Như vậy trước thực trạng của nền kinh tế nước nhà nói chung và thành phần kinh tế nhà nước nói riêng, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiên tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, vì đó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ công nghiệp quan trọng. DNNN giữ những vị chí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội, chấp hành pháp luật.
Phát triển DNNN trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoăc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp nhà nước đối với doanh nghiệp.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà Nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhà nước , có khả năng chi phối toàn bộ nèn kinh tế việt nam hiện nay cả nước có 5952dn Nhà nước ,mặc dù số lượng doanh nghiệp giảm gần 50% so với năm 1989 song doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong các ngành công nghiêp, giao thông vận tải , viễn thông. Một trong những nhiệm vụ của cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong thởi kỳ này là tiếp tục thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước hàng loạt những chíng sách về cổ phần hóa ra đời, tính đến giữa năm 1999 có 172 doanh nghiệp có quyết định chuyển thành công ty cổ phần và có 4 doanh nghiệp trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Hiẹn nay các bộ , ngành , địa phương đang tích cực triển khai phân loại doanh nghiệp để thục hiện phương án sắp xếp lại doanh nghiệp theo chỉ thị số 20/1998/CT của htủ tướng chíng phủ. Qua các đợt sắp xếp đổi mới doanh nghiệp , số lượng các doanh nghiệp có giảm hẳn nhưng mục tiêu cơ cấu lại các doanh nghiệp theo ngành và địa bàn để có một hệ thống hợp lý các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. Trong những năm gần đây, tuy quy mô đầu tư lớn nhưng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước không tăng lên tương ứng. Số doanh nghiệp thua lỗ tăng từ 22% năm 1996 lên 25% năm 1998. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tuy có những chuyển biến tích cực và có những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn những trở ngại và những nhược điểm làm cản trở các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, có thể nêu ra các nhược điểm chính như sau:
Sauk hi sắp xếp lại vẫn còn nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ. Tính đến đầu năm 1997 trong hơn DNNN chỉ có khoảng 3000 doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và đóng góp hơn 80% tổng số nộp ngân sách của tất cả DNNN số còn lại làm hoạt động kém hiệu quả, them chí có doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản.
Cơ cấu doanh nghiệp trong các ngành nghề còn bất hợp lí và có sự dàn trải trong các ngành nghề, các địa phương. Cơ cấu ngành và vùng vẫn có sự trồng chéo và số lượng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có nhiều về số lượng và nhỏ về qui mô, vượt khỏi khả năng nguồn lực hiện có của Nhà nước. chỉ riêng việc bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp để đạt được mức 30% như chính phủ qui định đã phải cần 100000 tỉ đồng, trong khi Nhà nước chỉ hỗ trợ được khoảng 200 tỉ mỗi năm chiều doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực không nhất thiết cần phải có DNNN .
Các DNNN hiện đang ở tình trạng thiếu vốn trầm trọng, mặc dù qui moo vốn bình quân của các doanh nghiệp đã tăng từ 3,1 tỉ đồng nên 11,3 tỉ đồng nhưng hiện vẫn có khoảng 25% DNNN có số vốn bình quân dưới 1tỉ đồng. Phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chỉ đảm bảo khoảng 10% vốn lưu động tức là còn thiếu khoảng 20% để đạt được mức tối thiểu về vốn lưu động hoạt đọng tình trạng này dẫn tới các doanh nghiệp phảiv ay vốn ngắn hạn và chịu lãi suất cao nên hiệu quả đầu tư thấp, khó thu hồi vốn và khó trả nợ đến hạn, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Trình độ công nghệ kĩ thuật của các doanh nghiệp còn lạc hậu, trung bình trình độ công nghệ của các DNNN lạc hậu so với mặt bàng công nghệ thế giới là khoảng 20 năm. Có những doanh nghiệp có trang thiết bị quá lạc hậu cách đây gần 50 nămnhwng vẫn không được đổi mới. Các DNNN thuộc trung ương có tới 50,3% ở trình độ phổ thông 41% ở trình dộ cơ khí và chỉ có 4,7% ở trình độ tự động hóa các DNNN thuộc địa phương trình độ còn thấp hơn. Vì trình đọ kĩ thuật kém nên năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp làm khả năng cạnh tranh của các DNNN bị ảnh hưởn rất lớn.
Cơ chế quản lí của các DNNN còn những hạn chế và chưa theo kịp sự phát triển chung, có nhiều cơ quan quản lí doanh nghiệp nhưng lại không có những cơ quan nào chịu trách nhiệm về những hậu quả do các doanh nghiệp gây ra, Nhà nước chưa có những biện pháp có hiệu quả để thúc đẩy động lực hoạt động của các công ty, nhằm sư dung hơp hí và toói ưu những nguồn lực mà các công ty hiện có. Xuất hiện tình trạng sử dụng các nguồng lực cua công ty, thực chất là nguồn lực của Nhà nước, vào việc phục vụ những lợi ích cá nhân và nhóm người hoạt độngtrong các doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng đồng vốn giảm dần. Nếu năm 1995, một đồng vốn tạo được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận thì đến năm 1998 tương ứng là 3 đồng doanh thu và 0,16 đồng lợi nhuận. Số lao động dư thừa năm 219995 là 15% tăng nên 28% 1998.
Những yếu kiếm của các DNNN nêu trên có thể kể ra từ những nguyên nhân chính sau:
Chưa nhận thức đầy đủ về vai trof chủ đạoc của DNNN trong nền kinh tế thị trường nênm chưa có một hệ thống các chính sách vĩ moo hợp lí. Hệ thống pháp luật liên quan đến DNNN chưa thực sự hoàn thiệt chưa tạo điều kiện cho các DNNN chủ đọng hoàn toàn trong sẩn xuất kinh doanh, như những vấn đề về cơ cấu tổ chức, moo hình các caông ty,tổ chức quản lí các doanh nghiệp …
Những ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn còn tác động đến các doanh nghiệp. sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lí Nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, còn quá nhiều đầu mối quản lí và các cấp trung gian trong việc điều hành các doanh nghiệp,việc phân cấp của các cơ quản lí doanh nghiệp còn trông chéo gây phiền nhiễu cho các doanh nghiệp.
