A. PHẦN MỞ ĐẦU Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Đối với Việt Nam, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập cùng nền kinh tế thị trường thế giới là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều kiện cần thiết để sản phẩm hàng hoá của Việt Nam được có mặt nhiều hơn trên thị trường quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt đối với các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam. Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định một bước ngoặt vĩ đại đối với đất nước đặc biệt là việc quyết định đưa nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã và đang khuyến khích thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thị trường, đòi hỏi nhà nước phải có sự hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động sản xuất, vốn, hàng hoá hoạt động hiệu quả hay không là do quá trình sản xuất, lưu thông có tuần hoàn không. Vai trò sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội cho nên đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý hợp lý tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi hỏi phải có một cơ sở lý luận để dẫn đường có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: “Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” cho đề án Kinh tế chính trị.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
32 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2055 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa được quy 
định bởi việc làm tăng thêm giá trị của giá trị ứng trước do đó trước hết được quyết định 
bởi việc sản xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt. 
Trước hết, khi xem xét tái sản xuất giản đơn, chúng ta đã giả định rằng toàn bộ giá trị 
thặng dư bị chi tiêu đi với tư cách là thu nhập. Trên thực tế, trong những điều kiện bình 
thường, một bộ phận giá trị thặng dư bao giờ cũng phải bị tiêu với tư cách là thu nhập, còn 
một bộ phận khác phải được tư bản hoá, hơn nữa số giá trị thặng dư được sản xuất ra trong 
từng thời kỳ nhất định, khi thì bị chi tiêu toàn bộ, khi thì được tư bản hoá toàn bộ, điều đó 
không hoàn toàn quan trọng. Xét trung bình và công thức chung có thể biểu hiện được sự 
vận động trung bình mà thôi: 
 Sld.... Sx’ biểu thị một tư bản sản xuất được tái sản 
Sx.... H’ - T’- H’ Tlsx xuất trên quy mô mở rộng, với tư cách là tư bản có một 
giá trị lớn hơn, và sau đó nó bắt đầu tuần hoàn thứ hai của nó, hoặc - điều này cũng vậy - 
nó lặp lại tuần hoàn thứ nhất của nó, nhưng với tư cách là một tư bản sản xuất đã tăng thêm. 
Khi tuần hoàn thứ hay này bắt đầu, chúng ta lại thâys Sx xuất hiện ở điểm xuất phát, nhưng 
chỉ khác có một điều là Sx này là một tư bản sản xuất có quy mô lớn hơn Sx thứ nhất. 
11 
11 
Cũng giống như là khi trong công thức T...T’, tuần hoàn thứ hai bắt đầu vơis T’, thì T’ này 
cũng làm chức năng giống chức năng của T’, tức là làm chức năng của một tư bản - tiền tệ 
ứng trước có một đại lượng nhất định; đó là một tư bản - tiền tệ có quy mô lớn hơn tư bản - 
tiền tệ mở đầu tuần hoàn thứ nhất, nhưng một khi tư bản - tiền tệ lớn hơn đó bắt đầu làm 
chức năng tư bản - tiền tệ ứng trước, thì tất cả mọi sự liên tưởng đến việc nó đã tăng thêm 
nhờ tư bản hoá giá trị thặng dư đến biến mất. Tình hình như vậy cũng diễn ra đối với Sx 
khi nó làm điểm xuất phát của một tuần hoàn mới. 
Nếu so sánh Sx.... Sx’ với T...T’ hay với tuần hoàn thứ nhất, thì thấy rằng hai tuần 
hoàn đó hoàn toàn không có ý nghĩa giống nhau. Bản thân T...T’ với tư cách là một tuần 
hoàn cô lập, chỉ nói lên rằng T tức là tiền tệ (hay tư bản công nghiệp đang thực hiện tuần 
hoàn của nó dưới hình thái tư bản - tiền tệ). Trái lại trong tuần hoàn của Sx khi gian đoạn 
thứ nhất, tức là giai đoạn quá trình sản xuất chấm dứt, thì quá trình làm tăng giá trị đã hoàn 
thành rồi, còn khi giai đoạn thứ hai. H’ - T’ kết thúc, thì giá trị - tư bản + giá trị thặng dư 
đã tồn tại thành tư bản - tiền tệ đã được thực hiện, thành T’, là các xuất hiện thành cái cực 
cuối cùng trong tuần hoàn thứ nhất. Điều này nói nên rằng giá trị thặng dư đã được sản 
xuất ra. 
Trong Sx... Sx’, Sx’ không nói nên được việc giá trị thặng dư đã được sản xuất ra, 
mà nói nên việctư bản hoá giá trị thặng dư đã sản xuất ra, do đó nói nên rằng tích luỹ tư 
bản đã xảy ra, khác với Sx, Sx’ gồm có giá trị - tư bản ban đầu cộng thêm giá trị của một 
tư bản cho sự vận động của giá trị - tư bản ban đầu tích luỹ lại. T’ và H’, dưới hình thức 
mà nó xuất hiện trong tất cả các tuần hoàn ấy, tự bản thân chúng không biểu thị sự vận 
động, mà biểu hiện kết quả của cuộc vận động: việc làm tăng giá trị - tư bản được thực 
hiện dưới hình thái hàng hoá hay dưới hình thái tiền; vì vậy chúng biểu hiện giá trị - tư bản 
thành T + t, hoặc thành H +h. 
Một khi T’ hoặc H’ cố định thành T +t hoặc H + h, tức là cố định lại dưới dạng quan 
hệ giữa giá trị - tư bản với giá trị thặng dư, con đẻ của giá trị - tư bản, thì mối quan hệ ấy 
biểu thị một lần dưới hình thái tiền, lần kia dưới hình thái hàng hoá. Trong cả hai trường 
hợp ấy, thuộc tính đặc trưng của tư bản, tức là thuộc tính làm một giá trị đẻ ra giá trị. H’ 
bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của 
chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là hình thái của H’ đã trải qua một sự chuyển 
hoá trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Vì thế, khi tư bản - tiền tệ đã thực hiện làm 
trở lại chức năng đặc thù của nó là tư bản - tiền tệ, thì nó không còn biểu hiện mối quan hệ 
12 
12 
tư bản chứa đựng trong T’ = T+t nữa. Một khi T...T’ đã tiến hành xong rồi, và một khi bắt 
đầu trở lại tuần hoàn, thì T’ không còn biểu hiện ra thành T’ nữa, mà biểu hiện ra thành T, 
ngay cả trong trường hợp người ta tư bản hoá toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong T’ 
cũng vậy. Đối với tuần hoàn của tư bản sản xuất, số Sx’ đã lớn lên, khi bắt đầu trở lại tuần 
hoàn của nó, cũng chỉ xuất hiện với tư cách là Sx, giống như Sx trong tái sản xuất giản đơn 
Sx... Sx như vậy. 
