Một là: thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đây là điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, huy động những tiềm năng to lớn của xã hội và phát triển sản xuất. Để thực hiện tốt chính sách này, một mặt, phải thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể để khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chính sách lâu dài, nhất quán của đảng, nhà nước ta, để tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài, mặt khác, phải kiên quyết xử lý mọi hành vi lừa đảo, buôn lậu, làm hàng giả nhằm bảo vệ sản xuất kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp.
Hai là: mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Muốn khai thác mọi nguồn lực cần phát triển mọi ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối, cân đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái. Tiếp tục mở rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
Ba là: tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển kinh tế hàng hoá. Cần tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của cac doanh nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường xã hội thống nhất và thông suốt cả nước; phát triển mạnh thị trường trong nước và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu, mà tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu dùng và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm gía cả hàng hoá, tăng thu nhập, tăng sức mua, làm cho dung lượng thị trường, nhất là thị trường nông thôn tăng lên. Hình thành và phát triển các thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán. Để các thị trường này phát triển cần triệt để xoá bỏ bảo cấp, thực hiện nguyên tắc: tự do hoá giá cả, tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng các loại thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, lành mạnh hoá thị trường, khắc phục tình trạng kinh tế ngầm, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vi phạm thị trường.
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho chúng ta một thế và lực trong quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế.
Sáu là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: dựa trên sở hữu hỗn hộp, đó là sự liên kết giữa nhà nước với các chính phủ hoặc các tổ chức kinh tế quốc tế trong các quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nhà nước tạo mọi điều kiện môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hướng thành phần kinh tế này phát triển trên những lĩnh vực công nghệ cao, phát triển kết cấu hạ tầng, giao thông thông tin điện nước… và phát triển hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu.
Trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các thành phần kinh tế trên có bản chất kinh tế xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình, đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội để đảm bào cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.3.Sự quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng cũng không thiếu các mặt khuyết tật. Do đó để điều tiết kinh tế thị trường thì phải có sự quản lý của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm
sửa chữa “những thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bào cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nhà nước phải điều tiết nền kinh tế thị trường như thế nào để vừa đáp ứng được những yêu cầu chung, đồng thời vừa bảo vệ được nền kinh tế dân tộc, không biến nó thành một nơi du nhập vo tội vạ những sản phẩm của nước ngoài mà trong nước cũng có thế sản xuất được. Chính đường lối của nhà nước đã tạo ra bộ khung thể chế có khả năng đảm bảo những quy mô và cấu trúc đầu tư cần thiết để vượt lên trình độ một nước công nghiệp hiện đại.
Không chỉ có đầu tư, những lĩnh vực ngoại thương, tiền tệ, thúê... cũng chịu sự chi phối về mặt đường lối của nhà nước một cách khá chặt chẽ. Trong các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới nhà nước có những chính sách đảm bảo cho khả năng cạnh tranh của các tổ chức kinh doanh của nước mình trong những sự đối đầu kinh tế gay go khốc liệt
Nhà nước phải thực hiện đường lối và chính sách nhằm bảo đảm những lợi ích xã hội của tất cả mọi người dân. Nhà nước cần đề ra những chính sách về việc làm, thu nhập, bảo hiểm xã hội và ủng hộ xã hội sao cho cái kinh tế không làm tổn hại tới cái xã hội, làm sao cho hai mặt đó thúc đẩy lẫn nhau lên đến trình độ cao hơn.
Nhà nước phải đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, nhà nước xã hội gắn với ý tưởng phúc lợi và đoàn kết, là đối trọng với các tầng lớp phi xã hội, phá hoại xã hội, do vậy nhà nước phải đề cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ tự giác của mỗi công dân trước những công dân khác, trước xã hội và loài người. Đặc biệt nhà nước phải tạo ra những điều kiện công bằng xã hội, không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong kinh tế thị trường.
Nhà nước quản lý bằng các công cụ:
Thứ nhất là kế hoạch và thị trường: thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch là hình thức thực hiện có tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương thức khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Việc tận dụng hai công cụ này không thể tách rời nhau mà là sự vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch để điều tiết tác động của quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý nền kinh tế phát triển theo kế hoạch. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kế hoạch phải bao quát được tất cả các thành phần kinh tế, các quan hệ thị trường, không chỉ các quan hệ thị trường trong nước mà cả các quan hệ thị trường quốc tế. Kế hoạch hoá của nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Thông qua kế hoạch dài hạn nhà nước cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp.
Thứ hai là xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể hoạt động có hiệu quả. Hai thành phần kinh tế này có vai trò quyết định nhất đối với việc quản lý nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế này có vai trò mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Nhờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do kế hoạch định ra.
