Kinh tế Nhà nước ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Trong quá trình hình thành và phát triển nó luôn có những biểu hiện là thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta hiện nay – nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của kinh tế Nhà nước ngày càng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: kinh tế Nhà nước là tổng thể các nguồn lực đang phát huy tác dụng trong guồng máy vận động của nền kinh tế quốc dân do Nhà nước nắm giữ và chi phối, đồng thời là công cụ định hướng và điều tiết nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của kinh tế Nhà nước đối với một đất nước xã hội chủ nghĩa Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng có những biện pháp đổi mới để phát triển kinh tế Nhà nước. Đổi mới phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, căn bản, có cơ sở khoa học và có tính khả thi là cái mà nước ta đã - đang và sẽ thực hiện để kinh tế Nhà nước tiếp tục làm tròn vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế được nảy sinh từ các loại hình sở hữu. Tại Đại hội Đảng VIII đã xác định nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế hình thành trên cơ sở 3 loại hình sở hữu và kinh tế nhà nước được hình thànhtừ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước. Đối với nước ta kinh tế nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Vậy thực chất của kinh tế nhà nước là gì?
2. Bản chất của kinh tế nhà nước.
Thực chất của kinh tế nhà nước là gì? vấn đề hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Có ý kiến coi kinh tế nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là tài sản của một quốc gia, một công cụ kinh tế của nhà nước... Xét về mặt lịch sử ra đời của kinh tế nhà nước thì kinh tế nhà nước được nảy sinh từ sở hữu nhầ nước. Trong quá trình phát triển sở hữu nhà nước là toàn bộ nguồn lực mà nhà nước nắm giữ, nó hình thành kinh tế nhà nước.
Quan điểm của Đại hội VIII xác định kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp của nhà nước, các sở hữu của nhà nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân sách lực lượng dự trữ vầ cả phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. như vậy kinh tế nhà nước bao gồm 2 bộ phận đó là : Doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân sách quốc gia...). Kinh tế mang tính chất rộng hơn doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng cấu thành kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là những tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý các doanh nghiệp đó hoặc mang ý nghĩa hoạt động công ích, tạo phúc lợi cho xã hội hoặc hoạt động kinh doanh để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Phần II
Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
I. Quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
1.1. Chủ đạo là gì?
Chủ đạo có nghĩa là có tác dụng chi phối đối với toàn bộ hay nó là tác dụng điều khiển, quyết định đối với cái gì?
1.2 Quan niệm về vai trò chủ đạo.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì nó nắm giữ những vị trí then chốt yết hầu xương sống của nền kinh tế vì thế nó có khả năng điều khiển, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác và định hướng toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Và người ta khẳng định nó thực chất nó là độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên tức là do “ pháp luật nhà nước đặt ra cho một nghành, một xí nghiệp quốc doanh hay một tổ chức, một công ty tư nhân”. Nhà nước thường nắm độc quyền những nghành liên quan đến an ninh quốc phòng, đến vận mệnh của kinh tế quốc gia đến vận mệnh của kinh tế quốc gia trong cạnh tranh quốc tế đảm bảo phát triển nền kinh tế quốc dân một cách ổn định, cân đối, mở rộng sự hợp tác quốc tế bảo vệ sự độc lập phát triển của kinh tế quốc dân trước sự bành trướng của các quốc gia phát triển. Một lý do khác cho rằng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì nó được nhà nước bảo vệ, giúp đỡ để phát triển không ngừng. Ngoài ra còn có một lý do mà theo quan niệm truyền thống cho rằng nó đóng vai trò chủ đạo vì nó là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định nền kinh tế, là lực lượng tạo điều kiện giúp đỡ và liên kết các thành phần kinh tế cùng phát triển thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Kinh tế nhà nước góp phần giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng tạo sự ổn định cho xã hội.
1.3 Biểu hiện của chủ đạo
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã được bắt đầu đề cập đến từ Đại hội Đảng lần thứ VII và đến các kỳ Đại hội sau này. Những quan niệm mới xuất hiện và bổ sung cho những quan niệm cũ.
Văn kiện Đại hội VII nhấn mạnh “kinh tế quốc doanh (kinh tế nhà nước) được củng cố và phát triển trong những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những công việc mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh. Theo hướng đó khu vực kinh tế quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thể hiện vai trò chủ đạo với chức năng như một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước”. Như vậy biểu hiện của chủ đạo được thể hiện ở nhiều mặt: Là lực lượng nắm các yết hầu kinh tế, giữ vị trí chi phối nền kinh tế đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng tạo điều kiện giúp đỡ và liên kết các thành phần kinh tế khác cùng phát triển...
Đại hội VIII của Đảng khẳng định tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Để cụ thể hoá vai trò chủ đạo của nền kinh tế văn kiện VIII ghi “ Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có liên quan đến quốc phòng an ninh”.
Đến Đại hội IX của Đảng biểu hiện của vai trò chủ đạo được ghi trong văn kiện: “Tiếp tục đổi mới và phát tiển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiẹu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Như vậy có thể khẳng định những biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã được ghi trong văn kiện VII, VIII, IX. Khái quát lại có thể thấy đượcvai trò đó được xác định trên 4 yếu tố:
Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội.
Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chính sách điều tiết và quản lý vĩ mô.
Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Làm nòng cốt cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nền tảng vật chất kỹ thuật cho xã hội mới.
II. Quan điểm về vai trò của kinh tế Nhà nước.
Trên thế giới nói chung cũng như ở Nhà nước ta, vai trò của kinh tế Nhà nước có tính ổn định tương đối, tuỳ thời gian và tuỳ tình hình mà vai trò của kinh tế Nhà nước biến đổi phù hợp với bản chất của Nhà nước theo những biểu hiện của vai trò chủ đạo đã đề cập đến những vai trò chủ yếu của kinh tế Nhà nước ta ở 3 mặt sau.
2.1. Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Kinh tế Nhà nước cần phải mở đường các lĩnh vực sau:
Một là, xây mới, nâng cấp, cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho cuộc sống như: Giao thông (đường xá, cầu cống), điện, thông tin liên lạc, nước sạch và các công trình công cộng khác phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi cần vốn lớn, thời gian thi công dài, hiệu quả thu hồi vốn thấp hoặc bao cấp. Vì thế thông thường nhiệm vụ đó đặt lên vai kinh tế Nhà nước để khắc phục sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng và tạo nền tảng cho nền kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này Nhà nước cần phải xây dựng quy hoạch một cách khoa học và khả thi. Vấn đề đặt ra cần cân nhắc, tính toán, thảo luận, dân chủ trong khi thực hiện và xác định những hạng mục công trình cần đầu tư dứt điểm bằng khả năng hiện có, tránh giàn trải vốn, lãng phí, chất lượng hiệu quả thấp.
