Đề án Luật thuế giá trị gia tăng và việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam giai đoạn 1999 - 2000

Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức cũ của nó là thuế doanh thu: khắc phục tính trùng lặp, đơn giản hơn về mức thuế, đảm bảo tính trung lập kinh tế, hình thành thói quen và tập quán hiện đại trong sản xuất kinh doanh, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những quy định pháp lý của loại thuế này. Trong điều kiện Việt nam hiện nay, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Trong quá trình thực hiện chúng ta đã có nhiều văn bản sửa đổi, bổ xung để ngày một hoàn thiện Luật thuế này. Tuy nhiên những sửa đổi, bổ sung trên chỉ là những giải pháp tình thế nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.Về lâu dài, chúng ta cần nắm bắt và kế thừa những nguyên tắc chung cũng như những kinh nghiệm và xu hướng hoàn thiện thuế GTGT của thế giới để vận dụng vào tình hình cụ thể của đất nước để nâng cao tính hiệu quả của Luật thuế, góp phần vào mục tiêu thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Luật thuế giá trị gia tăng và việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam giai đoạn 1999 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Bất cứ một Nhà nước nào muốn hoạt động được thì phải có một nguồn tài chính đảm bảo là ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là với Việt nam, ngân sách Nhà nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng bởi chúng ta là nước đang phát triển, còn dựa nhiều vào sự giúp đỡ của nước ngoài. Để nền kinh tế có thể tăng trưởng bền vững đòi hỏi phải phát huy nội lực trong nước vượt qua những khó khăn thách thức trong giai đoạn mới. Ngân sách Nhà nước góp phần tích cực thực hiện tốt mục tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội đã được Nghị quyết Đảng và các hội nghị trung ương đề ra, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các bước phát triển tiếp theo. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước chính là thuế, đó là khoản tài chính chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách. Năm 1986, nước ta tiến hành đổi mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, cùng với việc Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nguồn viện trợ bị cắt giảm đáng kể thì việc thu ngân sách từ thuế càng trở nên quan trọng hơn, nó thể hiện tinh thần tự lực tự cường của dân tộc. Từ năm 1990, chúng ta đã tiến hành cải cách hệ thống thuế và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, và thuế đã thực sự là nguồn thu chủ lực của ngân sách Nhà nước. Trước năm 1999, thuế đánh vào hàng hoá tiêu dùng của chúng ta còn nhiều điều không hợp lý, nhất là việc đánh thuế trùng đối với các loại hàng hoá, dịch vụ. Khắc phục tình trạng đó, bắt đầu từ năm 1999 chúng ta đã đưa Luật thuế giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu. Bước đầu thực hiện Luật thuế này còn rất nhiều điều cần bàn tới, đặc biệt là vai trò của nó đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Luật thuế GTGT và việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam giai đoạn 1999 - 2000” Bài viết gồm 2 phần: Phần I: Thuế giá trị gia tăng và Luật thuế giá trị gia tăng của Việt nam PhầnII: Thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt nam giai đoạn 1999 -2000 Tuy đã cố gắng rất nhiều song bài viết cũng không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo TS. Phan Thị Thu Hà. Em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Phần I: Thuế giá trị gia tăng và luật thuế giá trị gia tăng của Việt nam Từ xưa đến nay, có thể nói vai trò đích thực của thuế là tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước nhằm để nuôi bộ máy Nhà nước và trang trải các chi phí thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước đã dùng sức mạnh quyền lực của mình để bắt buộc mọi thể nhân và pháp nhân trích một phần thu nhập của mình do hoạt động kinh tế mang lại góp vào quĩ chung gọi là ngân sách Nhà nước để tiêu dùng. Để việc đóng góp tránh được sự tuỳ tiện và đảm bảo công bằng, Nhà nước phải quy định sự đóng góp đó theo những luật lệ nhất định gọi là các luật thuế. Tuỳ từng đối tượng chịu thuế mà Nhà nước đặt ra các loại thuế khác nhau và mỗi loại thuế có một vai trò, vị trí khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong giới hạn bài viết chúng ta chỉ đề cập tới thuế giá trị gia tăng (GTGT) Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT Trước năm 1999, nước ta áp dụng thuế doanh thu. Đây thực chất là một loại thuế thu trên tổng giá bán của hàng hoá, dịch vụ nên dẫn đến hiện tượng đánh thuế trùng lắp khi nó chuyển qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Ví dụ như quặng sắt bị đánh thuế khi nó chuyển sang nhà máy thép, khi thép chuyển sang nhà máy cán thì nó lại bị đánh thuế, tiếp tục thép đã cán khi chuyển sang nhà máy sản xuất vỏ ô tô thì nó lại bị đánh thuế một lần nữa… kết quả là cơ sở tính thuế là một bội số của GNP, đo đó, chỉ với thuế suất thấp cũng tạo ra số thu cao. Với cách đánh thuế doanh thu như vậy đã tạo ra sự liên kết theo chiều dọc của tổ chức sản xuất để tránh thuế và thủ tiêu sự cạnh tranh. Như vậy, việc Nhà nước áp dụng thuế GTGT nhằm mục đích: khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu và áp dụng một cơ chế thu hiện đại hơn nhằm đảm bảo kích thích sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư, đổi mới tài sản cố định và đảm bảo số thu kịp thời, thường xuyên cho ngân sách Nhà nước. 1. Lịch sử phát triển của thuế GTGT Việc nghiên cứu thuế GTGT được tiến hành bắt đầu sau những năm chiến tranh thế giới thứ nhất do nhà kinh tế học người Đức Carlp Rilordrich Sienvens đề xuất vào năm 1918 nhưng không được Chính phủ Đức duyệt. Đến năm 1947 thuế GTGT lại được đề cập đến trong tác phẩm về “cải tổ hệ thống thuế” của nhà kinh tế học