Bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của khoa học và công nghệ nhưng vẫn cần có nguồn lực con người để thực hiện những thành tựu của khoa học. Vấn đề dân số và thị trường lao động vẫn là điểm nóng cần quan tâm giải quyết. Chúng ta có giải quyết tốt vấn đề về dân số thì mới phát triển nâng cao được chất lượng về con người. Quá trình phát triển của đất nước tồn tại song song với sự phát triển của con người, và một đất nước phát triển toàn diện thì ở đó thị trường lao động không phải chịu sức ép của dư cung hay thiếu cầu lao động. Dân số phát triển ổn định và bền vững làm cho biến động trên thị trường lao động dần trở lại trạng thái cân bằng, ở đó sẽ không có sức ép của thất nghiệp. Giải quyết tốt những mâu thuẫn của thị trường lao động làm cho đất nước phát triển và đi lên.
Tóm lại dân số là nguồn lực chính để tạo nên cung lao động khi dân số đạt được ở mức độ phát triển ở tỷ lệ thay thế thì sẽ giải quyết được mọi tồn đọng và bất cập của xã hội chứ không riêng gì giải quyết sự mất cân bằng trên thị trường lao động, nhân tố tác động trực tiếp đến thị trường lao động là dân số và qua bài viết này phần nào đã làm rõ được ảnh hưởng lớn lao của dân số nên thị trường lao động. Tuy nhiên còn có nhiều nhân tố khác và những mâu thuẫn mà chưa được đề cập tới trong bài viết em mong nhận được sự góp ý của cô giáo.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa biến động dân số và thị trường lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể làm nên sự phát triển của xã hội nhưng rồi con người cũng lại là nguyên nhân chính của sự nghèo đói, thiếu việc làm, thất nghiệp.
Nước Việt Nam là nước có đông dân, phần lớn dân số tập trung ở các khu vực nông thôn, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm tới 70% lực lượng lao động toàn xã hội, chính cơ cấu lực lượng lao động ở nước ta còn nhiều bất hợp lý mà em chọn nghiên cứu vế đề dân số tác động tới thị trường lao động, để làm rõ vấn đề này bài viết được cấu trúc với nội dung sau:
Biến động dân số
Thị trường lao động
Mối quan hệ giữa biến động dân số và thị trường lao động
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo đặc biệt là cô giáo Trần Thị Thu đã giúp em rất nhiều trong việc tìm kiếm tài liệu, hướng dẫn em hoàn thành tốt đồ án này. Do kinh nghiệm bản thân còn ít và hạn chế nên không tránh khỏi sự thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
I.Biến động dân số và các nhân tố ảnh hưởng
Các khái niệm.
Dân số: là tập hợp người sinh sống trong những vùng lãnh thổ nhất định.
Lãnh thổ ở đay có thể là xã, huyện, tỉnh, cả nước, một châu lục hay toàn bộ trái đất ...Và mỗi cư dân như vậy là khách thể nghiên cứu chung của nhiề nghành khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, y học, kinh tế khía cạnh nào đó của khách thể này, tức là tìm thấy đối tượng nghiên cứu riêng của mình.
Nghiên cứu dân số tức là nghiên cứu một cư dân nào đó là quy mô của nó. ậđây mỗi con người không phân biệt gái trai già trẻ, nam nữ đều là một đơn vị đẻ nghiên cứu. Tuy nhiên tất cả dân cư đều sống trong cùng một lãnh thổ nhưng thường khác nhau về giới tính hoặc độ tuổi. Để hiểu biết được chi tiết hơn chúng ta xem xét đến các nhóm như nhóm nam, nhóm nữ hoặc là các nhóm có độ tuổi khác nhau tức là chúng ta xem xét về cơ cấu (cấu trúc ) của dân cư theo giới tính và độ tuổi. Dân cư được xem xét, nghiên cứu ở góc độ số lượng như quy mô và cơ cấu như vậy được gọi là dân số.
Trên một lãnh thổ thì dân cư luôn có sự biến đổi và di chuyển do số người được sinh ra, có số người mất đi, có số người chuyển đến và có người đi như vậy quy mô và cơ cấu sẽ không ngừng biến động.
Vậy biến động dân sốlà hiện tượng dân cư thay đổi về quy mô và cơ cấu do số người được sinh ra, có số người mất đi, có số người chuyển đến và có người đi.
Khi nghiên cứu dân số chúng ta nghiên cứu ở cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Nghiên cứu cả những thành phần gây nên sự biến động đó.
2. Quy mô và cơ cấu dân số.
2.1.Quy mô dân số .
Quy mô dân số phản ánh tổng dân số của một vùng, một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới.
ở mỗi địa phương, mỗi lãnh thổ,khu vực khác nhau thì dân số cũng khác nhau, có người được sinh ra có người chết đi, có người di cư tù vùng này sang vùng khác tuỳ vào từng khoảng thời gian tương ứng.Do vậy quy mô dân số luôn biến động cả về mặt không gian và thời gian. Vậy ta xem xét quy mô dân số trên cả hai mặt.
Quy mô dân số theo không gian: Tức là xem xét tổng số dân của một khu vực lãnh thổ, một địa phương nhất định nào đó, vào một thời gian nhất định. Quy mô dân số cả nước vào ngày 1.4.1999 là 76327919 người trong đó qui mô ở thành thị là 17918217 người chiếm 23,475% qui mô cả nước, tổng dân số ở nông thôn là 58409702 người chiếm 76,525% qui mô dân số cả nước.
Quy mô dân số ở nước ta phần lớn tập trung ở các vùng nông thôn, dân số nông thôn chiếm gần tổng dân số cả nước.
Quy mô dân số theo thời gian là tổng số dân của một khu vực lãnh thổ tính theo thời gian.
Quy mô 1.4.1989 là 64,6 triệu người sau 10 năm đến ngày 1.4.1999 dân số nước ta là 76327919 người tăng 11,9 triệu dân như vậy qui mô dân số nước ta là lớn chỉ sau 10 năm dân số nước ta tăng thêm tương đương với dân số của một nước trung bình .
2.2. Cơ cấu dân số.
Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng số dân theo một hay một số phương thức nào đó như tuổi, giới tính…
Nghiên cứu và phân chia dân số theo cơ cấu để đi sâu nghiên cứu lực lượng lao động theo giới tính và độ tuổi. Với mục đích tiếp cận dân số để đi sâu nghiên cứu về thị trường lao động ta thiết lập bảng dân số theo cơ cấu tuổi và giới tính qua kết quả điều tra của tổng cục thống kê vào 1.4.1999.
