Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở của” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển kinh tế từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyển của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý luận về cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là đòi hỏi khách quan, ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên toàn thế giới ngày nay. Trong xu thế đó, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của hàng hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dối với sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế. Riêng trong lĩnh vực thương mại quốc tề, năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia về cơ bản phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng trên những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học công nghệ. Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen lẫn nhau tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi đặc biệt là tăng sức cạnh tranh của chúng ta trên thị trường trong nước và quốc tế .
Sống trong thời kỳ đổi mới của một đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với xu thế hội nhập, mở cửa nền kinh tế, em thấy mình cần phải quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế của đất nước mình . Vì vậy em chọn đề tài: “Lý luận về cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam” để nghiên cứu và trang bị thêm kiến thức cho mình. Với vốn kiến thức còn hạn chế bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Thầy giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn .
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN NỘI DUNG
I. CẠNH TRANH VÀ QUY LUẬT CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA.
1. Cạnh tranh hàng hóa:
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa không phụ thộc vào ý muốn của con người. Những người sản xuất phải tiêu thụ hàng hóa có điều kiện sản xuất khác nhau như trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ chuyên môn, không gian môi trường sản xuất, điều kiện nguyên vật liệu…Do đó chi phí lao động cá biệt khác nhau, kết quả là có người lãi nhiều, người lãi ít, người thua lỗ, người bị phá sản. Để giành lấy các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ buộc phải cạnh tranh. Hơn nữa, những điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lại thường xuyên biến động, do đó cạnh tranh không ngừng tiếp diễn.
Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hóa, buộc người sản xuất không những phải thường xuyên động não tích cực, nhạy bén, năng động thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới… mà còn cải tiến chất lượng, hình thức mẫu mã, làm cho sản xuất gắn với người tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội tốt hơn. Thực tế: ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ bảo thủ, kém phát triển.
Quy luật cạnh tranh có tác động đào thải cái lạc hậu, tiến bộ để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng đồng thời để lại những hậu quả tiêu cực. Đó là sự phân hóa người sản xuất hàng hóa, làm phá sản những người sản xuất gặp khó khăn do trình độ công nghệ thấp, ít vốn, gặp rủi do, tai nạn hoặc rơi vào những hoàn cảnh điều kiện không thuận lợi.
2. Quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh:
Cạnh tranh là một khái niệm rộng không những tồn tại trong lĩnh vực kinh tế mà còn tồn tại trong lĩnh vực xã hội. Trong kinh tế thị trường, các chủ thể hành vi kinh tế vì lợi ích riêng của bản thân mình mà tiến hành cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh được hiểu là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành lợi ích tối đa cho mình. Cạnh tranh là yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường. Nó là hiện tượng tự nhiên, tất yếu của kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có cạnh tranh.
Cạnh tranh được phân thành cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành, cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng và giữa người tiêu dùng với nhau.
Trong cạnh tranh người ta có thể dùng nhiều biện pháp, thủ đoạn khác nhau:
- Nếu là cạnh tranh lành mạnh: tìm cách thắng đối thủ bằng cách nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, quảng cáo thông tin để kích thích người tiêu dùng.
- Nếu là cạnh tranh không lành mạnh: dùng các thủ đoạn phi kinh tế như đầu cơ tích trữ, bán phá giá, tác động qua bộ máy chính quyền để tiêu diệt đối thủ.
- Cạnh tranh là một quy luật của kinh tế hàng hóa mang tính phổ biến khách quan không phụ thuộc vào ý muốn con người. Quy luật cạnh tranh quy định việc sản suất kinh doanh phải đạt hiệu quả cao, giành được lợi ích lớn nhất bằng các biện pháp kinh tế hợp pháp.
2.2. Yêu cầu của cạnh tranh
- Trong sản xuất, cạnh tranh đòi hỏi các nhà sản xuất phải dùng mọi biện pháp, phát huy mọi khả năng để làm cho hàng hóa dịch vụ chiếm được thiện cảm và sự chấp nhận của người tiêu dùng, qua đó chiếm ưu thế trên thị trường và thu được nhiêu lợi ích nhất.
