Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta

Sự tất yếu của kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó. Vì thành phần kinh tế nhà nước là một bộ phận của nền kinh tế nhiều thành phần nên nó tồn tại trên cơ sở khách quan của tồn tại nhiều thành phần kinh tế và do bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối với xã hội chủ nghĩa. Cũng vậy, chúng ta đang xây dựng CNXH mà nền tảng là chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Do vậy, tính tất yếu là phải lấy phát triển thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò chủ đạo. Sau 15 năm đổi mới và phát triển đến nay khu vực DNNN có trên 5.500 doanh nghiệp với khoảng 120.000 tỷ đồng vốn nhà nước và gần 1.7 triệu người làm việc, hàng năm đóng góp 40% GDP trên 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 40% ngân sách Nhà nước.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Mở đầu Mấy nét sơ lược về kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa trước mắt chúng ta còn vô vàn khó khăn thử thách và điều quan trọng nhất là phải làm sao không chệch hướng khỏi xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác đã lựa chọn. Trong bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối (theo lý luận Mac). Như vậy, với Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì thành phần kinh tế nào trong nền kinh tế nhiều thành phần giữ vai trò dẫn dắt, chỉ đạo chèo lái con thuyền Việt Nam quá độ thành công đi lên xã hội chủ nghĩa. Sau một thời gian dài ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế chỉ huy mang nặng tính bảo thủ trì trệ chúng ta đã xác định lại việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, cũng như xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Điều ấy thể hiện kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế trên cơ sở hình thức sở hữu toà dân điều này là cơ sở để hình thành nên Chủ Nghĩa Xã Hội (đó chính là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toà dân). Từ thực tế khách quan ấy, việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, lấy kinh tế nhà nước làm thành phần kinh tế chủ đạo là chính sách nhất quán và lâu dài. Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam được thể hiện ngay ở tính tất yếu là hình thành trên hình thức sở hữu toà dân về tư liệu sản xuất ; ta đi lên Chủ nghĩa xã hội mà không coi trọng sở hữu toà dân thì sẽ dẫn đến chệch hướng khỏi xã hội. Hiện nay kinh tế nhà nước ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40% GDP hàng năm, nắm giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng xã hội chủ nghĩa toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những đòi hỏi tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước không gì khác là làm cho nền tảng sức mạnh kinh tế của xã hội yếu đi, tạo sự thắng thế cho định hướng tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể coi trọng một thành phần kinh tế nhà nước mà bỏ qua vai trò của thành phần kinh tế khác. Điều quan trọng ở đây là sự phát triển đồng đều các thành phần kinh tế mà phải lấy kinh tế nhà nước làm trung tơm, dẫn dắt, chi phối định hướng xã hội chủ nghĩa cho các thành phần kinh tế khác. Có như vậy, chúng ta mới thực sự đưa đất nước quá độ thành công để xây dựng một xã hội thực sự phồn thịnh, dân chủ, mọi người bình đẳng về quyền lợi… Là một sinh viên của trường, một công dân của đất nước, em càng phải cố gắng học tập, nghiên cứu tạo cho mình có tri thức, đạo đức và nhận thức đúng đắn để phục vụ tổ quốc. Với những kiến thức và tài liệu đã có cùng sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Lan Hương, em xin trình bày đề án của mình về đề tài “Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta ”. Vì đây là một đề tài sâu, rộng, quy mô lớn lên bài viết không thể tránh khỏi sai sót, em rất mong thầy cô đóng góp ý kiến cho em và qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn cô Lan Hương đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này. B. Nội dung Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán và lâu dài của Đảng ta. Sự phát triển của xã hội có thể diễn ra theo những con đường khác nhau. điều đó phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể, chính những điều kiện khách quan hiện nay của đất nước đang đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ lựa chọn con đường thích hợp để quá độ từ một xã hội tư bản nên chủ nghĩa xã hội. Rút kinh nghiệm từ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mộ hình cũ ở nước ta và một số nước khác trong nhiều năm qua tại Đại hội Đảng VII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định xây dựng một mô hình xã hội, với nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Việc cho tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với thực tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay muốn quá độ thành công thì phải phát huy tiềm lực của các thành phần kinh tế đồng thời liên kết các thành phần kinh tế tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển đi trước. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi thành phần kinh tế là một hệ thống nhỏ, có cơ chế tự điều chỉnh nhạy bén trước những biến động thị trường, đặc biệt là tiền tệ và giá cả. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Từ 3 loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân Đại hội Đảng IX sẽ khuyến khích mở rộng, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Bởi vì trong thời gian tương đối dài (trước đổi mới chúng ta thường đồng nhất giữa hai loại hình sở hữu với hình thức sở hữu và thành phần kinh tế…từ thực tiễn phát triển kinh tế xã hội mỗi loại hình thức sở hữu lại có hình thức sở hữu mà ở ta nhận thức được có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện ra là sự tăng trưởng kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Loại hình sở hữu toàn dân được thể hiện ở hình thức sở công cộng, sở hữu nhà nước trong đó sở hữu doanh nghiệp là một bộ phận của sở hữu nhà nước. Loại hình sở hữu tập thể cũng được thể hiện ở các hình thức sở hữu hợp tác xã, sở hữu công ty, sở hữu tư bản nhà nước. Loại hình sở hữu tư nhân cũng được thể hiện ở hình thức sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu cá thể… Như vậy sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định trình độ xã hội hoá ngày càng cao, QHSX càng mở rộng thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu càng tăng do vậy “phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu là có cơ sở lý luận thực tiễn”. Xác định thành phần kinh tế. Đảng ta vẫn khẳng định đặc trưng của nước ta là có nhiều thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội Đảng đã đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế ở nước ta nhằm khai thác tối đa có hiệu quả nguồn lực bên ngoài thì việc phân định các thành phần kinh tế để có chính sách khuyến khích phát triển phù hợp là vấn đề vừa cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược. Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo. Các thành phần kinh tế tà những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo có vai trò định hướng XHCN cho nền kinh tế (trong đổi mới). Ngay từ Đại hội VIII Đảng ta đã mở rộng phạm vi của kinh tế nhà nước đến nay khu vực kinh tế nhà nước đã thể hiện được vai trò chủ đạo của nó khi chiếm trên 40% GDP; kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học, nêu gương sáng về năng suất, chất lượng, hiệu quả. . I- Một số vấn đề lý luận về kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Khái quát chung về thành phần kinh tế Nhà nước. 1. Khái niệm. Có thể nói thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam được xuất hiện ngay từ khi chúng ta giành được chính quyền và bắt tay vào xây dựng nền chính trị XHCN và KTNN là thành phần kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị XHCN ấy (một nền kinh tế có thành phần kinh tế chủ đạo hình thành trên chế độ công hữu). Như vậy có thể khái niệm được thành phần KTNN là thành phần kính tế dựa trên sở hữu toàn dơn (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phơn phối theo lao động. a. Xét về hình thức tổ chức thì KTNN bao gồm. - Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và các DNNN hoạt động công ích. - Các doanh nghiệp có cổ phần nhà nước chi phối. - Các doanh nghiệp có vốn đóng góp của nhà nước - Các tổ chức sự nghiệp kinh tế của nhà nước. b. Xét về lĩnh vực hoạt động thì khu vực kinh tế nhà nước bao gồm các hoạt động của nhà nước trong việc: - Khai thác, quản lý các nguồn tài nguyên . - Đầu tư quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá, khu công nghiệp tập trung, công trình phúc lợi…). - Các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng… 2. Cơ sở hình thành kinh tế nhà nước . Thành phần kinh tế nhà nước mà bộ phận quan trọng nhất của nó là DNNN được hình thành trên cơ sở. Nhà nước trực tiếp đầu tư và xây dựng. Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra với bản chất XHCN của mình nhà nước ta đã xác định: Đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng…do nhà nước nắm giữ và quản lý với mục đích chi phối và điều tiết định hướng sự phát triển kinh tế xã hội. 3. Đặc điểm. Thành phần kinh tế nhà nước có mấy đặc điểm sau: Đặc điểm cơ bản nhất là nó thuộc sở hữu nhà nước nói thuộc quyền sở hữu nhưng thực tế sở hữu của nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng nhà nước giao quyền sử dụng về đất đai cho doanh nghiệp như: hợp tác xã nông nghiệp…nhà nước đại diện cho toàn dân về sở hữu. Đặc điểm thứ hai: Là các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc họach toán kinh tế, xoá bỏ dần sự bao cấp của nhà nước. Đặc điểm thứ ba: Trong thành phần kinh tế KTNN thực hiện phân phối theo lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là đặc điểm rất quan trọng của các doanh nghiệp thuộc thành phần KTNN là hình thức phân phối căn bản và là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp với các thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. 4. Tính tất yếu tồn tại và phát triển kinh tế nhà nước. 4.1. Tính tất yếu Trước hết thành phần kinh tế nhà nước là một bộ phận của nền kinh tế nhiều thành phần nên nó tồn tại trên cơ sở khách quan, tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Với xã hội chủ nghĩa cũng vậy chúng ta đang xây dựng CNXH mà nền tảng là chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Do vậy tính tất yếu là phải lấy phát triển thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo của nền kinh tế quốc dân (do kinh tế nhà nước lấy hình thức sở hữu toàn dân). 4.2. Quan điểm của Đảng về việc xác định thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tại Đại hội lần thứ VIII Đảng ta lần đầu tiên đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đây. Như vậy, tức là Đảng đã có một tầm nhìn mới sâu và rộng hơn về kinh tế nhà nước, chứng tỏ rằng Đảng đã nâng quan điểm nên một tầm cao mới về kinh tế nhà nước. So với trước là gồm toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên thiên nhiên của đất nước, những cơ sở hạ tầngkinh tế- xã hội đã được tạo ra các loại quỹ quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh …đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn nhất là khi hiểu rõ vai trò kinh tế chủ đạo của nhà nước nó rộng hơn hẳn so với trước. Thực tiễn 5 năm thực hiện đường lối do Đại hội VIII vạch ra đã giải quyết cơ bản vấn đề nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước. Kết luận: Qua thực tế minh chứng vài trò quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước. Đảng ta thực sự đã phát huy sự lãnh đạo của mình tạo điều kiện cho nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thực sự đúng hướng xã hội chủ nghĩa. 