Thứ ba là hệ thống pháp luật. Tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế xã hội, bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp (luật doanh nghiệp) về hợp đồng kinh tế và hộ lao động bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường… Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
Thứ tư là các chính sách đòn bẩy kinh tế: Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Đây là biện pháp quản lý chủ yếu. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước. Nội dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và các khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu, chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng để điều tiết cung cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới nỏng cung ứng tiền tệ, kìm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
Thứ năm là các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại. Để mở rộng và nâng cao hệ thống kinh tế đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất-nhập khẩu, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua các công cụ đó nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững độc lập chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
3.4.Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng thế mạnh của nước ta, thựchiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ vững được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại; có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới; phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần chuyên các thị trường quen thuộc, tranh thủ cơ hội để mở ra thị trường mới; cải thiện môi trường đẩu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài
Phần II THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
1.Những thành tựu.
Trước những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng của nước ta thấp và không ổn đinh.
Năm
1977
1978
1979
1982
1981
1982
1983
1984
1985
1986
Tốc độ tăng trường GDP(%)
2,8
2,3
2,0
1,4
2,3
8,8
7,2
8,3
5,7
5,4
Giai đoạn 1982-1986 tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng đến năm 1985 có dấu hiệu giảm sút. Kế hoạch 5 năm từ 1981-1985 đạt được những thành tựu nổi trội: Sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã ngăn chặn được đà giảm sút của những năm 1979-1980. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm của thời kỳ 1976-1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1985. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5% so với 0,6% hàng năm trong thời kỳ 1976-1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.
Sau đổi mới chúng ta mở cửa hội nhập kinh tế, nền kinh tế bắt đầu chuyển mình. Tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, tăng ở tất cả các ngành, mặc dù tốc độ tăng có khác nhau nhưng nó đã góp phần quyết định vào việc kìm chế và giảm lạm phát, nền kinh tế đi dần vào ổn định. Cơ cấu ngành có những bước chuyển dịch tích cực và tiến bộ: gia tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp phù hợp với quy luật chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định, đã kiểm soát được tỉ lệ lạm phát từ lạm phát 4 con số xuống còn không đáng kể. Từ 67,5% năm 1991 xuống còn 14,4% năm 1994 và 4% năm 2002. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Bảng 1. Cơ cấu GDP theo khu vực (%)
Năm
Nông lâm ngư nghiệp
Công nghiệp xây dựng
Thương mại dịch vụ
1994
27,43
28,87
43,7
1995
27,18
28,76
44,06
1996
27,76
29,73
42,51
1997
25,77
32,08
42,15
1998
25,78
32,49
41,73
1999
25,43
34,49
40,08
2000
24,53
36,73
38,74
2001
23,24
38,13
38,63
2002
21,8
37,4
40,8
2003
21,8
39,97
38,23
Nguồn: Niên giám thống kê 1989, 1994, 2000, 2002, thời báo kinh tế Việt Nam số 5 ngày 9-1-04, báo cáo thường niên 2002.
Bảng 2. Tốc độ tăng trưởng GDP (theo giá so sánh 1994)
Năm
1991-1995
1996-2000
2001
2002
2003
GDP
(Tỉ đồng)
165,912
243,926
292,535
313,135
335,681
Tốc độ tăng(%/năm)
8,2
7,3
6,89
7,04
7,24
Nguồn: niên giám thống kê 2002.
1.1.Công nghiệp.
Giai đoạn 1986-1990 tốc độ phát triển công nghiệp được duy trì như trước 1986 (tăng bình quân 8%/năm). Giai đoạn từ 1991 đến nay, sản xuất công nghiệp đi vào thế ổn định và phát triển, góp phần tích cực đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Năm 2000 so với 1990, quy mô sản xuất công nghiệp gấp 2,65 lần, bình quân mỗi năm tăng 12,7% (bảng 3). Nhìn chung các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như: điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than… Chất lượng hàng công nghiệp ngày càng được nâng cao. Sản phẩm công nghiệp không chỉ có chỗ đứng ở thị trường nội địa mà còn tham gia vào xuất khẩu. Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng nhanh (từ 53,7% năm 1995 lên 68,57% năm 2000). Giai đoanh 1997-1999 tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm sút ở hầu hết các ngành nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng; năm sau tăng hơn năm trước. Năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,5% riêng khu vực kinh tế
Ngoài quốc doanh tăng 19,22%. Năm 2003, tốc độ tăng trưởng là 16% cao nhất từ trước tới nay. Khu vực ngoài quốc doanh dẫn đầu với tốc độ tăng trưởng cao nhất 18,7%, tiếp là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 18,3%, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,4%.
