Đề án Lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

A. PHẦN MỞ ĐẦU Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Đối với Việt Nam, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập cùng nền kinh tế thị trường thế giới là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều kiện cần thiết để sản phẩm hàng hoá của Việt Nam được có mặt nhiều hơn trên thị trường quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt đối với các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam. Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định một bước ngoặt vĩ đại đối với đất nước đặc biệt là việc quyết định đưa nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã và đang khuyến khích thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thị trường, đòi hỏi nhà nước phải có sự hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động sản xuất, vốn, hàng hoá hoạt động hiệu quả hay không là do quá trình sản xuất, lưu thông có tuần hoàn không. Vai trò sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội cho nên đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý hợp lý tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi hỏi phải có một cơ sở lý luận để dẫn đường có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: “Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” cho đề án Kinh tế chính trị.

pdf32 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa được quy định bởi việc làm tăng thêm giá trị của giá trị ứng trước do đó trước hết được quyết định bởi việc sản xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt. Trước hết, khi xem xét tái sản xuất giản đơn, chúng ta đã giả định rằng toàn bộ giá trị thặng dư bị chi tiêu đi với tư cách là thu nhập. Trên thực tế, trong những điều kiện bình thường, một bộ phận giá trị thặng dư bao giờ cũng phải bị tiêu với tư cách là thu nhập, còn một bộ phận khác phải được tư bản hoá, hơn nữa số giá trị thặng dư được sản xuất ra trong từng thời kỳ nhất định, khi thì bị chi tiêu toàn bộ, khi thì được tư bản hoá toàn bộ, điều đó không hoàn toàn quan trọng. Xét trung bình và công thức chung có thể biểu hiện được sự vận động trung bình mà thôi: Sld.... Sx’ biểu thị một tư bản sản xuất được tái sản Sx.... H’ - T’- H’ Tlsx xuất trên quy mô mở rộng, với tư cách là tư bản có một giá trị lớn hơn, và sau đó nó bắt đầu tuần hoàn thứ hai của nó, hoặc - điều này cũng vậy - nó lặp lại tuần hoàn thứ nhất của nó, nhưng với tư cách là một tư bản sản xuất đã tăng thêm. Khi tuần hoàn thứ hay này bắt đầu, chúng ta lại thâys Sx xuất hiện ở điểm xuất phát, nhưng chỉ khác có một điều là Sx này là một tư bản sản xuất có quy mô lớn hơn Sx thứ nhất. 11 11 Cũng giống như là khi trong công thức T...T’, tuần hoàn thứ hai bắt đầu vơis T’, thì T’ này cũng làm chức năng giống chức năng của T’, tức là làm chức năng của một tư bản - tiền tệ ứng trước có một đại lượng nhất định; đó là một tư bản - tiền tệ có quy mô lớn hơn tư bản - tiền tệ mở đầu tuần hoàn thứ nhất, nhưng một khi tư bản - tiền tệ lớn hơn đó bắt đầu làm chức năng tư bản - tiền tệ ứng trước, thì tất cả mọi sự liên tưởng đến việc nó đã tăng thêm nhờ tư bản hoá giá trị thặng dư đến biến mất. Tình hình như vậy cũng diễn ra đối với Sx khi nó làm điểm xuất phát của một tuần hoàn mới. Nếu so sánh Sx.... Sx’ với T...T’ hay với tuần hoàn thứ nhất, thì thấy rằng hai tuần hoàn đó hoàn toàn không có ý nghĩa giống nhau. Bản thân T...T’ với tư cách là một tuần hoàn cô lập, chỉ nói lên rằng T tức là tiền tệ (hay tư bản công nghiệp đang thực hiện tuần hoàn của nó dưới hình thái tư bản - tiền tệ). Trái lại trong tuần hoàn của Sx khi gian đoạn thứ nhất, tức là giai đoạn quá trình sản xuất chấm dứt, thì quá trình làm tăng giá trị đã hoàn thành rồi, còn khi giai đoạn thứ hai. H’ - T’ kết thúc, thì giá trị - tư bản + giá trị thặng dư đã tồn tại thành tư bản - tiền tệ đã được thực hiện, thành T’, là các xuất hiện thành cái cực cuối cùng trong tuần hoàn thứ nhất. Điều này nói nên rằng giá trị thặng dư đã được sản xuất ra. Trong Sx... Sx’, Sx’ không nói nên được việc giá trị thặng dư đã được sản xuất ra, mà nói nên việctư bản hoá giá trị thặng dư đã sản xuất ra, do đó nói nên rằng tích luỹ tư bản đã xảy ra, khác với Sx, Sx’ gồm có giá trị - tư bản ban đầu cộng thêm giá trị của một tư bản cho sự vận động của giá trị - tư bản ban đầu tích luỹ lại. T’ và H’, dưới hình thức mà nó xuất hiện trong tất cả các tuần hoàn ấy, tự bản thân chúng không biểu thị sự vận động, mà biểu hiện kết quả của cuộc vận động: việc làm tăng giá trị - tư bản được thực hiện dưới hình thái hàng hoá hay dưới hình thái tiền; vì vậy chúng biểu hiện giá trị - tư bản thành T + t, hoặc thành H +h. Một khi T’ hoặc H’ cố định thành T +t hoặc H + h, tức là cố định lại dưới dạng quan hệ giữa giá trị - tư bản với giá trị thặng dư, con đẻ của giá trị - tư bản, thì mối quan hệ ấy biểu thị một lần dưới hình thái tiền, lần kia dưới hình thái hàng hoá. Trong cả hai trường hợp ấy, thuộc tính đặc trưng của tư bản, tức là thuộc tính làm một giá trị đẻ ra giá trị. H’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là hình thái của H’ đã trải qua một sự chuyển hoá trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Vì thế, khi tư bản - tiền tệ đã thực hiện làm trở lại chức năng đặc thù của nó là tư bản - tiền tệ, thì nó không còn biểu hiện mối quan hệ 12 12 tư bản chứa đựng trong T’ = T+t nữa. Một khi T...T’ đã tiến hành xong rồi, và một khi bắt đầu trở lại tuần hoàn, thì T’ không còn biểu hiện ra thành T’ nữa, mà biểu hiện ra thành T, ngay cả trong trường hợp người ta tư bản hoá toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong T’ cũng vậy. Đối với tuần hoàn của tư bản sản xuất, số Sx’ đã lớn lên, khi bắt đầu trở lại tuần hoàn của nó, cũng chỉ xuất hiện với tư cách là Sx, giống như Sx trong tái sản xuất giản đơn Sx... Sx như vậy. Slđ Trong giai đoạn T’ - H’ Tlsx , sự tăng thêm đại lượng giá trị