Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Chính sách thuế là đòn bẩy quan trọng để tăng trưởng kinh tế và có mục đích chính là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong tình hình nền kinh tế Việt Nam cần thiết phải tăng trưởng nhanh nhằm nâng cao đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định chính trị, quốc phòng và giảm bớt nguy cơ tụt hậu về kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ năm 1987 đến nay, Việt Nam đã không ngừng toàn diện và hiện đại hoá hệ thống thuế. Tuy nhiên, mặc dù đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế của nước ta vẫn còn nhiều nhược điểm mà vấn đề trầm trọng nhất hiện nay là hầu hết các luật thuế đều quá phức tạp làm cho việc quản lý thu thuế trở nên tốn kém và thất thu thuế do các đối tượng nộp thuế tìm mọi cách để trốn thuế. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế là cần thiết cho việc phát triển kinh tế xã hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Cũng với yêu cầu hoàn thiện chính sách thuế ở nước ta, hiện nay đang có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này với nhiều phương hướng và biện pháp được đặt nhằm góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình lập và thực hiện các luật thuế. Không nằm ngoài mục đích đó, đề án môn học “Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ” này cũng mong muốn đi tìm lời giải cho yêu cầu hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam từ chính vai trò và thực trạng hệ thống thuế hiện nay. Với đề tài “Thuế và vai trò của thuế trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, em mong rằng bài viết này có thể giải đáp dược phần nào những yêu cầu trong quá trình tìm hiểu vai trò và thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay. Do việc nghiên cứu và nhận thức còn hạn chế nên đề án không thể không có những thiếu sót vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và bạn đọc để em có thể có nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này.

doc30 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ giảm thuế đối với những cơ sở sản xuất, xây dựng vận tải trong những năm đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng mà bị lỗ do số thuế giá trị gia tăng phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu. Thời hạn giảm thuế tính hàng năm nhưng tối đa không quá 3 năm kể từ ngày Luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành. 2.Thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế đánh vào sự tiêu dùng của xã hội đối với một số sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt là quan hệ thu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân có sản xuất, nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc quy định hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tuỳ thuộc vào thái độ điều tiết của Nhà nước. Trường hợp cơ sở sản xuất hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng nguyên liệu đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì sẽ được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với nguyên liệu nếu có chứng từ hợp pháp. Phạm vi áp dụng : Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm các tổ chức và cá nhân có sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt - Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành ở nước ta quy định sáu nhóm mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm: Thuốc hút; Rượu; Bia các loại; Các loai pháo; Ôtô nhập khẩu; Xăng. - Dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt: Kinh doanh vũ trường; mát sa; ka-ra-ô-kê; kinh doanh vé đặt cược đua ngựa; đua xe; kinh doanh golf; bán thẻ hội viên; vé chơi golf v.v… Hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nếu xuất, nhập khẩu không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt trong trường hợp: Hàng viện trợ không hoàn lại; Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất khẩu v.v… Căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là số lượng hàng hoá, giá tính thuế, đơn vị hàng hoá và thuế suất. Số lượng hàng hoá, giá tính thuế hàng hoá là cơ sở để xác định đối tượng tính thuế tiêu thụ đặc biệt. Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định như sau: - Đối với hàng sản xuất là giá do cơ sở sản xuất mặt hàng đó bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt. - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá tính thuế nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu. Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm các thuế suất áp dụng có tính phân biệt giữa các nhóm mặt hàng và giữa các mặt hằng trong cùng một nhóm. Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt: STT Mặt hàng Thuế suất (%) 1 Thuốc hút 32-70 2 Rượu 15-90 3 Bia 90 4 Pháo (Trừ pháo nổ) 75-100 5 Ôtô nhập khẩu 30-100 6 Xăng 15 Thời hạn thu, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Thời hạn thu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định phù hợp với từng loại hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu. Chế độ miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt quy định giảm thuế trong một số trường hợp: - Cơ sở sản xuất mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, địch hoạ, tai nan bất ngờ được xét giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Mức giảm được tính theo tỷ lệ phần trăm thiệt hại về tài sản, nhưng không quá 50% số thuế phải nộp và số tiền thuế được giảm không quá 30% giá trị tài sản bị thiệt hại. Thời gian giảm thuế không quá 3 tháng kể từ sau thời điểm xảy ra thiệt hại và có xuất hàng. - Cơ sở sản xuất mới thành lập hoặc cơ sở mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ sản xuất mới nếu nộp đủ thuế tiêu thụ đặc biệt mà bị lỗ được xét giảm thuế theo từng năm. Mức giảm thuế tương ứng với só lỗ của từng năm nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm đó. Thời gian được xét giảm thuế không quá hai năm. Đối với những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ nếu khả năng không nộp đủ được theo mức quy định thì Bộ Tài Chính căn cứ vào tình hình thực tế quyết định mức và thời gian miễn thuế cho từng trường hợp cụ thể. 3.Thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế đánh vào thu nhập của các tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Theo quy định tại Điều 33 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thì Luật thuế TNDN có hiệu lực thi hành và thay thế Luật thuế lợi tức từ ngày 01/01/1999. Thuế TNDN là thuế trực thu. Pham vi áp dụng: Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 1 Luật thuế TNDN là tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập. Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN được quy định tại Điều 2 của Luật thuế TNDN gồm: Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác v.v… Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất. - Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thu nhập khác như thu nhập thu được từ hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của đối tượng nộp thuế. Thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế. - Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 10 Luật thuế TNDN là thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho các nhóm đối tượng cụ thể. Thời hạn thu, nộp thuế TNDN được quy định trong luật có tính đến quy mô và tính chất kinh doanh của các hoạt động kinh doanh có thu nhập thuộc diện chịu thuế. Điều 13 Luật thuế TNDN quy định cụ thể thời hạn nộp thuế đối với từng loại đối tượng. Chế độ quyết toán thuế tính theo năm dương lịch hoặc theo năm tài chính do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Ngoài các quy định về thời hạn và nội dung thực hiện chế độ quyết toán thuế, Luật thuế TNDN còn có các quy định về quyết toán thuế trong trường hợp cơ sở kinh doanh sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản. Chế độ miễn, giảm thuế: Luật thuế thuế thu nhập doanh nghiệp có các quy định miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng theo từng nhóm đối tượng được miễn, giảm thuế (Điều 17, 18, 19, 20, 21). 4. Thuế xuất, nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu là thuế thu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành được quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và sửa đổi bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế xuất nhập khẩu được quốc hội thông qua ngày 5/7/1993. Đối tượng điều chỉnh của thuế xuất nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu , biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước. Theo qui định của luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành thuế xuất nhập khẩu là thuế gián thu. Phạm vi áp dụng của thuế xuất nhập khẩu : Đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu là các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế. Đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu có thể là tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và cũng có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Hàng hoá thuộc diện chịu thuế xuất nhập khẩu phải là hàng hoá được phép xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất hoặc từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước. Đối với các hàng hoá xuất, nhập khẩu trái phép, hàng hoá cấm xuất, nhập khẩu không thuộc phạm vi áp dụng luật thuế xuất nhập khẩu mà xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế hành chính, tư pháp theo qui định của pháp luật. Căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu. Theo điều 6 Luật thuế xuất nhập khẩu căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu bao gồm: Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất, nhập khẩu; Giá tính thuế; Thuế suất của mặt hàng chịu thuế quy định trong biểu thuế. Giá tính thuế xuất nhập khẩu được áp dụng theo từng trường hợp hàng xuất, nhập khẩu theo những phương thức khác nhau. Biểu thuế xuất nhập khẩu bao gồm các thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho từng mặt hàng xuất, nhập khẩu. Thuế suất áp dụng để tính thuế đối với hàng xuất, nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi. - Thuế suất thông thường là thuế suất được quy định tại biểu thuế. - Thuế suất ưu đãi được quy định bằng 70% thuế suất thông thường được áp dụng đối với hàng xuất, nhập khẩu với những nước có ký kết điều khoả ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam hoặc trong những trường hợp do chính phủ quyết định. Thời hạn thu, nộp thuế xuất, nhập khẩu. Điều 17 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định cụ thể thời hạn đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế, riêng đối với hàng thuế xuất nhập khẩu phi mậu dịch và tiểu ngạch biên giới đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế xuất nhập khẩu ngay khi xuất khẩu hàng ra nước ngoài hoặc nhập hàng vào Việt Nam. Chế độ miễn, giảm, hoàn lại thuế xuất nhập khẩu. Hàng xuất, nhập khẩu được miễn thuế xuất nhập khẩu trong các trường hợp quy định trong Điều 10 Luật thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra Điều 11 Luật thuế xuất nhập khẩu còn quy định các trường hợp được xét miễn thuế đối với một số hàng hoá ví dụ như hàng nhập khẩu chuyên dùng cho an ninh quốc phòng, nghiên cứ khoa học và giáo dục, đào tạo v.v.. Điều 12 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định được xét giảm thuế trong trường hợp hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát có lý do xác đángđược cơ quan giám định Nhà nước về hàng xuất, nhập khẩu chứng nhận. Trong các trường hợp như hàng đã nộp thuế nhưng thực tế không xuất, nhập khẩu vào Việt Nam hoặc trong các trường hợp được pháp luật quy định thì đối tượng nộp thuế được trả lại một phần hoặc toàn bộ số thuế xuất nhập khẩu đã nộp. 5. Một số Luật thuế cơ bản khác. 5.1 Thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào thu nhập của người có thu nhập cao.Thu nhập chịu thuế là đối tượng tính thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Thu nhập chịu thuế được quy định làm thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Thuế suất áp dụng để thu thuế thu nhập cá nhân là thuế suất tỷ lệ (%). Biểu thuế được quy định phân biệt theo hai loại thu nhập và theo hai nhóm đối tượng nộp thuế: công dân Việt Nam, cá nhân định cư tại Việt Nam và đối tượng là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài. 5.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ngày 10/7/1993 Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 3 ban hành Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là quan hệ thu nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp giữa nhà nước với các cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp hoặc các tổ chức cá nhân được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp. Căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích, hạng đất và định thuế suất một năm (kg thóc/ha) – thuế suất. 5.3 Một số Luật thuế khác. -Thuế tài nguyên: Là thuế đánh lên hoạt động khai thác tài nguyên thuộc chủ quyền của Việt Nam của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. -Thuế môn bài:Là khoản thu của ngân sách nhà nước áp dụng đối với tất cả các pháp nhân và thể nhân kinh doanh. -Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là thuế đánh lên thu nhập phát sinh từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất trong xã hội. II.Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam. 1. Vai trò của hệ thống thuế ở nước ta hiện nay. Từ khi ra đời đến nay, hệ thống thuế ở Việt Nam đã có nhiều sửa đổi bổ xung nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Nổi bật nhất là chính sách thuế đối với hoạt động xuất khẩu: thuế xuất thuế giá trị gia tăng bằng 0% và hàng nhập khẩu được hoàn thuế thuế giá trị gia tăng đã nộp, đây thực chất là hình thức trợ giá của Nhà nước đối với hàng xuất khẩu. Thuế suất hàng xuất khẩu đối với gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ rừng trồng, bàn ghế, sản phẩm chế biền từ kim loại cũng được giảm nhẹ. Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là 25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu trên 30% tổng giá trị hàng hoá và có thể được miễn thuế TNDN bổ sung nếu có giá trị hàng xuất khẩu trên 50%. Các ưu đãi về thuế trên đã thiết thực giúp các doanh nghiệp giảm được giá vốn hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Đồng thời với việc giảm thuế quan theo chương trình của CEPT, Chính phủ đã diều chỉnh nâng thuế suất thuế nhập khẩu đối với 132 mặt hàng, chủ yếu là hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được nhằm thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất nội địa một cách hợp lý. Các Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Thuế giá trị gia tăng được căn cứ vào giá trị mới tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình lưu thông đến tiêu dùng. Chính việc xác định đối tượng chịu thuế chỉ là giá trị mới tăng thêm qua từng khâu của quá trình sản xuất lưu thông nên đã khắc phục được tính trùng lặp của luật thuế doanh thu. Trong lúc đầu chuyển đổi từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất sang thuế giá trị gia tăng có 4 mức thuế suất, một số doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu nên gặp nhiều khó khăn do chưa có điều kiện sắp xếp lại tổ chức hoạt động, quản lý phù hợp với cơ chế mới. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các Bộ đã tăng cường chỉ đạo, bám sát tình hình, kịp thời đề ra nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn mang tính chất tình thế. Hơn 10 nhóm ngành hàng, dịch vụ được bổ xung vào danh mục thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng; giảm 50% mức thuế cho 18 ngành hàng dịch vụ; mở rộng diện được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ ấn định, đặc biệt với mặt hàng nông lâm thuỷ sản, đối với mặt hàng tồn kho theo chủ trương của chính quyền địa phương; giảm thuế đối với mọi ngành nghề phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu mà bị lỗ; giảm thuế suất nhập khẩu cho 559 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước. Các công trình đầu tư, xây dựng cơ bản cũng được nhiều ưu đãi về thuế. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc được hoàn đủ thuế đã nộp. Mặt khác, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dung nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng. Các dự án xây dựng cơ bản sử dụng nguồn vốn ODA cũng không phải nộp thuế giá trị gia tăng. Với việc thực hiện nghị định 78-NĐ/CP giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, sau khi được khấu trừ thuế đầu vào, các doanh nghiệp xây dựng còn phải nộp thuế trung bình khoảng 1- 2% giá trị công trình, thậm chí còn được hoàn thuế. Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu cho các doanh nghiệp sản xuất, vận tải, xây dựng mới thành lập và giảm 50% thuế phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp thành lập ở vùng có khó khăn thì được kéo dài thời gian miễn và giảm thuế trong 2 năm nữa. Riêng đối với doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất thấp hơn so với các dự án bình thường; ngoài ra còn được miễn thuế trong thời gian 4 năm đầu kể từ khi hoạt động có thu nhập tính thuế và giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn quy định miễn giảm thuế đối với các trường hợp đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển cơ sở kinh doanh. Các Luật thuế mới đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện nghiêm ngặt chế độ mua bán phải có hoá đơn, chứng từ nhằm xây dựng môi trường trong sạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường. Trường hợp doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, muốn được khấu trừ thuế giá trị gia tăng ở khâu đầu vào thì khi mua vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm đòi hỏi cơ sở phải sử dụng và ghi chép đúng quy định trên hoá đơn thuế giá trị gia tăng. Với việc quy định mức thuế suất của luật thuế giá trị gia tăng so với thuế doanh thu đã tạo cho chính sách thuế đơn giản và dễ thực hiện hơn. 2.Những tồn tại và hạn chế trong hệ thống thuế ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả đạt được, trên chặng đường hội nhập hệ thống thuế Việt Nam vẫn gặp phải một số vướng mắc, tồn tại cần đổi mới và hoàn thiện. Các luật thuế vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước mà biểu hiện rõ nhất là các đạo luật thường xuyên phải sửa đổi bổ sung.Các sắc thuế còn quá phức tạp, chưa bao quát hết các nguồn thu, phạm vi điều tiết vĩ mô của thuế còn hẹp, còn nhiều đối tượng, nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa chịu sự điều phối và quản lý của thuế và do vậy các đối tượng này trở thành rào cản làm hạn chế tác dụng và loại trừ tác động của công cụ thuế. Hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các sắc thuế, việc sử dụng các sắc thuế còn tách rời nhau. Đặc biệt là việc xây dựng các mức thuế suất còn chưa sát với tình hình thực tế, rõ ràng nhất là khi áp dụng các mức thuế suất của thuế giá trị gia tăng thì một số doanh nghiệp đã gặp khó khăn trong việc hạch toán kinh tế. Việc phải đi vay ngân hàng để nộp thuế giá trị gia tăng đang là mối lo ngại lớn của các doanh nghiệp.Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính không ổn định, không công bằng, chưa thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Luật thuế giá trị gia tăng khi thực hiện vẫn có nhiều vướng mắc, phải sửa đổi bổ sung nhiều lần làm cho các doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời. Mặt khác việc thường xuyên thay đổi thuế suất của thuế nhập khẩu hiện nay tuy phù hợp với thay đổi trước mắt của nền kinh tế nhưng lại phản ánh chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam mang tính tình thế đối phó ngắn hạn, gây khó khăn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc hạch toán kinh tế. Trong chủ chương xây dựng chiến lược lâu dài, thuế thu nhập doanh nghiệp mặc dù thống nhất áp dụng ở mức thuế suất 32% nhưng chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nưóc còn các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài vẫn hưởng thuế suất ưu đãi (25%) và phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Như vậy có thể nói rằng việc tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài trong cơ chế cạnh tranh của chính sách thuế vẫn chưa thực hiện được. Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay được sử dụng như một công cụ phục vụ quá nhiều chính sách xã hội điều này làm mất đi tính trung lập của thuế. Ví dụ như chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện nay đang áp dụng quá nhiều mức thuế suất do phải phục vụ quá nhiều mục tiêu. Cùng với việc theo đuổi các mục tiêu xã hội là việc quy định chế độ miễn giảm thuế quá rộng rãi với nhiều mức thuế suất khác nhau đã làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, thiếu minh bạch, thiếu hiệu quả và đôi khi tạo kẽ hở cho một số mặt hàng núp bóng các đối tượng thuộc diện được miễn giảm thuế để trốn thuế lậu thuế Đặc biệt hệ thống thuế Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo tương thích tương đồng với các chính sách thuế trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 12 mức thuế suất dàn trải từ 0% đến 100% cùng với quy định thuế suất theo tỷ lệ nội địa hoá làm cho biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối phức tạp và đây còn là vấn đề rất khó khăn trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức 0%-5% khi Việt Nam thực hiện cam kết theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung với thời hạn cuối cùng là năm 2006. Về giá tính thuế, hiện nay chúng ta đang áp dụng chế độ tính giá tối thiểu và nằm trong dang mục Nhà nước quản lý. Quy định này trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện nay là tương đối phù hợp tuy nhiên khi Việt Nam tham gia WTO thì việc áp dụng giá tính thuế tối thiểu sẽ vi phạm quy định về xác định trị giá tính thuế theo giá giao dịch thực của GATT/WTO. Bên cạnh đó việc bảo hộ còn dàn trải, thiếu sự chọn lọc, chưa tính đến lợi thế so sánh của nền kinh tế, sử dụng nhừng biện pháp bảo hộ đối với những ngành sản xuất mà thực tế còn thiếu tiềm năng. Do đó các ngành được bảo hộ không những không lớn mạnh mà còn trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời chúng ta còn chưa tính đến việc bảo hộ một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước không chịu vươn lên đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất và quản lý để tăng sức cạnh tranh của hành Việt Nam, mở rộng thị trường tiêu thụ ra bên ngoài, mặt khác làm cho việc phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, chưa phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phân công lao động quốc tế khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực. Đối với thuế giá trị gia tăng, tồn tại nổi lên là nhiều ngành nghề gặp khó khăn do phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu. Việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng phải nộp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao, một cách tràn lan, thiếu căn cứ đã tạo nên tâm lý chờ đợi của nhiều doanh nghiệp, có quá nhiều khiếu nại kêu ca, khiến cho cơ quan chức năng lúng túng bị động.Ưu điểm nổi bật của thuế giá trị gia tăng là khắc phục được việc thu thuế trùng lặp. Thế nhưng trên thực tế việc không cho khấu trừ thuế đầu vào (hoặc cho khấu trừ khoán theo tỷ lệ cố định là 3%) đối với trường hợp chỉ có hoá đơn bình thường mà thực chất là hàng đã được nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp, là còn duy trì chế độ thuế trùng lắp cao hơn thuế doanh thu vì thuế suất thuế giá trị gia tăng cao. Ngược lại việc khấu trừ khống đối với nông, lâm, thuỷ sản mua của cơ sở sản xuất, khai thác trực tiếp đã tạo nên nhiều sơ hở để cơ sở kinh doanh lợi dụng thông đồng trốn lậu thuế ( kể cả đối với hàng tiêu thụ nội địa và hàng xuất khẩu), không tạo được lợi ích cho nông dân, ngư dân. Từ việc quy định có nhiều trường hợp dược giảm thuế và nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau luật thuế đã bị xói mòn với nhiều mức thuế suất mới, thêm nhiều phức tạp khó khăn cho công tác quản lý. Hàng hoá thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị gia tăng cũng gây trở ngại cho việc khấu trừ đầu vào ở khâu lưu thông. Thuế giá trị gia tăng được sửa đổi bổ sung qua nhiều văn bản cũng gây khó khăn cho việc tra cứu của cán bộ thuế và nhà doanh nghiệp khi xác định thuế suất. chế độ hoá đơn chưa được thi hành nghiêm chỉnh với nhiều thủ đoạn trốn lậu tuế tinh vi từ hoá đơn giả đến hoá đơn “đen”, ghi doanh thu trên liên hoá đơn lưu tại cơ sở và trên liên giao cho khách chênh lệch đến hàng chục hàng trăm lần… đang trở thành con dao hai lưỡi trong công tác quản lý thu thuế. Theo tài liệu thống kê sơ bộ 9/1999 đến 9/2000 chỉ riêng ở 15 tỉnh, thành phố đã kiểm tra phát hiện 1.278 tờ hoá đơn giả các loại có tổng số tiền hàng ghi hoá đơn trên 22,5 tỷ đồng với số thuế gian lậu là 82,9 triệu đồng. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, vướng mắc từ lâu vẫn tồn tại là khái niệm về chi phí hợp lý được trừ đi khi xác định thu nhập tính thuế – một yếu tố quan trọng trong thuế thu nhập doanh nghiệp. Do chưa có quy địng rõ ràng thoả đáng nên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và phải hiệp thương giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế, còn nhiều sơ hở cho việc vận dùng tuỳ tiện tiêu cực. Nhiều khoản chi cần thiết chưa được công nhận là chi phí kinh doanh trong đó có trang bị đồng phục đối với một số doanh nghiệp đặc thù cũng là vấn đề vướng mắc của một số doanh nghiệp. Việc tính thuế một lần trên toàn bộ số tiền khách hàng tạm ứng thuê tài sản dài hạn (5- 10 năm) cũng có phần chưa hợp lý. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành không thể hạch toán riêng lỗ lãi để áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp khác nhau (32% hoặc tạm thời áp dụng thuế suất 25%) phải chịu thuế suất cao nhất (32%) cũng đã tạo nên những khó khăn nhất điịng cho cơ sở sản xuất. Về nguyên tắc thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng phổ biến 32% thu nhập tính thuế, nhưng do còn nhiều khoản chi phí không được trừ hoặc không được trừ đủ, thực thị trườngế có nhiều doanh nghiệp bị động viên đến 40 – 50% thu nhập kinh doanh. Vấn đề khá nổi cộm là thuế thu nhập doanh nghiệp bỏ sung 25% đối với doanh nghiệp có thu nhập còn lại cao hơn 12% giá trị vốn hiện có tại thời điểm quyết toán thuế năm do lợi thế khách hàng mang lại như địa điểm kinh doanh thuận lợi, ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh…mà đó lại là những tiêu chí rất trừu tượng, mơ hồ, cán bộ thuế muốn vận dụng giải thích thế nào cũng đều đúng. Quy định như trên đã phần nào làm nhụt vươn lên khắc phục khó khăn của doanh nghiệp, kìm hãm sản xuất của các thành phần kinh tế trong nước. Chính ssách thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất quá trênh lệch ( giữa 32% với 25% thậm chí cả 10%, 15%, 20% được áp dụng trong thời gian dài và thuế suất bổ xung) trên thực tế đã làm giảm một động lực quan trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước, đang phải cạnh trang gay gắt trong quấ trình hội nhập mà thời gian chuẩn bị cạnh tranh không còn dài. Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với kinh tế trang trại đã từng nổi lên như một vấn đề thời sự nóng bỏng hiện cũng cần được giải quyết một cách thoả đáng rõ ràng. PHẦN C . XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM. I. Xu hướng cải cách thuế trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX. Có thể nói rằng hệ thống thuế trên thế giới vào những năm cuối thập kỷ 90 đã có những điểm rất khác biệt so với hệ thống thuế của những năm 80. Cải cách thuế trong những năm cuối của thế kỷ XX không chỉ đơn giản là sự cân nhắc tối ưu giữa mục tiêu hiệu quả và công bằng trong điều kiện của một nền kinh tế “đóng” mà còn bị chi phối mạnh mẽ bởi những nhân tố mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của nước ta nói riêng và tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng trên thế giới. Những khác biệt này một mặt phản ánh sự chuyển hướng chính sách trong cải cách thuế nhằm đạt tới sự tối ưu trong điều kiện nền kinh tế “mở” mặt khác lại hàm ý nhiều vấn đề cần giải quyết đối với cải cách thuế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Những xu hướng nổi bật trong cải cách thuế trên thế giới vào những năm cuối của thế kỷ XX có thể nhận thấy qua xu hướng ngày càng tăng về tỷ lệ động viên thông qua thuế so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Bất chấp những cố gắng của nhiều chính phủ trên thế giới trong việc cắt giảm gánh nặng thuế, tỷ lệ động viên thông qua thuế vẫn có xu hướng tăng lên. Trong số trên 20 nước thuộc khối các nước phát triển OECD, chỉ có hai nước là HàLan và Na Uy là có tỷ lệ động viên từ thuế so với GDP giảm vào giữa những năm 1980-1995, những nước còn lại thì tỷ lệ này so với GDP tăng đáng kể. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1995, gánh nặng thuế trong khối các nước OECD đã liên tục tăng từ khoảng 27% GDP lên tới gần 40% GDP, tỷ lệ này đặc biệt cao ở một số nước như Bỉ, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Phần Lan ( trên 45% GDP ). Thuế suất biên đối với thuế thu nhập cá nhân tiếp tục giảm thấp. Do những thành tựu nghiên cứu của những năm 80 cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng tỷ lệ thuế suất biên càng cao sẽ gây méo mó càng lớn đối với nền kinh tế. Tỷ lệ thuế cao sẽ không khuyến khích lao động và tiết kiệm nhưng đồng thời lại kích thích việc lợi dụng những kẽ hở thuế. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến trào lưu cắt giảm thuế suất biên trung bình khoảng trên 10% vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu thế vẫn được duy trì và đi vài ổn định trong những năm 90. Cơ sở đánh thuế thu nhập được mở rộng để bù đắp số thuế giảm do việc cắt giảm thuế suất. Ở đa số các nước thực hiện việc cắt giảm thuế suất biên đối với thuế thu nhập cá nhân, nguồn tài chính thiếu hụt được bù đắp bằng việc mở rộng cơ sở đánh thuế, việc này được thực hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất là tăng cường đánh thuếvào những khoản thu nhỏ, lãi thấp mà trươcs đây chưa đưa vào diện chịu thuế. Cách thứ hai là loại bỏ hoặc hạn chế những khoản ưu đãi, miễn giảm, khấu trừ không cần thiết. Đa số các nước phát triển áp dụng biện pháp thứ hai ở những mức độ khác nhau. Như ở Mỹ năm 1986, đã tiến hành loại bỏ một loạt các khoản khấu trừ và một số ưu đãi. Nhưng ưu đãi trong hệ thống thuế của nước Mỹ lúc bấy giờ được coi là quá phức tạp gây ra những méo mó nghiêm trọng đối với tiêu dùng tiết kiệm và đầu tư. Nếu so sánh những chương trình chi tiêu, trợ cấp của chính phủ hoặc các biện pháp khác thì những ưu đãi, miễn giảm thông qua thuế tỏ ra không minh bạch và không phát huy được tác dụng theo ý đồ thiết lập thuế. Vì lý do đó, một loạt các nước đã tiến hành tính toán và theo dõi tài khoản “chi phí thuế” là tài khoản theo dõi tổng số thuế bị mất đi của chính phủ do thực hiện các biện pháp miễn, giảm, khấu trừ thuế. Sự tính toán, theo dõi này là một trong những biện pháp làm minh bạch và hạn chế hệ thống miễn giảm khấu trừ trong các sắc thuế ở một mức độ được coi là hợp lý và trên cơ sở đó mở rộng cơ sở đánh thuế của các chính phủ. Việc mở rộng cơ sở đánh thuế đã cơ bản bù đắp sự thiếu hụt nguồn thu do việc cắt giảm thuế suất gây nên, tuy nhiên vẫn không bù đắp được hoàn toàn. Do không bù đắp được hoàn toàn nhu cầu tài chính nên nhiều nước đã lại đặt gánh nặng thuế nhiều hơn lên tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Một lần nữa, vấn đề này lại gây ra một mối quan tâm chung về tính công bằng và vai trò phân phối thu nhập của hệ thống thuế. Thuế thu nhập cá nhân được đơn giản hoá theo hướng giảm bới số lượng thuế suất làm cho chúng “bằng phẳng” hơn. Hệ thống thuế thu nhập cá nhân trước những năm 80 trở nên quá phức tạp với nhiều bậc thuế suất cùng với những quy định khấu trừ, ưu đãi, miễn giảm làm chi phí hành chính trở nên quá lớn. Thực tại này đã được cải thiện đáng kể thông qua việc gọt giũa hệ thống thuế thu nhập cá nhân theo hướng đơn giản hoá. Các nhà cải cách đã lập luận rằng ít số lượng thuế suất hơn không có nghĩa là làm cho hệ thống thuế ít luỹ tiến hơn. Trong thập kỷ gần đây, ngoại trừ Thuỵ Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả các nước còn lại trong khối OECD đều thực hiện việc cắt giảm số lượng thuế suất thuế thu nhập cá nhân. số lượng thuế suất bình quân đã giảm từ 10 bâc xuống còn 6 bậc tính từ năm 1986 đến 1997. Xu hướng giảm số lượng thuế suất cùng với việc hạ thuế suất biên cao nhất trong thập kỷ 80 và 90 đã làm cho hệ thống thuế thu nhập cá nhân trở nên bằng phẳng hơn với số lượng thuế suất ít hơn và sự khác biệt giữa các bậc thuế suất nhỏ hơn. Thuế thu nhập công ty cũng được cải các theo xu hướng cắt giảm thuế xuất và mở rộng diện đánh thuế. Đối với thuế thu nhập công ty một loạt các ưu đãi, miễn giảm trước đây đã bị xoá bỏ hoặc hạn chế. Khuynh hướng này được thể hiện rõ nét tại một số nước như Đức, Mỹ, Phần Lan, Ailen… Trong khi đó thuế suất thuế thu nhập công ty trong