- Trong trao đổi, quy luật cạnh tranh đòi hỏi người bán cũng như người mua hàng hóa phải nghiên cứu thị trường để có quyết định đúng đắn và thu được lợi ích lớn nhất.
2.3. Tác dụng của cạnh tranh:
+ Tích cực:
- Góp phần loại bỏ những nhà sản xuất kém hiệu quả, công nghiệp lạc hậu, giá thành cao, thúc đẩy sự phát triển không ngừng của xã hội.
- Góp phần tạo nên sự sống động trong nền kinh tế buộc các nhà sản xuất phải luôn nhạy bén sáng tạo, thường xuyên cải tiến kỹ thuật công nghệ mới, đổi mới tổ chức quản lý… làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa.
Thúc đẩy việc đáp ứng yêu cầu xã hội ngày càng tốt hơn về chất lượng, giá cả, chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng hàng hóa, dịch vụ.
+ Tiêu cực:
- Có thể gây ra những lãng phí cho xã hội, làm thiệt hại lợi ích của người tiêu dùng.
- Có thể gây ra sự bất ổn về kinh tế cũng như xã hội, các đối thủ cạnh tranh có thể áp dụng các thủ đoạn phá giá, cạnh tranh phi pháp… làm xói mòn đạo đức xã hội.
II. CẠNH TRANH TRONG NỘI BỘ NGÀNH VÀ CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÀNH:
1. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá thị trường
Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những ngưòi sản xuất, kinh doanh hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuát và tiêu thụ hàng hoá, để thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực.
Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tồn tại hai loại cạnh tranh là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi tronh sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: các nhà tư bản thường xuyên cải biến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là sự hình thành nên giá xã hội (giá thị trường) của từng loại hàng hoá. điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổ do kỹ thuật sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên, giá trị xã hội ( giá trị thị trường) của hàng hoá giảm xuống. Chúng ta biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề công nhân…) khác nhau, cho nên hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá phải bán theo giá trị xã hội - giá thị trường.
Theo C.Mác, “một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Mặt khác, lại phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này”.
2. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân:
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuát khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh: Tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác nghĩa là tự phát phân phối tư bản vào các ngành sản xuất khác nhau.
Kết quả các cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên, kinh tế kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Ví dụ:
Ngành sản xuất
Chi phí sản xuất
m’ (%)
Khối lượng (m)
p’ (%)
Cơ khí
80c + 20v
100
20
20
Dệt
70c + 30v
100
30
30
Da
60c +40v
100
40
40
Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Trong ví dụ trên, các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành đã làm cho sản phẩm ở ngành da nhiều lên (cung lớn hơn cầu), do đó giá cả hàng hoá ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó. Ngược lại sản phẩm ở ngành cơ khí sẽ giảm đi nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản tự do từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung (hàng hoá) nhỏ hơn ngành có cầu (hàng hoá) thì giá cả giảm xuuống, còn ngành có cầu ( hàng hoá) lớn hơn ngành có cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản tư ngàh này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau.
C.Mác viết: …Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác nhau do đó san bằng thành tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận băng nhau.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó việc thu lợi nhuận và thúc đẩy tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản không có giới hạn. Mức tỷ suất lợi nhuận cao bao nhiêu cũng không thỏa mãn được lòng tham vô đáy của chúng. Vì vậy trên thực tế để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đã tìm mọi cách để tiết kiệm tư bản bất biến, như sử dụng máy móc, thiết bị nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất; kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, thay thế nguyên liệu đắt tiền bằng những nguyên liệu rẻ tiền, giảm những chi tiêu bảo hiẻm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng và tận dụng phế thải để sản hàng hóa. Trong cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, tỷ suất lợi nhuận thu được khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh trạnh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
III. CẠNH TRANH ĐỘC QUYỀN:
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế điều tiết nền sản xuất xã hội có những thay đổi lớn. Sự kết hợp hữu cơ giữa các quan hệ thị trường với sự tác động tập trung của nhà nước tạo ra một hệ thống thống nhất điều tiết độc quyền nhà nước. Cơ chế độc quyền tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có nhũng mặt tích cực và tiêu cực. Khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất đã vượt khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được sự bổ sung bằng sự điều tiết của nhà nước. Mặt khác, sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích cực và hạn chế, đôi khi những sai lầm trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước mang lại hậu quả tai hại hơn cả tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế; thị trường,độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Trong quá trình vận hành cơ chế kinh tế, nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô đối với các quá trình sản xuất xã hội, định hướng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kì thông qua các chính sách và công cụ có hiệu quả như hệ thống tài chính nhà nước, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các chính sách cơ cấu và chương trình hóa … Các tổ chức độ quyền điều tiết sản xuất trong phạm vi của nó bằng các kế hoạch, hợp đồng kinh tế dựa trên sự nghiên cứu thận trọng và thường xuyên các nhu cầu xã hội luôn biến đổi về xu hướng, khối lượng cơ cấu…Các tư bản tư nhân vẫn chịu sự điều tiết trực tiếp của cạnh tranh thị trường. Các yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó thị trường vẫn ra sức mạnh cơ bản của cơ chế điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính tự phát của thị trường bị giới hạn bởi sự đồng thời tác động của độc quyền tư nhân và nhà nước làm cho các quan hệ thị trường được thể chế hóa và có tính tổ chức hơn. Như vậy, cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã tạo ra cách thức phối hợp và phương tiện điều hợp lý hơn so với cơ chế tự do cạnh tranh ở giai đoạn trước.
Việc phân chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạt các nước đang phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bản chủ nghĩa. Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hóa thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Tuy chủ nghĩa thực dân đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện “chiến lược biên giới mềm”, ra sức bành trướng “biên giới kinh tế” rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc.
Tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển có tính chất nhảy vọt nên nhà nước phải tham gia vào quá trình kinh tế - xã hội. Đó là một xu thế tất yếu, thường xuyên. Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: cơ chế kết hợp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân. Trên phương diện kinh tế, thực hiện tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và khắc phục sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Nới lỏng sự điều tiết của nhà nước, xóa bỏ những quy dịnh của nhà nước có thể dẫn đến hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường.
1. Cạnh tranh và độc quyền
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh tự do, trái lại nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, mà còn có thêm các loại cạnh trạnh sau:
- Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều phương pháp như: Độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống… để đánh bại đối thủ.
- Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này có nhiều hình thức: Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật…
- Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gia cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc dành tỉ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờrớt và công xoócxiom cạnh tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng phát triển của những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hóa nói chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền, giá cả độc quyền thấp khi mua, cao khi bán. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần giá tri thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần của lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nuớc thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hộ tư bản và trên toàn thế giới.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế điều tiết nền sản xuất xã hội có những thay đổi lớn. sự kết hợp hữu cơ các quan hệ thị trường với sự tác động tập trung của nhà nước tạo ra một hệ thống thống nhất của điều tiết độc quyền nhà nước. Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có những mặt tích cực và tiêu cục. Khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sảm xuất đã vượt khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự điều tiết của nhà nước. Mặt khác, sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích cực và hạn chế, đôi khi những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước mang lại hậu quả tai hại hơn cả tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Trong quá trình vận hành cơ chế kinh tế, nhà nước giữ vai trò điiều tiết vĩ mô đối với các quá trình sản xuất xã hội, định hướng các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội ở từng thời kỳ thong qua các chính sách và công cụ có hiệu quả như hệ thống tài chính nhà nước, hệ thống tiền tệ- tín dụng, các chính sách cơ cấu và chương trình hóa… Các tổ chức độc quyền điều tiết sản xuất trong phạm vi của nó bằng các kế hoạch, hợp đồng kinh tế dựa trên sự nghiên cứu thận trọng và thường xuyên các nhu cầu xã hội luôn biến đổi về xu hướng, khối lượng, cơ cấu… Các tư bản tư nhân vẫn chịu sự điều tiết trực tiếp của cạnh tranh thị trường. Các yếu tố này gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó thị trường vẫn là sứ mạng cơ bản của cơ chế điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính tự phát cửa thị trường bị giới hạn bởi sự đồng thời tác động của độc quyền tư nhân và nhà nước làm cho các quan hệ thị trường được thể chế hóa và có tính tổ chức hơn. Như vậy, cơ chế điểu tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã tạo ra cách thức phối hợp và phương tiện điều tiết hợp lý hơn so với cơ chế tư do cạnh tranh ở giai đoạn trước.