Việc sắp xếp và đổi mới các DNNN vẫn còn chậm, việc chuyển đổi doanh nghiệp trong cơ cấu ngành còn chưa đạt mục tiêu. vấn đề cổ phần hóa và chuyển đổi cơ cấu sở hữu của DNNN còn diễn ra chậm, chưa tương song với nhu cầu phát triển.
Các doanh nghiệp còn có hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước, nhiều doanh nghiệp còn chưa thích nghi tốt với cơ chế tị trường, chưa ppphát huy được tiềm năng của mình trong sản xuất kinh doanh.
Cơ chế hoạt động của các tổng công ty vẫn còn mang nặng hình thức hình thức hành chính, tổ chức còn mang tính gán ghép thu gom đầu mối dẫn tới mối quan hệ giữa ccác thành viên chưa chặt chẽ, làm giảm sức mạnh của tổng công ty. Thậm chí có hiện tượng các thành viên tự cạnh tranh lẫn nhau làm suy yếu nội lực của tổng công ty.
Để phát huy được vai trò của các DNNN, cần phải có nhưng chính sách và những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt dộng của DNNN, phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đặc biệt là đổi mới về tổ chức quản lí, những chĩnh sách vĩ mô, đổi mới về cơ cấu ngành và cơ cấu sở hữu… trước hết cần nhấn mạnh những quan điểm trong việc tiếp tục đổi mới các DNNN từ những quan điểm này các chính sách và giải pháp đề ra mới có tính nhất quán và hệ thống.
Một là, tiếp tục củng cố và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước, trong đó các DNNN là nòng cốt. Xây dựng những tập đoàn klinh tế mạnh làm sương sông cho nền kinh tế quốc dân, hoàn thiện mô hình tổ chức và vận hành các tổng công ty.
Hai là, tiếp tục vieecj phân loại và sắp xếp các DNNN với tư tưởng chỉ đạo là nắm giữ các DNNN quan trọng và hoạt độngcó hiệu quả. ưu tiên giải pháp cổ phần hóa, mạnh dạn áp dụng nhưãng biện pháp chuyển đổi sở hữu.
Ba là,trong quá trình cải cách các DNNN, cần đạt các doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh tôn trọng những qui luật vận động của thị trường.
Đổi mới những chính sách vĩ mô hỗ trợ sự phát triển của các DNNN.Một tfrong nmhững điều kiện phát triển của DNNN là phải có những chính sách vĩ mô hợp lí, các DNNN không thể phát huy được vai trò của nó nếu không có một môi trường kinh doanh hợp lí, công bằng và thuận lợi.môi trường kinh doanh là tổng các yếu tố tác đọng đến doanh nghiệp trong đó những chính sách vĩ mô của Nhà nước là những tác đọng quan trọng và mạnh mẽ nhất.
Chính sách tài chính tiền tệ tiếp tục đổi mới những chính sách tài chính tiền tệ nhằm thu hút vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Tích cực hình thành thị trường chứng khoán để tạo điều kiện cho thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động,đồng thời có những cơ chế, chính sách quản lí và kiểm soát phù hợp bảo đảm cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn mở rộng quyền hoạt động cho các doanh nghiệp trong các vấn đề sản xuất kinh doanh, nhơ đầu tư mua sắm thanh lí tài sản các khoản chi phí…
Chính sách thương mại: trong xu thế phát triển hiện nay, sự phát triển của các nền kinh tế thương có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau ngày càng nhiều hơn, do đó việc sử dụng hàng rào thou quan để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng thu hẹp lại, Đối với điều kiện sản xuất của Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém thì việc mở cửa hòa nhập với các nước sẽ tạo một áp lực rất lớn cho các DNNN, vì thế chính sách thương mại của Nhà nước cần theo hướng duy trì bảo hộ thời hạn ngững mạt hàng sản xuất trông nước cần có thời gian để củng cố, bảo hộ hàng xuất khẩu bằng những công tín dụng, thou xuất nhập khẩu, tạo tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới và khu vực.
chính sách thuế: các chính sách thếu cần thưc hiện theo hướng coi trọng mục tiêu khuuyến khích phát triển sản xuất,bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
chính sách giải quyết lao động trong các DNNN: Nhà nước cần có những chính sách giải quyết lao động dư thừa trong khu vực DNNN, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong vấn đề giải quyết các lao động dư thừa, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và đảm bảo ổn định chính trị-xã hội.
b. Các chính sách đổi mới cơ chế quản lí DNNN.
Tạo điều kiện cho các DNNN có thể cạnh tranh công bằng và bình đẳng trên thị trường, cần phải tách mục tiêu phi thương mại ra khỏi các doanh nghiệp kinh doanh, xoá bỏ các lợi tghế so sánhvà những phân biệt giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Phan biệt rõ quyền chủ sở hữu Nhà nước và quyêbf của pháp nhân doanh nghiệp, Nhà nước không trực tiếp quản lí doanh nghiệp mà thông qua đại diệncủa mình trong bộ máy quản lí điều hành doanh nghiệp theo luật pháp. Mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp , quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Chuyển đổi cơ chế kiểm tra hoạt đọng của doanh nghiệp từ cơ chế kiểm soát quá trình ra quyết định sang kiểm tra hướng vào mục tiêu mà các doanh nghiệp đã đề ra.
c. Tổ chức sắp xếp lại cá DNNN cần dựa trên qui hoạc phát triển toàn diện nền kinh tế, gắn với việc điều chỉnh số lượng các doanh nghiệp thua lỗ hình thành các tổng công ty các tập đoàn kinh tế. Cần tiến hành săp xếp lvà phân loại các DNNN theo tiêu thức doanh nghiệp hoạt động công ích sẽ lấy hiệu quả phục vụ chính trị-xã hội làm thước đochính.Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài cần có áp dụng những biện pháp xử lí thích hợp như sáp nhập, cho thuê, khoán kinh doanh hay phá sản theo luật. Các doanh nghiệp kinh doanh sẽ được chia làm 3 loại:
Loại 1: Những doanh nghiệp hoạt đọng trong những ngành quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, những ngành mà khu vực tư nhân không có khả năng đầu tư. Nhà nước cần có ưu tiên vốn và có sự hỗ trợ thích hợp chô tong lĩnh vực hoạt động.