 Slđ 
Trong giai đoạn T’ - H’ Tlsx , sự tăng thêm đại lượng giá trị chỉ là do H’ biểu 
hiện ra, chứ không phải do Slđ’ và Tlsx’ biểu thị ra. Vì H là tổng số của Slđ cộng với Tlsx, 
cho nên H’ cũng đã nói lên rằng tổng số của Slđ cộng với Tlsx bao gồm ở trong nó lớn hơn 
Sx ban đầu. 
Việc tích luỹ tiền 
Việc t tức giá trị thặng dư đã biến thành tiền, có thể lập tức được bỏ thêm vào giá trị - 
tư bản đang ở trong quá trình vận động của nó hay không, và do đó có thể gia nhập quá 
trình tuần hoàn bằng cách nhập làm một với tư bản T thành đại lượng T’ hay không - việc 
đó phụ thuộc vào những tình hình không có quan hệ gì với sự tồn tại đơnthuần của t. Chức 
năng riêng của t là nằm dưới hình thái tiền, cho đến khi nó nhận thức của những tuần hoàn 
lắp đi lắp lại, - tuần hoàn làm tăng thêm giá trị - tức là nhận thức được từ bên ngoài, những 
khoản tăng thêm đủ để đạt tới đại lượng tối thiểu cần thiết cho sự hoạt động tích cực của 
nó, chỉ với đại lượng ấy thì nó mới có thể tham gia vào việc hoạt động của tư bản - tiền tệ 
T’, tham gia với tư cách là tư bản tiền tệ. Vậy ở đây việc tích luỹ tiền, tích luỹ tiền là một 
quá trình tạm thời kèm theo việc tích luỹ hiện thực, tức là việc mở rộng quy mô hoạt động 
của tư bản công nghiệp. 
Hình thái tiền tích trữ chỉ là hình thái tiền không nằm trong lưu thông, là hình thái 
của số tiền mà lưu thông của nó bị gián đoạn và vì lẽ đó mà được giữ lại dưới hình thái tiền. 
Còn như bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ, thì nó là chung cho bất cứ nền sản xuất 
hàng hoá nào, và chỉ trong các hình thái chưa phát triển của sản xuất hàng hoá trước chủ 
nghĩa tư bản thì quá trình tích luỹ tiền ấy mới đóng một vai trò nào đó với tư cách là mục 
đích tự thân. 
Quỹ dự trữ. 
Bản thân tiền tích trữ là điều kiện tích luỹ. Nhưng quỹ tích luỹ cũng có thể đảm 
nhiệm những công việc đặc thù, có tính chất phụ, tức là có thể gia nhập quá trình tuần hoàn 
13 
13 
của tư bản mà không cần phải mang hình thái Sx... Sx’ và do đó không cần mở rộng quy 
mô tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quỹ tích luỹ được dùng làm quỹ dự trữ khác với quỹ 
dùng làm phương tiện mua và phương tiện thanh toán đã được nghiên cứu trong tuần hoàn 
Sx... Sx’. Quỹ dự trữ là một bộ phận cấu thành của tư bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị 
của sự tích luỹ của nó, tức là một bộ phận cấu thành của giá trị thặng dư chưa chuyển hoá 
thành tư bản tích cực. 
Quỹ tích luỹ bằng tiền vốn đã là sự tồn tại của tư bản - tiền tệ tiềm năng, do đó nó đã 
là sự chuyển hoá của tiền thành tư bản - tiền tệ. Công thức chung của tuần hoàn của tư bản 
sản xuất. Slđ 
 Sx...H’ - T’. T - H ... Sx (Sx’) 
 Tlsx 
2.3. Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá. 
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản hàng hoá là: 
H’ - T’ - H...Sx... H’ 
H’ không những là sản phẩm mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn đã nói ở trên, bởi 
vì cái là T - H của một tư bản thì đã bao hàm H’ - T’ của một tư bản khác, ít ra là trong 
chừng mực bản thân một bộ phận tư liệu sản xuất là sản phẩm hàng hoá của những tư bản 
cá biệt khác đang thực hiện tuần hoàn của chúng. 
Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị - tư 
bản, mà bằng một giá trị - tư bản đã được tăng lên và nằm dưới hình thái hàng hoá, do đó 
ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của giá trị - tư bản dưới hình thái hàng 
hoá mà còn bao hàm cả tuần hoàn của cả giá trị thặng dư nữa. Trong mọi trường hợp H’ 
thường xuyên mở đầu tuần hoàn với tư cách là một tư bản hàng hoá ngang với giá trị - tư 
bản cộng với giá trị thặng dư. H’ với tư cách là H xuất hiện trong tuần hoàn của một tư bản 
công nghiệp cá biệt, dưới hình thái một tư bản công nghiệp khác, chừng nào tư liệu sản 
xuất là sản phẩm của tư bản công nghiệp này. 
H’ không bao giờ có thể mở đầu tuần hoàn với tư cách là H đơn thuần, với tư cách 
là hình thái hàng hoá đơn thuần của giá trị - tư bản. Là tư bản - hàng hoá, nó bao giờ cũng 
có hai mặt. Đứng trên quan điểm giá trị sử dụng mà nói nó là sản phẩm hoạt động của Sx, 
mà những yếu tố Slđ và Tlsx xuất hiện với tư cách là hàng hoá từ lĩnh vực lưu thông, chỉ 
hoạt động với tư cách là nhân tố hình thành sản phẩm đó. Hai là, đứng trên quan điểm giá 
14 
14 
trị mà nói; H’ là giá trị - tư bản Sx + giá trị thặng dư m, sản sinh ra trong thời gian hoạt 
động của sản xuất. Chỉ có ở trong tuần hoàn của bản thân H’ thì bộ phận H của nó = Sx = 
giá trị - tư bản, mới có thể và phải phân tách ra khỏi bộ phận của H’ chứa đựng giá trị 
thặng dư, khỏi sản phẩm thặng dư chứa đựng giá trị thặng dư, không kể là hai bộ phận này 
có thực sự tách rời nhau hay không tách rời nhau. Một khi H’ đã chuyển hoá thành T’, thì 
hai bộ phận đó trở thành có thể tách rời nhau. 