5. Kinh tế nhà nước và các bộ phận của nó 5.1. Doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn nhà nước chiếm một tỷ trọng nhất định chi phối. Doanh nghiệp nhà nước là nhân tố giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho KTNN giữ dược vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu. 5.2. Tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần kinh tế nhà nước. Khi nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quyền sở hữu mang lại như đất đai, tài nguyên thiên nhiên…đối với tài sản sở hữu toàn dơn như đất đai thì nhà nước chỉ là người đại diện, còn quyền sử dụng thuộc về hộ gia đình, hợp tác xã sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đã làm đa dạng hoá thị trường cho phép mọi người có quyền mua bán chuyển nhượng đất…nhà nước chỉ thu thuế, lệ phí từ việc trao quyền sử dụng cho các thành phần kinh tế. 5.3. Doanh nghiệp nhà nước góp vốn (những nắm số cổ phiếu không chế). Với loại hình doanh nghiệp này nhà nước là chủ sở hữu nhưng chưa hẳn việc kinh doanh sản xuất là do thành phần KTNN, mà có thể do nhiều thành phần kinh tế khác trực tiếp sản xuất kinh doanh. Nhưng quyền quyết định vẫn thuộc về nhà nước, quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. 6. Kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. 6.1. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước . Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện ở sự đóng góp vào GDP của nó trên 40% GDP hàng năm, chiếm 3/4 tài sản quốc gia là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước làm nhiệm vụ định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và giải quyết các vấn đề xã hội; nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng an ninh, làm trọng điểm đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế cao trên thị trường trong và ngoài nước trên cơ sở phát huy lại thế so sánh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam; nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong sản xuất kinh doanh. Phát huy lợi thế đặc thù như cơ chế vốn ưu đãi chính phủ...như vậy thành phần kinh tế nhà nước chối các thành phần kinh tế khác làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (tức là dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo đính hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội; làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Do đó việc xác định vai trò chủ đạo của KTNN là thực sự cần thiết cho phát triển kinh tế quốc dân bền vững, đúng theo chủ chương đường lối. 6.2. Quan hệ giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác . Trong nền kinh tế thì không được phát triển mất cân đối thành phần kinh tế nào đặc biệt chúng ta xác định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước nhưng không thể quá coi trọng vào phát triển nó mà bỏ qua các thành phần kinh tế khác bởi vì: Mỗi thành phần kinh tế là một hệ thống có phương án kinh doanh riêng rất khác nhau về nội dung, chỉ tiêu và các bước đi để thích ứng một cách nhanh nhạy, chính xác với mọi biến đổi về nhu cầu của xã hội. Do vậy mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí và vai trò riêng trong quá trình phát triển kinh tế nhưng mặt khác sức mạnh cá biệt của từng thành phần chỉ có thể phát huy được trong những điều kiện cụ thể trong những lĩnh vực nhất định nghĩa là nếu chúng tồn tại biệt lập thì mỗi thành phần kinh tế không có khả năng khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và tài lực ở từng ngành và từng vùng nhất định. Nhu cầu khai thác triệt để mọi triềm năng của đất nước, gắn liền phát triển sản xuất với phát triển xã hội, gắn giải quyết việc làm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân… Quy định sự hiệp tác giữa các thành phần kinh tế ở đâu và khi nào còn tồn tại nhu cầu này thì quan hệ giữa các thành phần kinh tế còn tồn tại. Toàn bộ những quan hệ này hợp thành cấu trúc của hệ thống kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế một mặt vừa kết hợp cho nhau, vừa bổ sung cho nhau và do đó gắn với yếu tố truyền thống đã được chọn lọc trong quá trình phát triển xã hội với yếu tố hiện đại, gắn các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất tạo thành lực lượng sản xuất như chúng ta nhận thức được mối quan hệ này thì mới tạo được sự phát triển cân bằng, ổn định và vững chắc được. 6.3. Việc phát huy tính liên kết và tính chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thời kỳ hội nhập. a. Sự cần thiết. Thời kỳ hội nhập và mở cửa nền kinh tế là tất yếu đối với chúng ta vì chỉ có hội nhập và mở cửa thì chúng ta mới giao lưu kinh tế, phát triển các mối quan hệ hàng hoá đi các nước khác tạo môi trường cạnh tranh mới thúc đẩy sự phát triển việc trao đổi hàng hoá không thể bó hẹp mà phải mở rộng ra các nước khác . Như vậy trong quá trình hội nhập thì chúng ta lại càng phải cần thiết liên kết các thành phần kinh tế bởi vì các thành phần kinh tế khác nhau sẽ độc lập nhau trong quan hệ giao lưu và điều này rất dễ dẫn đến sự thay đổi trong định hướng xã hội chủ nghĩa và dần dần sẽ dẫn đến sự thay đổi của nền kinh tế tổng thể… b. Nội dung. Phát huy vai trò điều tiết định hướng của kinh tế nhà nước, phải quan sát các hoạt động giao lưu phát triển kiểm tra xác nhận cho tồn tại các quan hệ kinh tế phát triển không gây ảnh hưởng đến tính xã hội chủ nghĩa bằng những cơ chế chính sách thích hợp và vai trò chủ đạo của mình. KTNN phải đi tiên phong trong quá trình hội nhập kinh tế nên phải phát triển thật vững chắc thành phần kinh tế nhà nước; đặc biệt là DNNN… II. Thực trạng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 1. Quá trình đổi mới kinh tế nhà nước trong thời gian qua . 