Đơn vị tính: Người
Nhóm tuổi
Tổng số
Nữ
Phần trăm
Cả nước
76327919
38809372
51%
0
1303867
627641
60,4%
1 – 4
5965505
2856639
47,9%
1
1347980
647726
48,1%
2
1391966
666933
47,9%
3
1560811
741492
47,5%
4
1664748
800488
48,1%
5 – 9
9161070
4416317
48,2%
10 – 14
9131786
4407685
48,3%
15 – 17
5278318
2582677
48,9%
18 – 19
2940222
1512092
51,4%
20 – 24
6764665
3481834
51,5%
25 – 29
6474106
3248251
50,2%
30 – 34
6001306
3016394
50,3%
35 – 39
5551660
2851185
51,4%
40 – 44
4509330
2364973
52,4%
45 – 49
3105353
1637191
52,7%
50 – 54
2136908
1171603
54,8%
55 – 59
1804244
1010524
56,0%
60 – 64
1766579
990820
56,1%
65 – 69
1681907
931102
55,4%
70 – 74
1208885
704688
58,3%
75 – 79
833725
520092
62,4%
80 – 84
418708
275210
65,7%
85
289775
202454
69,9%
Nguồn: Tạp chí con số và sự kiện tháng 3-2000, trang 25
Theo bảng trên nhìn chung dân số dựa theo giới tính nữ chiếm 51% như vậy lực lượng lao động nữ chiếm nhiều hơn nam giới, theo chiều tăng dần của tuổi thì tỉ lệ dân số nữ trong tổng số dân ngày càng tăng. ở lứa tuổi từ 1 đến 14 tuổi nam giới chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ giới nhưng khi bước vào tuổi lao động thì nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam, lúc này nữ chiếm tỷ lệ là hơn 51%.
Xét về tỷ số giới tính thì theo số liệu của các cuộc TĐTDS, tỷ số giới tính của nước ta vào năm 1979 là 94 nam trên 100 nữ và sau 20 năm tỷ lệ này đã tăng lên được 97 nam trên 100 nữ vào năm 1999, tỷ số giới tính nước ta vào loại thấp so với khu vực châu á. Mặc dù vậy ở nhóm trẻ sơ sinh tỷ số giới tính đạt 107 nam trên 100 nữ nhưng do mức tử vong của nam cao hơn nữ nên tỷ số này giảm dần đến nhóm tuổi 65 trở nên chỉ còn 68 nam trên 100 nữ.
Ngày nay do mức sinh giảm nhanh trong khi tuổi thọ ngày càng tăng nên dân số nước ta đã bắt đầu có xu hướng lão hoá với tỷ trọng người già từ 65 tuổi trở lên ngày càng tăng. Năm 1989 tỷ trọng này là 4,7% thì đến năm 1999 đã là 5,8%.Trong khi đó tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi ngày càng giảm, vào năm 1989 là 39% đến năm 1999 giảm xuống còn 33,5%. Như vậy khi tỷ lệ sống phụ thuộc chung(1) của dân số nước ta liên tục giảm với tốc độ nhanh từ 98 vào năm 1979 xuống 86 vào năm 1989 và chỉ còn 71 vào năm 1999. Điều này càng chứng tỏ là lực lượng dân số tham gia vào lực lượng lao động ngày càng tăng, sức cung về lao động trên thị trường tăng lên qua các năm.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động dân số.
3.1. Biến động tự nhiên về dân số .
3.1.1 Mức sinh và các nhân tố tác động.
Mức sinh là biểu thị sự sinh đẻ của phụ nữ và nó liên quan đến số trẻ đẻ ra sống của một phụ nữ thường có.
Mức sinh là rất quan trọng, chính mức sinh tự nhiên của con người là nguồn cung cấp làm tăng dân số và bảo vệ nòi giống, cứ lớp này thay thế lớp khác và dân số ngày một tăng lên trong khi đó thì đất đai không thay đổi, tài nguyên không tăng thêm mà cạn kiệt dần. Trước đây từ chỗ con người chỉ biết khai thác và lấy thức ăn từ thiên nhiên cho đến ngày nay con người dần phải tự tạo cho mình nguồn thức ăn đó mà thiên nhiên không còn đủ khả năng cung cấp. Có một thời gian con người không phải vất vả tìm cho mình một việc làm để sống, tất cả mọi người ai thích làm việc sẽ có việc làm nhưng rồi ngày ngày lượng người tăng lên và đến hôm nay nếu chúng ta không có những phương án kìm hãm sự sinh sản một cách tự nhiên thì trái đất sẽ không còn đủ chỗ chứa, sự bùng nổ dân số là nạn khủng khiếp nhất mà trái đất đang kêu cứu. Chính vì lẽ đó mà trong thời gian qua Đảng và nhà nước ta đã lãnh đạo và triển khai chiến lược về dân số và kế hoạch hoá gia đình để giảm tối đa tỷ lệ tăng dân số từ 3% những năm 60 xuống còn 2,5% vào những năm 70 và 2,2% vào những năm 80, đến những năm 90 tỷ lệ này chỉ còn dưới 2,0%, năm 1996 tỷ lệ này là 1,88% và hiện nay dân số Việt Nam là 76327919 người (1.4.1999). Tỷ suất tăng dân số bình quân trong thời kỳ 1989 – 1999 là 1,7% đã giảm 0,5% so với 10 năm trước đó. Với tỷ suất sinh khó là 1,99% và tỷ suất tăng tự nhiên là 1,43% tính cho 12 tháng trước thời điểm tổng điều tra (1.4.1999) thì dự báo dân số nước ta vào năm 2015 là 105,5 triệu, năm 2050 là 143,6 triệu. Như vậy xét về qui mô dân số nước ta đã đứng hàng thứ 12 trong 30 nước đông dân nhất trên thế giới.
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh:
Cho đến nay đã không ít các nhà nghiên cứu về sự biến của dân số trong đó đưa ra những lý giải và quyết định xem mỗi cặp vợ chồng sẽ có số con là bao nhiêu theo ý muốn nhưng rồi phải nói đến rằng mức sinh con của mỗi cặp vợ không chỉ là theo ý muốn mà còn là kết quả của một loạt các tác động phức tạp nhiều chiều với cơ cấu kinh tế xã hội và môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến mức sinh không chỉ có các yếu tố trực tiếp mà còn có các yếu tố gián tiếp khác. ở đây chúng ta xét đến các nhóm yếu tố sau.
Những yếu tố tự nhiên sinh vật.
Sinh đẻ là hiện tượng sinh học tự nhiên nên chịu tác động của các yếu tố này. Theo quy luật tự nhiên thì mọi sinh vật đều phải trải qua giai đoạn sinh ra và lớn lên trưởng thành và chết đi, con người cũng vậy không nằm ngoài quy luật này. Không phải ở bất cứ tuổi nào và cũng không phải ai cũng có thể được vì vậy cơ cấu tuổi và giới tính sẽ ảnh hưởng đến mức sinh, cơ cấu tuổi và giới tính thuận lợi cho sự sinh sản thì ở đó mức sinh có và ngược lại nếu như vậy thì phụ nữ ở vào giai đoạn 15-49 tuổi sẽ đảm bảo khả năng sinh sản cao nhất nhưng cao nhất có mức sinh là 18-35 tuổi. ở đây mỗi dân tộc cũng có những mức khác nhau; mỗi dân tộc được coi là giống người và có khả năng sinh sản khác nhau. ở mỗi môi trường sống khác nhau thì cũng ảnh hưởng đến mức sinh một cách khác nhau, có môi trường sẽ là thuận lợi nhưng có môi trường sẽ là khắc nghiệt.