Loại 2: Những doanh nghiệp có qui mô lớn hoạt đọng có hiẹu quả có khả năng cạnh tranh thì Nhà nước giữ cổ phần chi pphối, nhằm thu hút các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác.
Loại 3: là các doanh nghiệp còn lại, Nhà nước đẩy nhanh cổ phần hóa, khuyến khích cấc thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất.
Trên cơ sở sắp xếp và cơ cấu lại DNNN, tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các DNNN, là một giải pháp quan trọng và hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt đọng của các DNNN, tăng cường huy động vốn tiềm tàng trong dân cư đầu tư và phát triển các DNNN.
d. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lí DNNN.
Để tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả hoạt đọong của DNNN, cần tiến hành cải cách triệt để cơ cấu quản lí các DNNN. Cần có một mô hình tổ chức áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp, có cơ chế bảo đảm cho hội đồng quản trị thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình. Các giám đốc là người thực hiện các quyết định cua hội đồng quản trị, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp và do hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễm nhiệm, các giám đốc có thể do HĐQT trực tiếp thuê và tuyển chọn. Nâng cao vai trò của ban kiểm soát, cần cớnhngx qui định về thực hiện hạch toán nội bộ và kiểm toán đói với các hoạt động của doanh nghiệp.
Đại hội VI (1986), tiếp đó là đại hội VII và VIII của Đảng đã đề ra đường lối đối sâu sắc và toàn diện đất nước trong đó đổi mơi kinh tế nhiẹm vụ trọng tâm và đổi mới DNNN là khâu đột phá. Trong 10 năm qua, thực hiẹn đường lối đổi mới của Đảng các cơ quan Đảng và Nhà nước ở trung ương đã ban hành trên 200 loại văn bản( các nghị quyết của Trung ương Đảng,các nghị quyết, các quyết định nghị định, chỉ thị, pháp luật… của Quốc hội…,ủy ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ) về sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lí DNNN. Đến nay hệ thông DNNN đã sắp sếp lại một bướcquá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ bé và yếu kém) và số doanh nghiệp còn lại được củng cố một bước. Cơ chế quản lí mới được hình thành, ngày càng hàon thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trương trong bối cảnh nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ, vẫn còn nhiều tồn tại và còn nhièu hạn chế trước những yêu cầu to lớn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt,cần phải tiếp tục đỏi mới DNNN công việc này cần hai nội dung lớn: Sắp xếp lại các doanh nghiệp và đổi mới lại cơ chế quản lí.
2. Những thành tựu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí doanh nghiệp.
Cùng với sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trong hơn 10 năm qua,cơ chế quản lí mới đã pjhát huy tác dụng rõ rệt. Tuy số doanh nghiệp Nhà nước giảm xống hơn 50%, song hệ thóng DNNN ngày càng đươcj củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Các DNNN được tổ chức lại theo hình thức: 17 tổng công ty( năm 91); 76tổng công ty (năm90)và trên 4000 DNNN độc lập. Đến đầu năm 2000 cả nước đã sát nhập 3100 doanh nghiệp, giải thể 3350 DNNN, cổ phần hóa 3370 DNNN. Nhờ vậy trình độ tích tụ và tập trung vốn trong DNNN được tăng lên. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50%( năm 1994) xuống còn 26%(năm 1998); trong cùng thời kì tương ứng số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% len 20%; sản xuất kinh tế doanh nghiệp được phát triển và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Tỷ trọng sản phẩm do các DNNN tạo ra trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng lên từ 36% (1991) lên 40,97% năm 1998. tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng tương ứng từ 14,7% lên 27,89%. Tỷ xuất lợi nhuận trên vốn Nhà nước tăng từ 6,8% năm 1993 lên 12.31% năm 1998. năm 1999 ccác DNNN đã làm ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị xuất khẩu và đóng gói 39,25% tông nộp ngân sách Nhà nước.
Nhìn chung, trong 10 năm qua hoạt đọng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn phát triển khá. Trong 5 năm 1991-1995 tốc dọ tăng trưởng bình quân của kinh tế quốc doanh là 11,7%, gấp 1,5 lần tốc tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gần gấp 2lần kinh tế ngoài quốc doanh. trong giai đoạn 1996-1999, do ảnh hưởn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thiên tai liên tiếp xẩy ra nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung giảm dần. Song kết quả hoạt đọng của các doanh nghiệp vẫn cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là năm 1999 so với năm 1998 GDP tăng gần 5% trong khi tăng trưởng của các doanh nghiệp nghiệp đạt 8%-9%.
Bên cạnh những tiến bộ, các doanh nghiệp còn có những tồn tại hạn chế, biểu hiện trên các mặt sau:
Một là các DNNN còn nhỏ bé về quy mô dàn trải về ngành nghề. đến nay cả nước có 5280 doanh nghiệp, bình quân mỗi doanh nghiệp có 22 tỷ đồng(khoảng 1,5 triệu $). Trong số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng(Khoảng 350 nghìn USD) chiếm tới 65,45%, số doanh nghiệp có vốn tren 10 tỷ đồng(trên 700 nghìn USD) chỉ chiếm dưới 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lí quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, trong số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng (70 nghìn USD) chiếm tới hơn 30%.Nhiều doanh nghiệp cùng loại hoạt đọng trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề doanh nghiệp cấp quản lí và trên một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng kể có trong chính khu vực kinh tế Nhà nước với nhau. DNNN cũng còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thường mại, dịch vụ, du lịch, gây tình trạng phan tán, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư Nhà nước rất hạn chế; gây chi phối, xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý của Nhà nước, khong thể tập trung vào được những ngành nghề, lĩnh vực chủ yếu then chốt.