1.1. Bức tranh doanh nghiệp nhà nước (năm 1996). Tình hình phát triển chung của các ngành . - Sản lượng mía ước khoảng 7,6 triệu tấn. Mặc dù các nhà máy đã tận dụng hết công suất ép mía, nhưng vẫn không tiêu thụ hết. Giá mía có lúc xuống rất thấp gây khó khăn cho người sản xuất. - Gây ứ đọng khối lượng lớn. + Tổng công ty giấy Việt Nam tồn kho 10.000 tấn giấy + Công ty giấy Bãi Bằng tồn kho 7.500 tấn, tồn đọng 60.000 m3 gỗ nguyên liệu dùng sản xuất giấy. Các nhà máy giấy đã phải giảm giá, hai nhà máy giấy phía Nam phải tạm đình chỉ sản xuất. - Sản xuất phân bón gặp khó khăn, theo số liệu của Tổng công ty phân bón và hóa chất Việt Nam. + Nhà máy phân đạm Hà Bắc tồn đọng 20.000 tấn + Nhà máy phân đạm Ninh Bình tồn đọng 18.000 tấn + Nhà máy phân Lâm Thao tồn đọng 29.000 tấn + Nhà máy phân Long Thành tồn đọng 12.000 tấn. - Thép và xi măng cũng là 2 mặt hàng bị tồn đọng khối lượng lớn. - Một số sản phẩm khác như cao su, cà phê, gạo do thị trường thế giới giảm giá nên tiêu thụ chậm., ảnh hưởng đến sản xuất . - Mặc dù năm 1996, có nhiều yếu tố bất lợi ; khu vực DNNN nói riêng vẫn có bước phát triển nhất định. Nhiều ngành có tốc độ tăng trưởng 14% như điện, bia, vải, thép cán và tốc độ tăng của toàn ngành CN có thể đạt 14% như mục tiêu đặt ra. 1.2. Những sự đổi mới trong doanh nghiệp nhà nước a. Về cổ phần hóa Kết thúc năm 1996 cả nước có thể có 5 DNNN chuyển sang công ty cổ phần là XN đóng mới tầu thuyền Bình Định , công ty ong mật TPHCM; XN khai thác đá Đồng Giao và liên hiệp sản xuất đồ mộc HN. Tuy nhiên con số 10 công ty cổ phần vẫn là con số khiêm tốn. Từ (1999-2001). Số lượng DNNN đã giảm đi rất mạnh từ 12300 trước đơy còn 3571 doanh nghiệp. b. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính. Chúng ta đã chuyển từ cơ chế quản lý tài chính theo biểu quan hiện bao cấp sang cơ chế tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, chấm dứt tình trạng can thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN của các bộ quản lý, ngành và các bộ chức năng. Sửa đổi quy chế tài chính và hạch toán với DNNN, ban hành theo Nghị định 50/CP. Thiết lập một số loại hình công ty mới. 1.3. Đổi mới trong các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Về cơ bản tài sản thuộc sở hữu nhà nước thì chúng ta không có sự thay đổi gì đáng chú trọng chỉ có sự thay đổi một số chính sách, cơ chế quản lý chưa thích hợp đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước. 2. Thành tựu của kinh tế nhà nước. 2.1. Thành tựu đạt được. Thời kỳ 1991-1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quơn theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc doanh. từ năm 1990 đến nay do ảnh hưởng của khoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. tỷ lệ nộp vốn ngơn sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,2%. Ngân sách nhà nước, từ năm 1995 đến nay hàng năm DNNN đóng góp từ 26-28% nguồn thu thuế nội địa. Các công ty quy mô lớn chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng năm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động , trình độ công nghệ quản lý có tiến bộ . 2.2. Những tồn tại và nguyên nhơn của tồn tại kinh tế . Bên canh những thành tích đã đạt được của kinh tế nhà nước thì vẫn còn những hạn chế nhất định có thể. Sự mỏng manh chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo của KTNN thể hiện ở sự quy hoạch, đầu tư, đào tạo bố trí và sử dụng cán bộ hiện ở sự quản lý, ở đào tạo và tuyển dụng lao động, ở sự ỷ lại trông chờ vào sự ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu tính quyết đoán trong các quyết định quản lý do có nhiều tầng từ trên can thiệp… Đảng là những lực cản gơy ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của KTNN. - Tình trạng vô chủ vẫn còn tồn tại mặc dù ta đã phơn biệt rõ ràng các quyền năng sử dụng, sở hữu, định đoạt và hưởng lợi. - Sử dụng lãng phí công sản nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chớp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại. - Sự kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thực sự có hiệu quả. 3. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước. 3.1. Quy mô tổ chức. Chỉ tính 10 năm (1990-2000) chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm 1990-1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. lần thứ 2 từ năm 1994-1997, chúng ta dã thành lập 18 tổng công ty (91) và 77 tổng công ty (90) lần thứ 3 chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN. - Năm 2000 so với 1990 quy mô của các DNNN đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 70,1%. Tuy vậy, cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phơn bố rất phơn tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. 3.2. Kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật và công nghệ là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế. Đối với kinh tế nhà nước hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta nhìn chung còn lạc hậu, thấp kém. So với các nước trong khu vực chúng ta còn kém xa. Cùng với quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ kinh tế nhà nước ậ nước ta còn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể, lâu dài bao gồm nghiên cứu, ứng dụng…và thử nghiệm …hiện nay đã có nhiều ngành thuộc kinh tế nhà nước có những loại sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong nước và quốc tế như: dệt may, chế biến thuỷ sản, hải sản. kinh tế nhà nước đang hướng vào những ngành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như : tin học, sinh học, vật hiện mới, tự động hoá. Những tồn tại trong chuyển giao công nghệ chủ yếu là nhập khẩu phải những công nghệ quá cũ kỹ, lạc hậu kém chất lượng của nước ngoài nên trở thành “bãi thải” công nghiệp của các nước phát triển. 