Bảng 3. Tỉ lệ tăng trưởng của công nghiệp giai đoạn từ 1990-2000 (% so với năm trước)
Năm
Toàn ngành công nghiệp
Công nghiệp quốc doanh
Công nghiệp ngoài quốc doanh
Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1990
3,1
6,1
-0,7
76,2
1991
10,4
11,8
7,4
45,6
1992
17,1
20,6
9,6
40,3
1993
12,7
14,6
8,1
13,7
1994
13,7
14,7
11,2
12,8
1995
14,5
14,9
13,7
8,8
1996
14,1
11,9
11,4
21,7
1997
13,2
10,8
9,5
20,9
1998
12,1
7,9
6,3
23,3
1999
10,4
4,5
8,8
20,0
Nguồn: Niên giám thống kê 1989,1994, 1999, thời báo kinh tế Việt Nam
chuyên san 1999-2000
Với tốc độ tăng trưởng khá cao, nhất là giai đoạn 1991-1995, công nghiệp thực sự đóng vai trò là động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Do tăng với tốc độ cao, tỉ trọng của công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP đã tăng từ 22,67% năm 1990 lên 39,97% năm 2003. Nhưng lĩnh vực công nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên chủ yếu vẫn là dầu mỏ. Tỉ lệ tăng trưởng của công nghiệp chế biến là 12,3% còn thấp so với tỉ lên tăng trưởng của công nghiệp khai thác là 13,3%. Tỉ lệ các ngành công nghiệp chế biến mới chỉ chiếm 17,3% GDP (1998) và có xu hướng giảm tỉ trọng từ 80,5% (1995) xuống còn 79% (1999). Trong khi đó, tỉ trọng công nghiệp khai thác tăng từ 13,5% lên 14,8%. Mặt khác do sự yếu kém về công nghệ, về trình độ quản lý và chính sách bảo hộ sản xuất chưa rõ… cho nên giá một số sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cao hơn nhiều so với hàng nhập khẩu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính cạnh tranh của nhiều sản phẩm công nghiệp của nước ta còn rất thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Bảng 4. Giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế (Giá so sánh 1994) - tỉ đồng
Năm
1995
1999
2000
2001
Sơ bộ2002
Tổng số
103374.7
168749.4
198326.1
227342.4
260202.3
KVKT trong nước
77441.5
110234.9
127041.1
147081.4
168296.2
DN nhà nước
51990.5
73207.9
82897
93434.4
104348.2
Trung ương
33920.4
48395.3
54962.1
62118.9
69964.1
Địa phương
18070.1
24812.6
27934.9
31315.5
34384.1
Ngoài quốc doanh
25451.0
37027
44144.1
53647
63948
Tập thể
650
1075.6
1334
1575.1
1874.4
Tư nhân
2277.1
3718
4432.3
5275.8
6067.2
Cá thể
18190.9
21983
23432.3
24956.5
26254.2
Hỗn hợp
4333
10250.4
14945.5
21839.6
29752.2
KVcó vốn ĐTNN
25933.2
58514.5
71285
80261
91906.1
Nguồn: Niên giám thống kê 2002.
1.2.Nông, lâm, ngư nghiệp.
Giai đoạn 1986-2000 sản xuất nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt 3,9%. Trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, thành tựu lớn nhất: Bước đầu hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, chuyên canh với quy mô lớn (lúa ở đồng bằng song Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên…). Sản lượnglương thực tăng liên tục từ 18,4 triệu tấn (1986) đến 36,5 triệu tấn (2000) (tốc độ tăng 5%/ năm). Lương thực bình quân đầu người tăng từ 300Kg (1986) đến 450Kg (2000). Điều này không những góp phần đảm bảo an ninh lương thực mà còn tạo ra năng lực xuất khẩu. Từ chỗ hàng năm phải nhập từ 0,7-0,8 triệu tấn lương thực, liên tục từ 1989 đến nay, Việt Nam trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Giai đoạn 1986-2000, nước ta xuất khẩu 30 triệu tấn (bình quân 2 triệu tấn/ năm) với tổng giá trị xuất
Khẩu trên 6,2 tỉ USD, chiếm 11,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhờ giải quyết được vấn đề lương thực, nước ta đã bước đầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá cây trồng và vật nuôi, xoá dần tình trạng độc canh cây lương thực. Cơ cấu diện tích cây trồng thay đổi theo hướng tích cực, đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các cây phục vụ xuất khẩu như cà phê năm 1986 sản lượng cà phê là 18,5 nghìn tấn, năm 2000 là 698 nghìn tấn (tăng hơn 25 lần). Có thể nói các sản phẩm nông nghiệp là thế mạnh xuất khẩu của nước ta, có sức mạnh tương đối khá như gạo, cà phê, hạt điều đã tạo được chỗ đứng trên trường quốc tế.