người Mỹ tên là Chao. ở Nhật Bản một dự án về thuế này được đệ trình ra Quốc hội 1953 nhưng không được thông qua. Năm 1954 Pháp là nước đầu tiên thực hiện thuế GTGT, nhưng chỉ mới áp dụng ở khâu sản xuất. Đến năm 1968 mới mở rộng diện áp dụng. Nếu năm 1988 chỉ có 47 nước áp dụng thuế GTGT thì đến nay đã có hơn 120 nước áp dụng loại thuế này với nhiều tên gọi khác nhau: thuế hàng hoá, dịch vụ (Canada, Niudilân,) thuế tiêu dùng (Nhật Bản). Châu Âu là nơi áp dụng sớm nhất và rộng rãi nhất thuế GTGT (tất cả các nước EU) nên gọi là thuế của Châu Âu. Sau đến châu Mỹ la tinh cũng ngày càng nhận thấy vai trò lớn lao của loại thuế này. ở châu á, ngày càng có nhiều nước chuyển sang áp dụng thuế GTGT: Triều Tiên (1977), Inđônêxia (1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Nhật Bản (1989), Thái Lan (1991), Mông Cổ (1993), Trung Quốc (1994), Singapo (1994)… 2. Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT a. Khái niệm: Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. b. Đặc điểm: - Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn của sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì vậy, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. - Đối tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng sử dụng để mua hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng. - Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố chi phí đơn thuần là một khoản được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hoá, dịch vụ. - Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế. Vấn đề cơ bản nhất khi nghiên cứu bản chất nhất của thuế GTGT là phải xác định được thành phần của giá trị gia tăng ở mỗi giai đoạn sản xuất kinh doanh. Có như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế GTGT của giai đoạn đó. Giá trị gia tăng là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất, kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Thuế GTGT = Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra - Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào GTGT cho phép cơ sở kinh doanh trả công cho 4 tác nhân chủ yếu đã tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đó là: - Trả tiền lương, tiền công cho công nhân, nhân viên. - Trả tiền lãi vay cho người vay vốn. - Nộp thuế cho Nhà nước. - Lợi nhuận của chủ sở hữu cơ sở được hưởng. Vì tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn luân chuyển có giá trị bằng giá bán của sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng nên việc thu thuế trên GTGT ở từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số thuế thu được tương đương với số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối. II. Nội dung cơ bản của thuế GTGT 1. Đối tượng chịu thuế Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của Nhà nước qui định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt nam Hàng hoá chịu thuế GTGT bao gồm: - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước. - Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ. - Hàng hoá, dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật (không thanh toán bằng tiền). Mặc dù thuế là một khoản thu bắt buộc, nhưng với chức năng là công cụ điều tiết thị trường của Nhà nước, thuế còn có khả năng kích thích sản xuất, tạo môi trường thuận lợi nên Nhà nước luôn có chính sách sao cho sử dụng công cụ thuế là tốt nhất. Vì vậy, trong luật thuế GTGT ở nước quy định danh mục 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Những hàng hoá, dịch vụ này thường có những tính chất sau: - Là sản phẩm của một số ngành đang còn gặp khó khăn, cần khuyến khích tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, sản xuất muối, tưới tiêu nước phục vụ nông nghiệp, máy móc thiết bị nhập khẩu và trong nước chưa sản xuất được, chuyển giao công nghệ… - Các hàng hoá, dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu xã hội, nhân đạo; vũ khí, khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng; bảo hiểm học sinh, nhân thọ; duy trì, sửa chữa các công trình văn hoá, nghệ thuật, công trình công cộng… - Một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất, cộng đồng không đặt vấn đề điều tiết như dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng… - Tổ chức, cá nhân mua, bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ ở khâu không chịu thuế GTGT. 2. Đối tượng nộp thuế Là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh và tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT. 3. Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế Giá tính thuế được quy định như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng; - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu, cộng với thuế nhập khẩu; Ví dụ: Cơ sở nhập khẩu ti vi nguyên chiếc, giá tính thuế nhập là 2.000.000 đồng/chiếc. Thuế suất thuế nhập khẩu là 30%, thuế suất thuế GTGT là 10%. Thuế nhập khẩu phải nộp là 2.000.000đ x 30% = 600.000đ Giá tính thuế GTGT là: 2.000.000đ + 600.000đ = 2.600.000đ Thuế GTGT phải nộp là: 2.600.000đ x 10% = 260.000đ Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế đã được miễn, giảm. Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt nam, giá chưa có thuế được xác định theo hợp đồng không xác định cụ thể số thuế GTGT thì giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán trả cho phía nước ngoài. Ví dụ: Công ty A ở Việt nam thuê một công ty ở nước ngoài thiết kế xây dựng, giá thanh toán theo hợp đồng phải trả cho công ty nước ngoài là 100 triệu đ thì công ty A phải tính và nộp thuế GTGT 10% trên giá 100 triệu đ. - Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này; - Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ; - Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá, tính theo giá bán trả một lầm, không tính theo số tiền trả từng kỳ; - Đối với gia công hàng hoá là giá gia công; - Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định; Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ qui định tại điều này bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng; Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua, bán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế. 3.2. Thuế suất Luật thuế GTGT phân biệt 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10%, và 20% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế suất thuế GTGT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là cần thiết. Hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất vào khu chế xuất) được áp dụng mức thuế suất 0% nhằm thực hiện việc hoàn thuế đã thu ở khâu trước và khuyến khích xuất khẩu. Những hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng mức thuế suất thấp là 5%. Các hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, cần điều tiết có mức thuế suất cao là 20%. Các hàng hoá, dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất thông thường 10%. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịu các mức thuế suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, dịch vụ kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ. Nếu không hạch toán được như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. 4. Phương pháp tính thuế Thuế GTGT mà cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. 4.1. Phương pháp khấu trừ thuế 4.1.1. Đối tượng áp dụng Các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kinh tế và chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ. Ưu điểm của phương pháp khấu trừ thuế: - Đơn giản hoá được quá trình tính và thu thuế bằng cách chỉ cần tập hợp các hoá đơn bán và mua hàng đã tính sẵn số thuế đầu ra và số thuế đầu vào trên đó. - Đảm bảo thu được đủ số thuế cần điều tiết ở người mua hàng cuối cùng là vì đây thực chất là phương pháp lùi số đã nộp để xác định số phải nộp. (Việc tính theo phương pháp trực tiếp có thể kết quả sẽ không khớp nếu tính GTGT ở các khâu không chính xác). 4.1.2. Xác định thuế GTGT phải nộp Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Xác định thuế GTGT đầu ra theo công thức: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra - Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó Thuế GTGT đầu vào được xác định bằng tổng số thuế GTGT được thanh toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu. 4.2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT 4.2.1. Đối tượng áp dụng - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quí, ngoại tệ. 4.2.2. Xác định thuế GTGT phải nộp Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế = Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương đương 5. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ - Việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ đều phải có hoá đơn, chứng từ theo qui định của pháp luật. - Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố qui định, trong đó ghi rõ giá bán, khoản phụ thu, phí thu thêm, khoản thuế GTGT, giá thanh toán. Trong trường hợp hoá đơn không ghi khoản thuế giá trị gia tăng thì thuế GTGT được xác định bằng giá thanh toán theo hoá đơn nhân với thuế suất thuế GTGT. - Đối với các loại tem, vé được coi là chứng từ thanh toán đã in sẵn giá thanh toán thì giá thanh toán tem, vé đó đã bao gồm thuế GTGT. 6. Hoàn thuế GTGT 6.1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT a. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ của 3 tháng liên tục lớn hơn số thuế đầu ra. Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng kỳ với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu lớn so với số thuế đầu ra thì được xét hoàn thuế GTGT từng kỳ. b. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có đầu tư mua sắm tài sản cố định, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn: - Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có doanh thu bán hàng phát sinh để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quí. Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế. - Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ theo 3 tháng mà chưa được khấu trừ hết thì dc hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ này. Cơ sở thuộc đối tượng được quy định hoàn thuế trên đây phải lập hồ sơ xin hoàn thuế, ngoài các hồ sơ theo qui định chung, cơ sở phải gửi kèm theo luận chứng hay dự án đầu tư. c. Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa. d. Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Quyết định của Bộ trưởng bộ Tài chính yêu cầu phải hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh. 6.2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế Chi cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các cá nhân kinh doanh do chi cục quản lý; Cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các đối tượng do cục thuế quản lý; Bộ trưởng bộ Tài chính giải quyết đối với các trường hợp đặc biệt và các Tổng công ty 90/TTg, 91/TTg. 6.3. Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế cho cơ sở đối với cơ quan thuế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, trường hợp đặc biệt không được kéo dài quá 30 ngày. Nếu cần bổ xung hồ sơ hoặc không được xét hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thông báo cho cơ sở biết trong thời hạn là 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Kho bạc có trách nhiệm làm thủ tục hoàn trả tiền thuế cho cơ sở trong thời hạn là 5 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế. 7. Miễn, giảm thuế GTGT Việc miễn giảm thuế là để bảo hộ sản xuất, đặc biệt là sản xuất trong nước. Bởi lẽ sản xuất trong nước còn kém, chất lượng của nhiều hàng hoá, dịch vụ chất lượng còn thua những sản phẩm cùng loại của nước ngoài nên sức cạnh tranh kém. Nếu chịu cùng mức thuế đối với những sản phẩm cùng loại của nước ngoài thì sẽ có giá