Trong hình thái I: T... T’ tiền được ứng ra làm tư bản trước hết cho những yếu tố 
sản xuất, nhưng yếu tố này trở thành sản phẩm - hàng hoá và sản phẩm - hàng hoá này lại 
chuyển hoá thành tiền. Đó là một tuần hoàn kinh doanh hoàn chỉnh mà kết quả là tiền có 
thể dùng vào tất cả mọi việc và cho tất cả mọi người. 
Trong hình thái II tức là Sx... H’ - T’ - H...Sx (Sx’) toàn bộ quá trình lưu thông nằm 
sau Sx thứ nhất và trước Sx thứ hai, Sx là tư bản sản xuất, Sx cuối không phải là quá trình 
sản xuất, nó chỉ là sự trở lại của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản sản xuất. 
Trong hình thái III, tức là H’ - T’ - H ... Sx... H’ tuần hoàn bắt đầu bằng hai giai đoạn 
của quá trình lưu thông, tuần hoàn kết thúc với H’, kết quả của quá trình sản xuất. Chỉ 
trong tuần hoàn này thì điểm xuất phát của quá trình làm tăng thêm giá trị là giá trị - tư 
bản đã tăng thêm giá trị. Điểm xuất phát ở đây là H’, biểu hiện mối quan hệ tư bản chủ 
nghĩa, nó có tác dụng quyết định đối với toàn bộ tuần hoàn. Sự phân phối tổng sản phẩm 
xã hội cũng như phân phối đặc thù về sản phẩm của một tư bản - hàng hoá cá biệt, sự phân 
phối, một mặt thành quỹ tiêu dùng cá nhân, và mặt khác thành quỹ tái sản xuất - đều nằm 
trong tuần hoàn của tư bản. 
Trong T...T’ có khả năng mở rộng tuần hoàn theo đại lượng của các phần t sẽ gia 
nhập tuần hoàn mới. Trong Sx...Sx, Sx có thể mở đầu tuần hoàn mới với một giá trị như cũ. 
Trong H’...H’, tư bản dưới hình thái hàng hoá là tiền đề của sản xuất, và với tư cách là tiền 
đề, hình thái đó lại quay trở lại cũng trong tuần hoàn ấy. Cả ba tuần hoàn đều có điểm 
chung: tư bản kết thúc quá trình tuần hoàn của nó dưới đúng cái hình thái mà nó mở đầu 
quá trình tuần hoàn đó, nhờ thế nó lại mang hình thái ban đầu trong đó nó lại mở đầu một 
tuần hoàn giống như vậy. Hình thái của điểm xuất phát T, Sx, H’ đều được cho trước đối 
với mỗi tuần hoàn; hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, và do đó bị quy 
định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái cảu bản thân tuần hoàn. H’ với tư cách là 
điểm kết thúc một tuần hoàn của tư bản công nghiệp cá biệt, chỉ giả định là có hình thái Sx 
ở bên ngoài lưu thông của tư bản công nghiệp đã sản sinh ra nó, T’ là điểm kết thúc của 
15 
15 
hình thái I, là hình thái chuyển hoá của H’ (H’ - T’) giả định là T nằm trong tay người mua, 
tồn tại ở ngoài tuần hoàn T...T’ và chỉ do việc bán H’ mới bị cuốn vào trong tuần hoàn đó, 
trở thành hình thái kết thúc của bản thân tuần hoàn ấy. 
3. Quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề chu chuyển của tư bản. 
Nếu như nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà tư 
bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển 
của tư bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Theo Mác - 
Lênin thì: “Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi 
lắp lại chứ không phải là quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của tư bản”(2). 
Trong quá trình chu chuyển của tư bản tức là để sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất phải 
mất một khoảng thời gian mà theo Mác - Lênin nêu lên là: “Thời gian chu chuyển của tư 
bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản 
xuất hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có 
thêm giá trị thặng dư(3).Như vậy tổng thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định bằng 
thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó cộng lại. Mục đích của nền sản xuất tư bản 
chủ nghĩa bao giờ cũng là làm tăng giá trị ứng trước. Trong hai hình thái T...T’ và hình thái 
Sx...Sx nói lên rằng: 1. Giá trị ứng trước đã làm chức năng giá trị - tư bản và đã tự tăng 
thêm; 2. Khi kết thúc tuần hoàn của nó, giá trị ứng trước lại quay về dưới hình thái mà nó 
mang khi mở đầu tuần hoàn. Nếu sản xuất mang hình thái tư bản chủ nghĩa, thì tái sản 
xuất cũng mang hình thái đó. Quá trình lao động trong phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa là chỉ là một phương tiện cho quá trình làm tăng thêm giá trị, thì tái sản xuất cũng 
vậy, nó cũng chỉ là một phương tiên để tái sản xuất ra giá trị ứng trước với tư cách là tư 
bản, tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. 
Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả năng thôi 
còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành 
sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - tư bản mở đầu quá trình với tư cách là giá 
trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dưới hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình 
thái trọng yếu đối với sự vận động của các tư bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ 
(2) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 - trang 103 
(3) Kinh tế chính - NXB giáo dục - 1998, trang 104 
16 
16 
với sự vận động của tư bản xã hội. Nhưng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên 
cứu sự chu chuyển của một tư bản bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc ứng trước giá trị tư 
bản dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị - tư 
bản đang lưu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã được ứng ra. 
Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác nhau, đã không 
xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu chuyển của tư bản. Có những 
nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi phí dưới hình thái yếu tố sản xuất, và xem 
xét sự vận động cho đến lúc quay trở về, nhưng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái 
quay trở về đó, không hề tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dưới hình thái hàng hoá hay hình 
thái tiền. Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản 
xuấta nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình thái ban 
đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo 
tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản, thì nó phải lắp lại tuần 
hoàn ấy. Trong đời sống của tư bản, mỗi tuần hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không 
ngừng được lắp đi lắp lại, nghĩa là một giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T...T’ tư 
bản tiền tệ sẽ đi qua cái chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay 
quá trình tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx...Sx kết thúc, tư bản mang hình thái những yếu 
tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. “Tuần hoàn của tư bản khi được coi là 
một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì được gọi là vòng chu chuyển 
của tư bản”. Thời gian của vòng chu chuyển ấy được quyết định bởi tổng số thời gian sản 
xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư 
bản. Do đó, thời gian chu chuyển của tư bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần 
hoàn tiếp theo; nó nói lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của tư bản, hay có thể nói, 
nó là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay quá 
trình sản xuất ra cùng một giá trị tư bản. 
Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời 
hạn chu chuyển đối với cùng một tư bản cá biệt, thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ 
khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu tư cá biệt của tư bản. Cũng 
giống như ngày lao động là đơn vị đo lường tự nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì 
năm cũng là đơn vị đo lường tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của tư bản hoạt động. 