Hai là, tập trung nghiên cứu để xây dựng mới và cải tạo, bổ xung, giúp đỡ các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế mũi nhọn mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh thị trường đem lại thu nhập lớn, thu hút được lực lượng lao động, tạo đà cho phát triển kinh tế và hội nhập với khu vực và thế giới. Tất nhiên Nhà nước và kinh tế Nhà nước cần phải xác định vị thế những khu vực nào? ngành nào? hàng hoá nào cần phải mở đường đi trước. Việc phát triển các ngành, các hàng hoá mũi nhọn tạo ra bước đột phá của nền kinh tế phù hợp với quy luật phát triển chung của nền kinh tế Nhà nước, thể hiện rõ chiến lược phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Có thể khẳng định làm như vậy vai trò mở đường, đòn bẩy, hướng dẫn giúp đỡ của kinh tế Nhà nước có giúp đỡ mạnh nhất.
Ba là, Nhà nước tạo điều kiện tối đa để khu vực kinh tế Nhà nước đi đầu trong công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong việc nghiên cứu, chế tạo, triển khai nhập, chuyển giao các loại công nghệ truyền thống, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có khả năng giải quyết việc làm và bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời xoá bỏ dần tình trạng lạc hậu của nền kinh tế tạo năng suất lao động cao, làm cơ sở nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần phải khẳng định rằng đầu tư cho khoa học giáo dục và công nghệ là đầu tư cho phát triển. Vì thế Nhà nước cần huy động mọi nguồn vốn đầu tư thích đáng hơn để có sự chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế.
Từ sự tạo điều kiện giúp đỡ của Nhà nước, kinh tế Nhà nước xâm nhập, lôi cuốn, tác động đến các thành phần kinh tế khác, biểu hiện trực tiếp và hiệu quả ở vai trò mở đường vào khoa học giáo dục và công nghệ.
Bốn là, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thăm dò, khai thác, bảo quản, phát triển và sử dụng có hiệu quả, tài nguyên và các tiềm năng khác của đất nước.
Hơn ai hết khu vực kinh tế Nhà nước là người nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, là chủ thể quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kinh tế Nhà nước cần phải đi tiên phong là người mở đường dẫn lối cho các thành phần kinh tế khác bằng chính vai trò kinh tế của mình trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên và các tiềm năng của xã hội. Qua thực tiễn những nước thành công trong mô hình kinh tế thị trường, trong quá trình phát triển kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp đáng kể trong việc cải tạo cơ cấu kinh tế, phát huy tiềm năng của nền kinh tế, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng lực lượng lao động, khai thác tiềm năng về khoa học kỹ thuật, tạo dựng những ngành kinh tế cơ bản và trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng của xã hội.
Năm là, Kinh tế Nhà nước mở đường đi đầu trong đổi mới trình độ và năng lực quản lý kinh tế với trang thiết bị công cụ quản lý hiện đại, hiệu quả và chế độ phân phối hợp lý, khuyến khích làm giầu chính đáng, lành mạnh hoạt động tài chính, chống lãng phí tham nhũng.
Trước mắt và lâu dài kinh tế Nhà nước cần phải làm gương đổi mới một cách căn bản và thực chất lĩnh vực này. Một mặt đảm bảo công bằng kích thích năng lực sáng tạo và tinh thần làm chủ của người lao động, xoá dần những tồn tại tiêu cực trong xã hội, “quốc nạn” tham nhũng và những bất công khác. Mặt khác, kinh tế Nhà nước đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu, chính sách xã hội.
Sáu là, kinh tế Nhà nước là người tiên phong làm gương cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước. Đồng thời nó đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia, tạo điều kiện đầu tư cho kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi. Kinh tế Nhà nước là nơi thu hút một lực lượng lao động khá đông đảo, góp phần giải quyết việc làm, làm hạn chế tình trạng thất nghiệp, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội.
Bẩy là, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, kinh tế Nhà nước bằng vai trò mở đường, hỗ trợ của mình đã thúc đẩy hình thành các trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội mới tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi để phân bố lại dân cư, hình thành cụm dân cư mới, trên cơ sở đó còn hình thành các trung tâm kinh tế, dịch vụ hiện đại, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tám là, kinh tế Nhà nước tiêu biểu xem trọng người lao động, động lực của sự phát triển. Có thê nói đây là một trong những vai trò quan trọng của kinh tế Nhà nước. Nó vừa mang ý nghĩa kinh tế lại vừa mang ý nghĩa nhân văn – xã hội.
Người lao động trong mọi chế độ xã hội bao giờ cũng là yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, nhưng nếu có sự tách biệt giữa con người với tư cách là mục tiêu mà xã hội phải chăm lo thì nhất định động lực phát triển kinh tế sẽ không được thực hiện. Con người với tư cách sáng tạo ra lực lượng sản xuất, đồng thời trong quá trình ấy cũng tự hoàn thiện và nâng cao năng lực của mình.
Do đó việc xem trọng nhân tố con người là điều kiện quan trọng, quyết định việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Điều đó hiện nay là một chân lý hiển nhiên xong trong quá trình phát triển của nhân loại đã trải qua nhiều thăng trầm: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người lao động chỉ được xem như là một công cụ biết nói. Đến chế độ phong kiến cuộc sống của người lao động phần nào được cải thiện hơn song họ vẫn bị lệ thuộc vào chủ phong kiến, họ được xem như là phương tiện để đem lại sự giàu có cho chủ. Khi nhân loại bước sang kỷ nguyên văn hoá Tư bản chủ nghĩa, người lao động được tự do về thân thể nhưng sức lao động của họ trở thành hàng hoá đặc biệt, được mua bán trên thị trường với giá hết sức rẻ mạt. Việc nhà tư bản trả công cho người lao động là việc duy trì sức lao động cho người lao động, đồng thời con mang ý nghĩa duy trì nguồn lực lao động. Vấn đề đặt ra là: Muốn tăng hiệu quả sản xuất xã hội thì phải tăng chất lượng, tăng mức sống cho người lao động.
Việc xem trọng người lao động trong quá trình phát triển kinh tế thị trường biểu hiện ở việc Nhà nước quan tâm đào tạo lại người lao động từ việc tăng trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người lao động đến việc chi phí của Chính phủ cho công tác đào tạo lại ngày càng tăng. Cùng với việc xuất hiện chế độ tham dự đã thu hút người lao động vào việc chia cổ phần tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận ở nước ta trong doanh nghiệp Nhà nước, công nhân viên cũng như người lao động được quan tâm sâu sắc đến đời sống thể hiện bằng nhiều chế độ ưu đãi. Mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống của công nhân viên luôn là những mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Điều đó thể hiện con người đã được quan tâm với vai trò là một mục tiêu mà xã hội phải chăm lo.