tương đương, nhưng người tiêu dùng lại không lựa chọn vì chất lượng thua. Do vậy Chính phủ thực hiện việc miễn giảm thuế đối với một số mặt hàng là để đảm bảo sản xuất. a. Giảm thuế GTGT cho các cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tải, thương mại, du lịch, ăn uống những đầu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây. Mức xét giảm đối với từng cơ sở kinh doanh tương ứng với số lỗ đó do nguyên nhân trên nhưng tối đa không quá số thuế GTGT mà cơ sở kinh doanh phải nộp được xét giảm thuế. Số thuế GTGT phải nộp đối với cơ sở áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xác định bằng số thuế đầu ra trừ số thuế đầu vào được khấu trừ và hoàn lại của năm được giảm thuế (trừ trường hợp do đầu tư tài sản cố định có số thuế GTGT được khấu trừ lớn) Thời gian giảm thuế GTGT được xét từng năm, tính theo năm dương lịch và chỉ thực hiện trong 3 năm đầu, kể từ năm 1999 đến hết năm 2001. b. Một số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn được giảm 50% mức thuế: Sản phẩm cơ khí; than đá, than cốc; máy vi tính; sản phẩm hoá chất cơ bản; vật liệu nổ; sản phẩm là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, phòng bệnh thuộc diện chịu thuế GTGT nhóm thuế suất 10%; dụng cụ dùng cho người tàn tật; … c. Miễn, giảm thuế GTGT đối với các cá nhân kinh doanh: Hộ kinh doanh cá thể nghỉ kinh doanh trong tháng từ 15 ngày trở lên được xét giảm 50% số thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp thuế của tháng đó. Ngoài ra hàng hoá, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước thì không phải nộp thuế GTGT. 8. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế 8.1. Đăng ký nộp thuế a. Cơ sở kinh doanh kể cả các cơ sở trực thuộc của cơ sở đó phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế GTGT chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh, cơ sở kinh doanh phải khai báo với cơ quan thuế chậm nhất là 5 ngày trước khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh. b. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng nếu thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, sổ kế toán, tự nguyện đăng ký áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì cơ quan thuế xem xét để thực hiện. 8.2. Kê khai thuế GTGT phải nộp ngân sách Nhà nước a. Cơ sở kinh doanh phải kê khai nộp thuế GTGT từng tháng và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trong vòng 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Trong trường hợp không phát sinh thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Cơ sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai. b. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan thu thuế nơi có cửa khẩu nhập hàng hoá. c. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến phải kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng, trước và khi vận chuyển hàng đi. d. Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ có mức thuế suất thuế GTGT khác nhau phải kê khai thuế GTGT theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ; nếu cơ sở kinh doanh không xác định được theo từng mức thuế suất thì phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất, kinh doanh. Bộ Tài chính quy định mẫu tờ khai thuế và hướng dẫn việc kê khai. 8.3. Nộp thuế Thuế GTGT nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định sau: a. Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách Nhà nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. b.Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. c. Trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì được khấu trừ vào kỳ tính thuế tiếp theo. d. Thuế GTGT nộp vào ngân sách Nhà nước bằng đồng Việt nam. 8.4. Quyết toán thuế Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong kỳ hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đủ số còn thiếu vào ngân sách Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuê phải nộp kỳ tiếp theo. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày có quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản. Phần II: Thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở Việt nam trong giai đoạn 1999- 2000 Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức thu cũ của nó là thuế doanh thu. Nó đã đóng góp một vai trò quan trọng trong chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước và đảm bảo một phần thu ngân sách khá lớn. Tuy nhiên, vì chúng ta mới áp dụng được hơn hai năm nên có thể nói là mới qua giai đoạn thử nghiệm nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Trong quá trình triển khai, chúng ta đã có nhiều văn bản sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thi hành của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ tài chính: - Uỷ ban thường vụ Quốc hội có Nghị quyết số 90/1999/NQ- UBTVQH10 ngày 3/9/1999; Nghị quyết số 240/2000/NQ- UBTVQH10 ngày 27/10/2000 về việc sửa đổi, bổ xung danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. - Chính phủ có Nghị định số 79/2000/NĐ- CP ngày 29/12/2000 hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT và cụ thể hoá các Nghị quyết nói trên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nghị định này ban hành thay thế các Nghị định hướng dẫn về thuế GTGT của Chính phủ đã ban hành trước đây. - Bộ tài chính đã ban hành Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn Nghị định số 79/2000/NĐ- CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thông tư này thay thế các thông tư hướng dẫn về thuế GTGT của Bộ tài chính đã ban hành trước đây. Nhờ có sự sửa đổi bổ xung này mà luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện và sát thực tế. Do đó, qua 2 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. I- Thành tựu đã đạt được sau 2 năm áp dụng luật thuế GTGT ở Việt nam Sau 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, tình