Trong lâm nghiệp, thành quả lớn nhất là vốn rừng được giữ vững và phát triển. Độ che phủ của rừng đã tăng từ 27,7% năm 1990 lên 33,2% năm 2000.
Ngành thuỷ hải sản, việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản đang có xu hướng phát triển ổn định. Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi đã có thay đổi theo hướng giảm tỉ trọng trồng trọt và tăng tỉ trọng chăn nuôi trong khi giá trị tuyệt đối của mỗi ngành đều tăng.
Bảng 5. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh 1994)-tỉ đồng
Năm
tổng số
trồng trọt
Chăn nuôi
dịch vụ
1995
82307,1
66183,4
13629,2
2494,5
1996
87647,9
70778,8
14347,2
2521,9
1997
93783,2
75745,5
15465,4
2572,3
1998
99096,2
80291,7
16204,2
2600,3
1999
106367,9
86380,6
17337,0
2650,3
2000
112111,7
90858,2
18505,4
2748,1
2001
114989,5
92907,0
19282,5
2800
Sơ bộ 2002
121010,5
96921,2
21199,7
2889,6
Nguồn: niên giám thống kê 2002.
Bảng 6. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh 1994-tỉ đồng)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
5033,7
5630,0
5447,8
5257,4
5624,2
5901,6
6014,0
6029,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2002.
Tuy nhiên về cơ bản nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, còn nhiều yếu tố lạc hậu, năng suất thấp, cạnh tranh yếu, thị trường nông thôn còn ở giai đoạn đầu của sự hình thành, sản xuất kinh doanh nông nghiệp còn nhiều yếu kém, chưa gắn sản xuất với thị trường nên một số sản phẩm làm ra chưa tiêu thụ được.
Bảng 7. Giá trị sản xuất thuỷ sản-tỉ đồng.
Năm
tổng số
Khai thác
Nuôi trồng
1994
13028
9121
3907
1995
13523,9
9213,7
4310,2
1996
15369,6
10797,8
4571,8
1997
16344,2
11582,8
4761,4
1998
16920,3
11821,4
5098,9
1999
18252,7
12644,3
5608,4
2000
21777,4
13901,7
7875,7
2001
25359,7
14181
11178,7
Sơ bộ 2002
27441
14498
12943,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
1.3.Thương mại và dịch vụ
Về tổng thể, tỉ trọng của khu vực này trong cơ cấu kinh tế quốc doanh đã có sự thay đổi lớn. Năm 1985 chiếm 33,06% trong GDP, 1995:42,4%, 2003: 38,23%. Cơ cấu hoạt động thương mại đang chuyển dịch phù hợp với nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế mở từng bước hình thành thị trường hàng hoá dịch vụ, khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng, mở rộng sự giao lưu tro đổi hàng hoá giữa các vùng trong cả nước, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng. Giá cả hàng hoá do thị trường định đoạt, trừ những sản phẩm do nhà nước thống nhất quản lý. Các quyết định của sản xuất kinh doanh, về cơ bản, theo những tín hiệu của thị trường.
Hoạt động dịch vụ được coi là một lĩnh vực kinh doanh với nhiều hình thức đa dàng và được chú trọng phát triển. Tiềm năng du lịch được khai thác, bước đầu đã đóng góp vào ngân sách nhà nước và góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Nếu trong năm 1990, số du khách nước ngoài đến Việt Nam mới chỉ có 250000 lượt người, thì đến năm 2000 con số này ước lên tới 2100000 lượt người.
Lĩnh vực bưu chính viễn thông đã có sự thay đổi đáng kể, góp phần chuyển nhanh hệ thống kinh tế xã hội vốn lạc hậu của nước ta sang hiện đại bằng những bước nhảy vọt phù hợp với xu thế của thời đại và tiếp tục tăng trưởng 35%/năm. Đóng góp GDP hàng năm của ngành tăng từ 0,41% năm 1991 ước lên gần 2% năm 2000. Doanh thu, tài sản, nộp ngân sách năm 2000 tăng 20 lần so với 1991. Việt Nam hiện đạt tốc độ phát triển điện thoại đứng hàng thứ 3 trên thế giới (chỉ sau Hàn Quốc và Trung Quốc). Và là 1 trong 8 quốc gia trên thế giới đạt mục tiêu tổng hoà: tốc độ phát triển nhanh, công nghệ hiện đại và tính phổ cập.