Hai là trình độ kỹ thuât, công nghệ lạc hậu dẫn đến, năng lực cạnh tranh yếu kem và thua thiệt trong hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Hầu hết các DNNN được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước và từ nhiều thế hệ, chủng loại khác nhau. Theo kết quả khảo sát của bộ khoa học, công nghệ và môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây truyền sản xuất máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm; mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50% có tới 38% ở dạng phảit hay thế. Thời gian khấu hao thanh lí tài sản cố định kéo dài bình quân từ 10 đến 12năm trong khi mức khấu hao bình quân của khu vực và thế giới từ 7 đến 8 năm. Bởi nhiều lí do khác nhau không ít trường hợp nhập khẩu thiết bị khoông đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa. Số liệu khảo sát của viện khoa học bảo hộ lao động thuộc tổng liên đoanf lao động Việt Nam tiến hành gần đây ở 42 cơ sở thuộc một ngành cho thấy trong 727 thiết bị và 3 dây truyền nhập khẩu có tới 76% thuộc thế hệ những năm 50-60 trên 70% đã hết khấu hao gần 50% được tân trang lại. báo điều tra ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Số máy móc có tuổi trung bình trên 10 năm chiếm tới 40% và chỉ có 30% dưới 5 năm.thiết bị máy móc cũ kĩ lạc hậu đã ảnh hưởng lớn trực tiếp đến chất lượng, giá cả và cuối cùng đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các mặt hàng trong nước như sắt, thép,phân bón hóa học, xi măng, kính xây dựng…, có mức giá cao hơn hàng hóa cùng lại nhập khẩu từ 20 đến 40%, cá biệt như mặt hàng đường thô cao hơn tới 70 đến 80%. Nhiều mặt hàng tồn tại được lâu nay là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua thuế nhập khẩu cao. Song các doanh nghiệp vẫn thường xuyên vị đe dọa bởi hàng lậu từ nước ngóài tràn vào nước ta. Nhìn chung chất lượng sản phẩm làm ra ở trong nước còn thấp. chỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. đến giữa năm 1999 cả nước mới có 105 DNNN, trong đó chgỉ có 70 đơn vị cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn ISO/90002 và 16 đơn vị khác đang sđề nghị xem xét.
Ba là các DNNN nợ quá lớn theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương. Năm 1996 tổng số nợ là 174797 tỷ đồng năm 1999 nên tới 199060 tỷ đồng trong đó nợ phải trả là 126 nghìn tỷ đồng và nợ phải thu là 72644 tỷ đòồn .so với tổng số vốn của toàn bộ doanh nghiệp số nợ phải thu chiếm tới 62% và số nợ phải trả băng 109%, trong khi khả năng thanh toán rất thấp nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với DNNN. Không ít các DNNN vẫn còn phải dựa vào sự bao cấp rất lớn của Nhà nước. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm doanh nghiệp còn phảiv ay tới 85% vốn từ Nhà nước vơis lãi xuất ưu đãi. trong điều kiện ngân sách luôn luôn thiếu hụt nhưng Nhà nước vẫn phải dành một tỷ lệ đáng kể để hộ trợ cho 1 số doanh nghiệp. Trong 3 năm 1997-1999 ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho DNNN gần 8 nghìn tỷ đồng trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp 14644 tỷ đồng bù lỗ, hỗ trợ các DNNN giảm bót khó khăn về tài chính ngoài rat f năm 1996 đến nay Nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng xóa nợ 1088,5 tỷ đồng, khoanh nợ 34392 tỷ đồng, dãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Mặc dù nguồn vốn hỗ trợ lớn như vậy nhưng hoạt dọng kinh xdoanh ở nhiều DNNN không đem lại hiệu quả. Số nộp vào ngân sách Nhà nước của cách DNNN này ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ. Trên thực tế nhiều DNNN đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Bốn là thiếu việc làm số lao động dôi dư lớn,theo số liệu của bộ lao động thương binh xã hội, hiện nay số lao đọng không có việc làm trongDNNN vào khoảng 60%. Nhiều doanh nghiệp có số lao động quá lớn so với yêu cầu như tổng công ty than Việt Nam công ty gang thép Thái nguyên các nhà máy xí nghiệp địa phương số lao động dư thừa là 30%, ở tổng công ty lương thực miền Bắc là 28% .ở tổng công ty thép Việt Nam là 12% tỷ lệ này ở nhiều DNNN nhà nước địa phương cao hơn khoảng 27-33% . phần lớn người lao động trong các DNNN không được đào tạo lại ẩnh hưởng nghiêm trọng đến năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm.
Năm là, do những thực trạng nói trên cùng những ảnh hưởng khách quan nền kinh tế và bối cảnh hội nhập, cạnh tranh không thuận lợi trên thị trường khu vực quốc tế, những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN từ năm 97 về trước 13% và đầu năm 1999 giảm xuống còn 8-9%.
2.1. Đổi mới các DNNN.
Những hạn chế và yếu kém nói trên của các DNNN do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu về cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng tuy đã ban hành khá nhiều song vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, có nhiều nội dung còn quá chung, chỉ dừng lại ở những nguyên tắc, hoặc có những quy định quá cũ nay không phù hợp với sự chuyển biến của môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Các văn bản pháp quy dưới luật quá nhiều, không ít trường hợp chồng chéo, không nhất quán thậm chí một số văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá trái với nội dung Luật định làm phức tạp thêm thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp. Luật DNNN ban hành từ đầu năm 1995, tuy Chính phủ chưa kịp ban hành số nghị định hướng dẫn để thức hiện, đã có nhiều điểm không phù hợp, đồng thời cũng có nhiều vấn đề chưa quy định rõ như: về quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, về phạm vi về quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của bộ, ngành, UBND cấp tỉnh đối với doanh nghiệp, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý Tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp cổ phần hoá… cơ chế quản lý- nhất là về quản lý tài chính đối với doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp kinh doanh( vừa quá chặt gây khó khăn, song vừa quá mỏng dễ bị doanh nghiệp dựa dẫm, lợi dụng, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước ). Cơ chế đào tạo, đào tạo lại công nhân lành nghề theo yêu cầu CNH-HĐH, cơ cấu tuyển chọn, đào tạo, đãi ngộ cán bộ lãnh đạo quản lý DNNN vừa đi theo lối mòn của cơ chế bao cấp cũ, vừa có nhiều vấn đề nổi cộm, bất hợp lý, phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết.
2.2. Khai thác và sử dụng các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước hợp lý và hiệu quả.
trong những năm qua với sự phát triển của khoa học công nghệ các máy móc kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng vào nước ta, các ngành các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không ngừng đổi mới công nghệ đăc biệt là các ngành sản xuất thuộc sở hữu nhà nước vì vậy nhà nước ta đã khai thác và sử dụng các tài sản sở hữu của mình hợp lý và có hiệu quả hơn.