Cơ sở tự nhiên của đơn vị đo lường ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hương của nền sản 
xuất tư bản chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều được sản xuất ra mỗi năm một lần. 
17 
17 
Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lường của thời gian chu chuyển, lấy ch để chỉ 
thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển của tư bản, 
thì chúng ta sẽ có: n = 
CH
ch . Do đó nếu thời gian chu chuyển của tư bản là vài năm, thì nó 
sẽ được tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà tư bản, thời gian chu chuyển của 
tư bản là thời gian trong đó nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để nó tăng thêm giá trị, và 
quay trở về dưới hình thái ban đầu của nó. 
Giá trị các bộ phận tư bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác 
nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của tư bản thì chia tư bản ra thành tư bản 
cố định và tư bản lưu động. Trong đó “tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất mà bản 
thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị lại không chuyển hết một 
lần, mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm”(4). 
Còn “tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời 
kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng 
hoá đã bán xong” (5). Đó là bộ phận giá trị tư bản dưới hình thức sức lao động và những tư 
liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng 
chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm mới. Chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu 
động cũng là một sự phân chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế. 
Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu 
chuyển được vòng thì tư bản lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản 
cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau, có thời 
gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. “Hao mòn hữu hình là do 
sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận tư bản đó dần dần hao mòn 
đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trường hợp 
máy móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện” (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà tư bản còn 
tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao tư bản cố định. 
Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của tư bản thành 
“Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành 
phần khác nhau của tư bản. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư 
bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng như về mặt hiện vật(7). Chu 
(4), (5), (6): NXB Giáo dục: Kinh tế chính trị - 1998, trang 105, 106 
(7) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 trang 109 
18 
18 
chuyển thực tế do thời gian tồn tại của tư bản cố định đầu tư quyết định và nó không ăn 
khớp với chu chuyển chung của nó. 
Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng 
giá trị thặng dư tạo ra trong một năm với tư bản khả biến ứng ra trước người ta phải tăng 
tốc độ chu chuyển của tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi, nhưng tư bản chu 
chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển tư bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị 
thặng dư càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ 
thực sự giữa tư bản và lao động, gây cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư 
không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà tư bản 
khả biến làm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích 
được do quá trình lưu thông đẻ ra. Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và 
thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự 
phát triển của lực lượng sản xuất giúp cho nhà tư bản làm việc đó. 
19 
19 
II. SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ 
BẢN TRONGN VIỆC QUẢN LÝ CÁC DOANH NGHIỆP CỦA NƯỚC TA KHI 
CHUYỂN SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN. 
1. Sự vận dụng ở Việt Nam từ trước đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng 
- 1986. 
Cả nước cùng tiền lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản 
xuất nhỏ: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động kỹ thuật vẫn còn thủ 
công, phân công lao động xã hội còn kém phát triển,năng suất lao động xã hội rất thấp, tình 
trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân 
còn yếu, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Công cuộc xây dựng nền kinh tế đòi hỏi 
đất nước ta phải có chính sách phát triển và khôi phục nền kinh tế, đưa đất nước đi lên 
thoát khỏi sự lạc hậu của nền kinh tế sau những năm chiến tranh xâm lược. Doanh nghiệp 
Việt Nam lúc này còn quá nhỏ bé chủ yếu là các xí nghiệp dưới sự che chở của nhà nước, 
nhà nước bao cấp và chịu gần như toàn bộ hậu quả mà doanh nghiệp nhà nước và xí nghiệp 
gặp phải. Hàng Việt Nam được sản xuất ra có khi không đúng thời vụ, hàng chưa về đến 
nông thôn thì đã hết. Nhà nước lại không có chính sách, biện pháp mở rộng sản xuất, 
không thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là do nhà nước 
cấp, doanh nghiệp không tồn tại loại hình doanh nghiệp tư nhân tư bản, doanh nghiệp nhà 
nước hoạt động rất kém hiệu quả, năng suất chưa cao, chất lượng thấp, cơ sở vật chất kỹ 
thuật rất hạn chế. 
Đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước đi vào khôi phục xây dựng đất nước. Đảng 
và Nhà nước ta xác định nhiệm vụ đầu tiên là phải phát triển kinh tế, đưa đất nước đi lên. 
Tại Đại hội IV Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: “Đẩy 
mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa 
nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp 
nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây 
dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây 
dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc 
dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản 
xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”(8) . Đến đại hội lần thứ V (tháng 3 - 1982) của 
(8) Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội, 
1997, trang 67. 
20 
20 
Đảng lại khẳng định đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV của Đảng đã đề ra 
là hoàn toàn đúng đắn và được tiếp tục thực hiện. 
Thời kỳ này các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới hình thái các xí nghiệp. Đảng ta 
chủ trương đối với xí nghiệp con đường công ty hợp doanh. Thực hiện chủ trương đó, công 
cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã được thực hiện như sau: các xí 
nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài đều bị quốc hữu hoá và trở 
thành quốc doanh. Năm 1978 là năm tuyên bố hoàn thành cải tạo tư sản trong công nghiệp 
loại vừa và nhỏ ở miền Nam. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp 
quốc doanh, ngày 21 - 1- 1981 Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định 25 - CP về: 
“Một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và 
quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh”. Trên cơ sở đó các xí nghiệp phải 
biết chu chuyển vốn sao cho hợp lý, sản xuất phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi, nâng cao 
cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị và ngày càng củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật. 
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã chủ trương “xoá bỏ ngay thương 
nghiệp tư bản tư doanh”. Đối với tiểu thương, Đảng chủ trương “Tổ chức lại thương 
nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Đối với số còn lại được phép kinh 
doanh, phải tăng cường quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp”. Nền kinh 
tế bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế về mặt quản lý còn thiếu 
hiêủ biết, ít kinh nghiệm quản lý, chưa tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tạo điều kiện cho 
một số xí nghiệp lợi dụng sự sơ hở để mưu lợi ích cục bộ. 
Nhìn chung trong giai đoạn này các xí nghiệp rất còn yếu kém trong việc tuần hoàn 
sản xuất và chu chuyển vốn, có nhiều xí nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước đến khi 
bị thua lỗ thì nhà nước phải chịu hoàn toàn cho nên các xí nghiệp chưa có được tinh thần 
trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất của mình. 
2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 
1986) đến nay. 
Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện 
và sâu sắc ở nước ta; trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Đảng chỉ ra mục 
tiêu quan trọng là phát triển kinh tế trong đó khẳng định vai trò của các doanh nghiệp trong 
nền kinh tế mới với cơ chế quản lý mới đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 
Cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường thông qua tín hiệu giá cả được hình thành theo 
quan hệ cung cầu, đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và 
21 
21 
mọi đơn vị kinh tế trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước quản lý 
nền kinh tế thông qua hệ thống, thể chế rõ ràng, nghiêm chỉnh kết hợp đúng đắn tính kế 
hoạch với việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế như 
giá cả, chính sách tài chính, tín dụng...công tác kế hoạch hoá được đổi mới theo hướng 
chuyển từ tính pháp lệnh sang tính hướng dẫn là chính, từng bước phân biệt quản lý Nhà 
nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế mới nhằm 
chuyển hoá nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, hiện vật, tự cấp tự túc, sang 
nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN. Đây cũng là con đường chủ yếu để nâng 
cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, cũng như của toàn bộ nền kinh tế. 
Việc chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách căn bản 
chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Từ chỗ trực tiếp “làm kinh tế” can thiệp rất sâu 
vào quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nước chuyển sang điều tiết vĩ mô nền kinh tế chủ 
yếu bằng công cụ pháp luật, kế hoạch hoá định hướng và các công cụ quản lý vĩ mô khác. 
Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã được thể chế hoá 
trong hiến pháp và được cụ thể hoá bằng hệ thống các luật: luật doanh nghiệp nhà nước, 
luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật hợp tác xã, Luật công 
ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, các luật thuế và luật ngân sách, Luật đất đai, Luật dân sự, 
Luật phá sản, Pháp lệnh ngân hàng... Đó chính là cơ sở pháp lý để các chủ thể kinh tế và 
mọi người dân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, trong cơ chế thị trường. Trên cơ sở 
đó từng bước phân biệt quản lý Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh, hình thành cơ 
chế quản lý của nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước thay thế 
choi cơ chế Bộ hoặc cơ quan hành chính chủ quản doanh nghiệp. 
Nếu như trên thế giới, việc phân loại hình doanh nghiệp thường dựa trên các tiêu chí 
chính phủ như lĩnh vực ngành nghề kinh doanh; hình thức sở hữu; quy mô vốn, lao động 
và sản lượng; mức độ lợi nhuận... Thì ở Việt Nam việc xác định loại hình doanh nghiệp 
cũng dựa trên những tiêu chí đó đã được thể chế thành pháp luật. Trong luật doanh nghiệp 
do Quốc hội thông qua có nêu “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế riêng, có tài sản, có trụ sở 
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích 
thực hiện các hoạt động kinh doanh” . Hiện nay ở nước ta tồn tại các loại hình doanh 
nghiệp chủ yếu sau: doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài; doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt 
Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
22 
22 
tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thương mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến; quy mô 
của doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ trang bị công nghệ và quản lý thấp, đội ngũ công 
nhân chưa được đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp Việt 
Nam là chất lượng sản phẩm không cao, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các doanh 
nghiệp nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản phẩm của 
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25 - 28% GDP. 
Chuyển đổi từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu 
sang một nền kinh tế hoàn toàn mới đó là kinh tế thị trường, trong đó nền kinh tế vận động 
theo cơ chế thị trường với ba vấn đề: Sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? và sản xuất cho 
ai? đều do thị trường quyết định thông qua sự chỉ dẫn của quan hệ cung cầu và giá cả? Một 
mặt do nước ta không trải qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội 
chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp. Mặt khác, tỏo chức lại nền kinh tế đưa các thành phần kinh tế vào hoạt động 
có hệ thống để mục đích đạt được hiệu quả sản xuất cao hơn, tăng thu nhập và đời sống 
dân cư. Song nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức một cách 
hoàn hảo, không có những khuyết tật. Vì vậy, để cho nền kinh tế này hoạt động có hiệu 
quả ở nước ta và để khắc phục, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường cần có sự can 
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. 
Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, nhà nước định hướng ngày càng rõ 
ràng những chức năng quản lý nhà nước, quản lý hành chính đối với doanh nghiệp và đòi 
hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ, chính xác quyền lực của nhà nước. Đó là con 
đường để xoá bỏ những quy định không rõ ràng, chồng chéo trong trách nhiệm, quyền hạn 
giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, đoàn thể quần chúng, và sự lãnh đạo tổ chức 
của Đảng, nhằm hạn chế tối đa sự sơ hở, dẫn đến tham nhũng lãng phí, vi phạm lợi ích 
chính đáng của nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Sự vận động của nền kinh tế thị 
trường có sự quản lý của nhà nước là tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động 
cùng một lúc của hai yếu tố, hai bàn tay: “vô hình” và “hữu hình” “cơ chế thị trường” và 
nhà nước. Trong đó nhà nước thực hiện chức năng quản lý của các doanh nghiệp trên hai 
mặt tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý. 
Tổ chức sản xuất 
Một là: tổ chức sản xuất, lấy các hoạt động sản xuất kinh doanh làm đối tượng, dựa 
trên cơ sở phân tích kinh tế - kỹ thuật và lấy hiệu quả kinh doanh phù hợp với chính sách 
23 
23 
và pháp luật nhà nước làm tiêu chuẩn cơ bản. Nhà nước hướng các doanh nghiệp nên sản 
xuất một loại sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong nước và có thể được đem 
ra thị trường nước ngoài. Trong quá trình sản xuất không được ngừng trệ, các dây chuyền 
sản xuất phải nối tiếp nhau, tuần hoàn và liên tục dựa trên cơ sở trang thiết bị vốn có và 
đầu tư mới. 
Hai là: tổ chức sản xuất là cơ sở để sử dụng hợp lý mọi tài nguyên, xây dựng và thực 
hiện kế hoạch sản xuất- kinh doanh theo phương hướng, mục tiêu kế hoạch nhà nước, theo 
nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp, kết hợp chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp, có hiệu 
quả và để tổ chức bộ máy quản lý có hiệu lực. 
Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh được phân làm ba 
nhóm: 
Nhóm 1: Những doanh nghiệp quan trọng cần được nhà nước duy trì, tổ chức lại và 
đầu tư nâng cao hiệu quả, mở rộng quy mô hoạt động. Các doanh nghiệp này được bảo 
đảm điều kiện tối thiểu để chủ động tích luỹ và mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh; 
kiện toàn tổ chức, ưu tiên và bổ sung vốn lưu động, cho vay một phần vốn với lãi suất ưu 
đãi để đầu tư chiều sâu, nâng cao khả năng cạnh tranh. 