Tóm lại, còn nhiều lĩnh vực khác nữa mà kinh tế Nhà nước mở đường cho bản thân nó và cả nền kinh tế vận động đi lên. Vai trò mở đường của kinh tế Nhà nước về thực chất tạo nền tảng để định hướng cho cả nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo, phù hợp quy luật, phát triển nhanh, bền vững, gắn với vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
2.2. Vai trò lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước phải có tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế Nhà nước là lực lượng kinh tế, một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế Nhà nước như hệ thống tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên và những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có.
Cho đến nay hầu như những sản phẩm, hàng hoá cho sản xuất và đời sống do doanh nghiệp cung cấp như: Phần lớn những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đường xá, bến cảng, trạm trại, điện, nước, bưu chính viễn thông, an ninh quốc phòng, giáo dục văn hoá…Bộ phận phi kinh tế Nhà nước đảm bảo những dịch vụ chủ yếu cho đời sống và sản xuất như: Tài chính, ngân hàng, vận tải hàng hoá…
Vai trò và công cụ quản lý vĩ mô của kinh tế Nhà nước tạo tiền đề vững chắc cho nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, cũng như đổi mạnh để đối phó với những đột biến bất thường. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước thông qua kinh tế Nhà nước biểu hiện sự phát triển của lực lượng sản xuất, ở sự tận dụng nguồn lực khan hiếm để sản xuất vật chất và ở trình độ quản lý. Cùng với công cụ quản lý khác kinh tế Nhà nước góp phần làm lực lượng sản xuất góp phần bổ sung kịp thời. Đặc biệt khi có biến động xấu của cung cầu hàng hoá gây nên, giả sử có sự dư thừa hoặc thiếu những mặt hàng chiến lược trong đời sống thì Nhà nước không thể khống chế bằng biện pháp hành chính: Ra lệnh tịch thu, bán hạ giá…trái lại Nhà nước cần phải sử dụng khu vực kinh tế Nhà nước để can thiệp, tức là tham gia mua bán với các chủ thể khác để ổn định thị trường. Hoặc cần thiết để phát triển một số ngành kinh tế còn quá mới mẻ, lại đòi hỏi nguồn vốn lớn, thu hồi vốn chậm. Nếu tư nhân không muốn đầu tư Nhà nước không thể bằng mệnh lệnh hành chính ra lệnh cho họ làm mà phải bằng lực lượng vật chất của mình là kinh tế Nhà nước đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường mục đích chung của doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng sự khác nhau ở chỗ: khu vực tư nhân lợi nhuận là mục đích cá nhân vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất còn khu vực kinh tế Nhà nước lợi nhuận phục vụ lợi ích xã hội trong đó có bản thân người lao động và điều quan trọng nữa là tạo sự ổn định trong sự phát triển kinh tế chị xã hội. Việc Nhà nước sử dụng công cụ của mình là kinh tế Nhà nước tham gia thị trường không phải là ý đồ bành chướng thôn tính, bóp chết khu vực tư nhân mà Nhà nước vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân bằng các chính sách ưu đãi.
Kinh tế Nhà nước là một công cụ điều tiết vĩ mô để hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, kịp thời lấp đi những “khoảng trống” của kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò tiên phong trong sản xuất kinh doanh, cần thiết đầu tư vào những ngành sinh lợi nhuận thấp nhưng lại quan trọng đối với đất nước, những ngành kinh tế mà những thành phần kinh tế khác không mấy quan tâm nhưng rất cần cho xã hội và không thể bỏ qua những ngành vốn lớn như đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế các công trình phúc lợi, các lĩnh vực bảo vệ môi trường môi sinh.
Tuy nhiên, như Nhà nước ta hiện nay, trong nền kinh tế thị trường và sự tham gia của nhiều chủ thể trong cơ chế cạnh tranh và đào thải, bên cạnh những mặt tích cực mà mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh đã đóng góp thì cũng chính họ làm bộc lộ ra những khiếm khuyết hạn chế: việc chạy theo lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hoặc cố tình hoặc vô tình đã bị dẫn dắt bởi bàn tay “vô hình” đã vi phạm lợi ích chung của xã hội. Tình trạng lãng phí tài nguyên cạn kiệt nguồn môi sinh, môi trường, phân hoá giàu nghèo đã này sinh ra nhiều tệ nạn xã hội. Để hạn chế những khuyết tật trên kinh tế Nhà nước cùng với các công cụ đòn bẩy, kinh tế để quản lý nền kinh tế vĩ mô đảm bảo cho sự phát triển ổn định, cân bằng, hiệu quả nền kinh tế.
2.3. Kinh tế Nhà nước cần phải đảm nhiệm vai trò là nguồn lực nuôi bộ máy Nhà nước.
Như ta đã biết Nhà nước không phải là cái gì bẩm sinh sẵn có, không phải là cái gì được sinh ra ở ngoài xã hội áp đặt vào xã hội, cũng không phải do ý kiến chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào mà sự ra đời của nó là một tất yếu khách quan. Giai cấp lập ra và sử dụng Nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế, chiếm giữ tài nguyên thiên nhiên, những tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước là một kiểu tổ chức của xã hội có giai cấp, nó là một bộ máy tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội do giai cấp thống trị thiết lập ra. Như vậy, Nhà nước là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Số nhân viên làm việc cho Nhà nước có tỷ lệ khá lớn trong số những người có công ăn việc làm. ở nước ta trên 6 triệu người hưởng lương của Nhà nước thì 1,2 triệu người làm việc trong bộ máy Nhà nước (báo cáo của Bộ trưởng, Ban Tổ chức Chính phủ trong kỳ họp Quốc Hội thứ IV- khoá X). Ngân sách Nhà nước – bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước thông qua phân phối lại để trả lương cho nhân viên trong bộ máy của mình. Vai trò của Nhà nước không phải là đơn giản khi có tới 20% số người hưởng lương thuộc về bộ máy Nhà nước.
Trên thực tế nước ta hiện nay, kinh tế Nhà nước còn kém phát triển nên những vấn đề tiền lương còn nhiều bất cập như: lương còn thấp, còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, chính vì thế cần phải cải cách hành chính hợp lý và đổi mới thu chi ngân sách Nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế Nhà nước làm tăng nguồn thu trong ngân sách Nhà nước.