Phong tục tập quán và tâm lý xã hội.
ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, mỗi phong tục tập quán khác nhau, ở đó đã xuất hiện những tồn tại thực tế khách quan nhất định, khi những cơ sở này thay đổi thì phong tục tập quán và tâm lý xã hội cũng thay đổi theo. Nhưng rồi sức ì của nó quá lớn khi kinh tế xã hội đã thay đổi thì phong tục tập quán lại chưa thể chuyển hướng được nó có tác động lớn đến mức sinh.
Như ở một số vùng nông thôn và miền núi, có một số tộc người vẫn có tập quán con cái kết hôn rất sớm khi mới 15 tuổi và nhất là tâm lý nối dõi tông đường còn đè nặng, cần phải có một đứa con trai nên có những gia đình dã có 3 người con gái vẫn cố gắng theo đuổi rồi thì tâm lý thích con trai hơn con
gái, rồi thì phải có nếp có tẻ …
Đó là những quan niệm lạc hậu đã đè nặng nên tâm trí người dân Việt Nam khó có thể thay đổi được. Các tầng lớp đi trước còn có khái niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” nên cứ khuyến khích đẻ nhiều, rồi thì “lắm con nhiều phúc “người già tự hào khi có nhiều con cháu. Dư luận luôn luôn lên án những người không hôn nhân và coi đó là bất hạnh họ luôn quan niệm rằng con cái không chỉ có trách nhiệm tình cảm với cha mẹ mà còn phải đảm bảo kinh tế cho cha mẹ lúc tuổi già sức yếu. Mức chết ở trẻ em cao nên còn có tâm lý là sinh bù, sinh dự phòng. Đó là nguyên nhân làm cho tăng mức sinh. Đặc biệt ngày nay khi mà khoa học công nghệ phát triển, y tế đảm bảo nhưng thay đổi quan niệm cần phải có một thời gian dài khi đó thì mức sinh giảm chậm, mức chết giảm nhanh là nguyên nhân làm cho tốc độ gia tăng dân số càng nhanh, sự bùng nổ dân số đáng lo ngại.
Những yếu tố kinh tế.
Nhóm yêu tố kinh tế là rất đa dạng nên tác động đến mức sinh theo nhiều chiều, nhất là ngày nay thời buổi kinh tế thị trường nền kinh tế đang trên đà phát triển thì nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới biến động dân số tự nhiên nói chung và mức sinh nói riêng.
Trên thực tế đã cho chúng ta thấy rằng đời sông thấp thì sinh đẻ cao và ngược lại. Trước đây ông bà chúng ta đời sống chưa phát triển vào những năm 50 mức sinh cao hơn hiện nay nhìn chung ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển thì dân số tăng nhanh hơn các nước có nền kinh tế phát triển.
ở trong cùng một nước cũng vậy chúng ta thấy rõ ở những vùng quê còn nghèo và lạc hậu mức sinh cao hơn ở thành phố, các tầng lớp trí thức và viên chức có mức sinh thấp. Theo sự nghiên cứu của các nhà khoa học và qua thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy được rằng mức sinh tỷ lệ nghịch với mức sống, mức sống càng thấp tỷ lệ sinh đẻ càng cao và ngược lại.
Chính sách dân số .
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của dân số, mối quan hệ của dân số với lao động và sự phát triển kinh tế xã hội, nhà nước với chức năng quản lý của mình đã đề ra những chủ trương chính sách và biện pháp để điều tiết quá trình vận động và phát triển của dân số cho phù hợp với điều kiện tình hình của đất nước hiện nay. Chính sách dân số đã có từ xa xưa nhưng nó chưa phát huy hết vai trò, tuỳ từng điều kiện và tình hình cụ thể để đưa ra những chính sách về dân số như khuyến khích hay hạn chế sự sinh đẻ một cách phù hợp. Hiện nay nước ta đang có chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình nhằm hạn chế bớt tỷ lệ tăng dân số, chính sách này đưa ra đã có tác dụng tương đối nhưng bên cạnh đó chúng ta vẫn khuyến khích một số dân tộc ít người sinh đẻ để nhằm bảo tồn và duy trì nòi giống nhất là những dân tộc mà hiện nay chỉ còn vài chục người.
3.1.2. Mức chết và các nhân tố ảnh hưởng.
Sống và chết là hai mặt đối lập mà mỗi sinh vật đều phải trải qua, đối với con người cũng vậy khi có sự sống mới có sự chết. Theo tổ chức y tế thế giới “chết là sự mất đi vĩnh viễn, tất cả những biểu hiện của sự sống ở một thời điểm nào đó khi có sự sống xảy ra.”
Chết là một trong những yếu tố của quá trình tái sản xuất dân số, nó là một hiện tượng tự nhiên, việc tăng hay giảm mức chết đều ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu về dân số, sinh và chết có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, mức chết thấp hay cao sẽ tác động tới mức sinh tăng hay giảm vì vậy việcgiảm mức chết xuống là nghĩa vụ và trách nhiệm thường xuyên của mọi quốc gia, không riêng của một nước nào. Nước ta cũng đã cố gắng để giảm mức chết xuống mức thấp nhất có thể, với sự cố gắng về mọi mặt thì tính cho 12 tháng trước đợt tổng điều tra dân số 1.4.1999 tỷ suất chết thô ở nước ta là 3,67% so với 10 năm trước thì đã giảm nhanh nhưng tỷ suất chết sơ sinh vẫn còn cao.
Vậy muốn giảm được mức chết thì cần tác động để giảm mức chết ở độ tuổi nào có nhiều người chết ở đây với lứa tuổi từ 0 đến 1 tuổi có tỷ lệ chết cao nhất . Như vậy chúng ta cần có những biện pháp cụ thể như tăng cường về y tế cho lứa tuổi này đảm bảo làm giảm được mức chết thì cũng chính là làm giảm được mức sinh. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao tuổi thọ cho người già bằng cách chăm sóc bảo dưỡng người cao tuổi, đầu tư y tế vào các đối tượng này nhiều hơn. Như vậy trình độ phát triển y tế có tác động mạnh làm giảm mức chết một cách rõ. Bên cạnh đó mức sống dân cư, môi trường sống và cả cơ cấu tuổi của dân cư là yếu tố tác động đến mức chết, mức sống càng cao thì mức chết càng thấp điều đó chứng tỏ nền kinh tế xã hội phát triển càng cao thì mức chết càng giảm xuống thấp. Môi trường sống tác động trực tiếp đến tuổi thọ của con người, môi trường sống càng sạch thì tuổi thọ càng cao thực tế cho thấy nhiều người dân ở vùng nông thôn cao hơn ở thành thị và các khu đô thị lớn không những thế chiến tranh xảy ra làm cho mức chết tăng lên một cách nhanh chóng, các tệ nạn xã hội và các bệnh nghề nghiệp tác động mạnh đến mức chết ….