Bảng 7. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ (giá thực tế) -tỉ đồng
Năm
tổng số
Khu vực kinh tế trong nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
1994
93490
93054
446
1995
121160
120560
600
1996
145874
144083
1791
1997
161899,7
159701,6
2198,1
1998
185598,1
183212,1
2386
1999
200923,7
198292,2
2631,5
2000
220410,6
216949,6
3461
2001
245315
241319
3996
Sơ bộ 2002
272793
267844
4949
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
Trong giai đoạn 1991-2000, tổng giá trị các loại dịch vụ tăng bình quân 8,2%/năm, trong đó tốc độ lưu chuyển hàng hoá tăng 15%, dịch vụ vận tải tăng 9,5%, dịch vụ tài chính, ngân hàng tăng 8,5%/năm. Năm 2003 tăng trưởng dịch vụ đạt 6,6% cao nhất trong 6 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển đạt 35,6% cao nhất từ trước đến nay. Nhìn chung, so với trước khi đổi mới, sự chuyển dịch cơ cấu tronglĩnh vực dịch vụ thương mại là khá mạnh mẽ, tỉ trọng trong cơ cấu quốc dân không ngừng tăng lên. Thị trường hàng hoá dịch vụ đang từng bước được hình thành và có tác động trực tiếp đến sản xuất và tiêu dùng, cơ cấu hoạt động thương mại chuyển dịch phù hợp với định hướng xuất khẩu. Đây thực sự là một lĩnh vực năng động nhất và góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế.
Bảng 8:Cán cân thương mại
Năm
1995
1997
1998
1999
2000
2001
Cán cân thương mại
-2706
-2407
-2140
-201
-1154
-1135
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 là 36,44 tỉ USD, tăng 16,8% so với năm 2001. Trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2002 đạt 11,31 tỉ USD, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước và tăng 31% so với năm 2001.
Bảng 9. Tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu.
Năm
Tổng số-triệu Rup-USD
Xuất khẩu-triệu USD
Nhập khẩu- triệu USD
1994
9880,1
4054,3
5825,8
1995
13604,3
5448,9
8155,4
1996
18399,5
7255,9
11143,6
1997
20777,3
9185,0
11592,3
1998
20859,9
9360,3
11499,6
1999
23283,5
11546,4
11742,1
2000
30119,5
14483,0
15636,5
2001
31247,0
15029,0
16218,0
Sơ bộ 2002
36438,8
16702,8
19733,0
Nguồn: Niên giám thốngkê 2002.
Tuy vậy, sự phát triển trong một số lĩnh vực dịch vụ chưa thích ứng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Thị trường trong nước chậm được củng cố và tổ chức lại. Chỉ số hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng có xu hướng giảm, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất. Quy mô và năng lực công việc còn hạn chế, mới đáp ứng khoảng 35% nhu cầu xuất khẩu và sức cạnh tranh còn yếu. Kinh doanh du lịch còn nhiều yếu kém trong cách thức tổ chức quản lý, sản phẩm dịch vụ, du lịch còn nghèo nàn, đơn điệu, thiếu sức cạnh tranh và tính hấp dẫn.
Bảng 10. Sản lượng và doanh thu bưu điện.
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Bưu phẩm có cước(triệu cái)
116,5
135,0
146,7
155,0
148,1
Bưu kiện đi có cước (triệu cái)
162,0
433,0
962,0
709,0
1080,0
Thư và điện chuyển tiền(nghìn bức)
1365,0
3358
3751
4412
4883
Báo chí phát hành (triệu tờ)
223,5
225,6
239,6
299,1
286,8
Điện báo có cước(triệu tiếng)
49,6
35
38,2
24,8
24,3
Điện thoại đường dài(triệu phút)
845,8
1736,5
2037,3
2490,7
2730,7
Doanh thu bưu điện (tỉ đồng)
4207,4
9249,5
9138,5
11000,9
13978,2
Nguồn: Niên giám thống kê 2002.
2.Những khuyết tật, yếu kém và nguyên nhân
2.1.Khuyết tật, yếu kém.
Cơ chế thị trường vừa có những mặt tích cực lại không ít những mặt hạn chế. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế của cơ chế thị trường: khủng hoảng, thất nghiệp, công bằng xã hội, phân hoá giàu nghèo, suy thoái môi trường… Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được thì còn không ít những mặt yếu kém mà chúng ta cần khắc phục.
Một là, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước trên đầu người còn rất thấp. Việt Nam là một trong 20 nước nghèo nhất thế giới. Nhìn chung, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, một phần do thiếu sức cạnh tranh. Rừng và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm trọng. Nạn buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu tới tình hình kinh tế xã hội. Hệ thống ngân hàng-tài chính còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý; đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, công tác quản lý, điều hành lĩnh vực này còn nhiều vướng mắc và thiếu sót. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể chưa mạnh.