3. Những thành tựu đạt được của kinh tế Nhà Nước trong thời kỳ qua.
3.1. Kinh tế nhà nước ở nước ta có một thực lực to lớn.
Kinh tế Nhà Nước có một thưc lực to lớn chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40%GDP hàng năm, nắm giữ các vị đài chỉ huy và các vị chí then chốt trong nền kinh tế, đó chình là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân. những đòi hỏi tư nhân hóa khu vực kinh tế Nhà Nước không gì khác hơn là làm cho nền tảng và sức mạnh kinh tế CNXH yếu đi tạo sự thăng thế cho định hướng TBCN.
3.2. Kinh tế Nhà Nước hướng các thành phần kinh tế đúng theo định hướng XHCN.
Tại đại hội lần thứ VIII Đảng ta lần đầu tiên đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì kêu gọi kinh tế quốc doanh trước đây. Việc mở rộng phạm vi của kinh tế Nhà Nước bao gồm toàn bộ các hoạt động quả lý tài nguyên thiên nhiên của đất; những cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội đã được tạo ra; các loại quỹ của quốc gia, các DNNN bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh… đã giải quyết được vấn đề nhân thức thực tiễn, nhất là khi hiểu về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không còn chỉ nhìn vào một bộ phận của kinh tế Nhà Nước là các doanh nghiệp kinh doanh hoặc doanh nghiệp công ích.
4. Những tồn tại của doanh nghiệp và nguyên nhân của nó.
Mặc dầu đạt được những kết quả nhất định nhưng hiện nay DNNN đang đứng trước thức trạng yếu kém, quy mô quá nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất bình quân thấp hơn lãi suất vay ngân hàng, hiệu quả sút kém. Tốc độ tăng trưởng của DNNN trước đây cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế nói chung nhưng đến năm 1998 thì ngược lại, thấp hơn(xem bảng dưới).
Mức đánh góp cho ngân sách còn thấp xa so với nguồn lực bỏ ra, mức nộp của từng doanh nghiệp chênh lệch với nhau rất lớn, thậm chí có nhiều mức nộp ngân sách thấp hơn nhiều so với mức ngân sách hỗ trợ.Ta lấy DNNN của Hà Nội làm ví dụ. Doanh thu của DNNN tăng 12,56% nhưng tổng lãi thực hiện bằng 78% của năm 1995, tổng nộp ngân sách bằng 92,76% của năm 1995. Trong ba năm (1995-1997) mức vốn ngân sách cấp cho doanh nghiệp địa phương tăng 43,54% nhưng mức đóng góp của doanh nghiệp địa phương vào ngân sách lại giảm, thấp hơn năm 1995 là 7%.
DNNN vẫn còn nhiều về số lượng và còn quá nhỏ về quy mô, sự dàn trải không cần thiết vượt qua khả năng nguồn lức của nhà nước hiện có. Năm 1998 vẫn còn 72,5% số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng ( khoảng 370 ngàn USD) trong đó có gần 26% số DNNN có số vốn dưới 1tỷ đồng ( khoang 80 ngàn USD), trong đó chỉ có 20% doanh nghiệp có số vồn trên 10 tỷ đồng ( chưa được 1 triệu USD). Qua đó đủ thấy DNNN của ta nhỏ tới mức nào.
Nhiều DNNN cùng hoát động trong tình trạng chồng chéo về quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong khu vực DNNN với nhau. Hầu hết các tỉnh đều có 3-5 Công ty tư vấn khảo sát thiết kế chuyên ngành xây dựng, công nghiệp thuỷ lợi, giao thông, lâm nghiệp. Sự liên kết, hợp tác giữa các DNNN với nhau và với các thành phần kinh tế khác còn nhiều yếu kém và chưa thành nề nếp.
Sự chồng chéo, trung lập về ngành nghề, về sản phẩm trong một thị trường còn chưa phát triển và sức mua của nhân dân chưa được nâng cao tất đến dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư dàn trải trong khi nguồn còn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối.
Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng. Có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định tại Nghi định số 50/CP. Vốn thực tế hoạt động, chỉ đạt 80%. Riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, còn lại nằm ở tài sản, vật tư bị mất mát, kém phẩm chất, công nợ không thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp. Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên doanh nghiệp không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết, hiện đại hoá công nghệ, không có khả năng cạnh tranh.
Tổng công ty nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển nhưng tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998 vốn nhà nước bình quân của tổng công ty 91 có tới 14 công ty (82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân, trong đó có 6 tổng công ty (35%) có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 tổng công ty nhà nước có vốn là lớn.
Đối với tổng công ty 90 tình hình còn đáng buồn hơn.Hơn 20% số tổng công ty 90 vốn nhà nước dưới 100 tỷ đồng, trong đó ở 13 tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi tổng công ty chỉ được dưới 40 tỷ đồng.
Tình hình DNNN đang dứng trước thực trạng yếu kém là do những nguyên nhân sau đây.
Một là: Vai trò tích cực của động lực đổi mới theo nguyên tắc dỡ bỏ cản trở, xoá bỏ bao cấp, khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi… đã cạn dần nhưng sự tiếp sức cho động lực mới ở DNNN vẫn chưa hình thành đồng bộ. Cơ chế quản lý tài chính của DNNN còn quá cứng nhắc, sửa đổi chắp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống. Quyền và trách nhiệm đại diện sở hữu chưa đước xác lập cụ thể. Chính sách đối với kết quả tự tích luỹ của DNNN quá bất hợp lý đã hạn chế khả năng tự mở rộng quy mô phát triển của DNNN. Vai trò của giám đốc có ý nghĩa quyết định sự thành bại của doanh nghiệp nhưng cơ chế tuyển trọn chậm được đổi mới. Nếu không vi phạm kỷ luật thì dù doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả vẫn phải chờ đến khi giám đốc về hưu mới thay thế người khác. Mặt khác cơ chế hướng dẫn giám sát kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với DNNN vẫn còn bất hợp lí. Hoặc dễ buông lỏng dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, làm thất thoát tài sản của nhà nước. Hoặc can thiệp trực tiếp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp gây ra quan liêu và trách nhiệm không rõ ràng.