3.2. Biến động cơ học dân số.
Di cư làm cho quy mô dân số giữa các vùng thay đổi. Sự biến động về dân số này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phân bố lao động giữa các địa phương khác nhau, có nơi dư thừa lao động, có nơi lại thiếu lao động làm thị trường lao động thay đổi mà di cư ảnh hưởng đến cơ cấu dân số về giới tính và độ tuổi, thường thì luồng di cư chủ yếu là nam giới, những người di cư là những người trong độ tuổi lao động, họ di cư đến những nơi có mức sống cao hơn, luồng di cư có trình độ cao hơn những người không di cư. Như vậy đây là sự biến động dân số có quy mô và có mục đích. Con số thực tế cho thấy vào những năm 1994 tỷ suất di cư là 7,4%, năm 1989 là 5,2% và năm 1999 là 4,95%.
Thực tế ở nước ta cho thấy vào năm 1989 thì vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là địa điểm chủ yếu thu hút các luồng di cư còn như các vùng Bắc Trung Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng Bằng Sông Cửu Long … là những vùng xuất cư ở mức cao. Khác với bức tranh di cư ở thời kỳ 1984-1989, các thành phố lớn hiện nay đã có sưc thu hút mạnh mẽ nhiều người đến làm ăn sinh sống, thực tế cho thấy tỷ suất di cư thuần tuý của Hà Nội thời kì 1994-1999 là 4,8% so với –1,2% thời kì 1984-1989 và của Thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1994-1999 là 9,3% so với thời kì 1984-1989 là 1,8%, thành phố Đà Nẵng tương ứng cũng có là 4,7% và -1,1%…
Trong vòng 5 năm 1994-1999 đã có 1,2 triệu người từ khu vực nông thôn nhập cư vào thành thị để làm ăn sinh sống ổn định, trong khi đó chỉ có 122 nghìn người di cư theo chiều từ thành thị về nông thôn, nghĩa là luồng di cư từ nông thôn sang thành thị nhiều gấp 3 lần. Dân số thành thị ở nước ta chỉ chiếm 23,5% tổng dân số. Trong vòng 10 năm qua tốc độ tăng dân số thành thị hàng năm đạt mức trung bình của các nước châu á là 3,2 %.
Nhân tố tác động đến biến động cơ học dân số:
Tác động của sự phân bố lực lượng sản xuất : Tuỳ từng vùng từng khu vực và mục đích của sản xuất mà sự phân bố lực lượng sản xuất nhiều hay ít chính điều đó đã thu hút những người di cư , vùng có mục đích sản xuất, các khu công nghiệp sẽ là nơi di cư và ở đây dân số trẻ chiếm tỷ lệ cao. Cũng như ở các thành phố lớn lực lượng sản xuất phân bố đông và tiềm lực thu hút sự di cư của đội ngũ lao động .
Kinh tế ảnh hưởng đến sự phân bố dân cư: ở đâu có nền kinh tế phát triển ở đấy có lực lượng dân cư đông đúc như ở nước ta tập chung dân cư chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, trình độ càng phát triển mức sống càng cao là điều kiện thu hút sự di cư tới nhất là các thành phố lớn thì càng có sức thu hút đối với luồng di cư dến và ở đây sự phân bố dân số sẽ tập chung đông, mật độ dân số tăng nhanh.
Tính chất sản xuất của các ngành nghề có ảnh hưởng tới phân bố dân cư : nước ta nghề chủ yếu là trồng lúa nước nên sự phân bố dân cư cũng tập chung đông ở các vùng đồng bằng và dân số nông thôn chiếm tới 70% tổng dân số của cả nước.
Như vậy di dân đó là sự phân bố lại dân cư theo vùng, lãnh thổ xuất phát từ điều chỉnh về nhu cầu của đời sống người dân. Sự cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng những nhu cầu trong đời sống của con người .
II. Thị trường lao động
Thị trường lao động là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu lao động, tại đó sẽ hình thành giá cả sức lao động .
Như vậy trước hết có thể hiểu rằng thị trường lao động là một thị trường hàng hoá mà ở đó diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự tác dộng của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật giá cả, giá trị …và chịu sự tác động chi phối quan hệ cung và cầu của thị trường lao động .
1.Cung lao động và các nhân tố lao động .
1.1.Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định .
Cung lao động được mô tả bằng toàn bộ hành vi của người làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động trên thị trường sẽ tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động tăng tức là tiền công trả cho người lao động tăng thì trên thị trường sẽ xuất hiện nhiều người muốn tham gia lao động dẫn tới mức cung về lao động trên thị trường tăng. ở nước ta hiên nay do dân số đông sự dư thừa nguồn nhân lựcnên cung lao động trên thị trường lớn, giá cả sức lao động lại rẻ nhất là tiền công mà các nhà sử dụng trả cho người lao động hiện nay là thấp nhưng do nhiều nguyên nhân mà lao động ở Việt nam vẫn phải bán sức lao động với giá rẻ .
Thực tế cho thấy hàng năm dân số bước vào tuổi lao động là 1,5 triệu người sức cung lao động ngày càng tăng trên thị trường bên cạnh đó cũng còn một lực lượng lớn những người chưa có việc làm và lượng lao động dự bị.
1.2.Các nhân tố tác động tới cung lao động .
Cung trên thị trường phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp . Tổng số lao động này phụ thuộc vào quy mô dân số và tỷ lệ dân số tham gia vào lực lượng lao động, độ dài thời gian có thể cung cấp và chất lượng của lực lượng lao động. Như vây ta xét tới một số các nhân tố sau.
Dân số tác động tới cung lao động .
Dân số là cơ sở và nguồn hình thành cung cấp lao động, quy mô lao động phụ thuộc vào quy mô dân số. Quy mô dân số lớn tốc độ dân số tăng nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh nguồn nhân lực trong tương lai. Sự ảnh hưởng của dân số đến nguồn nhân lực không phải là trong ngày một ngày hai mà nó là cả một thời kỳ, một thời gian xác định nó phụ thuộc vào việc xác định giới hạn của độ tuổi lao động như nước ta là 15 tuổi.Vậy khi dân số tăng tức là đứa trẻ sinh ra phải sau 15 năm thì nó mới tác động đến thị trường lao động . Việc cung sức lao động ra thị trường không chỉ phụ thuộc vào quy mô tốc độ tăng nguồn nhân lực mà còn phụ thuộc vào số người (tỷ lệ) tham gia của lực lượng lao động .