Phần III
Thực trạng và phương hướng đổi mới phát triển kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay
I. thực trạng của kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay.
ở nước ta thành phần kinh tế quốc doanh ( thành phần kinh tế Nhà nước) từ gần 40 năm trở lại đây khoác áo chủ đạo của kinh tế quốc doanh nhưng trên thực tế vai trò đó được thực hiện như thế nào?
Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp khoảng 40%, số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 20%. Nếu tính đi khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn định. Có thể khái quát lên những tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay như sau:
- Doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều số lượng nhưng lại nhỏ về quy mô, còn giàn trải theo ngành nghề và địa phương.
- Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước là phổ biến và nghiêm trọng.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hậu quả là chưa bao giờ tạo được nhiều sản phẩm cho quốc gia, sản phẩm chất lượng có hàm lượng chất xám và có công nghệ cao trên cơ sở kết hợp phát huy lợi thế so sánh nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế. Khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế của sản phẩm do doanh nghiệp Nhà nước sản xuất còn thấp. Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng…có giá cao hơn giá của sản phẩm cùng loại nước ngoài từ 20-40%, riêng mặt hàng đường thô cao hơn 70-80%.
Như vậy, trên thực tế khu vực kinh tế Nhà nước chưa đảm bảo hiệu quả và chưa thực hiện tốt vai trò chủ đạo (Văn kiện Đại Hội VIII) một việc đặt ra là phải đổi mới kinh tế Nhà nước nhưng trước hết phải tìm ra được nguyên nhân gây ra sự yếu kém đó.
II. Nguyên nhân.
người ta nói kinh tế Nhà nước là con đẻ của Nhà nước; được Nhà nước bao bọc che trở, điều này không thể phủ nhận. Hầu như các doanh nghiệp Nhà nước không có chiến lược phát triển rõ ràng, cơ bản, lâu dài mà chủ yếu sinh ra là để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội (thời bao cấp) và ăn chênh lệch trong thời kỳ chuyển đổi. Vì các doanh nghiệp Nhà nước là “con đẻ” nên Nhà nước giúp đỡ ưu ái từ trong chứng: Thuế thấp, lãi xuất ưu đãi. Đặt trong môi trường quan hệ sản xuất lạc hậu và bảo thủ, Giám đốc và người lao động đều yếu kém về trình độ văn hoá nghiệp vụ quản lý, công nghệ lạc hậu cũ kỹ…thực tế các Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước trước kia ít có quyền tự chủ làm theo mệnh lệnh, áp đặt, dựa dẫm và ỉ nại vào Nhà nước.
Chính sự can thiệp quá sâu đó đã làm thủ tiêu động lực chính, tính chủ động, sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, làm tê liệt khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Những nguyên nhân trên dẫn đến những tồn tại hay những mặt hạn chế của kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Hiện nay cần tích cực tìm ra gải pháp đổi mới để kinh tế Nhà nước có đủ khả năng đảm nhiệm và làm tròn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
III. Phương hướng đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Những tồn tại và nguyên nhân đã nêu và phân tích ở trên cần được khắc phục ngay để kinh tế Nhà nước thể hiện và làm tròn vai trò chức năng của mình. Phương hướng đổi mới như sau:
3.1. Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ.
Theo tinh thần Nghị quyết TW (khoá VIII) ngày 21/4/1998, Thủ Tướng Chính phủ ra chỉ thị 20/1998/CT-TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở phân loại doanh nghiệp.
Những lĩnh vực khai thác tài nguyên quốc gia như giầu khí, thuỷ điện, vàng bạc đá quý…phải dành cho doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng thực tế ở nước ta trong thời gian vừa qua do hạn chế về vốn và kỹ thuật, nước ta phải liên doanh với nước ngoài để thăm dò khai thác dầu khí. Mặc dù không được trọn vẹn sử dụng các nguồn tài nguyên cho quá trình sản xuất nhưng nhờ biện pháp đó chúng ta mới có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu trong quá trình sản xuất. Chúng ta cũng có thể liên doanh liên kết với nước ngoài trong những lĩnh vực khai thác các nguồn nguyên liệu khác.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng cần nhiều vốn, thời gian thu hồi vốn chậm và có thể không có lãi. Do vậy thông thường ở nhiều quốc gia doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải nắm giữ để tạo điều kiện phát triển đất nước vì lĩnh vực này, tư nhân “ngại” kinh doanh. Việc xây dựng các con đường quốc lộ cao tốc, các cây cầu, bến cảng, sân bay…thường được Nhà nước cấp kinh phí do DNNN quản lý. Nhưng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng quá lớn cần rất nhiều vốn, ngân sách Nhà nước không thể đáp ứng được, do vậy nhiều quốc gia đã kêu gọi tư nhân vào việc tham gia cơ sở hạ tầng, họ thuê đất của Nhà nước sau đó xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, chế xuất, sau đó cho các công ty khác thuê lại. Họ có thể thầu một số cây cầu hoặc một số đoạn đường để thu phí trong thời gian quy định. Do vậy, nước ta cũng có thể phân tích đến việc khuyến khích các tư nhân tham gia lĩnh vực này.
Các ngành công nghệ chế biến có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và đây cũng là ngành kinh doanh có khả năng thu lợi nhuận lớn. Các ngành này ở nước ta hiện nay phần lớn thuộc về doanh nghiệp Nhà nước. Một số doanh nghiệp làm ăn có lãi, tuy mức lãi không lớn. Một số vẫn còn bị thua lỗ đặc biệt là các doanh nghiệp mà công nghệ thiết bị lạc hậu, khả năng cạnh tranh kém. ở đây có hai vấn đề cần được phân tích: đổi mới như thế nào đối với các DNNN hiện có và tiếp tục xây dựng mới những DNNN theo hướng nào? Có thể giải quyết vấn đề thứ nhất theo hướng chủ yếu là mở rộng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức đặc biệt là hình thức cổ phần hoá. Việc thành lập các doanh nghiệp Nhà nước mới trong lĩnh vực này có thể theo hướng sau: nếu Nhà nước thấy phải mở mang các doanh nghiệp trong các ngành mới, lĩnh vực công nghệ mới, những ngành lợi nhuận cao... Nhà nước có thể thành lập ngay các công ty cổ phần hoặc liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác. Có thể phải rất thận trọng khi ra các quyết định xây dựng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trong các ngành công nghiệp chế biến.
Trong lĩnh vực ngân hàng, ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay chủ yếu là các DNNN, tuy đã có một số ngân hàng cổ phần, một số ngân hàng nước ngoài được hoạt động. Trong thời gian tới cần mở rộng thêm các ngân hàng cổ phần có sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để hoạt động tài chính thêm đa dạng.