Hai là: Nhà nước cần tập trung vốn cho yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội còn DNNN cần rất nhiều vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất nhưng các kênh huy động vốn của DNNN đều bị trắc trở.
Nhận thức về vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước và DNNN vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của quan điểm cũ. Chưa mạnh dạn giảm số lượng để tạo điều kiện tập trung chỉ đạo có trọng điểm và nâng cao hiệu quả đích thức của DNNN. Chưa thực sự coi doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác là những tế bào gắn bó hữu cơ lâu dài với nền kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa để sớm có kế hoạch chuyển giao có trật tự một phần DNNN ít quan trọng hoặc quá nhỏ cho họ quản lý. Chính những quan điểm ngập ngừng ấy đã làm cho chính sách đổi mới thiếu nhất quán và triệt để. Vừa luông chiều(duy trì một phần bao cấp. Không kiên quyết sử lý DNNN bị thua lỗ…) vừa đòi hỏi quá cao và huy động qua nhiều ở DNNN.
Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn liền với sự điều khiển của thị trường và luật phá sản doanh nghiệp, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và hội nhập lên kết quả còn nhiều hạn chế.
Một hiện tượng không bình thường là thời gian gần đây trong khi việc sắp xếp doanh nghiệp, thu dọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số DNNN lại được thành lập chỉ dừa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập DNNN với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không bảo đảm đủ vốn tối thiểu ban đầu cho DNNN và không nghiên cứu kĩ thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong lúc sắp xếp các DNNN đang hoạt động thị việc ra đời các DNNN mới cũng cần thiết. Song, việc thành lập mới những DNNN hoàn toàn bằng vốn vay đang gây lên tình trạng nợ khó thanh toán. Đặc biệt là những công ty không đủ nguyên liệu hoặc không có thị trường tiêu thụ sản phẩm thì tình trạng nợ ngày càng trầm trọng hơn. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn còn tình trạng đề nghị thành lập DNNN, kể cả đề nghị thành lập các tổng các tổng công ty, nhưng không đủ vốn điều lệ, hoặc quy mô vốn cần thiết theo quy định. Tại một số địa phưong sỗ DNNN tăng do thành lập thêm các doanh nghiệp mới mà chưa tổ chức lại doanh nghiệp đang tồn tại.
Các tổng công ty nhà nước nhất là các tổng công ty 90 chưa được tổ chức sắp xếp lại. Số lượng công ty không giảm mà lại tăng. Xu hưóng thành lập tổng công ty nhằm thu gom đầu mối DNNNnhỏ bế hoạt động kém hiệu quả, không gắn liền với việc sắp xép doanh nghiệp theo ngành kinh tế kỹ thuật trên địa bàn đang phát triển, không làm cho doanh nghiệp mạnh lên, mà tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả tồn tại một cách hợp thức.
III. Những định hướng và giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước trong thời gian tới.
1. Định hướng
* Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
a. Định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi phải có sự quản lý cuả nhà nước đối với các hoạt động kinh tế hàng nhập khẩu: kinh tế nhà nước,với lực lượng kinh tế luôn được nhà nước chú trọng về khơu đào tạo cán bộ có ý thức về pháp luật, do đó trong giai đoạn tới đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần kinh tế gương mẫu để các thành phần kinh tế khác noi theo, với tư cáchlà lực lượng đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới .định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ậ : xơy dựng cơ chế chính sách hợp lý bảo đảm sự hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước là vì mục tiêu quốc gia, vì sự nghiệp CNXH , đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý vững lý lụơn chính trị, giỏi chuyên môn, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cống hiến hết mình cho sự nghiệp xơy dựng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập phải tăng cường kíêm nhơn tài, nơng cao hiệu lực quản lý. Loại bỏ trừng trị những sự chống phá xá hội chủ nghĩa dập tắt ơm mưu thù dịch tư bản hóa xã hội…
b. Đội ngũ cán bộ.
Là những người quản lý, điều hành được nhà nước giao trách nhiệm trước tiên phải là những người yêu nước, yêu Đảng, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà điều này đòi hỏi phải được rèn luyện, học hỏi, tiếp thu… phải thường xuyên phê bình kiểm điểm lại những gì làm và chưa làm được thông qua các kỳ họp, đại hội.
Cán bộ phải là người gương mẫu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong sạch về lối sống, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo trong công tác bám sát hơn.
Định hướng: Có cơ chế chính sách phát hiện đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ các cấp, trọng dụng những người có đức có tài, xoá bỏ tình trạng kéo bè, kéo cánh phơn chia đảng phái gơy mơu thuẫn nội bộ thực hiện đúng nguên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác quản lý cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức chính trị về công tác cán bộ. Xây dựng chỉnh đống hệ thống các học viện trường và trung tâm chính trị nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
c. Xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn biến đổi việc xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu là rất quan trọng nó phân định rõ ràng vai trò chủ đạo của sở hữu, xoá bỏ nhầm lẫn cho rằng phải xoá bỏ mọi hình thức không phải là sở hữu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thực hiện quyền sở hữu đó là sở hữu đó là bằng pháp luật của nhà nước,vận dụng vào cho doanh nghiệp, tổ chức thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình thực tại ở ta quan niệm sở hữu còn mơ hồ nhiều khi không xác định được nó thuộc hình thức sở hữu nào dẫn đến khi vận dụng vào thực tế làm nảy sinh hàng loạt vấn đề rất khó giải quyết đặc biệt với những loịa tài sản thuộc sở hữu nhà nước…
Vấn đề định hướng ở đây là phải xây dựng một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn chỉnh quy định rõ quyền sở hữu cho các thành phần kinh tế dặc biệt với thành phần kinh tế nhà nước (vì sở hữu là cội nguồn của chế độ xã hội chủ nghĩa).
Làm rõ hơn các quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi khắc phục tình trạng vô chủ hoặc biến tài sản do nhà nước sở hữu thành tài sản của bộ phận quản lý ở doanh nghiệp, song không lại không làm mất đi tính tự chủ của doanh nghiệp, không cản trở tính năng động của đội ngũ cán bộ quản lý ở doanh nghiệp, phân định rõ chức năng quản lý kinh tế với chức năng quản lý tài sản của nhà nước với quản lý kinh doanh của doanh doanh nghiệp.