Sự khác nhau cơ bản giữa một doanh nghiệp cạnh tranh và độc quyền là khả năng của doanh nghiệp độc quyền trong việc tác động tới sản phẩm của họ.
Doanh nghiệp cạnh tranh tương đối nhỏ so với thị trường mà họ hoạt động và vì vậy nó phải coi sản phẩm của mình bị quy định bởi các điều kiện thị trường. Ngược lại, do nhà độc quyền là người sản xuất duy nhất trên thị trường, nên anh ta có thể thay đổi giá cả hàng hóa của mình bằng cách điều chỉnh lượng cung trên thị trường.
2. Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh độc quyền đúng với tên gọi của nó: Đó là một sự kết hợp giữa độc quyền và cạnh tranh. Do doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền bán sản phẩm phân biệt, nên họ quảng cáo để thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình. Trong chừng mực nào đó, quảng cáo tác động vào sở thích của người tiêu dùng, kích thích sự trung thành với thương hiệu một cách phi lí và ngăn cản cạnh tranh. Nhưng trong phạm vi rộng lớn hơn, quảng cáo cung cấp thông tin, xác lập về thương hiệu về chất lượng đáng tin cậy và kích thích cạnh tranh.
Lý thuyết về cạnh tranh độc quyền mô tả đúng nhiều thị trường trong nền kinh tế do đó, sẽ có một chút thất vọng nếu như lý thuyết này không đưa ra được khuyến nghị đơn giản và thuyết phục cho chính sách công cộng. Thị trường cạnh tranh độc quyền có 3 đặc trưng: Nhiều doanh nghiệp, sản phẩm phân biệt và ra nhập tự do. Kết cục của thị trường cạnh tranh độc quyền khác với kết cục của thị trường cạnh tranh hoàn hảo theo hai chiều hướng có liên quan với nhau. Thứ nhất, doanh nghiệp có dư thừa năng lực sản xuất, thứ hai doanh nghiệp sẽ định giá cao hơn chi phí cận biên. Cạnh tranh độc quyền không có các đặc điểm đáng mong muốn của cạnh tranh hoàn hảo. Trên thị trường này, mức tổn thất tải trọng của độc quyền có nguyên nhân ở việc định giá cao hơn chi phí cận biên. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp (và sự phong phú trong chủng loại hàng hoá) có thể quá lớn hay quá nhỏ. Trong thực tế, khả năng các nhà hoạch định chính sách trong việc điều chỉnh những mặt phi hiệu quả này rất hạn chế.Sự phân biệt sản phẩm gắn với cạnh tranh độc quyền dẫn đến việc sử dụng quảng cáo và thương hiệu. Những người phê phán quảng cáo và thương hiệu lập luận rằng các doanh nghiệp sử dụng chúng để lợi dụng suy nghĩ không hợp lý của khách hàng và làm giảm cạnh tranh. Những người ủng hộ quảng cáo và thương hiệu lập luận rằng các doanh nghiệp sử dụng chúng để cung cấp thông tin cho khách hàng và thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn về giá cả và chất lượng hàng hóa. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, sự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung- cầu, cạnh tranh… trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Sự biến động của giá cả dẫn đến sự biến động của cung -cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến sự biến đổi trong phân hoá các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi giá cả hàng hoá cao, do đó lợi nhuận cao, tức là các nguồn lực sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng với hiệu quả cao nhất, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. Để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí tới mức tối thiểu bằng cánh áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giá thị trường là kết quả của sự cân bằng các giá trị cá biệt của hàng hoá trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn tới sự hình thành một giá trị xã hội trung bình. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể thích ứng với một trong ba trường hợp sau đây:
- Trường hợp 1: Giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận được sản suất ra trong điều kiện trung bình quyết định.
- Trường hợp 2: Giá trị thị trường của hàng hoá do đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định .
- Trường hợp 3: Giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên thị trường. Cung – cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả thị trường.