Như vậy theo hướng phân tích như trên thì các DNNN nên ưu tiên trước hết ở các ngành, các lĩnh vực, mà các thành phần kinh tế khác trên thực tế là chưa hoặc không muốn làm, không đủ sức làm. DNNN phục vụ nhiều cho mục tiêu xã hội.
Sắp xếp lại cơ cấu sở hữu, trong quá trình đổi mới cơ cấu sở hữu phải giải quyết hai vấn đề là: một mặt chuyển chế độ sở hữu đơn nhất sang chế độ sở hữu đa dạng, hỗn hợp, sử dụng nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại trong nền kinh tế, trong từng ngành, từng lĩnh vực và từng doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Chính điều này tạo ra sự độc lập tự chủ của mỗi đơn vị kinh doanh trên thị trường.
Trong cơ cấu sở hữu đa dạng như vậy, sở hữu Nhà nước cần giữ ở các ngành cung cấp cơ sở kinh tế hạ tầng quan trọng nhất cho toàn bộ nền kinh tế, thuộc các lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia hoặc mộ số ngành dịch vụ công cộng đặc biệt khác.
Tổ chức hợp lý các tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp, tập đoàn kinh doanh lớn có uy tín, có tầm vóc quốc gia và quốc tế, tránh phân tán lực lượng có đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. Hiện nay mới chỉ có 18 tổng công ty Nhà nước theo quyết định số 91, với số vốn tối thiểu 500 tỷ đồng/tổng công ty. Tuy mới thành lập, các tổng công ty này đã tỏ ra có lợi thế và triển vọng, có sức hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Đối với các doang nghiệp thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên thì cần mạnh dạn chuyển sang hình thức sở hữu khác, hoặc cho thuê, hoặc giải thể. Việc giảm bớt doanh nghiệp Nhà nước không có nghĩa làm giảm sức mạnh kinh tế của nó. Trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, ở những ngành kinh tế nhất định không ảnh hưởng đến việc điều tiết lớn của nền kinh tế, thành phần kinh tế nào có điều kiện phát triển tốt thì nên tạo điều kiện cho thành phần đó phát triển, không nhất thiết phải là DNNN. Số lượng DNNN có thể giảm nhưng như thế nó sẽ thực sự là lực lượng nòng cốt để cân đối vĩ mô.
Năm 1990 cả nước có 12300 DNNN qua các dợt sắp xếp đến, hết tháng 6/1998 còn gần 5800 DNNN, sau khi đã sát nhập 3000 doanh nghiệp và giải thể 3800 doanh nghiệp.
Hiện nay, trong tổng số 5280 DNNN chỉ có 20,9% có số vốn trên 10 tỷ đồng; 65,5% số doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng. Phần lớn các doanh nghiệp thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, không có thị trường tiêu thụ ổn định, cơ chế quản lý tài chính còn nhiều bất cập cùng với đội ngũ cán bộ quản lý và lao động yếu kém lại đặt trong bối cảnh công cụ quản lý vĩ mô, hệ thống pháp luật, chính sách cũng hư quá trình triển khai tổ chức thực hiện, sắp xếp lại DNNN còn chưa cụ thể, lúng úng, bất cập.
Theo kế hoạch sắp xếp ( chỉ thị số 20/CT -TTg) thì đến hết năm 1992 phân loại DNNN như sau.
Số doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn Nhà nước chiếm 49,8% tổng số doanh nghiệp.
Số doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu, trong đó có những doanh nghiệp cần duy trì tỉ lệ cổ phần chi phối hoặc cổ phân đặc biệt của Nhà nước chiếm 43,10% tổng số doanh nghiệp.
Số doanh nghiệp bị thua lỗ lâu dài, cho phá sản là 8,22% tổng số doanh nghiệp.
Trên thực tế, tỷ lệ doanh nghiệp giữ 100% vốn Nhà nước cao nơn nhiều so với kết quả phân loại. Theo phân loại hiện có 68% số doanh nghiệp giữ 100% vốn Nhà nước. Như vậy sở hữu Nhà nước còn quá lớn nhưng năng suất lại thấp, hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với đầu tư.
Đảm bảo cho kinh tế Nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất về kỹ năng suất lao động cao, chất lượng và hiệu quả kin tế - xã hội cao. Các DNNN nhìn chung có công nghệ lạc hậu. Tình hình này có phần do hậu quả nặng nề của thời kỳ bao cấp trước đây ( chiếm 90% thiết bị hiện có ). Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên DNNN không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ. Một số nhà máy mới được xây dựng sau năm 1990 ( chiếm khoảng 10% năng lực thiết bị hiện có ) do thiếu vốn nên hạn chế khả năng lựa chọn. Theo một số tài kiệu khảo sát một số ngành của nước ta dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giơí từ 10 đến 20 năm, chỉ có số ít các xí nghiệp liên doanh rừ một số dây truyền nhập vào là tương đối hiện đại ( gọi là hiện đại nhưng cấp công nghệ vẫn thuộc loại 2-3 ) còn phần lớn vẫn ở trình độ thấp so với các nưóc trong khu vực. Thực trạng trên đòi hỏi DNNN phải được đặc biệt quan tâm dầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để các sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao có sức cạnh tranh đứng vững trên thị trường.
II. Cổ phần hoá DNNN.
Như đã nhận định trong cơ chế thị trường, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng trở nên bức bách. Nhận thức được điều đó ngay từ năm 1992 Nhà nước đã thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN một hình thức thể hiện sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu.
Mục đích của việc cổ phần hoá một số DNNN là nhằm thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu, giảm bớt kinh tế Nhà nước ở những ngành, lĩnh vực không cần thiết có mặt DNNN hoặc DNNN chỉ nên giữ một tỷ trọng nhất định; để thu hút vốn đầu tư chiều sâu và đổi mới cơ cấu DNNN; trang thiết bị lại kỹ thuật, thay đổi công nghệ, mở rộng của doanh nghiệp sản xuất hiện có. Tuy nhiên hiện nay, không ít người cho rằng cổ phần hoá DNNN là hình thức tư nhân hoá, làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Mặt khác lại cho rằng khi cổ phần hoá thì sẽ mất đi những ưu đãi của Nhà nước mà từ trước tới giờ thường đi kèm với những lợi ích về vật chất. Một số giám đốc DNNN vẫn thích làm chức vụ cũ hơn làm chủ tịch hội đồng quản trị hay giám đốc cuả một công ty cổ phần, người lao động yên tâm hơn vì không sợ bị mất việc.