khối các nước OECD bình quân giảm khoảng 10% nếu so sánh mức của những năm 1997 với mức của năm 1986. Khi nền kinh tế ngày càng có tính chất quốc tế hóa, những yếu tố của quá trình sản xuất ngày càng trở nên linh hoạt hơn và có thể dễ dàng di chuyển qua giới hạn quốc gia của một số nước, việc duy trì một mức thuế suất thuế thu nhập công ty cao sẽ trở nên bất lợi cho chính bản thân quốc gia đó bởi nguy cơ “biến mất” của đối tượng nộp thuế. Vì vậy trào lưu cắt giảm thuế suất thuế thu nhập công ty nhanh chóng trở thành một hiện tượng đômino giữa các nước phát triển và theo sau là các nước đang phát triển. Sự lan truyền nhanh chóng của xu hướng áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu trên phạm vi toàn cầu theo thống kê của IMF đến nay đã có hơn 120 nước trên thế giới áp dụng thuế giá trị gia tăng. Song song với việc phổ cập áp dụng thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng cũng có xu hướng điều chỉnh theo hướng nâng cao làm cho thuế giá trị gia tăng ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng. Theo số liệu thống kê, trong khối các nước OECD, thuế suất trung bình khi các nước mới áp dụng thuế giá trị gia tăng là 12,5%. Mức thuế suất thuế giá trị gia tăng trung bình đã đạt vào khoảng 17,5% vào năm 1998. Cấu trúc thuế đã có sự thay đổi theo hướng giảm dần thuế trực thu, tăng tỷ lệ thuế gián thu đối với các nước phát triển, trong khi đó đối với các nước đang phát triển thì có sự thay đổi theo hướng ngược lại. Do cảm nhận được tính không quyến khích tiết kiệm của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty, đa số các nước phát triển thực hiện việc cắt giảm thuế trực thu và chuyển sang loại hình thuế tiêu dùng như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…Mặc dù vậy, thuế trực thu vẫn chiếm tỷ lệ đa số và là chỗ dựa chủ yếu của ngân sách các nước đang phát triển. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 1980 đến 1995, tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty có chiều hướng giảm trong khi đó thuế tiêu dùng có xu hướng tăng. Sự gia tăng của thuế gián thu đặc biệt là thuế tiêu dùng chung là xu hướng phù hợp với việc phổ cập áp dụng thuế giá trị gia tăng tên toàn thế giới. Trong khi đó, xu hướng thay đổi cấu trúc thuế suất ở các nước đang phát triển trong một vài thập kỷ qua lại diễn ra theo chiều ngược lại. Tuy nhiên, sự trái ngược này không có gì mâu thuẫn. Một đặc trưng của các nước đang phát triển là thu nhập thấp, nên muốn có nguồn chi tiêu chính phủ của các nước này phải dựa chủ yếu vào các loại thuế gián thu do dễ thu và dễ quản lý lại vừa ổn định. Khi thu nhập được nâng cao theo quá trình phát triển kinh tế khả năng của chính phủ có được nguồn thu từ thuế thu nhập dồi dào hơn. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự thay thế hoàn toàn thuế gián thu bằng thuế trực thu hoặc ngược lại là điều không thể có. Một cơ cấu thuế hợp lý là một cơ cấu mà ở đó giới hạn luỹ thoái của thuế gián thu bị hạn chế bởi phạm vi luỹ tiến của thuế trực thu. Bởi vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực thu và thuế gián thu là rất quan trọng cả về mặt lý thuyết và thực tiễn không chỉ ở những nước phát triển mà còn cả ở những nưóc đang phát triển. Trong đó, một quy luật chung có tính phổ biến là các nước phát triển dựa chủ yếu vào thuế trực thu còn các nước đang phát triển thì dựa chủ yếu vào thuế gián thu. Tính phức tạp trong hệ thống thuế của các nước vẫn còn là vấn đề lớn, và do đố mục tiêu làm đơn giản hệ thống thuế được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết trong cải cách thuế trên thế giới. Sự phức tạp của hệ thống thuế làm người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành còn cơ quan thu thuế thì lại khó quản lý thu nộp. Sự phức tạp của hệ thống thuế đã tạo cơ hội trốn và tránh thuế đồng thời làm tăng chi phí thu thuế và chi phí tuân thủ luật của các đối tượng nộp thuế. Tóm lại, tất cả những xu hướng cải cách thuế trên thế giới chứng tỏ trong thời đại ngày nay việc hoạch định chính sách thuế không chỉ là vấn đề đánh thuế của chính phủ nữa, Những nhân tố của toàn cầu hoá đã nhanh chóng trở thành những lực lượng khách quan chi phối xu hướng cải cách thuế trên thế giới trong thế kỷ XXI thế kỷ của toàn cầu hoá được đặc trưng bằng nền kinh tế tri thức. II. Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam . 1. Biện pháp. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của hệ thống thuế hiện hàng tiến tới hoàn thiện và xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay đòi hỏi chúng ta cần cải tiến hệ thống thuế theo hướng xây dựng chiến lược phát triển kinh tế mang tính dài hạn trên cơ sở đó xây dựng hệ thống chính sách thuế không chỉ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội trong nước mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, kinh tế khu vực cũng như kinh tế thế giới, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế. Cần hạn chế sự lồng ghép các mục tiêu xã hội vào các chính sách thuế, mặt khác thu hẹp đối tượng miễn giảm thuế để tránh tình trạng lợi dụng cơ chế miễn giảm thuế để trốn, lậu thuế. Cần mở rộng diện đánh thuế với các mức thuế suất để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa tăng cường quản lý và mở rộng phạm vi tác động của công cụ thuế vào nền kinh tế quốc dân, thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua chính sách thuế tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài vừa đảm bảo lợi ích kinh tế của doanh nghiệp trong nước và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Cần xây dựng biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ hiệu quả nền kinh tế, bảo vệ lợi ích quốc gia và phù hợp với điều kiện hội nhập. Để thiết kế được biểu thuế này, song song với việc xác định mức bảo hộ hiệu quả cho từng ngành kinh tế theo từng cấp độ bảo hộ, cần sắp xếp lại các mức thuế suất theo hướng thu hẹp số lượng mức thuế suất và phân loại hàng hoá theo biểu thuế cần phải tuân theo quy định trong danh mục mô tả hàng hoá của tổ chức hải quan thế giới. Phải xây dựng được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nước ta tham gia hội nhập ở xuất phát thấp so với các nước khác trong khu vực, hầu hết các doanh nghiệp trong nước còn non trẻ do đó duy trì bảo hộ trong những năm trước mắt là cần thiết. Tuy nhiên, cần xác phải đặc biệt quan tâm và quản lý vấn đề bảo hộ này. Cần xác định ngành nào cần bảo hộ, mức độ, thời gian và điều kiện bảo hộ, không nên bảo hộ một cách tràn lan. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay việc xác định mức bảo hộ cần phải tuân theo nguyên tắc giảm dần vì chúng ta chỉ có hai mốc thời gian để chấm dứt bảo hộ. Đó là năm 2006 sản xuất trong nước sẽ không còn được bảo hộ trước hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN và năm 2020 sẽ không còn bảo hộ trước hàng của APEC, WTO do đó có thể coi năm 2020 là mốc chấm dứt hoàn toàn bảo hộ. Thêm vào đó, cần khẩn trương xây dựng và công bố công khai rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đánh gía đúng những cơ hội và thách thức từ đó có những chương trình thích ứng kịp thời và tận dụng những cơ hội có được. Xét về nội dung của từng sắc thuế cũng cần có những thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của nền kinh tế hiện nay. Đối với thuế giá trị gia tăng, cần khẳng định đây là một luật thuế tiến bộ nhưng việc vận dụng ở Việt Nam chưa mấy thành công vì còn nhiều điểm chưa phù hợp như mức thuế xây dựng còn quá cao, còn nhiều trường hợp còn trùng lặp. Phương pháp xử lý giảm 50% thuế cho hàng loạt đối tượng không thể coi là cách xử lý tối ưu để tháo gỡ khó khăn cho các nhà doanh nghiệp nhất là trong hoàn cảnh thực hiện các luật thuế ở nước ta vốn đã lỏng lẻo. Qua thực tiễn, vấn đề cần được xem xét điều chỉnh thuế suất từ luật định mức thuế mang tính khả thi phổ biến trước mắt là 5% hoặc 10% tiến tới xây dựng một mức thuế suất đơn nhất để việc vận dụng được thuận lợi. Phải giải quyết thoả đáng việc khấu trừ đầu vào đảm bảo tính ưu việt của thuế giá trị gia tăng là không đánh chồng chéo. Chế độ thu thuế khoán chỉ nên áp dụng với hộ kinh doanh cá thể trực tiếp bán lẻ cho người tiêu dùng, với mức thuế suất sát với thực tế kinh doanh, hạn chế diện nộp thuế qua khoán. Về thuế tiêu thụ đặc biệt cần nghiên cứu xây dựng hệ thống thuế suất đơn giản không qua chỉnh lý phù hợp với trình độ quản lý của cơ quan thuế. Khắc phục ngay tình trạng xây dựng thuế suất quá cao nhưng do không có điều kiện quản lý chặt chẽ nên đại bộ phận hàng hoá kê khai đều chỉ nộp theo thuế suất thấp nhất. Về thuế thu nhập doanh nghiệp cần quy định rõ hơn các chi phí hợp lý được trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế đảm bảo thực hiện thống nhất giữa các địa phương. Giảm thuế suất và bỏ thuế thu nhập bổ sung nhằm tạo điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp. Đối với thuế thu nhập cá nhân cần thay thế thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng thuế đánh lên thu nhập cá nhân từ mọi nguồn như tiền lương; kinh doanh công, thương nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, từ hoạt động cho vay, nhượng bán cổ phiếu, trái phiếu và từ những nguồn khác như thừa kế, quà biếu, trúng thưởng xổ số v.v..trên mức khởi điểm tính thuế. Cân nhắc giữa hai phương án nâng mức khởi điểm tính thuế hiện nay đối với người Việt Nam hay vẫn giữ mức khởi điểm khoảng 2 triệu đồng nhưng điều chỉnh thuế suất xuống mức thấp nhất. Theo phương án giảm mức thuế suất, số người nộp thuế được mở rộng, với mức thuế phải nộp thấp nhưng Nhà nước vẫn có được một nguồn thu khá lớn. Về thuế xuất nhập khẩu cần điều chỉnh thuế suất phù hợp với thông lệ quốc tế và quy trình hội nhập AFTA, CEFT, WTO, … Ban hành thuế sử dụng đất thay thế thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất để đơn giản hệ thống chính sách thuế và đảm bảo mối tương quan về mối tương quan về mức độ động viên giữa các đối tượng sử dụng đất khác nhau. Thuế sử dụng đất cần tính trên giá trị đất khác nhau, phù hợp với biến động phức tạp của thị trường đất nhằm phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô với từng loại đất. Thuế suất chỉ cần quy định một mức thống nhất, tính trên giá đất ổn định khác nhau. Trong nông nghiệp cần có ưu đãi, miễn giảm thuế sử dụng đất đối với những vùng được quy hoạch phát triển theo hướng chuyên canh sản xuất lương thực và nông sản là nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu, vùng chuyên canh cung cấp cho các khu công nghiệp, đô thị. Đất trong vùng chuyên canh sử dụng không đúng mục đích sẽ phải chịu nộp thuế cao. Cần chiếu cố đối với vùng sâu vùng xa để khuyến khích định canh định cư, phát triển sản xuất nông nghiệp phù hợp với thế mạnh của từng vùng. Ban hành thuế trước bạ thay thế lệ phí trước bạ, đảm bảo tính pháp lý cao đối với khoản thu này - một khoản thu về các loại tài sản Nhà nước cần quản lý, động viên đóng góp. Thuế trước bạ áp dụng đối với cả trường hợp chuyển quyền sử dụng đất nên có thể bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất nằm trong giá chuyển nhượng. Trong luật thuế cần có quy định chặt chẽ về thời hạn đăng ký sau khi phát sinh quyền sở hữu, quyền sử dụng hay chuyển nhượng tài sản. Khắc phục tình trạng buôn bán tài sản chỉ làm chứng từ viết tay, thoả thuận riêng với nhau để trốn thuế. Mặt khác cần xem xét xây dựng các mức thuế suất thích hợp với từng loại tài sản, với một số trường hợp chuyển nhượng đặc biệt để việc đánh thuế được hợp lý. Ban hành thuế kinh doanh thay thế thuế môn bài. Tính chất của thuế môn bài đến nay không còn phù hợp với tên gọi nữa. Thuế kinh doanh vẫn giữ mục đích của thuế môn bài là phục vụ yêu cầu kiểm kê, kiểm soát mọi cơ sở kinh doanh vào đầu mỗi năm hoặc khi cơ sở bắt đầu khai hoạt động. Về thuế tài nguyên, thực chất không phải là thuế mà mang nội dung chuyển nhượng tài sản quốc gia cho người khai thác khoáng sản, lâm sản và thuỷ sản do đó nên chuyển thuế tài nguyên thành khoản ‘thu về chuyển nhượng tài nguyên quốc gia”, vừa đúng tính chất, vừa có căn cứ xác định đúng đắn giá chuyển nhượng. Đồng thời giải quyết tình trạng cùng một tài nguyên lại phải nộp hai loại thuế: Thuế giá trị gia tăng và thuế tài nguyên. Nội dung thuế cần mở rộng theo hướng mở rộng diện đánh thuế với mọi tài nguyên khai thác, có sự điều chỉnh thuế suất tăng lên gắn với bảo vệ môi trường. 