Hai là một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao đang là một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Đào tạo chưa gắn với sử dụng, gây lãng phí. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Môi trường đô thị, nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Công tác quản lý báo chí, phân hoá, xuất bản nhiều mặt buông lỏng, để nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh. Một số giá trị văn hoá và đạo đức xã hội suy giảm. Cơ sở vật chất của ngành y tế con thiếu thốn và lạc hậu. Việc khám và chữa bệnh cho nhân dân, nhất là cho đồng bào nghèo còn phiền hà và tiêu cực. Mức sống nhân dân, nhất là nông dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách tiền lương và phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng. Tai nạn giao thông xảy ra ở mức nghiêm trọng. Các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và mại dâm lan rộng. Số người nhiễm HIV và mắc bệnh AIDS tăng. Trật tự an toàn xã hội chưa được bảo đảm vững chắc.
Ba là cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa xát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ xung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lược lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội. Có những chính sách đúng bị biến dạng qua nhiều tầng nấc hành chính quan lieu. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành luật rất chậm.
Bốn là tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan lieu còn khá phổ biến.
2.2Nguyên nhân.
Thứ nhất do trên thế giới, khoa học công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất làm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, giảm chi phí, giá thành hạ… làm thay đổi thị trường hiện đại, thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức do đó chúng ta tụt hậu xa so với thế giới, sản phẩm sản xuất ra không xuất khẩu được vì không đủ sức cạnh tranh. Để theo kịp chúng ta phải áp dụng những tiến bộ này, đi tắt đón đầu để rút ngắn khoảng cách.
Thứ hai do tác động của toàn cầu hoá. Thế giới là một thị trường thống nhất, sự phân công lao động và hợp tác quốc tế cao, hàng nước ngoài vào nước ta rất nhiều gây nên tình trạng các doanh nghiệp sản xuất trong nước không cạnh tranh nổi, không đủ năng lực sản xuất dẫn đến phá sản. Chúng ta chưa hiểu rõ thông luật quốc tế nên bị bắt chẹt, các doanh nghiệp không năng động…
Thứ ba chúng ta đã trải qua hàng ngàn năm nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, nền kinh tế manh mún, nhỏ lẻ, thụ động, thiếu sang tạo năng động… làm cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường của nước ta them khó khăn và phức tạp
Thứ tư hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan lieu bao cấp gây ra sức ì, lực cản cho nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã không kích thích được hoạt động của các chủ thể kinh tế, không bảo đảm độc lập về kinh tế của người kinh doanh, biến nền kinh tế thành một hệ thống khép kín mang nặng tính chất cấp phát hiện vật, làm cho nền kinh tế trở nên xơ cứng, cứng nhắc, không tự biến đổi, ít sang tạo, không tự phát triển được.
Thứ năm, việc thực hiện nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng chưa tốt; kỉ luật kỉ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỉ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật chính sách của nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp, các ngành còn nhiều bất cập. Nhiều nhiệm vụ công tác lớn được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn hoặc chỉ nói mà không làm. Nhiều cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật và điều lệ Đảng chưa được xử lý kiên quyết.
Thứ sáu, một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp các ngành. Trong cán bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về các vấn đề như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò chủ đạo cua kinh tế nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại, nội dung và bước đi công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…
Thứ bảy, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, trùng lắp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và làm giảm động lực phát triển. Một số người và cơ quan do lợi ích cá nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước. Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng lực trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ.
Thứ tám, công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém còn bất cập. Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, tính chiến đấu không cao. Công tác tư tưởng chưa gắn với công tác tổ chức. Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng. Công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ. Chưa tích cực phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng những cán bộ có đức có tài.
3.Những mâu thuẫn cần giải quyết.
Nền kinh tế thị trường nước ta đang trong thời kì quá độ, do vậy không thể tránh được những mâu thuẫn quá độ của nó, vấn đề đặt ra là phải làm sao xác định được chính xác những mâu thuẫn đó với các mặt đối lập của chúng từ đó tìm ra phương hướng giải quyết. Dưới đây là một số mâu thuẫn:
Một là: giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hiện nay đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên có thể nói lược lượng sản xuất ở nước ta đang phát triển với một trình độ tương đối cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ, quan hệ sản xuất ở nước ta vẫn chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước. Do đó phải làm sao để chúng phù hợp với nhau để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hai là: mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận nhân dân chạy theo đồng tiền, vì lợi ích cá nhân trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích xã hội: Phá hoại môi trường sống, tham ô, tham nhũng, làm hàng giả, hàng kém chất lượng… Tuy nhiên nếu chúng ta chỉ quan tâm đến lợi ích xã hội mà quên đi lợi ích cá nhân thì lúc đó bản thân cá nhân sẽ không còn đóng góp tích cực cho lợi ích xã hội gây ra sự kìm hãm sự phát triển của xã hội. Do vậy phải có những chính sách thích hợp: chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cực đoan, đồng thời cũng phải có những chính sách khuyến khích phát triển năng lực cá nhân, chọn những người có tài, đức vào hàng ngũ lãnh đạo.