Như vậy, trước tiên là phải làm công tác tư tưởng, thấy được rõ lợi ích của việc cổ phần hoá và phải nhận thức được rằng vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước không phải biểu hiện ở số lượng DNNN.
Hai là, đổi mới và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế chính sách cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê DNNN theo định hướng của Nhà nước. Trước mắt phải có phương án để giải quyết công vụ và phương pháp xác định giá trị tài sản DNNN khi tiến hành cổ phần hoá, chuyển từ hội đồng định giá sang hình thức đấu giá theo cơ chế thị trường. Cần phải có chính sách rõ ràng, cụ thể giải quyết quyền lợi cho người lao động chỉ trong quá trình cơ cấu lại. Thay đổi cơ chế bán cổ phần cho thích ứng với quá trình đa dạng hoá sở hữu trong phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách cổ phần hoá, giao bán khoán, cho thuê DNNN làm cho người lao động hiểu rằng làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh thì quyền lợi chính trị - xã hội cũng bình đẳng như trong khu vực kinh tế Nhà nước.
Nếu có sự kết hợp của những chính sách vĩ mô và sự chủ động của các DNNN được cổ phần thì công cuộc cổ phần hoá DNNN sẽ thành công và đạt được mục tiêu đề ra. Từ thuận lợi đó tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
III. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với DNNN.
Đổi mới quản lý Nhà nước đối với các DNNN là một nội dung quan trọng trong công cuộc cải cách hành chính quốc gia và tổ chức lại khu vực kinh tế Nhà nước làm cho kinh tế Nhà nước phát triển trong cơ cấu nhiều thành phần.
Cho đến nay, các DNNN vẫn được tổ chức và quản lý theo ngành một cách chặt chẽ. Đồng thời các DNNN cũng chịu sự quản lý theo chức năng của cơ quan quản lý trong bộ máy Nhà nước. Thực tế cho thấy mô hình quản lý này có nhiều nhược điểm quản lý trùng lắp, chồng chéo. Đây là tình trạng một dàn nhạc có nhiều nhạc trưởng. Vấn đề nổi cộm hiện nay là các DNNN vẫn chưa xác định được thật cụ thể ai là người chủ đích thực của sở hữu Nhà nước. Việc quản lý vốn còn cứng nhắc, phân tán quản lý và sử dụng vốn khấu hoa không ổn định, việc luân chuyển vốn không chủ động và thiếu mất tính năng động, sáng tạo.
Vì vậy việc đổi mới quản lý Nhà nước đối với các DNNN nói riêng và kinh tế Nhà nước nói chung cần phải được đảm bảo bằng các yêu cầu sau:
Xoá bỏ tình trạng độc quyền của bất kì cơ quan quản lý nhà nước nào đối với DNNN ( trừ một số doanh nghiệp đặc biệt liên quan đến quốc phòng. Cần thiết lập sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và của các cơ quan chức năng trong bộ máy Nhà nước đối với mỗi DNNN. Thiết lập trạng thái độc lập, tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Tức là các DNNN sẽ là các chủ thể sản xuất, kinh doanh độc lập, không trực thuộc một cơ quan chủ quản nào trong bộ máy Nhà nước.
Cần tách quyền sử hữu ra khỏi quyền sử dụng, xác định rõ người chủ đích thực của Nhà nước trong các DNNN để khắc phục tình trạng " vô chủ ", nâng cao trách nhiệm trong việc sử dụng vốn. Điều này, một mặt thực sự tạo ra cho các DNNN là chủ thể chủ sản xuất, kinh doanh, độc lập, tự chủ, thích hợp với cơ chế thị trường, mặt khác tăng cường trách nhiệm trong việc bảo tồn, sử dụng vốn có hiệu quả. Để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của DNNN cần nâng cao tích hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, của tập thể người lao động và giám đốc. Việc thành lập tổng cục quản lý vốn là một giải pháp đúng đắn để quản lý có hiệu quả vốn trong các DNNN. Phảo đánh giá toàn diện khả năng sinh lợi của từng doanh nghiệp, do chính sách ưu đãi của Nhà nước, do tài nguyên của đất nước mang lại... thì phải có sự điều tiết thích hợp. Nói chung bảo toàn vốn và có lãi là nguyên tắc quan trọng nhất và là mục tiêu cơ bản để quản lí DNNN tạo cơ số vững chắc cho Nhà nước thực hiện đúng các định hướng vĩ mô.
Cần cải tiến chế độ báo cáo và kiểm soát DNNN như thủ tục báo cáo và kiểm soát chặt chẽ nhằm đánh giá kịp thời, chính xác hiệu quả của DNNN. Quy định rõ trách nhiệm và cải cách cơ chế kích thích đối với người quản lý và công nhân viên. Cần có sự phân biệt giữa những DNNN hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, và DNNN hoạt động công ích để kích thích sự phát triển.
IV. Đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý DNNN đáp ứng được yêu cầu mới, thích ứng với cơ chế thị trường.
Trong quá trình đổi mới đội ngũ cán bộ quản lý DNNN đã bước đầu thích nghi được với môi trường và điều kiện kinh doanh mới trong cơ chế thị trường. Về hình thức hiện nay gần 90% số giám đốc các DNNN có trình độ từ đại học trở lên so với 52,8% ở các công ty trách nhiệm hữu hạn, 70% ở công ty cổ phần và 13% ở các doanh nghiệp tư nhân, và 10% ở các hợp tác xã. Tuy vậy trên thực tế nhìn chung đội ngũ quản lý ở các DNNN hiện nay trong tình trạng vừa thiếu lại vừa thừa. Thiếu những người giỏi, những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về thị trường và thừa những cán bộ " bậc thường, bậc chung " được đào tạo từ cơ chế cũ, thiếu năng động, khó thích nghi với cơ chế thị trường.
Do đó đào tạo lại và đào tạo mới đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp Nhà nước có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý, quản trị kinh doanh, đáp ứng yêu cầu quản lý DNNN trong cơ chế thị trương cũng như việc sàng lọc lại đội ngũ quản lý hiện hành... là một tiền đề áp dụng cho việc quản lý liểu mới các DNNN. Cần có những chính sách đãi ngộ tương xứng với chất lượng, trình độ quản lý, có chính sách ràng buộc chặt chẽ lợi ích với trách nhiệm và đồng thời phải sử lý kịp thời, nghiêm minh những giám đốc làm thất thoát tài sản của DNNN.
Suy cho cùng, đội ngũ cán bộ quản lý DNNN là tiền đề quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới mô hình quản lý DNNN.