Trong thực tế, khi cung = cầu, thì giá cả thị trường ngang bằng với giá trị của hàng hoá. Khi cung > cầu, thì giá cả thị trường xuống thấp hơn giá trị hàng hoá. Còn khi cung < cầu, thì giá cả thị trường sẽ cao hơn giá trị. Như vậy cung và cầu thay đổi, dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hoá. Đồng thời, giá cả thị trường cũng có sự tác động ngược trở lại với cung và cầu. Nhìn chung, trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá cả có tác động điều tiết đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau.
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền kinh tế thị trường nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng. Các cuộc cạnh tranh trên cũng là nhân tố dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng
Thị trường cạnh tranh là một thị trường mà trong đó có nhiều người bán và người mua đến mức mỗi người chỉ có ảnh hưởng không đáng kể đến giá thị trường.
Cạnh tranh và độc quyền là hai thái cực của cấu trúc thị trường. Cạnh tranh xảy ra khi có nhiều doanh nghiệp mà các hàng hóa về cơ bản là giống hệt nhau; độc quyền xảy ra khi có một doanh nghiệp trên một thị trường.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo được định nghĩa là những thị trường có hai đặc tính quan trọng nhất: (1) tất cả các hàng hóa được trao bán là những hàng hóa như nhau, và (2) người mua và người bán nhiều đến mức không có người mua và người bán cá biệt nào có thể tác động đến giá thị trường. Một số thị trường chỉ có một người bán và người bán này quy định giá cả. Người bán này gọi là nhà độc quyền.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế phải đối mặt với cạnh tranh, nhưng cạnh tranh không mạnh đến mức làm cho nó trở thành người chấp nhận giá. Doanh nghiệp điển hình có sức mạnh ở một mức nào đó, nhưng sức mạnh thị trường của nó không lớn đến mức là doanh nghiệp độc quyền. Có hai dạng thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Độc quyền nhóm là thị trường chỉ có một ít người bán, mỗi người bán sản phẩm tương tự hay giổng hệt sản phẩm của người khác. Cạnh tranh độc quyền là dạng cấu trúc thị trường trong đó có nhiều doanh nghiệp bán các mặt hàng tương tự, nhưng không giống hệt nhau. Trên thị trường cạnh tranh độc quyền, mỗi doanh nghiệp có sự độc quyền về sản phẩm, nhưng nhiều doanh nghiệp khác cũng sản xuất ra nhiều sản phẩm tương tự và cạnh tranh để giành giật những khách hàng như nhau.
Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các quyết định sản xuất của mỗi doanh nghiệp sẽ làm cho giá cả bằng chi phí cận biên do vậy trong điều kiện cạnh tranh, khi các doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm chọn mức sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận, sản lượng của họ sẽ lớn hơn sản lượng của nhà độc quyền và nhỏ hơn sản lượng trong thị trường cạnh tranh. Giá của nhà độc quyền nhóm thấp hơn giá độc quyền, nhưng cao hơn giá cạnh tranh (bằng chi phí cận biên).
Thị trường cạnh tranh độc quyền có những đặc điểm sau:
- Nhiều người bán: có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh nhau để thu hút cùng một nhóm khách hàng.
- Phân biệt sản phẩm: mỗi doanh nghiệp sản xuất một sản phẩm ít nhất cũng khác chút ít so với các sản phẩm của các doanh nghiệp khác.
- Gia nhập tự do: các doanh nghiệp có thể gia nhập hoặc rút ra khỏi thị trường mà không gặp trở ngại nào.
Giống như độc quyền nhóm, cạnh tranh độc quyền là cấu trúc thị trường nằm ở giữa cạnh tranh và độc quyền. Nhưng độc quyền nhóm và cạnh tranh độc quyền lại khác hẳn nhau. Độc quyền nhóm là phải cạnh tranh hoàn hảo, vì thị trường chỉ có một ít người bán. Số lượng nhỏ các nhà cung cấp làm cho sự cạnh tranh khốc liệt, nó diễn ra và những tương tác chiến lược giữa họ trở nên có tầm quan trọng sống còn. Trái lại trong cạnh tranh độc quyền, có nhiều người bán trên thị trường và mỗi người trong số họ có quy mô nhỏ so với thị trường. Thị trường cạnh tranh độc quyền lệch ra khỏi cạnh tranh hoàn hảo bởi vì mỗi người bán đưa ra một sản phẩm khác nhau đôi chút.