chỉ là do H’ biểu hiện ra, chứ không phải do Slđ’ và Tlsx’ biểu thị ra. Vì H là tổng số của Slđ cộng với Tlsx, cho nên H’ cũng đã nói lên rằng tổng số của Slđ cộng với Tlsx bao gồm ở trong nó lớn hơn Sx ban đầu. Việc tích luỹ tiền Việc t tức giá trị thặng dư đã biến thành tiền, có thể lập tức được bỏ thêm vào giá trị - tư bản đang ở trong quá trình vận động của nó hay không, và do đó có thể gia nhập quá trình tuần hoàn bằng cách nhập làm một với tư bản T thành đại lượng T’ hay không - việc đó phụ thuộc vào những tình hình không có quan hệ gì với sự tồn tại đơnthuần của t. Chức năng riêng của t là nằm dưới hình thái tiền, cho đến khi nó nhận thức của những tuần hoàn lắp đi lắp lại, - tuần hoàn làm tăng thêm giá trị - tức là nhận thức được từ bên ngoài, những khoản tăng thêm đủ để đạt tới đại lượng tối thiểu cần thiết cho sự hoạt động tích cực của nó, chỉ với đại lượng ấy thì nó mới có thể tham gia vào việc hoạt động của tư bản - tiền tệ T’, tham gia với tư cách là tư bản tiền tệ. Vậy ở đây việc tích luỹ tiền, tích luỹ tiền là một quá trình tạm thời kèm theo việc tích luỹ hiện thực, tức là việc mở rộng quy mô hoạt động của tư bản công nghiệp. Hình thái tiền tích trữ chỉ là hình thái tiền không nằm trong lưu thông, là hình thái của số tiền mà lưu thông của nó bị gián đoạn và vì lẽ đó mà được giữ lại dưới hình thái tiền. Còn như bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ, thì nó là chung cho bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, và chỉ trong các hình thái chưa phát triển của sản xuất hàng hoá trước chủ nghĩa tư bản thì quá trình tích luỹ tiền ấy mới đóng một vai trò nào đó với tư cách là mục đích tự thân. Quỹ dự trữ. Bản thân tiền tích trữ là điều kiện tích luỹ. Nhưng quỹ tích luỹ cũng có thể đảm nhiệm những công việc đặc thù, có tính chất phụ, tức là có thể gia nhập quá trình tuần hoàn 13 13 của tư bản mà không cần phải mang hình thái Sx... Sx’ và do đó không cần mở rộng quy mô tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quỹ tích luỹ được dùng làm quỹ dự trữ khác với quỹ dùng làm phương tiện mua và phương tiện thanh toán đã được nghiên cứu trong tuần hoàn Sx... Sx’. Quỹ dự trữ là một bộ phận cấu thành của tư bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị của sự tích luỹ của nó, tức là một bộ phận cấu thành của giá trị thặng dư chưa chuyển hoá thành tư bản tích cực. Quỹ tích luỹ bằng tiền vốn đã là sự tồn tại của tư bản - tiền tệ tiềm năng, do đó nó đã là sự chuyển hoá của tiền thành tư bản - tiền tệ. Công thức chung của tuần hoàn của tư bản sản xuất. Slđ Sx...H’ - T’. T - H ... Sx (Sx’) Tlsx 2.3. Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá. Công thức chung của tuần hoàn của tư bản hàng hoá là: H’ - T’ - H...Sx... H’ H’ không những là sản phẩm mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn đã nói ở trên, bởi vì cái là T - H của một tư bản thì đã bao hàm H’ - T’ của một tư bản khác, ít ra là trong chừng mực bản thân một bộ phận tư liệu sản xuất là sản phẩm hàng hoá của những tư bản cá biệt khác đang thực hiện tuần hoàn của chúng. Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị - tư bản, mà bằng một giá trị - tư bản đã được tăng lên và nằm dưới hình thái hàng hoá, do đó ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của giá trị - tư bản dưới hình thái hàng hoá mà còn bao hàm cả tuần hoàn của cả giá trị thặng dư nữa. Trong mọi trường hợp H’ thường xuyên mở đầu tuần hoàn với tư cách là một tư bản hàng hoá ngang với giá trị - tư bản cộng với giá trị thặng dư. H’ với tư cách là H xuất hiện trong tuần hoàn của một tư bản công nghiệp cá biệt, dưới hình thái một tư bản công nghiệp khác, chừng nào tư liệu sản xuất là sản phẩm của tư bản công nghiệp này. H’ không bao giờ có thể mở đầu tuần hoàn với tư cách là H đơn thuần, với tư cách là hình thái hàng hoá đơn thuần của giá trị - tư bản. Là tư bản - hàng hoá, nó bao giờ cũng có hai mặt. Đứng trên quan điểm giá trị sử dụng mà nói nó là sản phẩm hoạt động của Sx, mà những yếu tố Slđ và Tlsx xuất hiện với tư cách là hàng hoá từ lĩnh vực lưu thông, chỉ hoạt động với tư cách là nhân tố hình thành sản phẩm đó. Hai là, đứng trên quan điểm giá 14 14 trị mà nói; H’ là giá trị - tư bản Sx + giá trị thặng dư m, sản sinh ra trong thời gian hoạt động của sản xuất. Chỉ có ở trong tuần hoàn của bản thân H’ thì bộ phận H của nó = Sx = giá trị - tư bản, mới có thể và phải phân tách ra khỏi bộ phận của H’ chứa đựng giá trị thặng dư, khỏi sản phẩm thặng dư chứa đựng giá trị thặng dư, không kể là hai bộ phận này có thực sự tách rời nhau hay không tách rời nhau. Một khi H’ đã chuyển hoá thành T’, thì hai bộ phận đó trở thành có thể tách rời nhau. Trong hình thái I: T... T’ tiền được ứng ra làm tư bản trước hết cho những yếu tố sản xuất, nhưng yếu tố này trở thành sản phẩm - hàng hoá và sản phẩm - hàng hoá này lại chuyển hoá thành tiền. Đó là một tuần hoàn kinh doanh hoàn chỉnh mà kết quả là tiền có thể dùng vào tất cả mọi việc và cho tất cả mọi người. Trong hình thái II tức là Sx... H’ - T’ - H...Sx (Sx’) toàn bộ quá trình lưu thông nằm sau Sx thứ nhất và trước Sx thứ hai, Sx là tư bản sản xuất, Sx cuối không phải là quá trình sản xuất, nó chỉ là sự trở lại của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản sản xuất. Trong hình thái III, tức là H’ - T’ - H ... Sx... H’ tuần hoàn bắt đầu bằng hai giai đoạn của quá trình lưu thông, tuần hoàn kết thúc với H’, kết quả của quá trình sản xuất. Chỉ trong tuần hoàn này thì điểm xuất phát của quá trình làm tăng thêm giá trị là giá trị - tư bản đã tăng thêm giá trị. Điểm xuất phát ở đây là H’, biểu hiện mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, nó có tác dụng quyết định đối với toàn bộ tuần hoàn. Sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cũng như phân phối đặc thù về sản phẩm của một tư bản - hàng hoá cá biệt, sự phân phối, một mặt thành quỹ tiêu dùng cá nhân, và mặt khác thành quỹ tái sản xuất - đều nằm trong tuần hoàn của tư bản. Trong T...T’ có khả năng mở rộng tuần hoàn theo đại lượng của các phần t sẽ gia nhập tuần hoàn mới. Trong Sx...Sx, Sx có thể mở đầu tuần hoàn mới với một giá trị như cũ. Trong H’...H’, tư bản dưới hình thái hàng hoá là tiền đề của sản xuất, và với tư cách là tiền đề, hình thái đó lại quay trở lại cũng trong tuần hoàn ấy. Cả ba tuần hoàn đều có điểm chung: tư bản kết thúc quá trình tuần hoàn của nó dưới đúng cái hình thái mà nó mở đầu quá trình tuần hoàn đó, nhờ thế nó lại mang hình thái ban đầu trong đó nó lại mở đầu một tuần hoàn giống như vậy. Hình thái của điểm xuất phát T, Sx, H’ đều được cho trước đối với mỗi tuần hoàn; hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, và do đó bị quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái cảu bản thân tuần hoàn. H’ với tư cách là điểm kết thúc một tuần hoàn của tư bản công nghiệp cá biệt, chỉ giả định là có hình thái Sx ở bên ngoài lưu thông của tư bản công nghiệp đã sản sinh ra nó, T’ là điểm kết thúc của 15 15 hình thái I, là hình thái chuyển hoá của H’ (H’ - T’) giả định là T nằm trong tay người mua, tồn tại ở ngoài tuần hoàn T...T’ và chỉ do việc bán H’ mới bị cuốn vào trong tuần hoàn đó, trở thành hình thái kết thúc của bản thân tuần hoàn ấy. 3. Quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề chu chuyển của tư bản. Nếu như nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà tư bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Theo Mác - Lênin thì: “Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại chứ không phải là quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của tư bản”(2). Trong quá trình chu chuyển của tư bản tức là để sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất phải mất một khoảng thời gian mà theo Mác - Lênin nêu lên là: “Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư(3).Như vậy tổng thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định bằng thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó cộng lại. Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng là làm tăng giá trị ứng trước. Trong hai hình thái T...T’ và hình thái Sx...Sx nói lên rằng: 1. Giá trị ứng trước đã làm chức năng giá trị - tư bản và đã tự tăng thêm; 2. Khi kết thúc tuần hoàn của nó, giá trị ứng trước lại quay về dưới hình thái mà nó mang khi mở đầu tuần hoàn. Nếu sản xuất mang hình thái tư bản chủ nghĩa, thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Quá trình lao động trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là chỉ là một phương tiện cho quá trình làm tăng thêm giá trị, thì tái sản xuất cũng vậy, nó cũng chỉ là một phương tiên để tái sản xuất ra giá trị ứng trước với tư cách là tư bản, tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả năng thôi còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - tư bản mở đầu quá trình với tư cách là giá trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dưới hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình thái trọng yếu đối với sự vận động của các tư bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ (2) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 - trang 103 (3) Kinh tế chính - NXB giáo dục - 1998, trang 104 16 16 với sự vận động của tư bản xã hội. Nhưng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu chuyển của một tư bản bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc ứng trước giá trị tư bản dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị - tư bản đang lưu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã được ứng ra. Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác nhau, đã không xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu chuyển của tư bản. Có những nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi phí dưới hình thái yếu tố sản xuất, và xem xét sự vận động cho đến lúc quay trở về, nhưng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái quay trở về đó, không hề tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dưới hình thái hàng hoá hay hình thái tiền. Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuấta nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản, thì nó phải lắp lại tuần hoàn ấy. Trong đời sống của tư bản, mỗi tuần hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không ngừng được lắp đi lắp lại, nghĩa là một giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T...T’ tư bản tiền tệ sẽ đi qua cái chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay quá trình tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx...Sx kết thúc, tư bản mang hình thái những yếu tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. “Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì được gọi là vòng chu chuyển của tư bản”. Thời gian của vòng chu chuyển ấy được quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, thời gian chu chuyển của tư bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn tiếp theo; nó nói lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của tư bản, hay có thể nói, nó là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay quá trình sản xuất ra cùng một giá trị tư bản. Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn chu chuyển đối với cùng một tư bản cá biệt, thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu tư cá biệt của tư bản. Cũng giống như ngày lao động là đơn vị đo lường tự nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì năm cũng là đơn vị đo lường tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của tư bản hoạt động. Cơ sở tự nhiên của đơn vị đo lường ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hương của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều được sản xuất ra mỗi năm một lần. 17 17 Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lường của thời gian chu chuyển, lấy ch để chỉ thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển của tư bản, thì chúng ta sẽ có: n = CH ch . Do đó nếu thời gian chu chuyển của tư bản là vài năm, thì nó sẽ được tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà tư bản, thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian trong đó nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để nó tăng thêm giá trị, và quay trở về dưới hình thái ban đầu của nó. Giá trị các bộ phận tư bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của tư bản thì chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Trong đó “tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm”(4). Còn “tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong” (5). Đó là bộ phận giá trị tư bản dưới hình thức sức lao động và những tư liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm mới. Chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động cũng là một sự phân chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế. Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu chuyển được vòng thì tư bản lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau, có thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. “Hao mòn hữu hình là do sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận tư bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện” (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà tư bản còn tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao tư bản cố định. Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của tư bản thành “Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng như về mặt hiện vật(7). Chu (4), (5), (6): NXB Giáo dục: Kinh tế chính trị - 1998, trang 105, 106 (7) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 trang 109 18 18 chuyển thực tế do thời gian tồn tại của tư bản cố định đầu tư quyết định và nó không ăn khớp với chu chuyển chung của nó. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư tạo ra trong một năm với tư bản khả biến ứng ra trước người ta phải tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi, nhưng tư bản chu chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển tư bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng dư càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ thực sự giữa tư bản và lao động, gây cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà tư bản khả biến làm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích được do quá trình lưu thông đẻ ra. Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất giúp cho nhà tư bản làm việc đó. 19 19 II. SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN TRONGN VIỆC QUẢN LÝ CÁC DOANH NGHIỆP CỦA NƯỚC TA KHI CHUYỂN SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN. 1. Sự vận dụng ở Việt Nam từ trước đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng - 1986. Cả nước cùng tiền lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động kỹ thuật vẫn còn thủ công, phân công lao động xã hội còn kém phát triển,năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Công cuộc xây dựng nền kinh tế đòi hỏi đất nước ta phải có chính sách phát triển và khôi phục nền kinh tế, đưa đất nước đi lên thoát khỏi sự lạc hậu của nền kinh tế sau những năm chiến tranh xâm lược. Doanh nghiệp Việt Nam lúc này còn quá nhỏ bé chủ yếu là các xí nghiệp dưới sự che chở của nhà nước, nhà nước bao cấp và chịu gần như toàn bộ hậu quả mà doanh nghiệp nhà nước và xí nghiệp gặp phải. Hàng Việt Nam được sản xuất ra có khi không đúng thời vụ, hàng chưa về đến nông thôn thì đã hết. Nhà nước lại không có chính sách, biện pháp mở rộng sản xuất, không thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là do nhà nước cấp, doanh nghiệp không tồn tại loại hình doanh nghiệp tư nhân tư bản, doanh nghiệp nhà nước hoạt động rất kém hiệu quả, năng suất chưa cao, chất lượng thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật rất hạn chế. Đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước đi vào khôi phục xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta xác định nhiệm vụ đầu tiên là phải phát triển kinh tế, đưa đất nước đi lên. Tại Đại hội IV Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”(8) . Đến đại hội lần thứ V (tháng 3 - 1982) của (8) Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội, 1997, trang 67. 20 20 Đảng lại khẳng định đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV của Đảng đã đề ra là hoàn toàn đúng đắn và được tiếp tục thực hiện. Thời kỳ này các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới hình thái các xí nghiệp. Đảng ta chủ trương đối với xí nghiệp con đường công ty hợp doanh. Thực hiện chủ trương đó, công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã được thực hiện như sau: các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài đều bị quốc hữu hoá và trở thành quốc doanh. Năm 1978 là năm tuyên bố hoàn thành cải tạo tư sản trong công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh, ngày 21 - 1- 1981 Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định 25 - CP về: “Một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh”. Trên cơ sở đó các xí nghiệp phải biết chu chuyển vốn sao cho hợp lý, sản xuất phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị và ngày càng củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã chủ trương “xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh”. Đối với tiểu thương, Đảng chủ trương “Tổ chức lại thương nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Đối với số còn lại được phép kinh doanh, phải tăng cường quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp”. Nền kinh tế bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế về mặt quản lý còn thiếu hiêủ biết, ít kinh nghiệm quản lý, chưa tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tạo điều kiện cho một số xí nghiệp lợi dụng sự sơ hở để mưu lợi ích cục bộ. Nhìn chung trong giai đoạn này các xí nghiệp rất còn yếu kém trong việc tuần hoàn sản xuất và chu chuyển vốn, có nhiều xí nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước đến khi bị thua lỗ thì nhà nước phải chịu hoàn toàn cho nên các xí nghiệp chưa có được tinh thần trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất của mình. 2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) đến nay. Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta; trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Đảng chỉ ra mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế trong đó khẳng định vai trò của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới với cơ chế quản lý mới đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường thông qua tín hiệu giá cả được hình thành theo quan hệ cung cầu, đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và 21 21 mọi đơn vị kinh tế trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống, thể chế rõ ràng, nghiêm chỉnh kết hợp đúng đắn tính kế hoạch với việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế như giá cả, chính sách tài chính, tín dụng...công tác kế hoạch hoá được đổi mới theo hướng chuyển từ tính pháp lệnh sang tính hướng dẫn là chính, từng bước phân biệt quản lý Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế mới nhằm chuyển hoá nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, hiện vật, tự cấp tự túc, sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN. Đây cũng là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Việc chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách căn bản chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Từ chỗ trực tiếp “làm kinh tế” can thiệp rất sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nước chuyển sang điều tiết vĩ mô nền kinh tế chủ yếu bằng công cụ pháp luật, kế hoạch hoá định hướng và các công cụ quản lý vĩ mô khác. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã được thể chế hoá trong hiến pháp và được cụ thể hoá bằng hệ thống các luật: luật doanh nghiệp nhà nước, luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật hợp tác xã, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, các luật thuế và luật ngân sách, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật phá sản, Pháp lệnh ngân hàng... Đó chính là cơ sở pháp lý để các chủ thể kinh tế và mọi người dân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, trong cơ chế thị trường. Trên cơ sở đó từng bước phân biệt quản lý Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh, hình thành cơ chế quản lý của nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước thay thế choi cơ chế Bộ hoặc cơ quan hành chính chủ quản doanh nghiệp. Nếu như trên thế giới, việc phân loại hình doanh nghiệp thường dựa trên các tiêu chí chính phủ như lĩnh vực ngành nghề kinh doanh; hình thức sở hữu; quy mô vốn, lao động và sản lượng; mức độ lợi nhuận... Thì ở Việt Nam việc xác định loại hình doanh nghiệp cũng dựa trên những tiêu chí đó đã được thể chế thành pháp luật. Trong luật doanh nghiệp do Quốc hội thông qua có nêu “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” . Hiện nay ở nước ta tồn tại các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau: doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 22 22 tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thương mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến; quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ trang bị công nghệ và quản lý thấp, đội ngũ công nhân chưa được đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp Việt Nam là chất lượng sản phẩm không cao, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản phẩm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25 - 28% GDP. Chuyển đổi từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu sang một nền kinh tế hoàn toàn mới đó là kinh tế thị trường, trong đó nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường với ba vấn đề: Sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? và sản xuất cho ai? đều do thị trường quyết định thông qua sự chỉ dẫn của quan hệ cung cầu và giá cả? Một mặt do nước ta không trải qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, tỏo chức lại nền kinh tế đưa các thành phần kinh tế vào hoạt động có hệ thống để mục đích đạt được hiệu quả sản xuất cao hơn, tăng thu nhập và đời sống dân cư. Song nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức một cách hoàn hảo, không có những khuyết tật. Vì vậy, để cho nền kinh tế này hoạt động có hiệu quả ở nước ta và để khắc phục, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, nhà nước định hướng ngày càng rõ ràng những chức năng quản lý nhà nước, quản lý hành chính đối với doanh nghiệp và đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ, chính xác quyền lực của nhà nước. Đó là con đường để xoá bỏ những quy định không rõ ràng, chồng chéo trong trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, đoàn thể quần chúng, và sự lãnh đạo tổ chức của Đảng, nhằm hạn chế tối đa sự sơ hở, dẫn đến tham nhũng lãng phí, vi phạm lợi ích chính đáng của nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Sự vận động của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố, hai bàn tay: “vô hình” và “hữu hình” “cơ chế thị trường” và nhà nước. Trong đó nhà nước thực hiện chức năng quản lý của các doanh nghiệp trên hai mặt tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý. Tổ chức sản xuất Một là: tổ chức sản xuất, lấy các hoạt động sản xuất kinh doanh làm đối tượng, dựa trên cơ sở phân tích kinh tế - kỹ thuật và lấy hiệu quả kinh doanh phù hợp với chính sách 23 23 và pháp luật nhà nước làm tiêu chuẩn cơ bản. Nhà nước hướng các doanh nghiệp nên sản xuất một loại sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong nước và có thể được đem ra thị trường nước ngoài. Trong quá trình sản xuất không được ngừng trệ, các dây chuyền sản xuất phải nối tiếp nhau, tuần hoàn và liên tục dựa trên cơ sở trang thiết bị vốn có và đầu tư mới. Hai là: tổ chức sản xuất là cơ sở để sử dụng hợp lý mọi tài nguyên, xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất- kinh doanh theo phương hướng, mục tiêu kế hoạch nhà nước, theo nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp, kết hợp chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả và để tổ chức bộ máy quản lý có hiệu lực. Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh được phân làm ba nhóm: Nhóm 1: Những doanh nghiệp quan trọng cần được nhà nước duy trì, tổ chức lại và đầu tư nâng cao hiệu quả, mở rộng quy mô hoạt động. Các doanh nghiệp này được bảo đảm điều kiện tối thiểu để chủ động tích luỹ và mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh; kiện toàn tổ chức, ưu tiên và bổ sung vốn lưu động, cho vay một phần vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư chiều sâu, nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhóm 2: Đó là những doanh nghiệp nhà nước cần được cổ phần hoá là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn Nhà nước, chưa làm vào tình trạng phá sản hoặc phải giải thể, có đề án hoạt động sản xuất có hiệu quả, hoạt động trong những lĩnh vực nhà nước chỉ cần giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Nhóm 3: gồm những doanh nghiệp sản xuất thua lỗ kéo dài, không trả được nợ đến hạn, không nộp đủ thuế. Những doanh nghiệp này nếu do thiếu thuế hoặc năng lực quản lý yếu kém thì có thể duy trì nhưng cần thay cán bộ lãnh đạo, hoặc có thể phải bán đấu giá, giải thể và phá sản. Ba là: Tổ chức sản xuất, hiểu theo nghĩa rộng, trên phạm vi ngành, lãnh thổ, đơn vị cơ sở, phải bắt đầu từ việc xác định cơ cấu sản xuất. - Xác định trình độ tích tụ sản xuất (quy mô sản xuất - kinh doanh). - Xác định phạm vi chuyên mộn hoá sản xuất - kinh doanh một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ và phạm vi, mức độ kinh doanh tổng hợp. - Xác định các mối liên hệ hợp tác sản xuất, liên kết liên doanh giữa các ngành, các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. 24 24 - Xác định các hình thức tổ chức liên hợp sản xuất từ thấp đến cao, liên hiệp giữa các xí nghiệp cùng loại sản phẩm hay khác loại: liên hiệp giữa các khâu từ sản xuất, cung ứng vật tư, tiêu thụ xuất nhập khẩu; liên hiệp giữa khoa học - sản xuất - đời sống. - Sắp xếp dây chuyền sản xuất theo quy trình công nghệ đã chọn và đảm bảo kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, bố trí hợp lý và cân đối các điều kiện sản xuất và lực lượng lao động nhằm đạt năng suất cao. - Sắp xếp quy trình hoạt động của các khâu tổ chức: dự trữ sản xuất, sản xuất, sản xuất chế biến, tiêu thụ với các yếu tố sản xuất một cách thông suốt, gắn sản xuất với thị trường. Như vậy, trong việc sản xuất kinh doanh phải được xác định rất rõ ràng, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sản xuất của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được sản xuất liên tục trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật không bị nhàn rỗi, vốn được chu chuyển thường xuyên. Tổ chức bộ máy quản lý, tuỳ thuộc vào cơ cấu và tổ chức sản xuất và cơ chế kinh tế kinh doanh nhằm quản lý có hiệu lực, phục vụ đắc lực cho sản xuất - kinh doanh: - Phát triển hợp tác hoá, tập trung hoá sản xuất và liên hiệp sản xuất như khoa học - kỹ thuật - thiết kế - đầu tư sản xuất - tiêu thụ - dịch vụ. - Phát triển chuyên môn hoá sản xuất và dịch vụ. - Các cơ quan Nhà nước gọi đối tượng quản lý và chức năng quản lý vào các vấn đề chiến lược và chính sách cơ bản; chuyển từ chỗ trực tiếp điều hành sang tạo môi trường kinh tế cho các đơn vị kinh tế hoạt động một cách độc lập, chuyển từ chỗ nặng về áp dụng các biện pháp hành chính sang việc kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành chính, trong đó các biện pháp kinh tế. - Mở rộng quyền tự chủ và chủ động kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế của các đơn vị kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường trách nhiệm lịch sử của doanh nghiệip hiện hay là nâng cao hiệu quả kinh doanh và trên cơ sở đó, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước khuyến khích thành lập doanh nghiệp và hình thành tập đoàn kinh doanh “tập đoàn kinh doanh là một tập hợp nhiều doanh nghiệp thành một tổ chức, có tư cách pháp nhân, trong đó có một doanh nghiệp là “công ty mẹ” kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các doanh nghiệip khác”. Nếu như Nhà nước 25 25 khuyến khích tư nhân thành lập doanh nghiệp, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước khuyến khích: cổ phần hoá doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Nhà nước vì nó là một bộ phận của cơ chế quản lý. Đến năm 1998 trên toàn quốc chỉ có 18 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Cổ phần hoá là hình thức tích tụ vốn một cách nhanh nhất C.Mác đã viết “Nếu như cứ phải chờ cho đến tích luỹ làmcho một số nhà tư bản riêng lẻ lớn lên tới mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt, thì có lẽ đến ngày nay (thế kỷ 19) thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại qua các công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”. Trong điều kiện hiện nay với chủ trương, đa dạng hoá các hình thức sở hữu ngay ở từng cơ sở, cổ phần hoá sẽ giúp các doanh nghiệp nhà nước thẩm thấu vào các thành phần kinh tế khác qua việc mua cổ phần của các doanh nghiệp đó, từ đó phát huy tác dụng định hướng cho các thành phần khác. Xuất phát từ chủ trương “xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm” chính phủ phát huy vai trò người cầm lái đối với doanh nghiệp, đã đặt tư tưởng và pháp lý cho một phong cách và một thể chế làm việc mới: Chính phủ hợp tác đối thoại thẳng thắn, bình đẳng với doanh nghiệp, cải tiến tổ chức các doanh nghiệp và xác định rõ các quyền tự chủ để trao đổi lại cho doanh nghiệp, sẽ tạo ra sự gắn bó mới, sự đồng tâm nhất trí mới, động lực mới