2. Kiến nghị. Cần xem xét, sắp xếp, mở rộng diện thu trong từng sắc thuế, hạn chế đến mức tối đa các trường hợp miễn giảm thuế với những điều kiện, thủ tục thẩm quyền rõ ràng. Đồng thời, phải có những quy định đầy đủ, cụ thể về đối tượng đánh thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, thuế suất, chế độ khai báo, nộp thuế nhằm khắc phục cách hiểu, cách làm tuỳ tiện. Cơ quan thuế cần hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tự kiểm tra, tính thuế, nộp thuế, tự kê khai và nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cán bộ thuế chỉ quản lý kiểm tra tính thuế của doanh nghiệp và xử lý khi có sai phạm. Chính sách động viên về thuế cần có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc lâu dài cho ngân sách nhà nước. Cơ cấu thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao mà cần tính toán kỹ lưỡng, phù hợp khả năng đóng góp của các đối tượng nộp thuế đảm bảo tính khả thi của các luật thuế. Hệ thống thuế suất ở nhiều nước cho thấy, nếu ở mức vừa phải thì số thu được nhiều hơn là để ở mức cao. Thuế càng nặng thì người nộp thuế càng tìm cách trốn lậu thuế, kể cả thông đồng với người cán bộ thuế. Khi tình trạng trốn lậu thuế trở thành phổ biến, việc đối phó thường tốn kém, ít hiệu quả. Kinh nghiệm thực tế của nhiều nước cho thấy, tính hiệu quả của hệ thống thuế cần phải được tính toán cụ thể, dựa trên sự so sánh giữa số thuế thu được với toàn bộ chi phí bỏ ra để thu thuế, kể từ việc tổ chức tuyên truyền, giải thích, quản lý, tổ chức kê khai, đến bộ máy hành thu của thuế, kiểm tra, ngăn chặn trốn lậu thuế. Qua nghiên cứu chính sách thuế ở nhiều nước, kết luận được khẳng định là thuế suất đơn giản được quy định cụ thể rõ ràng, với mức vừa phải là yếu tố quyết định hiệu quả của chính sách thuế. Tất nhiên, cũng không thể bỏ qua các yếu tố khác góp phần quan trọng vào hiệu quả thu thuế, như trình độ dân trí về thực hiện nghĩa vụ khai báo , nộp thuế; trình độ hạch toán trong nền kinh tế; việc áp dụng tin học và máy tính… Chính sách thuế tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế phát triển tuy nhưng không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, nới lỏng kỷ cương làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Để thiết thực góp phần phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chính sách thuế cần có tác dụng khuyến khích khai thác nguyên vật liệu, vật tư trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, khuyến khích mở rộng giao lưu hàng hoá, đấu tranh chống trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp, hướng dẫn và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, coi trọng và bảo vệ sản xuất nội địa. Hệ thống thuế cần bảo đảm linh hoạt, sửa đổi bổ sung kịp thời trong trường hợp cần thiết, vừa đảm bảo nguyên tắc pháp lý vừa không cản trở đến hoạt động bình thường của các doanh nghiệp. Cần tổ chức tốt việc theo dõi quá trình thực hiện, kịp thời có biện pháp giúp đỡ cơ sở tháo gỡ khó khăn, làn ăn có hiệu quả, tăng được tích luỹ cho đơn vị và có điều kiện nộp thuế. Trong bước đầu chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang cơ chế thị trường, các cơ sở quốc doanh còn lúng túng, bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn, chính sách thuế cần có sự chiếu cố, xem xét miễn giảm trong thời gian nhất định sau đó cần tiến tới xoá bỏ các ưu đãi để đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam, cũng cần khắc phục tư tưởng sùng bái, cường điệu, đánh giá quá cao vai trò điều tiết nền kinh tế, dẫn đến việc xây dựng hệ thống thuế suất quá phức tạp. làm cho chính sách thuế bị nhiễu, thiếu tính khả thi, kém hiệu quả. Cần quan tâm đến tính trung lập của thuế và Nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp thể hiện qua việc đóng được thực hiện thông qua việc áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. Sự công bằng về thuế trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với Nhà nước, người đại diện cho quyền lực và lợi ích của toàn xã hội. KẾT LUẬN Việc tránh thuế trong những năm gần đây ở nước ta có xu hướng tăng lên đã làm xói mòn đáng kể cơ sở của hệ thống thuế, làm giảm tính công bằng của thuế, gây tâm lý không tốt cho việc chấp hành luật thuế. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này chính là sự hạn chế của hệ thống thuế, sự non kém trong lĩnh vực quản lý và sự phức tạp trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Hiện nay công cuộc cải cách hệ thống thuế với việc sửa đổi cải cách hai luật thuế mới là thuế giá trị gia tăng và thuế TNDN, cùng việc áp dụng quá trình quản lý thuế hiện đại đã khắc phục được phần nào những vấn đề vướng mắc của hệ thống thuế. Tuy nhiên trên thực tế những biểu hiện tiêu cực vẫn còn tồn tại dưới dạng này hay dạng khác cùng với sự tồn tại của hệ thống thuế. Do vậy trong thời gian tới, vấn đề cải cách hệ thống thuế cần thiết phải được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa nhằm hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng xấu của mặt trái của nền kinh tế thị trường đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Song song với việc hoàn thiện hệ thống thuế, chúng ta cũng cần chú ý tới công tác tuyên truyền, phổ biến một cách rộng rãi những thay đổi của hệ thống thuế và công tác hướng dẫn thi hành các luật thuế nhằm tạo điều kiện cho thuế thực sự phát huy vai trò đối với ngân sách nhà nước và đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. MỤC LỤC Trang Lời mở đầu…………………………………………………………... 1 Phần A . Lý thuyết chung về thuế…………………………………... 2 I. Một số vấn đề cơ bản về thuế……………………………………… 1. Khái niệm. …………………………………………………….. 2. Phân loại………………………………………………………… 3. 3. Các yếu tố cấu thành một luật thuế……………………………... 2 2 2 2 II. Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam……….... 4 1.Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. …………… 2.Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội……………………………………….…………. 3. Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập đảm bảo công bằng xã hội……………………………………………… 4 Phần B . Xu hướng cải cách thuế trên thế giới và một số biện pháp, Kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam…………….. 7 I. Hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay……………………………… 1.Thuế giá trị gia tăng. ……………………………………………. 2.Thuế tiêu thụ đặc biệt …………………………………………… 3.Thuế thu nhập doanh nghiệp ……………………………………. 4.Thuế xuất nhập khẩu…………………………………………….. 5. Một số Luật thuế cơ bản khác…………………………………… II. Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam………… 1. Vai trò của hệ thống thuế ở nước ta hiện nay…………………… 2 .Những tồn tại và hạn chế trong hệ thống thuế ở Việt Nam. 7 7 8 10 11 12 13 13 14 Phần C . Xu hướng cải cách thuế trên thế giới và một số biện pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam……… 17 I. Xu hướng cải cách thuế trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX. 17 II. Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam………………………………………………………… 20 Biện pháp……………………………………………………….. 2. Kiến nghị………………………………………………………... 20 23 Kết luận…………………………………………………………….. 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ 2. Luật VAT 3. Luật thuế TTĐB 4. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 5. Luật thuế xuất nhập khẩu 6. Tạp chí - Tài chính Số 3, 5, 11 - 2001 Số 6, 10, 8 - 2000 7. Tạp chí Ngân hàng số 7 - 2000 8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 226/7/2000 9. Một số tài liệu khác………….

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0141.doc
Tài liệu liên quan