V. Đổi mới hệ thống kinh tế Nhà nước phi doanh nghiệp.
Ngoài DNNN, kinh tế Nhà nước còn bộ phận phi doanh nghiệp cấu thành, đó là hệ thống tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên..., cần tiếp tục đổi mới để làm tốt công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế, góp phần phát triển, nâng cao đời sống.
Cụ thể: hệ thống tài chính, ngân hàng phải thường xuyên đổi mới, trước hết là công tác tổ chức gồm bộ máy của hệ thống và cán bộ.
Bộ máy của hệ thống tài chính ngân hàng phải thống nhất, gọn và có hiệu lực đặc biệt, các tổ chức tài chính trung gian. Bộ máy đó phải phân cấp, phân quyền rành mạch đủ mạnh.
Vấn đề cán bộ luôn có tính chất quyết định trong việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời là nhân tố chống các hiện tượng tiêu cực như: chuyên quyền, lạm dụng, cửa quyền và phiền hà, sách nhiễu và chống tham nhũng, lãng phí... Muốn vậy, khi giao nhiệm vụ phải chỉ rõ và công khai trách nhiệm, quyền lợi của mỗi cán bộ khi thi hành công vụ.
Đổi mới chính sách tài chính, thực chất đó là kế hoạc thu, chi trong năm về tài chính.
Về thu: yêu cầu thu đúng, thu đủ và kịp thời. Muốn vậy phải rà soát và đổi mới chính sách thuế, trước mắt khắc phục sự xa lạ của chính sách thuế, sự chồng chéo nhiều cửa, nhiều cấp. Đồng thời xây dựng hoàn thiện loại thuế suất trên cơ sở tăng thu và thu công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Về chi: chi cho đúng đối tượng, tiết kiệm. Phải rà soát lại các đối tượng chi các danh mục, đặc biệt chấm dứt nhiều tổ chức, đơn vị sống dựa vào ngân sách ngoài diện ngân sách phân phối lại. Tiết kiệm giảm chi tiêu thường xuyên do đó tăng chi tiêu cho đầu tư cơ bản.
Đổi mới chính sách tiền tệ, trước mắt và lâu dài phải chủ động và quản lý được tổng cung tiền tệ và lãi suất hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ thông qua việc mở rộng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng vốn cho toàn bộ nền kinh tế nhằm khắc phục thị trường tiền tệ về tổ chức, cho vay nặng lãi đang ảnh hưởng, xói mòn nền kinh tế. Bằng việc đổi mới thường xuyên công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên môn, nhgiệp vụ, tài chính ngân hàng đảm bảo: lập lại kỷ cương để lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia và các doanh nghiệp cũng như các tổ chức đơn vị khác trong hệ thống kinh tế xã hội, trong việc quản lý sử dụng kém hiệu quả và lãng phí các nguồn vốn.
Kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, các chính sách kinh tế, trước chính sách tài chính, tiền tệ phải rất cơ bản thực sự là công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế thực hiện chiến lược phát triển lâu dài, cân đối, bền vững và ổn định về kinh tế - xã hội của quốc gia, tránh tình trạng chấp vá, lệ thuộc, đối phó.
VI. Cải cách thể chế kinh tế, tạo cho các DNNN một môi trường cạnh tranh để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
ở nước ta từ trước đến nay DNNN được hưởng quá nhiều ưu đãi, so với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì lợi thế bao giờ cũng thuộc về DNNN. Chính điều này làm cho các DNNN mất tính năng động, kinh doanh lãng phí, kém hiệu quả. Vì vậy, cần phảI tạo ra một môi trường cạnh tranh bằng cách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế phi Nhà nước trong đó bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, đặt các DNNN trong sự cạnh tranh bình đẳng là hết sức cần thiết. Điều này sẽ thúc đẩy các DNNN phải cải tiến cung vốn, với toàn bộ quá trình kinh doanh của mình. Mặt khác trong các chức năng của DNNN có chức năng: hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân, vì vậy nếu như các doanh nghiệp tư nhân không phát triển thì các DNNN sẽ không thực hiện được chức năng này, đương nhiên là các DNNN tự nhiên sẽ mất đi một lực lượng đối tác hết sức quan trọng để có thể cùng liên kết, liên doanh, hợp tác, cạnh tranh với nhau tạo độnglực cho nền kinh tế phát triển.
1. Về công tác quản lý vốn và tài sản.
Trong cơ chế cũ DNNN chỉ có một nhiệm vụ là sản xuất theo kế hoạch Nhà nước giao một cách hết sức chi tiết và nộp sản phẩm làm ra cho Nhà nước. Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp vừa đơn điệu, cứng nhắc khiến cho doanh nghiệp không thể phát huy được tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh. Trong một thời gian dài, doanh nghiệp chỉ trông chờ duy nhất vào vốn ngân sách cấp và vốn vay ngân hàng. Khi đổi mới cho đến nay, công tác quản lý tài chính trong DNNN đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt kể từ sau khi luật doanh nghiệp được thông qua. Sự ra đời của Tổng cục quản lỹ vốn và tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp là một bước quan trọng phân định rõ chức năng hành chính kinh tế của Nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của DNNN... Trong thời gian tới Nhà nước cần hoàn thiện đồng bộ những văn bản hướng dẫn, văn bản dưới luật để tạo ra cơ chế phối hợp ăn ý giữa các cơ quan chức năng và các DNNN, tạo đIều kiện cho hoạt động kinh doanh của các DNNN đạt hiệu quả cao.
2. Vấn đề phân phối lợi nhuận.
Trong chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ phân phối lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng. Mọi khoản lợi nhuận thu được trong doanh nghiệp thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp và chủ sở hữu toàn quyền quyết định. Trong DNNN vì nhà nước là chủ sở hữu nên mọi khoản lợi nhuận thu được từ các hoạt động của doanh nghiệp phải thuộc về nhà nước và do nhà nước toàn quyền quyết định. Trong cơ chế phân chia lợi nhuận của nhà nước phải giải quyết được hài hoà mối quan hệ lợi ích vật chất giữa Nhà nước, tập thể, và người lao động. Cơ chế phân phối đó phải vừa tạo điều kiện cho tăng tích luỹ cho đầu tư tái sản xuất mở rộng vừa khuyến khích người lao động gắn bó chặt chẽ quyền ợi và nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp.
Chế độ phân phối lợi nhuận hiện hành chưa khuyến khích được doanh nghiệp tích tụ nhiều vốn đầu tư cho sản xuất. Trong thời gian tới cơ chế phân phố lợi nhuận cần tiếp tục được hoàn thiện mà vấn đề nan giải nhất vẫn là phải sao giải quyết tốt mối quan hệ giữa một bên là nhu cầu đầu tư để phát triển sản xuất, một bên là nhu cầu tăng thêm phần phúc lợi và khen thưởng để cải thiện đời sống của những người lao động trong doanh nghiệp.
