểm toán viên đặc biệt là nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên để kiểm toán ngày càng phát huy được chức năng của mình.
Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu em đã cố gắng đi sâu và tìm hiểu kiểm toán viên và tính độc lập của kiểm toán viên. Cùng với những kiến đã học được ở nhà trường với một ít hiểu biết thực tế, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, nhận xét kiến nghị nhằm góp một phần nhỏ để hoàn thiện và nâng cao chất lượng kiểm toán và tính độc lập của kiểm toán viên. Do kiến thức han chế và thời gian không nhiều do đó đề án của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô giáo để đề án môn học của em được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kiểm toán tài chính/ GS.TS Nguyễn Quang Quynh/ NXB Tài chính – 2001
3. Kiểm toán/ Alvin A. Arens/ NXB. Thống kê - 2000
4. Kiểm toán nội bộ hiện đại. Victor Z.Brink and Herbert Witt/ NXB. Tài chính - 2000
5. VACO toàn tập / NXB. Tài chính – 1997
6. Phần mềm kế toán AS/2
7. Tạp chí kế toán các năm 2004, 2005, 2006
8. Tạp chí kiểm toán năm 2004, 2005, 2006
9. Kiểm toán lý thuyết và thực hành./John Dunn
10. Trang Web kiemtoan.com.vn.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36029.doc