Đối với nước ta là một nước đông dân, đứng thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 2 trong khối ASEAN, tốc độ tăng dân số rất nhanh trong thời kỳ 1960-1970, tốc độ tăng dân số hàng năm là 3,05% với sự can thiệp của nhà nước bằng chính sách kế hoạch hoá gia đình đến giai đoạn 1995-2000 tốc độ tăng dân số đã giảm xuống còn 1,8% nhưng vẫn còn cao và tốc độ tăng nguồn lao động tương ứng của các giai đoạn trên là 3,2% và 2,66%, chỉ tiêu dự kiến đặt ra cho giai đoạn 2000-2005 là tốc độ tăng dân số 1,6 %, tốc độ tăng nguồn lao động 2,05%. Điều đó cho thấy rằng tuy nguồn lao động giảm một cách không đáng kể lực lượng bước vào tuổi lao động vẫn không ngừng tăng trong đó với số dân 76 triệu người mà đã có trên 40 triêu lao động, sức cung lao động trên thị trường là khá lớn. Một đăc trưng của dân số nước ta là loại dân số trẻ lực lượng lao động từ 15 đến 44 tuổi chiếm tới 79,38% trong đó lứa tuổi từ 25 đến 34 chiếm 29,08%. Nhìn chung lao động trên thị trường nước ta là khá lớn nhưng chất lượng lao động lại thấp chỉ có 12,7% là lao động có kỹ thuật còn 87,3% là lao động không có kỹ thuật. Trong lao động có kỹ thuật lại mất cân đối nghiêm trọng giữa đại học, cao đăng và trung học chuyên nghiệp tỷ lệ 12:1,68:2,26 trong khi tỷ lệ chuẩn là 1:4:10. Cán bộ đã tạo ra phần lớn chỉ đáp ứng được nhu cầu của thực tế đối với đất nước. Bên cạnh đó cơ cấu dân số biểu hiện về cơ cấu tuổi, giới tính, trình độ, ảnh hưởng tới việc cung lao động, chất lượng hàng hoá sức lao động đặc biệt hiện nay chúng ta đang quan tâm tới nhiều vấn đề lao động nữ đấy chính là cơ cấu dân số theo giới tính tác động đến thị trường lao động một vấn đề đang được bàn luận…
Cung về thời gian lao động : quỹ thời gian là hạn chế 24 tiếng/ngày như vậy quỹ thời gian của một con người là có hạn vì vậy mỗi người sẽ có một sự lựa chọn và quyết định một cách hợp lý nhất trong việc sử dụng qũy thời gian.Trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau mà mỗi người có một cách lựa chọn khác nhau có người sẽ tăng thời gian làm việc và giảm thời gian nghỉ ngơi ngược lại có người sẽ tăng thời gian nghỉ ngơi và giảm thời gian làm việc …Việc lựa chọn như thế nào là tuỳ thuộc vào sở thích cá nhân của mỗi người .Nhưng ý thích cá nhân của mỗi người lại bị chi phối bởi yếu tố khách quan là thu nhập.Thu nhập tỷ lệ thuận với thời giam làm việc và tỷ lệ nghịch với thời gian giải trí. Hiên nay ở nước ta số lao động có thu nhập cao là rất ít nên sức cung lao động cho thời gian làm việc cao hơn là thời gian nghỉ ngơi. Tỷ lệ lao động chấp nhận làm thêm giờ còn cao để tăng thêm thu nhập cải thiện đời sống.
Ngoài ra chính sách tiền lương của nước ta cũng là một nhân tố tác động mạnh đến sức cung lao động trên thị trường.
2 Cầu lao động và nhân tố tác động đến cầu.
2.1. Cầu lao động là lượng hàng hoá sức lao động mà người mua có thể mua được ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu lao động được coi là cầu dẫn xuất, khi có nhu cầu về hàng hoá mới nào đó thì lúc đó mới xuất hiện cầu về lao động để sản xuất hàng hoá đó.
Như vậy cầu lao động xuất phát từ nhu cầu của xã hội .
Sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi xã hội cần có nhiều mặt hàng hoá mới để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước và xuất khẩu đi các nước lúc này nhu cầu về lao động để sản xuất ra các hàng hoá đó càng cao và cầu về lao động càng tăng lên.
2.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu lao động
Nhưng xã hội phát triển đòi hỏi về tiến bộ khoa học và công nghệ cao điều đó sẽ làm giảm nhu cầu về lao động nhưng có những mặt hàng đòi hỏi phải có lao động sống, công nghệ không thể thay thế được và sự lựa chọn công nghệ như thế nào sẽ tác động đến nhu cầu về lao động nếu lựa chon công nghệ thấp 0,5:1 thì cầu về lao động tăng lên và ngược lại theo tỷ lệ 5:1 thì cầu về lao động giảm.
Chính sáh của nhà nước như nhu cầu về vốn, chính sách tiền lương và hạ thấp giờ làm việc( tuần 40 giờ làm việc sẽ có tác dụng tăng nhu cầu về lao động …)
3. Mối quan hệ giữa cung cầu lao động .
Quan hệ cung cầu là quan hệ tất yếu của nên kinh tế thị trường khi có cầu thì xuất hiện cung và ngược lại.
Cung và cầu lao độngtạo nên thị trường lao động.Đó là hai nhân tố chủ yếu để tạo nên thị trường lao động,ở bất cứ nước nào cung và cầu lao động đều có sự biến đổi có thể có cung lớn hơn cầu lúc này trên thị trường dư thừa lao độngngược lại khi cầu lớn hơn cung thì thị trường lao động thiếu hụt lao động .Đối với nước ta thị trường lao động có những nét đặc trưng cơ bản sau
áp lực lớn về việc làm:do lực lượng lao độngtrong những năm gần đây liên tục tăng với tốc độ cao tạo nguồn lực lớn chọ phát triển cuả đất nước nhưng cũng đồng thời cũng tạo ra áp lực lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm .Trong vòng 10 năm 1990- 2000 khu vực công nghiệp và dịch vụ lực lượng lao động tăng 14,2% trong khi đó lực lượng lao động nông nghiệp chỉ giảm 4%(72% năm 1990 còn 68% năm 1999) tình trạng thiếu việc làm và dư thừa lao động trở nên bức xúc .Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trongđộ tuổi ở khu vực thành thị những năm gần đây có xu hướng gia tăng cho thấy năm 1996 , 1997, năm1998, năm 1999lần lượt là 5,8% ; 6,01%; 6,85%; 7,4% trong đó nữ chiếm 8,26% và chủ yếu tập trung ở lực lượng lao động trẻ có độ tuổi từ 15-24, lực lượng ở lứa tuổi càng cao tỷ lệ thất nghiệp càng thấp. Mặt khác tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn chỉ đạt khoảng 65-75%, thiếu việc làm khoảng 30-35%, dư thừa lao động càng rõ nét, đó là thách thức đối với sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển nguồn nhân lực nói riêng ở nước ta.
Cơ cấu lao động bất hợp lý, lực lượng lao động Việt Nam tăng nhanh, mức cung, số lượng lao động lớn song trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề lại rất thấp. Hiện tại chúng ta đang vấp phải tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu đó là thừa lao động phổ thông còn thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật.