2. Với doanh nghiệp nhà nước.
2.1. Định hướng đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
a. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hóa chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc lá điếu. Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn tăng dần, sản xuất điện khai thác khoáng sản quý hiếm quan trọng sản xuất một số sản phẩm cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược thuốc chữa bệnh vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu cho việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc miền múi xa xôi hẻo lánh.
2.2. Cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước DNNN) gặp nhiều khó khăn, qua 6 tháng đầu năm 1999, tình hình đó càng rõ rệt và đáng lo ngại. Để các DNNN thực sự phát huy vai trò trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước, việc nghiên cứu các chính sách, giải pháp phù hợp trong cải cách DNNN, góp phần phát huy sức mạnh nội lực của nền kinh tế là hết sức cần thiết và cấp bách. Bài viết dưới đây phân tích một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi và một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở Việt Nam, tạo đà phát triển mới.
* Một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi
Từ đầu thập kỷ 90 đã diễn ra một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở một số nước Đông Âu, Liên Xô (nay là các SNG và CHLB Nga) và một số nước châu á. Do điều kiện cụ thể và mức độ tập trung hóa của nền kinh tế mà mỗi nước có hình thức và bước đi khác nhau trong quá trình chuyển đổi, nhưng nhìn chung trong giai đoạn đầu, các nước này đã thực thi một trong hai chiến lược, được khái quát hóa lại thành 2 mô hình sau: mô hình liệu pháp sốc và mô hình chuyển đổi dần dần. Ngoài 2 mô hình trên, còn một hình thức chuyển đổi đặc biệt hơn ở Đông Đức (CHDC Đức cũ). Dựa trên các sức mạnh về tài chính, thị trường, đội ngũ quản lý và hệ thống pháp luật sẵn có của Cộng hòa liên bang Đức, quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Đông Đức được tiến hành theo hình thức liệu pháp sốc, nhưng dựa trên tổng cung, tổng cầu và mức tăng trưởng kinh tế trên toàn Liên bang để điều chỉnh mục tiêu cải cách. Mặc dù quá trình chuyển đổi này có hiệu quả, nhưng do tính đặc thù của nó mà mô hình này cho đến nay vẫn ít được chú ý đến.
Các nước Đông Âu , SNG và CHLB Nga đều chuyển đổi theo mô hình liệu pháp sốc, còn một số nước châu á thì thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo chiến lược dần dần, từng bước vững chắc.
Dù lựa chọn theo chiến lược nào, các nước có nền kinh tế chuyển đổi vẫn phải giải quyết những nhiệm vụ chung đặt ra cho quá trình này. Một trong những nhiệm vụ đó là cải cách các DNNN đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Nội dung đặt ra cho cải cách DNNN là hoạt động có hiệu qủa trong cơ chế thị trường, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Với nội dung này cải cách DNNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Trong giai đoạn đầu, các nước tiến hành theo mô hình liệu pháp sốc đều nhanh chóng tư nhân hóa mạnh mẽ các DNNN. Họ cho rằng việc tư nhân hóa trên toàn xã hội. Các doanh nghiệp sau khi tư nhân hóa sẽ nhận được tài trợ mạnh mẽ của các nước phương Tây cho quá trình này.
Kết quả thực tế ậ một số nước chuyển đổi theo mô hình này lại trái ngược với sự mong đợi của các nhà cải cách cũng như hy vọng của chính nhân dân các nước này. Có thể rút ra một số đánh giá chủ yếu như sau: do tư nhân hóa quá nhanh các DNNN đã dẫn đến hậu quả không lường trước là sản xuất công nghiệp nhanh chóng bị đình đốn, giảm sút và rối loạn; các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ nhân dân trở nên khan hiếm: lạm phát, thất nghiệp tăng lên, đời sống đa số người lao động trở nên hết sức khó khăn; do không ổn định cả về chính trị, kinh tế, xã hội, đầu tư trên toàn xã hội không tăng mà lại giảm. Hy vọng vào sự xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả để bù đắp sự thiếu hụt này đã không thể diễn ra trong phút chốc mà đòi hỏi thời gian và quá trình tích lũy kinh nghiệm kinh tế thị trường lâu dài hân, viện trợ và giúp đỡ của phương Tây lại không nhằm khôi phục sản xuất, phục hồi nền công nghiệp và không đáp ứng được như mong đợi, việc nhập khẩu phần lớn hàng tiêu dùng từ các nước viện trợ lại góp phần gây thêm khó khăn cho những xí nghiệp, nhà máy nào còn duy trì được hoạt động: Nợ nước ngoài tăng lên (do phải tìm cách vay vốn để cải thiện tình hình trong nước). Một số chính sách cải cách, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ cũng mắc phải sai lầm, từ đó tạo thêm khó khăn và góp phần làm cho công cuộc cải cách DNNN ở đây bị thất bại. Nhiều nước theo mô hình liệu pháp sốc đã phải liên tục hoàn, kéo đài thời gian thực hiện các bước cải cách tiếp theo ; có nước phải điều chỉnh cả chiến lược chuyển đổi.
Ngược lại với tình hình này, quá trình chuyển đổi nền kinh tế nói chung và công cuộc cải cách DNNN ở một số nước châu á thu được những thành tựu quan trọng góp phần làm nên sự thành công của của chuyển đổi nền kinh tế ở khu vực. Một trong những nguyên nhân góp phần làm nên sự thành công của chuyển đổi nền kinh tế ở khu vực. Một trong những nguyên nhân chính là họ đã tiến hành cải cách các DNNN một cách từ từ với các bước đi và hình thức thích hợp kết hợp đồng bộ với các chính sách cải cách khác. Trước hết là tiến hành tự do hóa các hoạt động sản xuất của các xí nghiệp, tự do hóa về tài chính, về nhân sự cuối cùng các doanh nghiệp này trở thành các đơn vị tự chủ hoàn toàn trong kinh doanh và chịu trách hoàn toàn trong kinh doanh về hiệu quả hoạt động. Sự can thiệp và hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp được giảm dần đủ để các doanh nghiệp này có thời gian và điều kiện về vốn, kinh nghiệm, thị trường để đứng vững.