Nhóm 2: Đó là những doanh nghiệp nhà nước cần được cổ phần hoá là những doanh 
nghiệp không cần duy trì 100% vốn Nhà nước, chưa làm vào tình trạng phá sản hoặc phải 
giải thể, có đề án hoạt động sản xuất có hiệu quả, hoạt động trong những lĩnh vực nhà nước 
chỉ cần giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. 
Nhóm 3: gồm những doanh nghiệp sản xuất thua lỗ kéo dài, không trả được nợ đến 
hạn, không nộp đủ thuế. Những doanh nghiệp này nếu do thiếu thuế hoặc năng lực quản lý 
yếu kém thì có thể duy trì nhưng cần thay cán bộ lãnh đạo, hoặc có thể phải bán đấu giá, 
giải thể và phá sản. 
Ba là: Tổ chức sản xuất, hiểu theo nghĩa rộng, trên phạm vi ngành, lãnh thổ, đơn vị 
cơ sở, phải bắt đầu từ việc xác định cơ cấu sản xuất. 
- Xác định trình độ tích tụ sản xuất (quy mô sản xuất - kinh doanh). 
- Xác định phạm vi chuyên mộn hoá sản xuất - kinh doanh một hay nhiều sản phẩm, 
dịch vụ và phạm vi, mức độ kinh doanh tổng hợp. 
- Xác định các mối liên hệ hợp tác sản xuất, liên kết liên doanh giữa các ngành, các 
đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. 
24 
24 
- Xác định các hình thức tổ chức liên hợp sản xuất từ thấp đến cao, liên hiệp giữa các 
xí nghiệp cùng loại sản phẩm hay khác loại: liên hiệp giữa các khâu từ sản xuất, cung ứng 
vật tư, tiêu thụ xuất nhập khẩu; liên hiệp giữa khoa học - sản xuất - đời sống. 
- Sắp xếp dây chuyền sản xuất theo quy trình công nghệ đã chọn và đảm bảo kỹ thuật, 
chất lượng sản phẩm, bố trí hợp lý và cân đối các điều kiện sản xuất và lực lượng lao động 
nhằm đạt năng suất cao. 
- Sắp xếp quy trình hoạt động của các khâu tổ chức: dự trữ sản xuất, sản xuất, sản 
xuất chế biến, tiêu thụ với các yếu tố sản xuất một cách thông suốt, gắn sản xuất với thị 
trường. 
Như vậy, trong việc sản xuất kinh doanh phải được xác định rất rõ ràng, Nhà nước 
đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sản xuất của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho 
các doanh nghiệp được sản xuất liên tục trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời lao động, 
cơ sở vật chất kỹ thuật không bị nhàn rỗi, vốn được chu chuyển thường xuyên. 
Tổ chức bộ máy quản lý, tuỳ thuộc vào cơ cấu và tổ chức sản xuất và cơ chế kinh tế 
kinh doanh nhằm quản lý có hiệu lực, phục vụ đắc lực cho sản xuất - kinh doanh: 
- Phát triển hợp tác hoá, tập trung hoá sản xuất và liên hiệp sản xuất như khoa học - 
kỹ thuật - thiết kế - đầu tư sản xuất - tiêu thụ - dịch vụ. 
- Phát triển chuyên môn hoá sản xuất và dịch vụ. 
- Các cơ quan Nhà nước gọi đối tượng quản lý và chức năng quản lý vào các vấn đề 
chiến lược và chính sách cơ bản; chuyển từ chỗ trực tiếp điều hành sang tạo môi trường 
kinh tế cho các đơn vị kinh tế hoạt động một cách độc lập, chuyển từ chỗ nặng về áp dụng 
các biện pháp hành chính sang việc kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành 
chính, trong đó các biện pháp kinh tế. 
- Mở rộng quyền tự chủ và chủ động kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế của các đơn 
vị kinh tế. 
Trong nền kinh tế thị trường trách nhiệm lịch sử của doanh nghiệip hiện hay là nâng 
cao hiệu quả kinh doanh và trên cơ sở đó, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 
trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước khuyến khích thành lập doanh nghiệp và 
hình thành tập đoàn kinh doanh “tập đoàn kinh doanh là một tập hợp nhiều doanh nghiệp 
thành một tổ chức, có tư cách pháp nhân, trong đó có một doanh nghiệp là “công ty mẹ” 
kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các doanh nghiệip khác”. Nếu như Nhà nước 
25 
25 
khuyến khích tư nhân thành lập doanh nghiệp, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà 
nước khuyến khích: cổ phần hoá doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là 
một chủ trương lớn của Nhà nước vì nó là một bộ phận của cơ chế quản lý. Đến năm 1998 
trên toàn quốc chỉ có 18 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Cổ phần hoá là hình 
thức tích tụ vốn một cách nhanh nhất C.Mác đã viết “Nếu như cứ phải chờ cho đến tích luỹ 
làmcho một số nhà tư bản riêng lẻ lớn lên tới mức có thể đảm đương được việc xây dựng 
đường sắt, thì có lẽ đến ngày nay (thế kỷ 19) thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại qua 
các công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”. Trong điều 
kiện hiện nay với chủ trương, đa dạng hoá các hình thức sở hữu ngay ở từng cơ sở, cổ phần 
hoá sẽ giúp các doanh nghiệp nhà nước thẩm thấu vào các thành phần kinh tế khác qua 
việc mua cổ phần của các doanh nghiệp đó, từ đó phát huy tác dụng định hướng cho các 
thành phần khác. 
Xuất phát từ chủ trương “xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm” chính phủ phát 
huy vai trò người cầm lái đối với doanh nghiệp, đã đặt tư tưởng và pháp lý cho một phong 
cách và một thể chế làm việc mới: Chính phủ hợp tác đối thoại thẳng thắn, bình đẳng với 
doanh nghiệp, cải tiến tổ chức các doanh nghiệp và xác định rõ các quyền tự chủ để trao 
đổi lại cho doanh nghiệp, sẽ tạo ra sự gắn bó mới, sự đồng tâm nhất trí mới, động lực mới 
cho cả hai bên - người cầm lái và người chèo thuyền. 