Ba là: giữa bình đẳng, công bằng và bất bình đẳng. Một trong những mặt trái của cơ chế thị trường là gây ra sự bất bình đẳng, bất công bằng trong xã hội mặc dù mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo công bằng xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là đảm bảo xã hội công bằng, văn minh nhưng nền kinh tế thị trường lại sản sinh ra những hiện tượng tiêu cực: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, nạn thất nghiệp, tình trạng bất công tiêu cực ngày càng gia tăng. Do vậy phải luôn đấu tranh cho bình đẳng xã hội.
Bốn là: mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế. Do mỗi thành phần kinh tế tương ứng với một hình thức sở hữu khác nhau mà lợi ích về kinh tế về cơ bản và lâu dài giữa các thành phần kinh tế không giống nhau nên tất yếu nảy sinh những mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước với một bên là tính tự phát tư sản, tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó phải có những biện pháp đồng bộ: kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế, đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về quyền lợi cũng như nghĩa vụ, tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh.
Năm là: mâu thuẫn giữa tiềm năng còn lớn với điều kiện khai thác chưa tương xứng. Việt Nam là một nước có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế: dân số đông, cơ cấu dân số trẻ, khoáng sản và động thực vật đa dạng phong phú, vị trí địa lí thuận lợi… Nhưng thực tế ta vẫn chưa sử dụng hết các tiềm năng này mà đôi khi còn rất lãng phí trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên. Điều này làm cho nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát huy được những khả năng vốn có của mình.
Sáu là: mâu thuẫn giữa trình độ và năng lực thấp kém với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển, trình độ sản xuất thấp kém, nhỏ bé, chưa đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài. Mặt khác trong điều kiện kinh tế mở hiện nay, thị trường thế giới rất rộng lớn, nhu cầu đa dạng và phong phú nhưng khả năng chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, chưa có những sản phẩm chủ lực để xâm nhập vào các thị trường thế giới, chưa có nhiều kinh nghiệm làm ăn với các bạn hàng nước ngoài. Do vậy các doanh nghiệp phải linh hoạt trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm đầu ra, đặc biệt là việc thâm nhập vao thị trường nước ngoài.
Bảy là: mâu thuấn giữa con người và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường làm con người ta cạnh tranh lạnh lung. Một số bộ phận nhân dân chạy theo đồng tiền sẵn sang huỷ hoại nhân cách đạo đức của mình, họ sẵn sang làm tất cả miễn là có tiền, cộng với sự du nhập của các
nền văn hoá vào nước ta trong đó có cả các văn hoá độc hại. Kết quả là làm cho một số cán bộ tha hoá biến chất, tham ô, tham nhũng, làm cho một bộ phận tầng lớp thanh thiếu niên hư hỏng lao vào con đường ăn chơi xa đoạ… Và con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sang về đạo đức. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát đồng thời cũng là mục tiêu cuối cùng của xã hội. Do đó cẩn đẩy mạnh công tác giáo dục về mọi mặt nhằm hình thành nhân cách, đạo đức tốt đẹp ngay từ đầu.
PHẦN III.QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
1.Những quan điểm.
Một là: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đẩy mạnh việc ứng dụng các cộng nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển tri thức ở nước ta.
Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người để có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp, ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất. Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Hai là: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp các nguồn lực trong nước và ngoài nước, tập trung sự phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với những nội dung: xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Ba là: đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh và bền vững. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Gắn nguồn lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Bốn là: gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ nền kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết nội lực quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng nâng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài, tăng cường vai trò và ảnh hưỏng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới.
Năm là: kết hợp chặt chễ kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Phân bố hợp lý việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả kinh tế xã hội, vừa sử dụng được cho quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Đầu tư phát triển kinh tế xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia. Phát triển công nghiệp quốc phòng và kết hợp sử dụng năng lực đó để tham gia phát triển kinh tế xã hội.
2.Giải pháp
Một là: thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đây là điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, huy động những tiềm năng to lớn của xã hội và phát triển sản xuất. Để thực hiện tốt chính sách này, một mặt, phải thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể để khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chính sách lâu dài, nhất quán của đảng, nhà nước ta, để tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài, mặt khác, phải kiên quyết xử lý mọi hành vi lừa đảo, buôn lậu, làm hàng giả…nhằm bảo vệ sản xuất kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp.