@ những chính sách cơ bản nhằm nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Để phát huy được vai trò của DNNN, cần phải có những chính sách với những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đặc biệt là đổi mới về tổ chức quản lý, những chính sách vĩ mô, đổi mới về câ cấu ngành và câ cấu sở hữu. Trước hết cần nhấn mạnh những quan điểm trong việc tiếp tục đổi mới các DNNN, từ những quan điểm này các chính sách và giải pháp đề ra mới có tính nhất quán và hệ thống.
Một là, tiếp tục củng cố và tăng cưâng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó các DNNN là nòng cốt. Xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh làm xưâng sống cho nền kinh tế quốc dân hoàn thiện mô hình tổ chức và vận hành các tổng công ty.
Hai là. tiếp tục việc phân loại và sắp xếp các DNNN với tư tưởng chỉ đạo là nắm giữ các DNNN quan trọng và hoạt động có hiệu quả. ưu tiên giải pháp cổ phần hóa mạnh dạn áp dụng những biện pháp chuyển đổi sở hữu.
Ba là, trong quá trình cải cách các DNNN, cần đặt các doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh ,tồn đọng những quy luật vận động của thì trường.
a. Đổi mới những chính sách vi mô hỗ trợ sự phát triển của DNNN.
Một trong những điều kiện phát triển của DNNN là phải có những chính sách vĩ mô hợp lý, các DNNN không thể phát huy được vai trò của nó nếu không có một môi trường kinh doanh hợp lý, công bằng và thuận lợi. Môi trường kinh doanh, công bằng và thuận lợi. Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động đến doanh nghiệp trong đó những chính sách vĩ mô của nhà nước là những tác động quan trọng và mạnh mẽ nhất.
Chính sách tài chính tiền tệ: Tiếp tục đổi mới những chính sách tài chính tiền tề nhằm thu hút vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Tích cực hình thành thị trường chứng khoán để tạo điều kiện cho thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động, đồng thời có những câ chế, chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp bảo đảm cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn. Mở rộng quyền quyết định của doanh nghiệp trong các vấn đề sản xuất kinh doanh, như đầu tư mua sắm thanh lý tài sản, các khoản chi phí…
Chính sách thưâng mại: trong xu thế phát triển hiện nay, sự phát triển của các nền kinh tế thường có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau ngày càng nhiều hân, do đó việc sử dụng hàng rào quan thuế để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng nhiều hân, do đó việc sử dụng hàng rào quan thuế để bảo hộ sản xuất trong nước ngày càng thu hẹp lại. đối với điều kiện sản xuất của Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém thì việc mở cửa hòa nhập với các nước sẽ tạo một áp lực rất lớn cho các DNNN, vì thế chính sách thưâng mại của nhà nước cần theo hướng duy trì bảo hộ có thời hạn những mặt hàng sản xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu, tạo tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.
Chính sách thuế: các chính sách thuế cần thực hiện theo hướng coi trọng mục tiêu khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách.
Chính sách giải quyết lao động trong các DNNN: nhà nước cần có những chính sách giải quyết các lao động dư thừa trong khu vực DNNN, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong vấn đề giải quyết lao động dư thừa, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và bảo đảm ổn định chính trị xã hội.
b. Các chính sách đổi mới cơ chế quản lý DNNN.
Tạo điều kiện cho các DNNN có thể cạnh tranh một cách bình đẳng và công bằng trên thị trường, cần phải tách mục tiêu phi thường mại ra khỏi các doanh nghiệp kinh doanh, xóa bỏ các lợi thế so sánh và những phân biệt giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu nhà nước và quyền của pháp nhân doanh nghiệp, nhà nước không trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà thông qua đại diện của mình trong bộ máy quản lý để điều hành doanh nghiệp theo luật pháp. mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, các DNNN có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Chuyển đổi câ chế kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp từ câ chế kiểm soát quá trình ra quyết định sang kiểm tra hướng vào việc đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
2.3. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng vàđiều tiết vvĩ mô nen nkinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làmnòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực canh tranh trên thị trường trong nươc và quốc tế như dầu khí, điện , than, hàng không, đuờng sắt, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán…
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần
Cổ phần hóa DNNN gồm: Cổ phần hóa những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và câ cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả.
2. Giải pháp
- Tăng cường sức mạnh và tính hiệu quả của KTNN bằng cả sự đầu tư, đổi mới và cả chính sách vĩ mô.
- Nâng cao tính hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước
- Xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu của nhà nước, làm rõ hơn các quyền năng sở hữu, sở dụng định đoạt và hưởng lợi.
- Đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Đánh giá lại khả năng thực tế của các tổng công ty 90, 91, với những tổng công ty hoạt động yếu kém, đặc biệt là các tổng công ty 91 có thể giải tán hoặc sáp nhập.
- Để làm tốt vai trò quản lý vi mô của Nhà nước, hệ thống, tài chính, tín dụng, ngân hàng Nhà nước cần phải được lành mạnh hoá, khắc phục tính dễ tổn thương của nền kinh tế do hệ thống này mang lại.
- Cần triệt để khắc phục tình trạng cào bằng trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước.
- Nâng cao hơn nữa vai trò của những người lao động thực thi quyền lực của mình ở doanh nghiệp, với tư cách là những người làm chủ đích thực của tài sản Nhà nước ở doanh nghiệp.
- Tăng cường vai trò định hướng của KTNN thông qua không chỉ sự dẫn dắt, nêu gương ở tính hiệu quả kinh tế-xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
c. Kết luận
Như vậy trước thực trạng của nền kinh tế nước nhà nói chung và thành phần kinh tế nhà nước nói riêng, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiên tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, vì đó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ công nghiệp quan trọng. DNNN giữ những vị chí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội, chấp hành pháp luật.
Phát triển DNNN trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoăc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nằm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiểu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Có như vậy thì chúng ta mới phát huy được vai trò thế mạnh của kinh tế nhà nứơc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội Đảng VI
Giáo trình kinh tế chính trị
Báo cáo tổng kết đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước từ năm 1986-nay
Một số vấn đề đổi mới DNNN ở nước ta.
Vì sao DNNN thua lỗ. Giải pháp nào cho DNNN ở nước ta hiện nay.
Tạp chí họat động khoa học số 8 năm 2001.
Tạp chi phát triển kinh tế.
Tạp chí quản lý kinh tế.
Thông tin lý luận tháng 11 năm 2000.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35519.doc