3. Cạnh tranh độc quyền và phúc lợi xã hội
Kết cục của thị trường cạnh tranh độc quyền là việc đẩy giá lên mức cao hơn chi phí cận biên. Do giá cả cao, một số khách hàng đánh giá hàng hóa cao hơn chi phí cận biên (nhưng nhỏ hơn giá cả) không mua được hàng hóa đó. Như vậy, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền gây ra tổn thất tải trọng đối với xã hội do cách định giá độc quyền.
Mặc dù kết cục trên không đáng mong muốn so với kết cục tốt nhất trong đó giá bằng chi phí cận biên, nhưng các nhà hoạch định chính sách không dễ dàng giải quyết vấn đề này. Để đảm bảo việc đinh giá theo chi phí cận biên
* Thực tiễn:
Từ khi có chính sách đổi mới đến nay, nền kinh tế theo cơ chế thị trường nước ta đã từng bước được xây dựng và đang khẳng định tính đúng đắn của định hướng phát triển mới khác với nền kinh tế hàng hoá trước kia, nền kinh tế thị trường phải dựa trên ba nền tảng chính là cạnh tranh và sự tự do định đoạt của chủ thể kinh doanh và chế độ sở hữu đa thành phần.
Tuy nhiên ở Việt Nam, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, trên thị trường tồn tại chủ yếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh thấp thì hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những khó khăn, thách thức. Hội nhập kinh tế kéo theo việc hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá thành thấp từ nước ngoài tràn vào Việt Nam. Điều này có thể đe doạ sự tồn tại của một số ngành sản xuất trong nước. Những doanh nghiệp yếu kém, quen được bảo hộ trong nước sẽ đối mặt với thách thức cạnh tranh ghê gớm. Sự phá sản hàng loạt các doanh nghiệp yếu kém do hậu quả trong cuộc cạnh tranh như vậy cũng sẽ làm xuất hiện những vấn đề xã hội phức tạp cần giải quyết. Song đây cũng là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp non trẻ của chúng ta có thể nâng cao sức cạnh tranh của mình. Ngay ở thị trường trong nước, khi có sự tham gia kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ làm cho một bộ phận lớn doanh nghiệp nhanh chóng thích nghi và trưởng thành trong môi trường cạnh tranh mới.
Mặt khác, khi doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm trước mọi quyết định của mình khi họ được tự do lựa chọn hàng hoá dịch vụ từ hững nhà cung cấp khác nhau cũng như việc phải tiêu thụ được sản phẩm của họ trên thị trường ngày càng khó tính thì lúc đó buộc phải vươn lên để kinh doanh có hiệu quả dẫn đến thúc đẩy những hoạt động đổi mới khoa học công nghệ trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo cạnh tranh có hiệu quả. Chính sách khơi dậy, khuyến khích, thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh chính là nhằm phát huy tiềm năng, tính sáng tạo và chủ động đảm bảo kinh doanh có hiệu quả trong doanh nghiệp.
Hiện nay, chính sách quản lý toàn diện của Nhà nước đối với nền kinh tế kéo theo sự nâng đỡ các doanh nghiệp quốc doanh trong một thời gian dài trước kia đã làm cho dân doanh không có điều kiện và cơ hội cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp dân doanh chỉ có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường khu vực và quốc tế nếu họ có cơ hội tham gia vào thị trường một cách tự do. Để làm được điều này, phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp độc quyền nhà nước, sự ưu đãi của nhà nước đối với những doanh nghiệp này cũng như sự can thiệp của công quyền một cách không cần thiết vào đời sống kinh tế cần phải giảm thiểu ở mức tối đa. Chính sách cạnh tranh đúng đắn đảm bảo cho doanh nghiệp cũng như khách hàng tin vào quy luật thị trường và khả năng điều tiết cạnh tranh của thị trường. Tự do cạnh tranh ngày càng mở rộng thì tiềm năng kinh tế cũng như nội lực của đất nước trong khu vực càng được phát huy.