hình kinh tế - thị trường có những bước chuyển biến rõ rệt: việc sử dụng hoá đơn, chứng từ giao dịch, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đã tăng cường, công tác hạch toán kinh tế và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp được thúc đẩy…đồng thời, đáp ứng được các yêu cầu ổn định sản xuất, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu ngân sách và ổn định thị trường. Có được kết quả tích cực như vậy là do sự chỉ đạo sát sao của Đảng, công tác triển khai thực hiện của Chính phủ và Bộ tài chính, nắm bắt kịp thời vướng mắc phát sinh và đề ra các giải pháp thực tiễn. Ngay từ khi mới bắt đầu thực hiện, thuế GTGT đã trở thành nguồn thu quan trọng. Chỉ trong 2 năm chúng ta đã thu được hơn 70.000 tỷ đồng và đảm bảo 20%- 25% trong cơ cấu thu của ngân sách Nhà nước. Đồng thời nó đã góp phần khuyến khích đầu tư, xuất khẩu và bảo vệ sản xuất trong nước. 1. Về đối tượng nộp thuế Sửa đổi, bổ sung một số khoản như khoản 4, khoản 7, khoản 10, khoản 13, khoản 20, khoản 22, khoản 23 của điều 4 quy định tại danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Cụ thể như sau: Bổ sung “hoạt động kinh doanh chứng khoán” vào cuối khoản 7 thành “dịch vụ tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh chứng khoán vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế, khuyến khích huy động nguồn vốn dài hạn trong nước và nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vì xét về bản chất, hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng là một hình thức tín dụng tài chính. Bổ xung đối với “quà biếu, quà tặng cho cá nhân ở Việt nam theo mức quy định của Chính phủ” vào khoản 20 cho phù hợp Luật thuế xuất nhập khẩu, vì theo quy định tại Luật thuế này, quà biếu, quà tặng cho cá nhân ở Việt nam có giá trị đến 100USD thì không phải chịu thuế xuất nhập khẩu. Để giúp đối tượng chịu thuế GTGT áp dụng thuế suất 0% và doanh nghiệp được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm hạ thấp chi phí và giá bán sản phẩm dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2. Về thuế suất Do áp dụng từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn bốn mức thuế suất thuế GTGT khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, cho nên, sửa đổi, bổ xung mức thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở đề nghị của các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc là: giảm mức thuế suất đối với một số hàng hoá, dịch vụ nhưng chỉ trong các mức thuế đã quy định tại Luật, không bổ xung làm tăng thêm mức thuế suất và phù hợp việc giảm số mức thuế suất trong những năm tiếp theo. Những hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ trong mối quan hệ giữa sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa cơ sở sản xuất kinh doanh và áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu, giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh ở trong nước. Việc thay đổi mức thuế suất không vì giảm thuế đối với một số hàng hoá dịch vụ khác, không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Trên thực tế đã có nhiều ngành kiến nghị về khung thuế suất. “Tại sao ngành may gia công xuất khẩu không được hưởng thuế suất 0%”. Trước đây thuế doanh thu đối với hoạt động uỷ thác gia công xuất khẩu hàng may mặc hoặc gia công chịu thuế suất 0%, khi áp dụng thuế GTGT, tổng cục thuế có công văn 1332 ngày 12/3/1999 cũng hướng dẫn hàng uỷ thác xuất khẩu được hưởng mức thuế suất 0% nhưng thực tế thì công văn trên chỉ nói đến uỷ thác xuất khẩu được hưởng mức thuế suất 0% mà không nói đến uỷ thác gia công xuất khẩu, nên các doanh nghiệp hàng may phải chịu thuế suất 10% gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khắc phục tình trạng này Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ đã có quy định “Hàng hoá gia công chuyển tiếp, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%”. Để phù hợp và thống nhất với việc điều chỉnh khoản 22, 23 điều 4 đã nêu phần trên nên có bổ sung, sửa đổi là “áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu, bao gồm của hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu: phần mềm máy tính xuất khẩu, sủa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài và dịch vụ xuất khẩu lao động” Điều chỉnh mức thuế suất từ 10% xuống 5% đối với hàng hoá dịch vụ là: sản phẩm luyện, cán, kéo, kim loại đen, kim loại mầu, kim loại quý, khuôn đúc các loại; máy vi tính, cụm linh kiện máy vi tính; vật liệu nổ, que hàn, đá mài, cao su sơ chế, ống thuỷ tinh trung tính, giấy in báo, bình bơm thuốc trừ sâu, chân tay giả… Đó là những sản phẩm thuộc tư liệu sản xuất ra các sản phẩm khác và một số sản phẩm mang tính chất thiết yếu như phương tiện dùng cho người tàn tật. 3. Về khấu trừ thuế Trước đây, trong luật thuế GTGT đã qui định cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào từ 1%-5% đối với nông sản, thủy sản mua trực tiếp của người sản xuất, khai thác không có hoá đơn nhưng có bảng kê. Sau đó, Nghị định 102, Nghị định 78 của Chính phủ đã mở rộng cho khấu trừ đối với một số mặt hàng khác. Việc mở rộng diện khấu trừ thực chất là giảm số thuế GTGT phải nộp cho một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhưng trên thực tế đã phát sinh một số mâu thuẫn phức tạp trong thực hiện và không khuyến khích việc sử dụng hoá đơn chứng từ, phát sinh hiện tượng tiêu cực. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã quy định cụ thể mức khấu trừ thuế đầu vào như sau: Trường hợp mua hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn bán hàng được khấu trừ theo tỷ lệ 3% tính trên giá trị hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn. Đối với một số mặt hàng mua trực tiếp của người sản xuất, phế liệu mua của người thu gom không có hoá đơn mà chỉ có bảng kê thì được khấu trừ theo tỷ lệ 2% giá trị hàng hoá mua vào trên bảng kê và được áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu. 4. Hoàn thuế Để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh ( khi tình hình bán ra bị ngưng trệ, doanh nghiệp gặp khó khăn do hàng bán bị xuống giá…) và đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới, chúng ta đã quy định việc hoàn thuế. Sau hơn 2 năm thực hiện Luật thuế GTGT , công tác hoàn thuế đã có một bước “nhảy vọt” nhờ những quy định hết sức thông thoáng trong thông tư 93/1999/TT - BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 28/7/99 để hướng dẫn việc thực hiện hoàn thuế GTGT. Theo thống kê của Tổng cục thuế, chỉ tính riêng số thuế được hoàn của tháng 9/1999 ước bằng số thuế đã hoàn của trong 6 tháng đầu năm 1999 cộng lại. Đến hết năm 1999, số thuế được hoàn lên tới gần 1800 tỷ đồng. Việc thực hiện hoàn thuế GTGT đã thúc đẩy các doanh nghiệp tổ chức việc hạch toán kế toán được chính xác thuế GTGT đầu vào, đầu ra; doanh thu của từng loại hàng chịu thuế theo từng mức thuế suất và khi mua hàng hoá, cơ sở kinh doanh quan tâm hơn đến hoá đơn, chứng từ và các chi tiêu trên hoá đơn GTGT để hưởng quyền khấu trừ và hoàn thuế. Trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT đã có nhiều kiến nghị về vấn đề hoàn thuế đó là công tác hoàn thuế quá chậm và quá nhiều thủ tục phiền hà của các chi cục thuế. Đã có ý kiến của nhiều doanh nghiệp cho rằng cơ quan thuế thu thuế rất nhanh nhưng hoàn thuế quá chậm và quá nhiều thủ tục rắc rối. Công ty mây tre đan xuất khẩu Việt nam (BAROTEX) phản ánh: “ Cơ quan thuế đã hai năm nay chưa hoàn trả hoặc khấu trừ thuế GTGT cho Công ty BAROTEX, với số thuế nợ đọng lên đến 1 tỷ 900 triệu đồng. Trong khi đó riêng doanh nghiệp đã phải hoàn tất trên 300 bộ hồ sơ xin hoàn thuế …”. Thực chất là trong thủ tục thực hiện hoàn thuế, quỹ hoàn thuế không ảnh hưởng gì đến ngân sách của cơ quan thuế địa phương nên không có lý do gì hoàn chậm thuế. Để giải quyết tình trạng trả chậm cho các doanh nghiệp, cơ quan thuế đã áp dụng phương pháp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” nếu phát hiện sai sót thì sử lý sau. Việc sửa đổi, bổ sung để Luật thuế GTGT thêm hoàn thiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp cũng như Nhà nước. Tuy đã có nhiều văn bản sửa đổi song Luật thuế này vẫn không thể tránh khỏi những tồn tại phát sinh trong quá trình thực hiện. II- Một số tồn tại cần khắc phục trong việc thực hiện Luật thuế GTGT và hướng hoàn thiện Luật thuế GTGT Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều phải trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những qui định pháp lý về loại thuế này. Trong điều kiện Việt nam, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Chúng ta cần biết nắm bắt và kế thừa những nguyên tắc chung cũng như những kinh nghiệm và xu hướng hoàn thiện thuế GTGT của thế giới để vận dụng vào tình hình cụ thể của đất nước. Những điểm căn bản cần phải nghiên cứu và thường xuyên hoàn thiện tập trung vào một số vấn đề sau: 1. Về phạm vi áp dụng Xác định đúng đắn và rõ ràng hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT là việc làm đầu tiên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó có quan hệ đến chính sách, quan điểm của Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Trên thực tế có thể tồn tại 2 loại đối tượng chịu thuế GTGT là đối tượng chịu thuế bắt buộc và đối tượng chịu thuế tự nguyện. Loại đối tượng chịu thuế bắt buộc trước hết bao gồm tất cả các trường hợp đáp ứng một cách tự nhiên các điều kiện phát sinh thuế GTGT. Đó là những điều kiện chung phổ biến nhất thể hiện bản chất của sắc thuế này: - Các nghiệp vụ nảy sinh từ hoạt động kinh tế: là việc giao hàng và cung ứng dịch vụ. - Các nghiệp vụ có thu tiền: được quan niệm là hoạt động có tồn tại đối khoản tương ứng (tiền, tài sản, dịch vụ) đổi lại từ người mua hàng hoá hoặc người hưởng dịch vụ, bất kể phần đó lớn hay nhỏ. Mặt khác cần phải có một mối liên hệ trực tiếp giữa dịch vụ đã cung cấp và khoản đối ứng đó. - Những nghiệp vụ do người đóng thuế GTGT thực hiện. Loại hoạt động chịu thuế bắt buộc còn là những hoạt động do những điều khoản riêng của Luật quy định phải chịu thuế GTGT: tự cung ứng hàng hoá, dịch vụ; các hoạt động có tính chất quốc tế, một số hoạt động về bất động sản… Bên cạnh các hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, các nước còn có quy định các hàng hoá, dịch vụ không phải nộp thuế GTGT. Đó là các hoạt động có tính chất đặc biệt mà Nhà nước không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng. Về nguyên tắc, đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ số thuế GTGT của các hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động của mình. Xác định những hoạt động không thuộc diện chịu thuế cũng là một vấn đề hết sức phức tạp bởi vì không phải khi nào được miễn chịu thuế GTGT cũng có lợi. Trong những trường hợp nó gây bất lợi cho người được miễn cũng như những đối tượng liên quan. ảnh hưởng đó luôn bắt nguồn từ cơ chế khấu trừ thuế. Ta sẽ thấy điều này thông qua ví dụ minh hoạ sau: Giả sử trong một chu trình kinh tế có 3 giai đoạn: sản xuất, bán buôn, bán lẻ. Để đơn giản, giả định đối với người sản xuất không có thuế GTGT đầu vào, thuế suất thuế GTGT là 10%. Người sản xuất bán sản phẩm ra với giá chưa có thuế cho người bán buôn là 100đ, người bán buôn lại bán cho người bán lẻ với giá 140đ để có được tỷ lệ lợi nhuận gộp lại là 40%. Người bán lẻ bán cho người tiêu dùng với giá 210đ để đạt được tỷ lệ lợi nhuận gộp là 50% trên giá mua. - Trường hợp thứ nhất: không có miễn trừ thuế. Khâu Giá bán (không có thuế) Thuế GTGT đầu ra Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trên giá mua Thuế GTGT phải nộp Sản xuất Bán buôn Bán lẻ 100 140 210 10 14 21 0 10 14 10 4 7 Cộng thuế 21 Giá bán cho người tiêu dùng sẽ là 210 + 21 = 231đ, Nhà nước thu 10đ ở người sản xuất, 4 đ ở người