Bên cạnh đó chất lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật phát triển. Kết quả điều tra cho thấy số lượng công nhân được đào tạo nghề giảm sút nghiêm trọng, có 12% đội ngũ công nhân được qua đào tạo, công nhân không có tay nghề hoặc tay nghề thợ bậc thấp chiếm tới 56%, khoảng 20% lao động công nghiệp không có chuyên môn. Số công nhân thay đổi nghề nghiệp chiếm 22,75%, trong đó chỉ có 6,31% được đào tạo lại.
Cơ cấu phân công lao động bất hợp lý, năng suất lao động thu nhập thấp, lực lượng lao động nông nghiệp qua các năm 1991, 1995, 1999 chiếm lần lượt là 72,6%, 69,73%, 76,7% và dự báo năm 2000 chiếm 67,27% trong tổng số lực lượng lao động được thu hút vào hoạt động trong nền kinh tế .
Tỷ lệ lao động tham gia quan hệ thị trường thấp, có 21,45% lao động so với tổng lao động của khu vực nông thôn tham gia làm công ăn lương (quan hệ thuê mướn lao động), trong đó lực lượng lao động chuyên nghiệp chiếm 4,29%, trong khi ở thành thị lao động làm công ăn lương là 42,81% và lao động chuyên nghiệp chiếm 32,75%.
Qua thực tế trên cho chúng ta thấy rằng cầu trên thị trường còn yếu, sức hút của cầu còn nằm dưới cung nhiều. Xuất hiện rất rõ trạng thái mất cân bằng, trong đó cung lớn hơn cầu. Cơ cấu của cầu còn lạc hậu. Đại bộ phận cầu nằm trong nông nghiệp; nhưng nông nghiệp lại đứng trước tình trạng thiếu việc làm. Cầu yếu, gây lãng phí các nguồn lực (kể cả nguồn nhân lực có học vấn ở đô thị).
Sự mất cân bằng giữa cung và cầu đang làm nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn kinh tế, xã hội và cuộc sống của nhiều người. Để phát triển thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay phải có sự tác động mạnh mẽ cả cung và cầu. Điều đó có nghĩa là tăng cầu nhiều và nhanh hơn mức cung; giảm bớt sức ép của cung làm cho cung cầu đạt trạng thái cân bằng thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội có hiệu quả.
3.2.Giải pháp để giải quyêt cung cầu trên thị trường lao động Việt Nam
Nét đặc trưng của tình hình hiện nay ở Việt Nam trong khi nền kinh tế còn nghèo, lạc hậu thì dân số nguồn lực lại tăng nhanh tạo ra một sức ép đối với nền kinh tế. Đồng thời nền kinh tế chưa đủ điều kiện để sử dụng hết và có hiệu quả mọi nguồn nhân lực. Khi nghiên cứu lựa chọn thì các giải pháp không nhất thiết phải cố định mà có thể thay đổi cho phù hợp với tình hình của kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Một số giải pháp chủ yếu:
Tìm kiếm mô hình tăng trưởng phát triển và phát triển kinh tế có khả năng sử dụng nhiều nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Tìm kiếm các chính sách tạo việc làm có hiệu quả trong nước và ngoài nước.
Có mục tiêu trong kế hoạch hoá sự tăng trưởng của dân số theo hướng làm giảm tốc độ tăng dân số hiện đang còn cao.
III.Mối quan hệ giữa dân số và thị trường lao động .
1.Cơ sở lý luận
Dân số, lao động là yếu tố cơ bản và quyết định sự phát triển của kinh tế xã hội. Chính vì lẽ đó mà Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề dân số, lao động và bảo trợ xã hội vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế xã hội của từng thời kỳ xây dựng đất nước.
Dân số là nguồn duy nhất cung cấp nguồn nhân lực cho đất nước trong mọi thời kỳ, dân số là nguồn lực duy nhất toả nên sự tồn tại và phát triển của xã hội, không có con người thì không có lao động và không có xã hội , không có bức tranh của sự tồn tại và phát triển xã hội. Do vậy dân số càng đông thì quy mô nguồn nhân lực càng lớn, quy mô dân số quyết định đến quy mô nguồn nhân lực. Lực lượng lao động lại phụ thuộc và quy mô nguồn nhân lực, lực lượng lao động cung cấp trên thị trường nhiều hay ít lại phụ thuộc quy mô nguồn nhân lực lớn hay bé. Dân số càng phát triển với một tốc độ nhanh thì sau một khảng thời gian nhất định sức cung lao động trên thị trường cũng tăng với một tốc độ nhanh như ở nước ta khoảng thời gian nhất định được tính là 15 năm.Tuy nhiên tốc độ phát triển của dân số tác động đến thị trường lao động không cho chúng ta thấy ngay kết quả mà dân số phát triển chỉ cho thấy nguồn nhân lực tiềm năng còn lao động cung trên thị trường thì phải trải qua một thời gian nhất định. Sức cung lao động trên thị trường phụ thuộc lớn vào quy mô nguộn nhân lực tiềm năng, trong đó xét về cơ cấu dân số về tuổi và giới tính để nắm bắt được sức cung lao động cho thị trường lao động trong ngắn hạn và trong dài hạn, khi phân tích cơ cấu dân số theo các chỉ tiêu cụ thể về tuổi và giới tính ta sẽ có những kế hoạch dự báo về thị trường lao động, lựơng cung lao động tiềm năng liệu có đáp ứng đủ, phù hợp với loại lao động mà thị trường lao động đang có nhu cầu hay thị trường lao động có đáp ứng được lượng lao động hiện có hay không ,trong tương lai tới vói nguồn nhân lực tiềm năng có quy mô lớn, với nhu cầu lớn về việc làm thì thị trường lao động sẽ định hướng theo phương hướng nào để mở rộng thêm cũng như phát triển trên thị trường đáp ứng vớ nhu cầu dân số ngày càng tăng với quy mô lớn. Thực tế cho thấy việc dự báo kế hoạch cho sự phát triển thị trường lao động không phải đơn thuần chỉ trong trốc lát mà cần phải có cả một chiến lược cho sự phát triển lâu dài trong ngắn hạn đó là giải quyết lao động cho trước mắt và trong dài hạn tức là giải quyết việc làm cho lao động sau 15 năm tức là lượng dân số mới cung cấp thêm nằm trong lứa tuổi từ 0 đến 4 tuổi và cho những năm sau đó khi dân số đã phát triển ổn định và đạt đến mức sinh thay thế. Cơ cấu dân số theo giới tính hiện nay tác động đến thị trường lao động là rất lớn, cơ cấu dân số đòi hỏi thị trường lao động phải đáp ứng được nhu cầu lao động cho từng loại đối tượng lao động, dân số là nữ cung cấp lao động nữ trên thị trường và loại lao động này khác với lao động là nam. Vấn đề lao động nữ vẫn đang được bàn luận nhiều và đang được quan tâm nghiên cứu. Đối với nước ta hiện nay phụ nữ đang chiếm tới 51% và cùng với sự phát triển của đất nước hiện nay thì vai trò vị trí của người phụ nữ đang được nâng cao điều đó được thể hiện thông qua việc phụ nữ tham gia quản lý các nguồn lực, tham gia vào hoạt động kinh tế và xã hội ngoài phạm vi gia đình và điều đáng chú ý ở đây là tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động là 73% đây là một con số đáng chú ý và đáng quan tâm.