Tuy nhiên chính sách cạnh tranh ở Việt Nam vẫn còn nâng đỡ, ưu đãi cho một số bộ phận lớn các doanh nghiệp vốn được bảo hộ dẫn đến trì trệ, chậm chạp thích ứng với thị trường, hiệu quả kinh doanh thấp. Mặt khác doanh nghiệp hầu như chưa áp dụng và khai thác được các lơi thế trong kinh doanh như lợi thế chi phí nhờ quy mô lớn, lợi thế chi phí nhờ phạm vi kinh doanh… nhìn chung sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn ở vạch xuất phát trước yêu cầu hội nhập kinh tế.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách cạnh tranh có thể được xây dựng theo những tiêu chí:
- Thứ nhất: Chính sách đó phải đảm bảo cho các doanh nghiệp dân doanh thật sự được tự do tham gia vào thị trường và hoàn toàn bình đẳng trong kinh doanh, giảm dần tiến tới xóa bỏ phân biệt đối sử trong kinh doanh, hạn chế tối đa sự can thiệp của các chính quyền hành chính, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng như hạn chế cạnh tranh trên thị trường (ở ba khía cạnh: thỏa thuận, lạm dụng sức mạnh thị trường và tập trung kinh tế) cần nhanh chóng ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn cũng như tăng cường những thiết chế đảm bảo thực thi Luật cạnh tranh 2004 có hiệu quả trong thực tiễn.
- Thứ hai: Cần đổi mới và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dành thực hiện các thủ tục sát nhập hợp nhất, phân chia cũng như về giải thể và phá sản doanh nghiệp. Chính sách khuyến khích nâng cao năng lực cạnh tranh cũng cần đảm bào cho doanh nghiệp linh hoạt trong việc thay đổi hình thức, phương án, lĩnh vực kinh doanh, dễ dàng thoát ra khỏi những lĩnh vực kinh không phù hợp, kém hiệu quả.
- Thứ ba: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận và trao đổi thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là kết quả của các cuộc đàm phán ra nhập cũng như lộ trình thực hiện các cam kết trong WTO. Ảnh hưởng tiêu cực khó lường nếu doanh nghiệp không biết đến WTO với môi trường kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh vô cùng gay gắt, khốc liệt.
- Thứ tư: Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể trở thành đối tác trực tiếp trong các quan hệ về đầu tư nước ngoài. Khi được tham gia rộng rãi vào các quan hệ đầu tư có nguồn vốn từ nước ngoài, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp thu được kiến thức công nghệ cao từ nước ngoài, đào tạo nguồn lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
- Thứ năm: Cải cách hệ thống tính vào thu thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế, tích cực chuẩn bị xây dựng cơ chế cho doanh nghiệp tự tính trị giá thuế như theo tinh thần nội dung của Hiệp định thực thi điều 7 của GAAT về trị giá tính thuế hải quan.
- Thứ sáu: Nhà nước cần phải thông qua các chính sách cạnh tranh, chính sách về nước ngoài để hạn chế tối đa sự lạm dụng sức mạnh thị trường công nghệ, tài chính của họ. Những hình thức và phương pháp cạnh tranh của một số hãng nước giải khát nước ngoài trước kia chẳng hạn Cocacola gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp nước giải khát non trẻ trong nước là một ví dụ về sự lạm dụng sức mạnh thị trường. Trong mối quan hệ này luật cạnh tranh 2004 cũng cần phải được mở rộng thông qua các văn bản hướng dẫn trên cơ sở áp dụng lý thuyết cạnh tranh nổi tiếng Effects doctrine. Theo đó hành vi cạnh tranh của các tập đoàn nước ngoài nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường Việt Nam vẫn có thể bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.
- Thứ bảy: Việc hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế phải đảm bảo tính minh bạch, đúng đắn và ổn định. Chính sách cạnh tranh cũng như chính sách kinh tế nói chung phải đảm bảo tính nhất quán, công khai và dễ hiểu đối với mọi chủ thể kinh doanh, tránh việc thay đổi chính sách một cách dột ngột, tuỳ tiện, không dự đoán trước được.
Kết Luận
Phải từng bước xây dựng những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác động to lớn trong việc động viên nhiều nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hhữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và từ thấp đến cao.
Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở của” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển kinh tế từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm… mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyển của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hóa cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất ”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin.
2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc.
3. Tạp chí cộng sản.
4. Tạp chí phát triển kinh tế.
5. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam NXB Thống kê.
6. Các tài liệu tham khảo khác.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35848.doc