bán buôn và 7đ ở người bán lẻ. - Trường hợp 2: không phải chịu thuế ở khâu bán buôn. Đối với người sản xuất không có gì thay đổi. Đối với bán buôn: Người này không được khấu trừ thuế GTGT tính trên hàng hoá mua của người sản xuất. Vì vậy để đạt được mức lãi gộp 40% phải tính trên giá mua có thuế là 110đ. Lãi gộp sẽ là 110x40% = 44đ. Như vậy giá bán phải là: 110 + 44 = 154đ. Đối với người bán lẻ, vì không có hoá đơn GTGT khi mua hàng của người bán buôn (do người này được miễn) nên không được khấu trừ thuế đầu vào. Giá bán chưa có thuế GTGT phải là: 154 + (154x50%) = 231(đ) Thuế GTGT: 231x10% = 23,1đ, giá bán có thuế là :231 + 23,1 = 254,1 (đ) Tổng số thuế GTGT mà Nhà nước thu được là 10 + 23,1 = 33,1đ Như vậy việc miễn thuế làm tăng giá hàng tiêu dùng (từ 231đ lên 254,1đ) đồng thời số thuế mà Nhà nước thu được cũng tăng từ 21 đ lên 33,1đ. Rõ ràng điều này gây bất lợi cho người bán buôn (người được miễn thuế) và người bán lẻ (đối tượng liên quan ở khâu sau). Những người này phải tăng giá để vẫn giữ được mức lãi gộp như khi không được miễn thuế. Do đó cơ chế cho phép tự nguyện nộp thuế GTGT đối với những người tiến hành một số hoạt động nằm ngoài phạm vi áp dụng thuế GTGT có thể khắc phục một phần sự bất lợi đó trong một số trường hợp nhất định mà Nhà nước thấy cần quy định 2. Vấn đề thuế suất Mức thuế suất là bao nhiêu phụ thuộc vào yêu cầu điều tiết của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác nó phụ thuộc vào cơ cấu điều tiết của hệ thống. Thuế GTGT chiếm phần chủ yếu trong cơ cấu thuế đánh vào tiêu dùng xã hội. Việc điều tiết này chỉ đảm bảo được yêu cầu công bằng theo chiều ngang song lại dễ thu, ít phản ứng. Cho nên nếu một quốc gia coi trọng điều tiết vào tiêu dùng xã hội, sẽ quy định mức thuế suất thuế GTGT cao. Ngược lại, nếu coi trọng điều tiết vào thu nhập, bảo đảm công bằng theo chiều dọc thì có thể giảm nhẹ mức thuế suất thuế GTGT để nâng số thu về thuế thu nhập lên. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta có rất nhiều điều cần bàn xung quanh khung thuế suất. Hơn hai năm qua, đã có rất nhiều kiến nghị từ các doanh nghiệp về việc áp dụng thuế suất đối với mặt hàng mà họ sản xuất, kinh doanh. Đơn cử như trong ngành thủ công mỹ nghệ: Công văn 1886TCT/NV7 ngày 27/3/1999 quy định thuế GTGT áp dụng cho mọi hoạt động gia công với thuế suất là 10% là bất hợp lý đối với ngành sản xuất thủ công, mỹ nghệ để tiêu dùng trong nước. Vì thực tế, thuế đánh vào hoạt động này là đánh vào thu nhập của người lao động bởi lẽ hàng thủ công mỹ nghệ có một đặc điểm là tiêu hao nguyên vật liệu trên một sản phẩm chỉ chiếm 10 – 30% giá thành, còn lại là tiền công. Nếu thuế GTGT đánh trên sản phẩm thì phần lớn đánh vào tiền lương của người lao động - vốn đã rất thấp- lại phải chịu mức thuế cao. Nên chăng, thuế GTGT nên đánh vào cấu thành nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm tức là mức thuế 5% theo Thông tư số 122/2000/TT- BTC đối với sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ? Cùng với ngành thủ công mỹ nghệ ngành xây dựng cũng có nhiều điểm thắc mắc. Theo quy định tại Thông tư số 106/1999 TT- BTC ngày 30/8/1999 của Bộ tài chính thì thuế suất sau khi giảm 50% đối với hoạt động xây dựng được xác định là 5% là được áp dụng từ thời điểm 1/9/1999. Trên thực tế hầu hết các công trình ký hợp đồng trước đó đều xác định giá trị công trình trên cơ sở thuế suất 10%. Một số công trình khi quyết toán đã điều chỉnh lại giá trị hợp đồng theo thuế suất 10%, trong khi, thực tế bên thi công chi kê khai nộp thuế có 5%. Vấn đề này vẫn còn đang tranh luận. Cho nên, việc xây dựng ra một khung thuế suất hợp lý là một công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi một thời gian đi vào cuộc sống của Luật thuế khá dài để có thế xác định một cách đúng đắn. Bởi lẽ nếu tồn tại nhiều mức thuế khác nhau như vậy sẽ dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp và cơ quan thuế trong việc thống nhất sử dụng mức thuế nào cho hợp lý. Tuy nhiên, việc đa dạng các mức thuế suất là nhằm thực hiện các mục tiêu có tính xã hội. Bởi vì khi đánh thuế người ta không phân biệt được quan hệ giữa chi tiêu và thu nhập của các hộ gia đình. Nhưng nếu áp dụng một thuế suất thấp vào các tiêu dùng thiết yếu hàng ngày sẽ làm giảm bớt gánh nặng về ngân sách cho các gia đình nghèo thu nhập thấp và tạo thuận lợi cho hoạt động một số lĩnh vực kinh tế như nông nghiệp, ngư nghiệp…Tuy nhiên quy định lượng thuế suất nhiều hay ít còn phụ thuộc vào yêu cầu đơn giản, trung lập của thuế với phương hướng khuyến khích các ngành nghề kinh doanh nhất định trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. 3. Về phương pháp tính thuế và thu thuế Hiện nay tồn tại 2 phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng nên dẫn đến hiện tượng những “được thua” bất hợp lý. ở nước ta đối tượng áp dụng thuế GTGT có khấu trừ chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước và một số doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Trên 6.000 doanh nghiệp Nhà nước áp dụng phương pháp khấu trừ và hơn 100.000 doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh thực hiện thuế GTGT chênh lệch hai đầu và thuế khoán. Doanh nghiệp Nhà nước phải mua vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm cho hầu hết các thành phần kinh tế với giá mua bao gồm cả thuế. Nhưng nhiều khi không có hoá đơn nên không được khấu trừ thuế đầu vào. Trong đó sản phẩm tiêu thụ buộc phải viết hoá đơn bao gồm cả thuế GTGT. Thực tế doanh nghiệp phải nộp thêm một khoản thuế cao hơn thuế suất doanh thu trước đây (từ 1%-8%) điều này gây thua thiệt cho doanh nghiệp Nhà nước. Ví dụ: Công ty thương mại A mua vở học sinh về bán, do mua của tổ hợp sản xuất nên không có hoá đơn, khi bán ra phải chịu 10% trên giá bán, chưa kể các chi phí khác, làm đội giá lên từ 15%-20% so với giá mua