3. Vấn đề trả lương và chế độ tiền thưởng.
Chính sách tiền lương, tiền thưởng hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Tỷ lệ lương thấp, thưởng cao, cơ cấu, thu nhập của người lao động làm biên dạng bản chất tiền lương, tiền thưởng. Gọi là thưởng mà lại phát đaị trà cho cán bộ công nhân viên. Tiền thưởng chỉ có ý nghĩa khi nó được sử dụng hợp lý, kịp thời, đúng người, đúng việc. Có thể thưởng ít nhưng đúng mục đích sẽ làm cho tiền thưởng có tác dụng thật sự.
Để tiền lương, trở thành thu nhập chủ yếu của người lao động thì cần cải tiến chính sách tiền lương cho phù hợp hơn nữa.
VII. Mở rộng quan hệ liên kết, liên doanh giữa các DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Trong điều kiện một nền kinh tế mở năng động như hiện nay, kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp trên các lĩnh vực như vốn, công nghệ, thông tin thị trường, kinh nghiệm quản lý, tổ chức đào tạo nhân lực, tiêu thụ sản phẩm... sẽ làm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nên rất nhiều.
ở nước ta trong những năm gần đây, giữa các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đã xuất hiện hình thức liên kết có hiệu qủa với quy mô ngày càng lớn, góp phần làm giảm đi sự cách biệt cô lập không đáng có gữa các thành phần kinh tế. Đây chính là cơ sở để hình thành các tập đoàn kinh tế hỗn hợp, có năng lực, tập trung vốn, công nghệ hiện đại, sức lao động xã hội.
Tuy nhiên có một hiện tượng xảy ra là có hiện tượng mượn cớ liên doanh liên kết với DNNN để chiếm dụng vốn, vay vốn ngân hang, làm ăn phi pháp, buôn lậu, trốn thuế.
Những năm tới, kinh tế thị trường phát triển làm cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, cạnh tranh tất yếu xuất hiện chu cầu liên kết cùng có lợi sẽ hình thành mô hình cấu trúc kinh tế " công ty mẹ - công ty con ". Chính vì thế về phía Nhà nước cần nhanh chóng sửa đổi các văn bản luật, các chế định kinh tế, hình thành một môi trường pháp lý ổn định cho các doanh nghệp tự do cạnh tranh lành mạnh, tự do hợp tác liên doanh. Sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, tạo thế cạnh tranh khẳng định vị thế của hàng Việt Nam, của người Việt Nam trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới, là con đường tăng lên gấp bội nguồn nội lực. Thiếu nó không thể có một sự phát triển bền vững nào.
Kết luận
Kinh tế Nhà nước ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Trong quá trình hình thành và phát triển nó luôn có những biểu hiện là thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta hiện nay – nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của kinh tế Nhà nước ngày càng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: kinh tế Nhà nước là tổng thể các nguồn lực đang phát huy tác dụng trong guồng máy vận động của nền kinh tế quốc dân do Nhà nước nắm giữ và chi phối, đồng thời là công cụ định hướng và điều tiết nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của kinh tế Nhà nước đối với một đất nước xã hội chủ nghĩa Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng có những biện pháp đổi mới để phát triển kinh tế Nhà nước. Đổi mới phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, căn bản, có cơ sở khoa học và có tính khả thi là cái mà nước ta đã - đang và sẽ thực hiện để kinh tế Nhà nước tiếp tục làm tròn vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Tạp chí Cộng sản số 18 ( 9- 1996 ).
2. Tạp chí Cộng sản số 18 (9 - 2001).
3. Tạp chí Cộng sản số 1 (1 - 2002).
4. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 273 - tháng 2/2001.
5. Tạp chí Thương mại số 14/2001.
6. Tạp chí Hoạt động khoa học số 8/2001.
7. Văn kiện ĐạI hội VIII - NXB sự thật, Hà Nội - 1991.
8. Văn kiện ĐạI hội IX - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1998.
9. Văn kiện ĐạI hội IX - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001.
10. V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, NXB tiến bộ Mat-xcơ-va, 1978.
11. V.I.Lênin, toàn tập, tập 39, NXB tiến bộ, Mat-xcơ-va
12. Tạp chí Kinh tế phát triển, số 22 (1 - 2/1998).
13. Tạp chí Kinh tế phát triển số 7 + 8/1997.
Mục lục
Lời nói đầu………………………………………………………………….1
Phần I: Sự hình thành kinh tế nhà nước-bản chất kinh tế nhà nước………………………………………………………………………..2
I. quá trình hình thành và phát triển kinh tế nhà nước………....2
1. Kinh tế nhà nước hình thành cùng với Nhà nước…………………2
2. Tín tất yếu khách quan sự tồn tạI của kinh tế Nhà nước………….5
2.1. Kinh tế thị trường những ưu đIểm và khuyết tật của nó……….5
2.2. Kinh tế Nhà nước với chức năng góp phần đIều tiết vĩ mô…….6
II. Bản chất của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường..7
1. Quan điểm của Đảng ta về kinh tế Nhà nước…………………….7
2. Thế nào là kinh tế Nhà nước?…………………………………….7
Phần II:Vai trò của kinh tế nhà nước ở nước ta…………..9
I. Quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước…………..9
1. Chủ đạo là gì?…………………………………………………….9
2. Quan niệm về vai trò chủ đạo…………………………………….9
3. Biểu hiện của chủ đạo…………………………………………..10
II. Quan niệm về vai trò của kinh tế Nhà nước…………………11
2.1. Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển………………………………………………………………….11
2.2. Vai trò lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế………………………………………………………………...15
2.3. Vai trò là nguồn lực nuôi bộ máy nhà nước…………………17
Phần III: thực trạng và phương hướng đổi mới-phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay………………………..19
I. Thực trạng của kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay………19
II. Nguyên nhân…………………………………………………..20
III. Phương hướng đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay………………………………………………………………..20
3.1. Xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ ……………………………………………………………………….20
3.2. Cổ phần hoá DNNN…………………………………………24
3.3. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với DNNN…………………...25
3.4. Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý DNNN…………………...27
3.5. Đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước phi donh nghiệp…………28
3.6. Cải cách thể chế kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho DNNN nâng cao hiệu quả…………………………………………………………29
3.7. Mở rộng thể chế kinh tế, liên doanh giữa các DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…………………………31
Kết luận……………………………………………………………………33
Danh mục các tài liệu tham khảo……………………………34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34605.doc