Hai là: mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Muốn khai thác mọi nguồn lực cần phát triển mọi ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối, cân đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái. Tiếp tục mở rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
Ba là: tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển kinh tế hàng hoá. Cần tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của cac doanh nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường xã hội thống nhất và thông suốt cả nước; phát triển mạnh thị trường trong nước và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu, mà tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu dùng và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm gía cả hàng hoá, tăng thu nhập, tăng sức mua, làm cho dung lượng thị trường, nhất là thị trường nông thôn tăng lên. Hình thành và phát triển các thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán. Để các thị trường này phát triển cần triệt để xoá bỏ bảo cấp, thực hiện nguyên tắc: tự do hoá giá cả, tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng các loại thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, lành mạnh hoá thị trường, khắc phục tình trạng kinh tế ngầm, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vi phạm thị trường.
Bốn là: đẩy mạnh cách mạng khoa học- công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng suất lao động để hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học- công nghệ vào sản xuất và lưu thông, bảo đảm cho hàng hóa đủ sức cạnh tranh trên thị trương. Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Năm là: giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Đó là những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế hàng hoá, để các nhà sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ”; đồng thời phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt các chức năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để các doanh nghiệp phát triển. Nhà nước cần tăng cường quản lý và kiểm soát mọi nguồn lực nhằm bảo toàn và phát triển những tài sản quốc gia. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật động bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lí ho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Nhà nước bằng các công cụ quản lí vĩ mô: kế hoạch, các chính sách kinh tế xã hội thực hiện việc điều tiết sản xuất-lưu thông hàng hoá trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu, tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát để ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích tằng trưởng kinh tế cao, bảo đảm công bằng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Sáu là: đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, phù hợp với yêu cầu của kinh tế hàng hoá định hướng xã hội chủ nghĩa. Con người bao giờ cũng là lựclượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quà, vừa là điều kiện để sản xuất phát triển. Mỗi cơ chế quản lí kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lí, kinh doanh tương ứng. Chúng ta cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lí kinh tế, kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kì mới. Cần sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ, bản lĩnh quản lí, kinh doanh của họ. Cơ cẩu đội ngũ cán bộ cần chú ý bảo đảm cả cán bộ quản lí lẫn cán bộ kinh doanh cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô.
Bẩy là: Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế hàng hoá. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá phải hội nhập với nền kinh tế thế giới. Muốn vậy, phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác; phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội; phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế.
KẾT LUẬN
Thực trạng kinh tế trong những năm qua đã khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta là đúng đắn, bước đi là thích hợp. Nền kinh tế đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu to lớn. Bên cạnh đó vẫn còn không ít những khó khăn cản trở, những yếu kém khuyết tật làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường không phải là sự hiện thân hoàn hảo, nó còn nhiều mâu thuẫn và khuyết tật. Vì vậy nhà nước cần phải can thiệp vào kinh tế, phải có những chính sách, giải pháp phù hợp để điều tiết nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật của thị trường; giải quyết những mâu thuẫn; thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh; từng bước đưa nước ta sánh kịp với các cường quốc phát triển trên thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1.Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin (Nhà xuất bản chính trị quốc gia).
2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam-PGS TS Mai Ngọc Cường.
3.Dự thảo lần thứ hai kinh tế chính trị Mac-Lenin.
4.Giáo trình kinh tế vi mô-Ngô Đình Giao.
5.Chương trình sơ cấp lí luận chính trị-NXB chính trị quốc gia.
6.Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta-Vũ Văn Phúc (NXB chính trị quốc gia).
7.Tìm hiểu về kinh tế thị trường (NXB chính trị quốc gia).
8.Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam-Dương Thị Liễu (NXB chính trin quốc gia).
9.Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường (NXB chính trị quốc gia).
10.Việt Nam trong thế kỉ XX-NXB chính trị quốc gia.
11.Niên giám thống kê 2002-tổng cục thống kê.
12.Báo cáo thường niên 2002 (Ngân hàng nhà nước Việt Nam).
13.Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
14.Tạp chí nghiên cứu lí luận.
15.Thời báo kinh tế Việt Nam số 5 ngày 09/01/2004.
16.Thời báo kinh tế Việt Nam số 1 ngày 02/01/2004.
17.Văn kiện đại hội Đảng IX năm 2001 (NXB chính trị quốc gia).
18.Báo cáo chính trị của BCH TƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam tại đại hội đại biểu toàn quốc lần VI.
20.Tạp chí triết học số 1 tháng 2 năm 1998, số 1 tháng 2 năm 1999, số 3 tháng 6 năm 1998.
21.Tạp chí kinh tế và phát triển sổ 46 tháng 4 năm 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10217.doc