3.3. Tổ chức quản lý. Như chúng ta có thể nói đã có cuộc cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phơn xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc doanh sang vai trò một pháp nhơn có quyền tổ chức và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên, cơ chế quản lý mới còn vướng ở một số điểm như cơ chế thực khi sở hữu nhà nước vẫn chưa tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia như duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra quyền tự chủ quá rộng rãi của doanh nghiệp do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa phải lo lắng. Mặt khác cơ quan nhà nước vẫn muốn can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế vừa qua những vụ án doanh nghiệp nhà nước trên nước ta là minh chứng trong khi những dự án hoàn toàn không mang tính khả thi thế mà vẫn được Bộ chủ quản duyệt, sự thất thoát tài sản nhà nước ở doanh nghiệp nhà nước không một cơ quan nào gánh chịu còn thành tích thì ai cũng nhận là công của mình, đây là một tồn tại đang xẩy ra ở nước chúng ta, việc tổ chức quản lý không chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng biến công quỹ nhà nước thành của riêng như lương thưởng cho cán bộ, nhơn viên…như vậy, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nước ta còn thấp, kém hiệu quả cần phải có sự cải cách thật sự thoả đáng, hợp lý thì mới làm ăn có hiệu quả được… *. Hiệu quả. Sự phát triển của nền kinh tế hay không thì được đánh giá ở hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh có tạo ra lợi nhuận thực sự hay không DNNN cũng vậy phải hoạt động có hiệu quả thì mới thúc đẩy kinh tế nhà nước phát triển. Thực trạng về hiệu quả của các DNNN ở nước ta : - Theo đánh giá chung thì hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh trạnh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được…mức độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn. DNNN vẫn còn ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước mới chỉ có 40% DNNN sản xuất thực sự có hiệu quả, 40% chưa hiệu quả, khi lỗ, khi lãi, không ổn định, còn lại 20% thực sự không có hiệu quả thua lỗ liên tục. Thuế thu nhập của doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp nộp ngơn sách nhà nước (chiếm 14,2% năm 1999); tỷ suất lợi nhuận trước thuế có xu hướng giảm dần từ 11,2% (năm 1996 ) xuống còn 9,3% (1991), 9,1% (1998) và 9,2% (1999). Không ít DNNN chưa xây dựng xây và thực hiện có kế hoạch sản xuất kinh doanh, kinh doanh gắn với mục tiêu chung của toàn ngành chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhiều dự án đầu tư không khả thi hiệu quả thấp, lãng phí, phát sinh việc tiêu cực, tham nhũng, mòn vốn, mất vốn tiếp tục xẩy ra. Nợ quá hạn, nợ khó đòi chẳng những không giảm mà ngày càng tăng. Tình trạng tài chính không lành mạnh không được sử lý dứt khoát làm cho không hoạch toán được chính xác, hiệu quả hoạt động không đáng với đầu tư , trợ giúp của nhà nước. 3.4. Cơ hội và thách thức. Hội nhập đang là xu hướng tất yếu như thế thì thời gian này DNNN thực sự đứng trước những cơ hội phát triển và đồng thời là những thách thức thực sự cực kỳ lớn. Sức ép cạnh tranh từ doanh nghiệp nước ngoài và thành phần kinh tế khác là rất mạnh và gay gắt nhất là khi chúng ta gia nhập AFFTA ASEAN và sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực. Đơy là cơ hội làn gió mới sẽ mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển DNNN, muốn phát triển thì phải cạnh tranh thành công vượt qua sự đào thải của thị trường cơ hội cho DNNN tự khẳng định mình trên thương trường và sẽ đào thải những DNNN làm ăn không có hiệu quả. Thách thức lớn đối với chúng ta là phải cạnh tranh với những đối thủ lớn thực sự, họ có trình độ khoa học công nghệ cao hơn ta… Điều quan trọng là phải biết phát huy lợi thế của ta như nhơn công, nguyên nhiên liệu rẻ và kết hợp với đào tạo tiếp thu những kinh nghiệm của các nước; giá cả và chất lượng là hai yếu tố quan trọng nhất của hàng hoá, hiện nay chúng ta có những mặt hàng về giá cả và chất lượng đều hơn hàng ngoại như vậy cần phẩi phát huy những mặt hàng này nhưng cũng tìm cách cải cách những mặt hàng còn kém hàng ngoại nhập… III. Định hướng và các giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thời gian tới. 1. Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước. a. Định hướng xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi phải có sự quản lý cuả nhà nước đối với các hoạt động kinh tế hàng nhập khẩu: kinh tế nhà nước,với lực lượng kinh tế luôn được nhà nước chú trọng về khơu đào tạo cán bộ có ý thức về pháp luật, do đó trong giai đoạn tới đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần kinh tế gương mẫu để các thành phần kinh tế khác noi theo, với tư cáchlà lực lượng đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới .định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ậ : xơy dựng cơ chế chính sách hợp lý bảo đảm sự hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước là vì mục tiêu quốc gia, vì sự nghiệp CNXH , đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý vững lý lụơn chính trị, giỏi chuyên môn, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cống hiến hết mình cho sự nghiệp xơy dựng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập phải tăng cường kíêm nhơn tài, nơng cao hiệu lực quản lý. Loại bỏ trừng trị những sự chống phá xá hội chủ nghĩa dập tắt ơm mưu thù dịch tư bản hóa xã hội… b. Đội ngũ cán bộ. Là những người quản lý, điều hành được nhà nước giao trách nhiệm trước tiên phải là những người yêu nước, yêu Đảng, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà điều này đòi hỏi phải được rèn luyện, học hỏi, tiếp thu… phải thường xuyên phê bình kiểm điểm lại những gì làm và chưa làm được thông qua các kỳ họp, đại hội. Cán bộ phải là người gương mẫu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong sạch về lối sống, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo trong công tác bám sát hơn. Định hướng: Có cơ chế chính sách phát hiện đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ các cấp, trọng dụng những người có đức có tài, xoá bỏ tình trạng kéo bè, kéo cánh phơn chia đảng phái gơy mơu thuẫn nội bộ thực hiện đúng nguên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác quản lý cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức chính trị về công tác cán bộ. Xây dựng chỉnh đống hệ thống các học viện trường và trung tâm chính trị nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo bồi dưỡng cán bộ. c. Xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn biến đổi việc xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu là rất quan trọng nó phân định rõ ràng vai trò chủ đạo của sở hữu, xoá bỏ nhầm lẫn cho rằng phải xoá bỏ mọi hình thức không phải là sở hữu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thực hiện quyền sở hữu đó là sở hữu đó là bằng pháp luật của nhà nước,vận dụng vào cho doanh nghiệp, tổ chức thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình thực tại ở ta quan niệm sở hữu còn mơ hồ nhiều khi không xác định được nó thuộc hình thức sở hữu nào dẫn đến khi vận dụng vào thực tế làm nảy sinh hàng loạt vấn đề rất khó giải quyết đặc biệt với những loịa tài sản thuộc sở hữu nhà nước… Vấn đề định hướng ở đây là phải xây dựng một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn chỉnh quy định rõ quyền sở hữu cho các thành phần kinh tế dặc biệt với thành phần kinh tế nhà nước (vì sở hữu là cội nguồn của chế độ xã hội chủ nghĩa). Làm rõ hơn các quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi khắc phục tình trạng vô chủ hoặc biến tài sản do nhà nước sở hữu thành tài sản của bộ phận quản lý ở doanh nghiệp, song không lại không làm mất đi tính tự chủ của doanh nghiệp, không cản trở tính năng động của đội ngũ cán bộ quản lý ở doanh nghiệp, phân định rõ chức năng quản lý kinh tế với chức năng quản lý tài sản của nhà nước với quản lý kinh doanh của doanh doanh nghiệp. 2. Với doanh nghiệp nhà nước. 2.1. Định hướng đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. *. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hóa chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc lá điếu. Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn tăng dần, sản xuất điện khai thác khoáng sản quý hiếm quan trọng sản xuất một số sản phẩm cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược thuốc chữa bệnh vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu cho việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc miền múi xa xôi hẻo lánh. 2.2. Cải cách doanh nghiệp nhà nước. Những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước DNNN) gặp nhiều khó khăn, qua 6 tháng đầu năm 1999, tình hình đó càng rõ rệt và đáng lo ngại. Để các DNNN thực sự phát huy vai trò trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước, việc nghiên cứu các chính sách, giải pháp phù hợp trong cải cách DNNN, góp phần phát huy sức mạnh nội lực của nền kinh tế là hết sức cần thiết và cấp bách. Bài viết dưới đây phân tích một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi và một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở Việt Nam, tạo đà phát triển mới. * Một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi Từ đầu thập kỷ 90 đã diễn ra một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở một số nước Đông Âu, Liên Xô (nay là các SNG và CHLB Nga) và một số nước châu á. Do điều kiện cụ thể và mức độ tập trung hóa của nền kinh tế mà mỗi nước có hình thức và bước đi khác nhau trong quá trình chuyển đổi, nhưng nhìn chung trong giai đoạn đầu, các nước này đã thực thi một trong hai chiến lược, được khái quát hóa lại thành 2 mô hình sau: mô hình liệu pháp sốc và mô hình chuyển đổi dần dần. Ngoài 2 mô hình trên, còn một hình thức chuyển đổi đặc biệt hơn ở Đông Đức (CHDC Đức cũ). Dựa trên các sức mạnh về tài chính, thị trường, đội ngũ quản lý và hệ thống pháp luật sẵn có của Cộng hòa liên bang Đức, quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Đông Đức được tiến hành theo hình thức liệu pháp sốc, nhưng dựa trên tổng cung, tổng cầu và mức tăng trưởng kinh tế trên toàn Liên bang để điều chỉnh mục tiêu cải cách. Mặc dù quá trình chuyển đổi này có hiệu quả, nhưng do tính đặc thù của nó mà mô hình này cho đến nay vẫn ít được chú ý đến. Các nước Đông Âu , SNG và CHLB Nga đều chuyển đổi theo mô hình liệu pháp sốc, còn một số nước châu á thì thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo chiến lược dần dần, từng bước vững chắc. Dù lựa chọn theo chiến lược nào, các nước có nền kinh tế chuyển đổi vẫn phải giải quyết những nhiệm vụ chung đặt ra cho quá trình này. Một trong những nhiệm vụ đó là cải cách các DNNN đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Nội dung đặt ra cho cải cách DNNN là hoạt động có hiệu qủa trong cơ chế thị trường, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Với nội dung này cải cách DNNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu, các nước tiến hành theo mô hình liệu pháp sốc đều nhanh chóng tư nhân hóa mạnh mẽ các DNNN. Họ cho rằng việc tư nhân hóa trên toàn xã hội. Các doanh nghiệp sau khi tư nhân hóa sẽ nhận được tài trợ mạnh mẽ của các nước phương Tây cho quá trình này. Kết quả thực tế ậ một số nước chuyển đổi theo mô hình này lại trái ngược với sự mong đợi của các nhà cải cách cũng như hy vọng của chính nhân dân các nước này. Có thể rút ra một số đánh giá chủ yếu như sau: do tư nhân hóa quá nhanh các DNNN đã dẫn đến hậu quả không lường trước là sản xuất công nghiệp nhanh chóng bị đình đốn, giảm sút và rối loạn; các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ nhân dân trở nên khan hiếm: lạm phát, thất nghiệp tăng lên, đời sống đa số người lao động trở nên hết sức khó khăn; do không ổn định cả về chính trị, kinh tế, xã hội, đầu tư trên toàn xã hội không tăng mà lại giảm. Hy vọng vào sự xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả để bù đắp sự thiếu hụt này đã không thể diễn ra trong phút chốc mà đòi hỏi thời gian và quá trình tích lũy kinh nghiệm kinh tế thị trường lâu dài hân, viện trợ và giúp đỡ của phương Tây lại không nhằm khôi phục sản xuất, phục hồi nền công nghiệp và không đáp ứng được như mong đợi, việc nhập khẩu phần lớn hàng tiêu dùng từ các nước viện trợ lại góp phần gây thêm khó khăn cho những xí nghiệp, nhà máy nào còn duy trì được hoạt động: Nợ nước ngoài tăng lên (do phải tìm cách vay vốn để cải thiện tình hình trong nước). Một số chính sách cải cách, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ cũng mắc phải sai lầm, từ đó tạo thêm khó khăn và góp phần làm cho công cuộc cải cách DNNN ở đây bị thất bại. Nhiều nước theo mô hình liệu pháp sốc đã phải liên tục hoàn, kéo đài thời gian thực hiện các bước cải cách tiếp theo ; có nước phải điều chỉnh cả chiến lược chuyển đổi. Ngược lại với tình hình này, quá trình chuyển đổi nền kinh tế nói chung và công cuộc cải cách DNNN ở một số nước châu á thu được những thành tựu quan trọng góp phần làm nên sự thành công của của chuyển đổi nền kinh tế ở khu vực. Một trong những nguyên nhân góp phần làm nên sự thành công của chuyển đổi nền kinh tế ở khu vực. Một trong những nguyên nhân chính là họ đã tiến hành cải cách các DNNN một cách từ từ với các bước đi và hình thức thích hợp kết hợp đồng bộ với các chính sách cải cách khác. Trước hết là tiến hành tự do hóa các hoạt động sản xuất của các xí nghiệp, tự do hóa về tài chính, về nhân sự cuối cùng các doanh nghiệp này trở thành các đơn vị tự chủ hoàn toàn trong kinh doanh và chịu trách hoàn toàn trong kinh doanh về hiệu quả hoạt động. Sự can thiệp và hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp được giảm dần đủ để các doanh nghiệp này có thời gian và điều kiện về vốn, kinh nghiệm, thị trường để đứng vững. @ Những chính sách cơ bản nhằm nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Để phát huy được vai trò của DNNN, cần phải có những chính sách với những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đặc biệt là đổi mới về tổ chức quản lý, những chính sách vĩ mô, đổi mới về câ cấu ngành và câ cấu sở hữu. Trước hết cần nhấn mạnh những quan điểm trong việc tiếp tục đổi mới các DNNN, từ những quan điểm này các chính sách và giải pháp đề ra mới có tính nhất quán và hệ thống. Một là, tiếp tục củng cố và tăng cưâng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó các DNNN là nòng cốt. Xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh làm xưâng sống cho nền kinh tế quốc dân hoàn thiện mô hình tổ chức và vận hành các tổng công ty. Hai là. tiếp tục việc phân loại và sắp xếp các DNNN với tư tưởng chỉ đạo là nắm giữ các DNNN quan trọng và hoạt động có hiệu quả. ưu tiên giải pháp cổ phần hóa mạnh dạn áp dụng những biện pháp chuyển đổi sở hữu. Ba là, trong quá trình cải cách các DNNN, cần đặt các doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh ,tồn đọng những quy luật vận động của thì trường. a. Đổi mới những chính sách vi mô hỗ trợ sự phát triển của DNNN. Một trong những điều kiện phát triển của DNNN là phải có những chính sách vĩ mô hợp lý, các DNNN không thể phát huy được vai trò của nó nếu không có một môi trường kinh doanh hợp lý, công bằng và thuận lợi. Môi trường kinh doanh, công bằng và thuận lợi. Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động đến doanh nghiệp trong đó những chính sách vĩ mô của nhà nước là những tác động quan trọng và mạnh mẽ nhất. Chính sách tài chính tiền tệ: Tiếp tục đổi mới những chính sách tài chính tiền tề nhằm thu hút vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Tích cực hình thành thị trường chứng khoán để tạo điều kiện cho thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động, đồng thời có những câ chế, chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp bảo đảm cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn. Mở rộng quyền quyết định của doanh nghiệp trong các vấn đề sản xuất kinh doanh, như đầu tư mua sắm thanh lý tài sản, các khoản chi phí… Chính sách thưâng mại: trong xu thế phát triển hiện nay, sự phát triển của các nền kinh tế thường có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau ngày càng nhiều hân, do đó việc sử dụng hàng rào quan thuế để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng nhiều hơn, do đó việc sử dụng hàng rào quan thuế để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng thu hẹp lại. đối với điều kiện sản xuất của Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém thì việc mở cửa hòa nhập với các nước sẽ tạo một áp lực rất lớn cho các DNNN, vì thế chính sách thương mại của nhà nước cần theo hướng duy trì bảo hộ có thời hạn những mặt hàng sản xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu, tạo tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Chính sách thuế: các chính sách thuế cần thực hiện theo hướng coi trọng mục tiêu khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách. Chính sách giải quyết lao động trong các DNNN: nhà nước cần có những chính sách giải quyết các lao động dư thừa trong khu vực DNNN, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong vấn đề giải quyết lao động dư thừa, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và bảo đảm ổn định chính trị xã hội. b. Các chính sách đổi mới cơ chế quản lý DNNN. Tạo điều kiện cho các DNNN có thể cạnh tranh một cách bình đẳng và công bằng trên thị trường, cần phải tách mục tiêu phi thường mại ra khỏi các doanh nghiệp kinh doanh, xóa bỏ các lợi thế so sánh và những phân biệt giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu nhà nước và quyền của pháp nhân doanh nghiệp, nhà nước không trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà thông qua đại diện của mình trong bộ máy quản lý để điều hành doanh nghiệp theo luật pháp. mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, các DNNN có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Chuyển đổi câ chế kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp từ câ chế kiểm soát quá trình ra quyết định sang kiểm tra hướng vào việc đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. 