vào. Trong khi đó tư nhân kinh doanh nộp thuế khoán chỉ cần lãi từ 2%-4% là họ có thể chấp nhận, do đó, giá bán của họ thường thấp hơn. Điều này làm yếu đi sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trên thị trường tiêu thụ. Nhiều ngành băn khoăn không chỉ là vấn đề thuế suất mà cả trong phương pháp tính thuế. Thực tế cho thấy, thuế GTGT áp dụng đối với kinh doanh trong lĩnh vực vận tải còn nhiều vướng mắc, đặc biệt đối với các hợp tác xã vận tải hoạt động theo mô hình dịch vụ hỗ trợ. Hợp tác xã và chủ phương tiện là hai đối tượng kinh doanh dịch vụ chịu thuế GTGT, do vậy theo chế độ thuế GTGT hiện hành, hợp tác xã và chủ phương tiện phải đăng ký, kê khai và nộp thuế, hợp tác xã thực hiện theo phương pháp khấu trừ, chủ phương tiện thực hiện theo phương pháp trực tiếp. Như vậy từ một doanh thu cùng một hợp đồng hợp tác xã ký với khách hàng có hai đối tượng nộp thuế GTGT. Hợp tác xã kê khai thuế GTGT đầu ra 10% trên doanh thu theo hợp đồng ký với khách hàng, nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của phần doanh thu hợp tác xã chuyển trả chủ phương tiện (98- 99%) do chủ phương tiện nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, trong khi đó doanh thu thực hưởng của hợp tác xã chỉ là 1-2% trên doanh thu theo hợp đồng, dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã theo mô hình này rất bế tắc. Để khắc phục các nhược điểm trên, cần áp dụng phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đối với mọi thành phần kinh tế. Có như vậy mới đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. 4. Hoàn thuế GTGT Việc thực hiện hoàn thuế là bước rất quan trọng để hoàn thiện Luật thuế GTGT. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khúc mắc cần được làm rõ. Có một vấn đề đặt ra là cùng áp dụng hình thức thu thuế GTGT có khấu trừ thì doanh nghiệp tư nhân có lợi thế hơn doanh nghiệp Nhà nước trong xử lý hàng tồn, kém phẩm chất…DNNN phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Mọi khoản giảm giá, thua lỗ đều phải giải trình và chịu sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt của các ngành. Trong khi đó, không ít doanh nghiệp tư nhân mua hàng về tiêu thụ , chỉ có từ 60%-70% hàng bán có lãi còn lại 30%-40% hàng phải giảm giá, thua lỗ trầm trọng với lý do hàng xấu, hàng kém phẩm chất. Sự giảm giá, thua lỗ này lại được Luật thuế GTGT “ưu ái” bằng sự thoái thu thuế do số thuế phải nộp đầu vào lớn hơn đầu ra. Có biết bao nhiêu doanh nghiệp tư nhân kinh doanh kiểu trên đã có lợi từ ngân sách Nhà nước do thoái thu thuế ? Hơn nữa, ngay trong công tác hoàn thuế còn tồn tại nhiều những thiếu sót: - Hoàn thuế còn chậm so với thời gian quy định: tính hết tháng 12/1999, tổng số thuế các doanh nghiệp yêu cầu được hoàn đã trên 2000 tỷ đồng nhưng ngành thuế mới chỉ giải quyết hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng. Sở dĩ là do thủ tục hoàn thuế còn quá phức tạp, trên thị trường có nhiều hoá đơn bất hợp pháp lưu hành làm mất rất nhiều thời gian để kiểm tra… - Việc xử lý hoàn thuế theo trình tự “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” chính là “cơ hội vàng” cho những kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tiền của ngân sách Nhà nước (nếu bị phát hiện sẽ hoàn lại tiền sau, hoặc nếu, không bị phát hiện thì chiếm đoạt luôn). Đặc biệt, do diện doanh nghiệp được hoàn thuế rộng thì trong nhiều trường hợp chỉ cần sự thông đồng nhỏ giữa cán bộ thuế và doanh nghiệp là ngân sách Nhà nước có thể mất đi hàng tỷ đồng một cách nhanh gọn. 5. Giảm thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh Chính sách thuế quy định việc giảm thuế là cực kỳ hợp lý và cần thiết. Song trong thực tiễn, để xác định doanh nghiệp thuộc đối tượng được giảm thuế GTGT theo quy định rất khó khăn, vì: - Thuế doanh thu trước đây được xem là khoản mục chi phí và được trừ để tính lợi tức chịu thuế, thuế doanh thu phải nộp làm giảm lợi tức chịu thuế hoặc lỗ nếu số thuế doanh thu phải nộp lớn. - Thuế GTGT hiện nay không cần thuộc khoản mục chi phí được trừ để tính thu nhập chịu thuế, số thuế GTGT là khoản không ảnh hưởng đến thu nhập chịu thuế dù số thuế GTGT phải nộp cao hay thấp. - Mặt khác, ngoài chính sách thuế còn rất nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: quản lý nhân sự - tiền lương; quản lý sản xuất; quản lý tài chính doanh nghiệp… Với những lý do trên, trong chính sách thuế GTGT, cần qui định cụ thể hơn cách xác định đối tượng được miễn, giảm thuế GTGT để việc triển khai thực hiện được dễ dàng hơn. Kết luận Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức cũ của nó là thuế doanh thu: khắc phục tính trùng lặp, đơn giản hơn về mức thuế, đảm bảo tính trung lập kinh tế, hình thành thói quen và tập quán hiện đại trong sản xuất kinh doanh, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những quy định pháp lý của loại thuế này. Trong điều kiện Việt nam hiện nay, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Trong quá trình thực hiện chúng ta đã có nhiều văn bản sửa đổi, bổ xung để ngày một hoàn thiện Luật thuế này. Tuy nhiên những sửa đổi, bổ sung trên chỉ là những giải pháp tình thế nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.Về lâu dài, chúng ta cần nắm bắt và kế thừa những nguyên tắc chung cũng như những kinh nghiệm và xu hướng hoàn thiện thuế GTGT của thế giới để vận dụng vào tình hình cụ thể của đất nước để nâng cao tính hiệu quả của Luật thuế, góp phần vào mục tiêu thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Qua việc nghiên cứu đề tài này, em đã có thể hiểu rõ hơn về Luật thuế GTGT của nước ta, thấy rõ được vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển kinh tế của đất nước và từ đó thấy được sự chuyển hướng đúng đắn, kịp thời của các chính sách tài chính - kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35154.doc
Tài liệu liên quan