Hơn 10 năm qua, các loại hình doanh nghiệp ở nước ta phát triển một cách nhanh 
chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển một cách nhanh 
chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế và xã hội 
của đất nước. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và 
các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung chủ yếu vào hai lĩnh 
vực là thương mại và dịch vụ và công nghiệp chế biến. Theo số liệu của Tổng cục quản lý 
vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, trong số 33724 doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
thì có 27775 doanh nghiệp tư nhân với số vốn điều lệ là 4084 tỷ đồng, 8775 công ty trách 
nhiệm hữu hạn với số vốn điều lệ là 8714 tỷ đồng; 229 công ty cổ phần với số vốn điều lệ 
là 2856 tỷ đồng... các doanh nghiệp này đã nộp ngân sách 8178 tỷ đồng và sử dụng trên 1 
triệu đồng. Một điều đáng phải nêu lên đó là sự thay đổi trong cách nhìn nhận của doanh 
nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, sử dụng vốn bước đầu đã có hiệu quả. Bên 
cạnh một số thành tựu mà doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được thì vẫn còn tồn tại những 
hạn chế mắc phải. Một vấn đề đầu tiên là vốn có thể nói hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam, 
26 
26 
xét trên giác độ quy mô vốn đầu tư giống như những chủ bé tí hon đang phải đánh vật với 
những anh chàng khổng lồ nước ngoài. Thời gian sản xuất của các doanh nghiệp khác dài, 
nắm bắt thị trường chưa kịp thời, hàng sản xuất ra chất lượng không cao nhưng giá cả lại 
cao, chưa có khả năng lôi kéo được thị hiếu người trong nước, hàng rẻ tiền thì hạn dùng 
rất hạn chế, hàng Việt Nam chất lượng cao thì quá đắt so với hàng nước ngoài cùng chủng 
loại. Cho nên một số doanh nghiệp đầu tư ban đầu cũng khá nhiều nhưng lợi nhuận thu về 
thì rất thấp dânx đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, sản xuất không được tuần hoàn, 
hao mòn thường xuyên xảy ra đối với trang bị kỹ thuật. Bên cạnh một số doanh nghiệp có 
vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước nhà và xuất khẩu ra nước ngoài thì cũng có một số 
doanh nghiệp do không đủ vốn và đủ sức cạnh tranh phải ngừng sản xuất hay phải giảm 
tốc độ sản xuất. Vì vậy đòi hỏi nhà nước phải có sự giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho các 
doanh nghiệp có khả năng phát triển nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp 
như điều chỉnh giá cả ổn định ở trên thị trường đảm bảo lợi ích của người kinh doanh, nhất 
là trong cơ chế thị trường nhà nước phải đổi mới trong cơ chế quản lý bao gồm hai nhiệm 
vụ. 
Song song với quá trình thành các chủ thể sản xuất kinh doanh tự chủ, phải từng 
bước phát triển hệ thống thị trường về tất cả các yếu tố sản xuất, hình thành thị trường 
thông suốt trong cả nước và từng bước gắn với thị trường thế giới. 
Đổi mới quản lý vĩ mô của Nhà nước, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho kinh tế thị 
trường, và quan trọng hơn nữa là Nhà nước tạo ra và sử dụng có hiệu quả các công cụ phù 
hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt là kế hoạch hoá và công cụ tài chính tiền tệ, để bảo đảm 
cân đối và điều tiết kinh tế vĩ mô. 
Tuy nhiên để hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, phải từng bước 
tháo gỡ giải toả cơ chế cũ. 
Nhà nước đã thực hiện những bước đi có tính quyết định chuyển mạnh sang cơ chế 
thị trường: áp dụng phổ biến cơ chế giá thị trường, thương mại hoá tư liệu sản xuất, xoá bỏ 
cơ chế phân phối theo kế hoạch với giá thấp phần lớn vật tư sản xuất đi đôi với bán vật tư, 
hàng hoá cho nông dân theo giá thoả thuận đã xoá bỏ bức tường giả tạo về hai thị trường, 
thúc đẩy tự do hoá lưu thông, hình thành quan hệ mua bán bình thường, tự do kinh doanh 
theo giá cả thị trường. Xoá bỏ phần lớn bao cấp qua bù giá, bù lỗ cho các doanh nghiệp 
nhà nước, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển sang cơ chế tự chủ về tài chính 
phải đối mặt với thị trường, xoá bỏ cơ chế giao nộp sản phẩm, chỉ còn một nghĩa vụ nộp 
27 
27 
ngân sách nhà nước. Qua đó cho thấy cơ chế thị trường bước đầu đã được hình thành: giá 
cả thị trường hình thành theo quan hệ cung - cầu với quy luật cạnh tranh, quy luật lưu 
thông tiền tệ đã trực tiếp tác động và góp phần điều tiết quá trình hoạt động sản xuất kinh 
doanh, điều tiết các nguồn lực và điều tiết tiêu dùng. Cơ chế thị trường đã góp phần quan 
trọng vào việc huy động mọi nguồn lực của đất nước và phát huy tính chủ động sáng tạo 
của các chru thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên sự phát triển năng động 
nền kinh tế đất nước. 
Từ thực tiễn phát triển kinh tế, Đại hội VII của Đảng (1991) đã khẳng định “Thị 
trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt 
hàng, quy mô, công nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất 
trong môi trường cạnh tranh và hợp tác”. 
Đối với doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang cơ chế thị trường không tránh khỏi 
sự chao đảo cho nền nhà nước đã dùng rất nhiều các biện pháp như: 
- Xác định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trung trong kinh doanh của các doanh 
nghiệp Nhà nước. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời tiến hành 
quản trị kin doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước. 
- Giảm dần khoản ngân sách bù lỗ cho các doanh nghiệp Nhà nước. 
- Tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước trên toàn quốc theo hướng phát triển 
không tràn lan, tập trung củng cố và phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những khu 
vực, những khâu then chốt của nền kinh tế: từ 12296 doanh nghiệp Nhà nước năm 1991 
đến tháng 7 - 1995 còn 5962 doanh nghiệp Nhà nước, giải thể hoặc chuyển hình thức sở 
hữu trên 2000 doanh nghiệp Nhà nước, sáp nhập gần 4000 doanh nghiệp Nhà nước thành 
doanh nghiệp lớn hơn. Kinh tế quốc doanh trong 5 năm qua từ 1991 - 1995 đã có tốc độ 
tăng trưởng gấp gần 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân nền kinh tế, vầ gấp 2 lần so với 
tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hiệu quả kinh doanh tăng lên, số 
doanh nghiệp Nhà nước bị làm ăn thua lỗ giảm xuống. 
Đối với khu vực kinh tế cá thể, tư nhân và kinh tế hợp tác được chú trọng phát triển. 
Với phương châm khuyến khích mọi người đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm 
giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời ngăn chặn làm ăn phi pháp, hạn chế tác động 
tiêu cực của cơ chế thị trường, đã từng bước hình thành khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính 
sách cho kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác pháp triển có hiệu quả theo định 
hướng của Nhà nước. 