2.3. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng vàđiều tiết vvĩ mô nen nkinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làmnòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực canh tranh trên thị trường trong nươc và quốc tế như dầu khí, điện , than, hàng không, đuờng sắt, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán… Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần Cổ phần hóa DNNN gồm: - Cổ phần hóa những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và câ cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanhnghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả. 2.4. Sắp xếp lại hệ thống DNNN. Việc tổ chức sắp xếp lại các DNNN cần dựa trên quy hoạch phát triển toàn diện nền kinh tế gắn với việc điều chỉnh câ cấu đầu tư là giảm số lượng các doanh nghiệp thua lỗ, hình thành các tổng công ty các tập đoàn kinh tế mạnh làm xương sống cho nền kinh tế. Cần tiến hành sắp xếp và phân loại các DNNN theo tiêu thức doanh nghiệp hoạt động công ích và doanh nghiệp kinh doanh. trong đó các doanh nghiệp kinh doanh sẽ lấy thước đo câ bản là hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp công ích sẽ lấy hiệu quả phục vụ chính trị xã hội làm thước đo chính. Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài cần có áp dụng những biện pháp sử lý thích hợp như sáp nhập, cho thuê, khoán kinh doanh hay phá sản theo luật. Các doanh nghiệp kinh doanh sẽ được chia làm 3 loại: Loại 1: Những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, những ngành mà khu vực tư nhân không có khả năng đầu tư. Nhà nước cần có ưu tiên vồn và có sự hỗ trợ thích hợp cho tong lãnh vực hoạt động. Loại 2: Những doanh nghiệp có quy mô lớn hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh thì nhà nước giữ cổ phần chi phối, nhằm thu hút các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Loại 3: Là các doanh nghiệp còn lại, nhà nước đẩy nhanh cổ phần hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào sản xuất. Trên cơ sở sắp xếp và câ cấu lại DNNN, tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các DNNN là một giải pháp quan trọng và hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, tăng cường huy động vồn tiềm tàng trong dân cư đầu tư vào phát triển các doanh nghiệp. *. Đổi mới cơ cấu tổ chức doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho việc năng cao hiệu quả hoạt động của DNNN cần tiến hành cải cách triệt cơ cấu tổ chức quản lý các DNNN. Cần có một mô hình tổ chức áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp, nâng cao vai trò vị trí của hội đồng quản trị trong các doanh nghiệp, có những câ chế bảo đảm cho hội đồng quản trị thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình. Các giám đốc là người thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp và do hội đồng quản trị bổ nhiệm miễn nhiệm, các giám đốc có thể do HĐQT trực tiếp thuê và tuyển chọn. Nâng cao vai trò của Ban kiểm duyệt, cần có những quy định về thực hiện hạch toán nội bộ và kiểm toán đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Kết luận Sự tất yếu của kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó. Vì thành phần kinh tế nhà nước là một bộ phận của nền kinh tế nhiều thành phần nên nó tồn tại trên cơ sở khách quan của tồn tại nhiều thành phần kinh tế và do bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối với xã hội chủ nghĩa. Cũng vậy, chúng ta đang xây dựng CNXH mà nền tảng là chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Do vậy, tính tất yếu là phải lấy phát triển thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò chủ đạo. Sau 15 năm đổi mới và phát triển đến nay khu vực DNNN có trên 5.500 doanh nghiệp với khoảng 120.000 tỷ đồng vốn nhà nước và gần 1.7 triệu người làm việc, hàng năm đóng góp 40% GDP trên 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 40% ngân sách Nhà nước. Trong định hướng XHCN đã đặt ra cho thành phần kinh tế nhà nước, hệ thống DNNN nói riêng một vai trò đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân nước ta. Lý do để biện minh cho vai trò này thì vô cùng nhiều, nhưng điểm cốt yếu nhất là nếu không có một lực lượng kinh tế làm công cụ và chỗ dựa thì mục tiêu XHCN mà nước ta vươn tới sẽ chở thành ảo tưởng. Tuy nhiên trong thực tế, làm thế nào để DNNN giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế – vai trò này không chỉ dừng ở vị thế công cụ trong tay Nhà nước mà sâu xa hơn, phải trở thành hình mẫu tổ chức sản xuất kinh doanh lý tưởng, hơn hẳn các doanh nghiệp dựa trên các loại sở hữu khác, thì đến nay có thể vẫn còn đang trong tình trạng tìm kiếm. Và hệ thống DNNN mạnh tức Nhà nước có tiềm lực kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh, định hướng them chí áp đảo các thành phần kinh tế khác nêu cần thiết. Mặt khác, vai trò của thành phần kinh tế nhà nước nói chung, hệ thống DNNN nói riêng còn được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế-xã hội của nền kinh tế với ý nghĩa chúng gánh vác vai trò tạođiều kiện chung nhất không chỉ cho nền kinh tế quốc dân đạt hiệu quả tối đa, mà còn góp phần giải quyết các vấn đề chính trị xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện đại hội Đảng 2. Tạp chí hoạt động khoa học số 8/2001 3. Giáo trình kinh tế chính trị 4. Tạp chí phát triển kinh tế 5. Tạp chí quản lý kinh tế 6. Đưa nghị quyết đại hội IX của Đảng vào cuộc sống 7. Tạp chí thông tin lý luận số 11/2000 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35520.doc
Tài liệu liên quan