cho cả hai bên - người cầm lái và người chèo thuyền. Hơn 10 năm qua, các loại hình doanh nghiệp ở nước ta phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thương mại và dịch vụ và công nghiệp chế biến. Theo số liệu của Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, trong số 33724 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì có 27775 doanh nghiệp tư nhân với số vốn điều lệ là 4084 tỷ đồng, 8775 công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn điều lệ là 8714 tỷ đồng; 229 công ty cổ phần với số vốn điều lệ là 2856 tỷ đồng... các doanh nghiệp này đã nộp ngân sách 8178 tỷ đồng và sử dụng trên 1 triệu đồng. Một điều đáng phải nêu lên đó là sự thay đổi trong cách nhìn nhận của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, sử dụng vốn bước đầu đã có hiệu quả. Bên cạnh một số thành tựu mà doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế mắc phải. Một vấn đề đầu tiên là vốn có thể nói hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam, 26 26 xét trên giác độ quy mô vốn đầu tư giống như những chủ bé tí hon đang phải đánh vật với những anh chàng khổng lồ nước ngoài. Thời gian sản xuất của các doanh nghiệp khác dài, nắm bắt thị trường chưa kịp thời, hàng sản xuất ra chất lượng không cao nhưng giá cả lại cao, chưa có khả năng lôi kéo được thị hiếu người trong nước, hàng rẻ tiền thì hạn dùng rất hạn chế, hàng Việt Nam chất lượng cao thì quá đắt so với hàng nước ngoài cùng chủng loại. Cho nên một số doanh nghiệp đầu tư ban đầu cũng khá nhiều nhưng lợi nhuận thu về thì rất thấp dânx đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, sản xuất không được tuần hoàn, hao mòn thường xuyên xảy ra đối với trang bị kỹ thuật. Bên cạnh một số doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước nhà và xuất khẩu ra nước ngoài thì cũng có một số doanh nghiệp do không đủ vốn và đủ sức cạnh tranh phải ngừng sản xuất hay phải giảm tốc độ sản xuất. Vì vậy đòi hỏi nhà nước phải có sự giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp như điều chỉnh giá cả ổn định ở trên thị trường đảm bảo lợi ích của người kinh doanh, nhất là trong cơ chế thị trường nhà nước phải đổi mới trong cơ chế quản lý bao gồm hai nhiệm vụ. Song song với quá trình thành các chủ thể sản xuất kinh doanh tự chủ, phải từng bước phát triển hệ thống thị trường về tất cả các yếu tố sản xuất, hình thành thị trường thông suốt trong cả nước và từng bước gắn với thị trường thế giới. Đổi mới quản lý vĩ mô của Nhà nước, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho kinh tế thị trường, và quan trọng hơn nữa là Nhà nước tạo ra và sử dụng có hiệu quả các công cụ phù hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt là kế hoạch hoá và công cụ tài chính tiền tệ, để bảo đảm cân đối và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên để hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, phải từng bước tháo gỡ giải toả cơ chế cũ. Nhà nước đã thực hiện những bước đi có tính quyết định chuyển mạnh sang cơ chế thị trường: áp dụng phổ biến cơ chế giá thị trường, thương mại hoá tư liệu sản xuất, xoá bỏ cơ chế phân phối theo kế hoạch với giá thấp phần lớn vật tư sản xuất đi đôi với bán vật tư, hàng hoá cho nông dân theo giá thoả thuận đã xoá bỏ bức tường giả tạo về hai thị trường, thúc đẩy tự do hoá lưu thông, hình thành quan hệ mua bán bình thường, tự do kinh doanh theo giá cả thị trường. Xoá bỏ phần lớn bao cấp qua bù giá, bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển sang cơ chế tự chủ về tài chính phải đối mặt với thị trường, xoá bỏ cơ chế giao nộp sản phẩm, chỉ còn một nghĩa vụ nộp 27 27 ngân sách nhà nước. Qua đó cho thấy cơ chế thị trường bước đầu đã được hình thành: giá cả thị trường hình thành theo quan hệ cung - cầu với quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ đã trực tiếp tác động và góp phần điều tiết quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tiết các nguồn lực và điều tiết tiêu dùng. Cơ chế thị trường đã góp phần quan trọng vào việc huy động mọi nguồn lực của đất nước và phát huy tính chủ động sáng tạo của các chru thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên sự phát triển năng động nền kinh tế đất nước. Từ thực tiễn phát triển kinh tế, Đại hội VII của Đảng (1991) đã khẳng định “Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi trường cạnh tranh và hợp tác”. Đối với doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang cơ chế thị trường không tránh khỏi sự chao đảo cho nền nhà nước đã dùng rất nhiều các biện pháp như: - Xác định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trung trong kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời tiến hành quản trị kin doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Giảm dần khoản ngân sách bù lỗ cho các doanh nghiệp Nhà nước. - Tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước trên toàn quốc theo hướng phát triển không tràn lan, tập trung củng cố và phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những khu vực, những khâu then chốt của nền kinh tế: từ 12296 doanh nghiệp Nhà nước năm 1991 đến tháng 7 - 1995 còn 5962 doanh nghiệp Nhà nước, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu trên 2000 doanh nghiệp Nhà nước, sáp nhập gần 4000 doanh nghiệp Nhà nước thành doanh nghiệp lớn hơn. Kinh tế quốc doanh trong 5 năm qua từ 1991 - 1995 đã có tốc độ tăng trưởng gấp gần 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân nền kinh tế, vầ gấp 2 lần so với tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hiệu quả kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp Nhà nước bị làm ăn thua lỗ giảm xuống. Đối với khu vực kinh tế cá thể, tư nhân và kinh tế hợp tác được chú trọng phát triển. Với phương châm khuyến khích mọi người đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời ngăn chặn làm ăn phi pháp, hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, đã từng bước hình thành khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách cho kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác pháp triển có hiệu quả theo định hướng của Nhà nước. 28 28 Đặc biệt trong điều kiện đất nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và hội nhập thế giới thì vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi để cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước mở cửa cho các doanh nghiệp liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, góp vốn sản xuất, hội nhập vào thị trường thế giới, cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới. Nhà nước khuyến khích sản xuất hướng về xuất khẩu, cả đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đồng thời có chính sách bảo hộ sản xuất trong một cách hợp lý. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ngày càng rút ngắn thời gian chu chuyển sản xuất, quá trình tuần hoàn sản xuất ngày càng lặp lại nhiều với chu kỳ sản xuất sau có số lượng lớn hơn và chất lượng lớn hơn lần tuần hoàn đầu tiên, nhất là phải thu về tỷ suất giá trị thặng dư cao mới có thể duy trì sản xuất và đó cũng là tiền đề để cho trang bị kỹ thuật không bị hao mòn, tiền lương được cải thiện, tạo việc làm ổn định cho công nhân. Sự phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp góp phần khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái nền kinh tế. Thế kỷ 21 đang đến gần nền kinh tế đất nước đang chuyển mình đi lên con đường phát triển ổn định và hiện đại. Sự phát triển của các doanh nghiệp hiện nay là tiền đề để phát triển mạnh trong tương lai, hội nhập cùng sự phát triển chung của thế giới khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có sự định hướng trong quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp trên con đường lên chủ nghĩa xã hội. 29 29 C. PHẦN KẾT LUẬN Đất nước ta đang trên con đường phát triển đi lên và hội nhập với thế giới. Để hoà nhập cùng sự phát triển chung của thế giới không chỉ phát triển trên lĩnh vực chính trị mà quan trọng là phát triển nền kinh tế. Với đa số dân số Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cho nên vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Nhưng trong thực tế hiện nay quy mô còn rất nhỏ bé, hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả cao, đặc biệt là vốn đầu tư còn nhỏ bé, vốn và trang bị kỹ thuật nhiều khi bị nhàn rỗi không được đưa vào dây chuyền sản xuất, lưu thông hàng hoá chậm chạp, chưa nắm bắt được thị trường, hàng sản xuất ra nhiều khi bị ứ đọng không bán được hoặc phải bán ra với giá cả bằng hoặc nhỏ hơn chi phí sản xuất dẫn đến việc tuần hoàn sản xuất không được liên tục. Nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố giải thể hoặc tạm ngừng sản xuất, hoặc sáp nhập vào doanh nghiệp lớn, nền kinh tế đất nước ngày càng có nguy cơ bị giảm sút. Đứng trước tình hình ấy Đảng và Nhà nước đã đề ra chính sách đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là bước ngoặt căn bản đối với nền kinh tế đất nước nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng, mở ra một thị trường mới cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp vận dụng cơ chế mới và vận dụng lý thuyết vào thực tiễn đã dần dần hoà nhập vào nền kinh tế mới. Vốn đầu tư ngày càng thu hút được nhiều từ trong nước và nước ngoài, hạn chế vốn ứ đọng và đặc biệt là thiết bị máy móc không để nhàn rỗi mà luôn được đưa vào hoạt động sản xuất, sau mỗi một chu kỳ sản xuất sản lượng ngày càng nhiều và chất lượng ngày càng nâng cao, thời gian chu chuyển rút ngắn lại... thành tựu mà doanh nghiệp đạt được một phần là do sự quản lý trong tổ chức doanh nghiệp và khả năng tiếp cận thị trường tốt của các doanh nghiệp nhưng cũng phải kể đến vai trò rất quan trọng cuả nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhà nước định hướng các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường trong nước và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, nhà nước tác động đến việc ổn định giá cả trên thị trường để cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đồng thời nhà nước thông qua pháp luật tạo môi trường thoải mái cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong nước. Ngày nay các thành phần kinh tế của chúng ta đạt hiệu quả kinh tế cao, lý thuyêt tuần hoàn và chu chuyển của tư bản của Mác - Lênin ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cùng với sự vận dụng của khoa học lý thuyết vào thực tiễn và sự quản lý chặt chẽ của nhà nước đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cầm lái và chèo thuyền đưa con 30 30 thuyền kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập vào sự phát triển nền kinh tế chung của thế giới. 31 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các Mác - Tư bản - Quyển 2 - Tập I. Nhà xuất bản sự thật Hà Nội - 1977 2. Các văn kiện Đại hội Đảng từ Đại hội IV đến dự thảo đại hội IX. 3. Có một Việt Nam như thế - NXB chính trị quốc gia - Hà nội 1998 4. Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 5. Nghiên cứu lý luận. Số 5 - 2000 6. Nhà nước và cơ chế thị trường - NXB trẻ. 7. Tạp chí sinh hoạt lý luận. Số 32 - 1999 8. Quản lý nhà nước. Nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay - NXB chính trị quốc gia. 32 32 MỤC LỤC Trang A. Phần mở đầu 1 B. Phần nội dung 3 I. Cơ sở lý luận về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản 3 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tuần hoàn của tư bản 3 2. Ba hình thức tuần hoàn của tư bản 3 3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chu chuyển của tư bản 17 II. Sự vận dụng lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 21 1. Sự vận dụng ở Việt Nam trước Đại hội VI ban chấp hành Trung ương Đảng 1986 21 2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội VI ban chấp hành TW Đảng 1986. 23 Kết luận 33 Tài liệu tham khảo 35

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfDA021.pdf
Tài liệu liên quan