28 
28 
Đặc biệt trong điều kiện đất nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và hội 
nhập thế giới thì vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng, Nhà nước tạo môi trường 
thuận lợi để cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước. Nhà 
nước mở cửa cho các doanh nghiệp liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, góp vốn 
sản xuất, hội nhập vào thị trường thế giới, cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế 
giới. Nhà nước khuyến khích sản xuất hướng về xuất khẩu, cả đối với đầu tư trong nước và 
đầu tư nước ngoài, đồng thời có chính sách bảo hộ sản xuất trong một cách hợp lý. 
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ngày càng rút ngắn thời gian chu chuyển 
sản xuất, quá trình tuần hoàn sản xuất ngày càng lặp lại nhiều với chu kỳ sản xuất sau có số 
lượng lớn hơn và chất lượng lớn hơn lần tuần hoàn đầu tiên, nhất là phải thu về tỷ suất giá 
trị thặng dư cao mới có thể duy trì sản xuất và đó cũng là tiền đề để cho trang bị kỹ thuật 
không bị hao mòn, tiền lương được cải thiện, tạo việc làm ổn định cho công nhân. Sự phát 
triển lớn mạnh của các doanh nghiệp góp phần khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái nền 
kinh tế. 
Thế kỷ 21 đang đến gần nền kinh tế đất nước đang chuyển mình đi lên con đường 
phát triển ổn định và hiện đại. Sự phát triển của các doanh nghiệp hiện nay là tiền đề để 
phát triển mạnh trong tương lai, hội nhập cùng sự phát triển chung của thế giới khẳng định 
vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải 
có sự định hướng trong quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp trên con đường lên 
chủ nghĩa xã hội. 
29 
29 
C. PHẦN KẾT LUẬN 
Đất nước ta đang trên con đường phát triển đi lên và hội nhập với thế giới. Để hoà 
nhập cùng sự phát triển chung của thế giới không chỉ phát triển trên lĩnh vực chính trị mà 
quan trọng là phát triển nền kinh tế. Với đa số dân số Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực 
nông nghiệp, cho nên vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta 
hiện nay. Nhưng trong thực tế hiện nay quy mô còn rất nhỏ bé, hoạt động sản xuất kinh 
doanh chưa có hiệu quả cao, đặc biệt là vốn đầu tư còn nhỏ bé, vốn và trang bị kỹ thuật 
nhiều khi bị nhàn rỗi không được đưa vào dây chuyền sản xuất, lưu thông hàng hoá chậm 
chạp, chưa nắm bắt được thị trường, hàng sản xuất ra nhiều khi bị ứ đọng không bán được 
hoặc phải bán ra với giá cả bằng hoặc nhỏ hơn chi phí sản xuất dẫn đến việc tuần hoàn sản 
xuất không được liên tục. Nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố giải thể hoặc tạm ngừng sản 
xuất, hoặc sáp nhập vào doanh nghiệp lớn, nền kinh tế đất nước ngày càng có nguy cơ bị 
giảm sút. Đứng trước tình hình ấy Đảng và Nhà nước đã đề ra chính sách đổi mới nền kinh 
tế, chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo 
định hướng XHCN. Đây là bước ngoặt căn bản đối với nền kinh tế đất nước nói chung và 
đối với các doanh nghiệp nói riêng, mở ra một thị trường mới cho các doanh nghiệp hoạt 
động theo cơ chế thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và với các 
doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp vận dụng cơ chế mới và vận dụng lý thuyết 
vào thực tiễn đã dần dần hoà nhập vào nền kinh tế mới. Vốn đầu tư ngày càng thu hút được 
nhiều từ trong nước và nước ngoài, hạn chế vốn ứ đọng và đặc biệt là thiết bị máy móc 
không để nhàn rỗi mà luôn được đưa vào hoạt động sản xuất, sau mỗi một chu kỳ sản xuất 
sản lượng ngày càng nhiều và chất lượng ngày càng nâng cao, thời gian chu chuyển rút 
ngắn lại... thành tựu mà doanh nghiệp đạt được một phần là do sự quản lý trong tổ chức 
doanh nghiệp và khả năng tiếp cận thị trường tốt của các doanh nghiệp nhưng cũng phải kể 
đến vai trò rất quan trọng cuả nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhà nước định hướng các 
doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động 
kinh doanh trên thị trường trong nước và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, nhà nước 
tác động đến việc ổn định giá cả trên thị trường để cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả, 
đồng thời nhà nước thông qua pháp luật tạo môi trường thoải mái cho các doanh nghiệp 
nước ngoài đầu tư vào trong nước. 
Ngày nay các thành phần kinh tế của chúng ta đạt hiệu quả kinh tế cao, lý thuyêt tuần 
hoàn và chu chuyển của tư bản của Mác - Lênin ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt 
động thực tiễn của doanh nghiệp trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cùng 
với sự vận dụng của khoa học lý thuyết vào thực tiễn và sự quản lý chặt chẽ của nhà nước 
đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cầm lái và chèo thuyền đưa con 
30 
30 
thuyền kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập vào sự phát triển nền kinh tế chung của thế 
giới. 
31 
31 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Các Mác - Tư bản - Quyển 2 - Tập I. Nhà xuất bản sự thật Hà Nội - 1977 
2. Các văn kiện Đại hội Đảng từ Đại hội IV đến dự thảo đại hội IX. 
3. Có một Việt Nam như thế - NXB chính trị quốc gia - Hà nội 1998 
4. Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 
5. Nghiên cứu lý luận. Số 5 - 2000 
6. Nhà nước và cơ chế thị trường - NXB trẻ. 
7. Tạp chí sinh hoạt lý luận. Số 32 - 1999 
8. Quản lý nhà nước. Nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay - NXB chính trị 
quốc gia. 
32 
32 
MỤC LỤC 
 Trang 
A. Phần mở đầu 1 
B. Phần nội dung 3 
I. Cơ sở lý luận về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản 3 
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tuần hoàn của tư bản 3 
2. Ba hình thức tuần hoàn của tư bản 3 
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chu chuyển của tư bản 17 
II. Sự vận dụng lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản đối với việc 
quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường 
định hướng XHCN 
21 
1. Sự vận dụng ở Việt Nam trước Đại hội VI ban chấp hành Trung ương Đảng 
1986 
21 
2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội VI ban chấp hành TW Đảng 1986. 23 
Kết luận 33 
Tài liệu tham khảo 35 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
DA021.pdf