Trong ngày nay dân số tăng nhanh với qui mô lớn không chỉ làm tăng nguồn nhân lực mà nó tác động mạnh tới thị trường lao động, sức cung lao động trên thị trường lớn làm mất cân đối trên thị trường, cung tăng nhanh đồng thời cầu về lao động chậm về phát triển càng làm cho thị trường dư thừa một lực lượng lao động lớn, cung cầu lao động mất cân đối nghiêm trọng. Không chỉ có quy mô dân số tác động đến thị trường lao động mà khi chúng ta xem xét đến cơ cấu dân số, một đất nước có cơ cấu dân số trẻ thì cung lao động càng cao và ngược lại.
Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá cung cấp cho thị trường những lực lượng lao động có trình độ chuyên môn khác nhau, có khả năng, năng lực khác nhau về nhiều mặt đòi hỏi sự phân bố lực lượng lao động trên thị trường là khác nhau và phức tạp, lao động giản đơn, lao động phức tạp được phân bố như thế nào trong từng khu vực dân cư khác nhau, tuỳ từng địa bàn lãnh thổ nhất định.
2. Mối quan hệ giữa dân số và thị trường lao động VN:
Với qui mô dân số ngày nay của đất nước Việt Nam cho thấy thị trường lao động mất cân đối nghiêm trọng cung lao động lớn hơn cầu lao động nhiều và hiện tượng thất nghiệp là phổ biến. Về qui mô nguồn nhân lực chúng ta có trên 40 triệu lao động. Hàng năm bổ sung thêm 1,4 triệu thanh niên mới bước vào tuổi lao động.
Tính đến cuộc tổng điều tra gần đây nhất 1.4.1999 ta có bảng về dân số như sau:
Đơn vị tính: Người
Chung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
TĐ: Nữ
Tổng số
TĐ:Nữ
Tổng số
TĐ: Nữ
Cả nước
76327919
38809372
17918217
9136713
58409702
29672659
0 –4
7269372
3484280
1452767
692725
4866605
2791555
5 – 9
9161070
4416317
1742070
827251
7419000
3589066
10 – 14
9131786
4407685
1764998
839524
7366788
3568161
15 – 24
14983205
7576603
3621294
1846451
11361911
5730152
25 – 34
12475412
6264645
3278110
1679538
9197302
4585107
35 – 44
10060990
5216158
2793304
1435848
7267686
3780310
45 – 54
5242261
2808794
1446359
782641
3795902
2026173
55 – 59
1804244
1010524
474944
254654
1329300
755870
60
6199579
3624366
1344371
778101
4855208
2846265
Nguồn: Con số và sự kiện tháng 3-2000, trang 25
Dựa vào bảng trên ta có trong dài hạn sau 15 năm nữa thì có 7269372 người bước vào tuổi lao động mà số lao động mà số lao động ra khỏi độ tuổi lao động trong thời gian đó là 7046505 người.Vậy sau mười lăm năm sẽ tăng thêm hơn 200000 lao động trong lực lượng loa động.
Trong khi đó cơ cấu nguồn lao động nước ta không được hợp lý thông qua tháp lao động sau so với các nước công nghiệp.
Tháp lao động Việt nam Tháp lao động của nước công nghiệp
0,5%
3,5%
2,8%
0,3
Các nhà khoa học
88%
35%
5,5%
35%
24,5%
5%
Kỹ sư
Chuyên viên kỹ thuật
Lao động lành nghề
Lao động không lành nghề
Nguồn: Tạp chí lao động và xã hội tháng 9-2000, trang 35
Như vậy qua tháp lao động chúng ta thấy được cơ cấu lao động của nước ta chủ yếu là lao động không lành nghề, tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao chiếm 88%, cơ cấu lao động còn quá lạc hậu, lao động lành nghề của nước ta chỉ có 5,5% trong khi đó các nước công nghiệp họ chiếm tới 35%. Đội ngũ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, các nhà khoa học của nước ta chỉ vẻn vẹn 6,5% còn các nước công nghiệp lên tới 30%. Trong năm 1999 thì lực lượng lao động kỹ thuật nước ta mới có 1590 công nhân kỹ thuật chiếm 40,8%, 1380 người kỹ thuật viên chiếm 35,4% và 928 lao động trình độ cao đẳng và đại học chuyên nghiệp chiếm 23,8%. Như vậy ở nước ta thiếu lao động thừa lao động phổ thông, cơ cấu lao động đã không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động trong nước.
3. Tồn tại và giải pháp.
Mặc dù dân số nước ta hiện nay có tốc độ tăng đã giảm nhưng số lượng lao động tăng thêm hàng năm vẫn không ngừng tăng cho tới năm 2010. Nên nước ta đang đứng trước một tình trạng trong thị trường lao động hiện nay cung lớn hơn cầu rất nhiều.
Cơ cấu nguồn lao động nước ta còn lạc hậu và bất hợp lý, không đồng bộ đó là lao động giản đơn còn chiếm tỷ lệ cao (88%) trong khi đó tỷ lệ lao động kỹ thuật cao còn quá thấp (5,5%) chỉ bằng 1/6 lần số lao động giản đơn. Chúng ta còn thiếu rất nhiều đội ngũ lao động kỹ thuật, cho đến giữa năm 1999 đội ngũ lao động kỹ thuật mới đạt tới 14% và lực lượng lao động nước ta tập trung tới tổng lao động xã hội vào ngành nông – ngư - nghiệp. Thực tế ở thị trường lao động Việt Nam cái thiếu là lao động kỹ thuật trong khi lại dư thừa cung về lao động giản đơn.
Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng “ thừa thầy thiếu thợ”. Ngay trong lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cơ cấu còn rất bất hợp lý, có thể thấy rằng cơ cấu hợp lý mà thế giới đưa ra trong cơ cấu lao động theo tỷ lệ 1:4:10 tức là cứ 1 lao động kỹ thuật ở bậc đại học cao đẳng thì có 4 trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật. Nhưng ở nước ta tình trạng bất hợp lỷ trong cơ cấu ngày càng tăng cho thấy năm 1979 tỷ lệ này là 1:2,2:7,1 nhưng ngày nay tỷ lệ này là 1:1,68:2,26. Theo báo cáo của Bộ giáo dục và đào tạo trong 10 năm 1986 – 1996, số học sinh học nghề giảm 35%, số giáo viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm trên 40% trong khi đó có tới 70 – 80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện có trên 3000 bác sĩ không có việc làm. Nhưng thực tế hiện nay với tâm lý chung của học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông vẫn là mong muốn vào các trường đại học, đó cũng là mong muốn của các bậc cha mẹ học sinh. Hàng năm số lượng thí sinh vào các trường đại học ngày một đông, có nhiều thí sinh tham gia nhiều kì thi tuyển để mong được vào đại học xu thế thanh niên vào các trường đại học đều có phần lớn là những em có hoàn cảnh khó khăn, học lực thấp nhưng khi thi vào trường thì tâm lý vẫn không hứng khởi, sự tham gia học với tinh thần “ bất đắc dĩ”. Một thực tế cho thấy hầu hết các thiết bị dạy học ở các trường dạy nghề là cũ kỹ và lạc hậu trong khi đó các doanh nghiệp lại nhập các thiết bị công nghệ mới vì vậy mà sản phẩm của các trường dạy nghề không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Bất cập lớn nhất đang diễn ra hiện nay ở nước ta là đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng vùng kinh tế chưa gắn với sản xuất và thị trường lao động. Nhiều tỉnh thành phố chỉ tính đến nguồn nhân lực là đại học và cao đẳng trung học, các cơ sở dạy nghề thì đào tạo cho người học “ cái mà mình có” chứ không đào tạo “ cái mà thị trường cần”. Đào tạo công nhân kỹ thuật chưa có chính sách phù hợp. Nhà nước thì lai lưng ra đào tạo nhưng lại không xác định sau khi tốt nghiệp họ sẽ làm việc ở đâu. Những chính sách gắn đào tạo với việc làm ở nước ta là vô cùng lỏng lẻo có thể nói là chưa được chú ý tới, những công cụ để quản lý dạy nghề như nghị định của chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn luật Giáo dục và Bộ luật lao động về dạy nghề là chưa có. Danh mục nghề đào tạo, danh mục nghề xã hội tiêu chuẩn cấp bậc nghề… còn đang để trống. Những năm gần đây kế hoạch đào tạo đại học đã vượt 50%, còn đào tạo công nhân lại đạt tỷ lệ quá thấp. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng dần nhưng cho dạy nghề lại bị giảm dần ( năm 1991 là 8,7%, năm 1998 chỉ chiếm 4% ) trong khi dạy nghề tốn kém gấp 10 lần giáo dục phổ thông. Nhiều trường đào tạo cùng một nghề trên cùng một địa bàn nhưng có nghề lại không có trường đào tạo.
Lực lượng lao động nông nghiệp là chủ yếu trong cơ cấu lao động theo nghành. Mặc dù nước ta tiến hành CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang đậm dấu ấn một nền kinh tế thuần nông thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo nghành. Năm1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong khi lao động công nghiệp chỉ chiếm có 12% và dịch vụ 17% trong tổng lao động xã hội. Năm 1998, cơ cấu lao động theo nghành đã có chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên 13% và 21%, lao động nông nghiệp giảm xuống còn 66% như vậy tỉ trọng lao động nước ta còn quá lạc hậu.
Thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long cao nhất nước chiếm 20,5% và 21,7% tổng lực lượng lao động xã hội. Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, lực lượng lao động chỉ có 4%, vùng duyên hải miền trung 10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Để tháo gỡ những bất cập trên cần tập trung vào một số giải pháp:
Khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Thực tế liên tục trong nhiều năm quy mô đào tạo đại học, cao đẳng của nước ta mở rộng quá mức tăng gấp 2 đến 3 lần so với đào tạo trung học chuyên nghiệp và tăng 6 đến 7 lần so với đào tạo công nhân kỹ thuật, quy mô đào tạo nghề giảm mạnh, mặc dù 3 năm gần đây đã có sự mở rộng quy mô đào tạo nghề nhưng cùng với sự tăng của đào tạo đại học cao đẳng còn tăng nhanh hơn. Vì vậy vẫn không tránh khỏi tình trạng thừa thầy thiếu thợ, để đáp ứng được nhu cầu hiện nay của đất nước cần phải có quy mô đào tạo hợp lý hơn cần phải nâng cao mở rộng quy mô đào tạo nghề và thu hẹp tốc độ tăng quy mô về đào tạo đaị học cao đẳng một cách hợp lý.
Việc giảm quy mô đào tạo đại học cao đẳng một cách linh hoạt tức là ở một số trường hiện quy mô đang quá tải so với điều kiện cho phép hoặc với những nghành quy mô đang vượt quá nhu cầu như báo chí, luật, kinh tế thì cần giảm ngay chỉ tiêu tuyển sinh, còn so với các trường ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trung du miền núi phía Bắc, các trường sư phạm, nông nghiệp thì lại cần tăng chỉ tiêu. Để làm tốt điều này cần phải kiểm tra lại nguồn nhân lực và có chiến lược đào tạo để kịp thời điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường đại học, các nghành. Các cơ sở đào tạo một mặt thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh một mặt tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc đảm bảo chất lượng, ngoài phần kiến thức cần có phần nâng cao đòi hỏi sự sáng tạo chính là mấu chốt để nâng cao chất lượng đầu vào.
Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong vài năm qua, tuy đã tăng về quy mô đào tạo nghề nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, phải quy hoạch lại công tác dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu trường, ngành và địa phương, vùng kinh tế. Đội ngũ giáo viên cần được tăng cường về số lượng và chất lượng. Đổi mới nội dung, chương trình và hiện đại hoá trang thiết bị cho dạy nghề. Xã hội hoá công tác đào tạo nghề, tăng nguồn tài chính cho đào tạo, mở rộng hình thức phương thức đào tạo, xây dựng một số trường dạy nghề đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới.
Thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông để sau khi tốt nghiệp có nguồn vào các trường đại học cao đẳng và có nguồn vào các trường dạy nghề.
Chúng ta cần phải giảm bớt lao động nông thôn chuyển lao động nông nghiệp sang một số nghành kinh tế khác như phát triển mạnh các nghề chế biến nông sản, lâm sản và thuỷ sản. Đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược không chỉ thực hiện mục tiêugiải quyết việc làm mà còn nâng cao nông lâm thuỷ sản giải quyết đầu ra cho sản xuất. Phải coi đây là hướng đi cơ bản trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 có khoảng 90% cơ sở sản xuất chế biến nông lâm thuỷ sản được đặt ở khu vực nông thôn, khơi dậy phát triển các làng nghề truyền thống, coi đó là những “bàn đạp” để phát triển tiểu thủ công mỹ nghệ cũng như tiến hành cơ cấu lại lực lượng lao động.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn sẽ đưa đến tác dụng nhiều mặt là một giải pháp để ngăn chặn dòng di dân đang có xu hướng tăng lên về các thành phố lớn.
Tiếp tục làm tốt công tác phân bố lại lực lượng lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng khu vực. Mặc dù trong những năm qua chúng ta đã có chính sách di dân đi xây dựng những vùng kinh tế mới, song vấn đề thực hiện vẫn chưa được như mong muốn, hiệu quả thực hiện công tác này chưa cao. Những thành phố lớn vẫn là nơi để phân bố lao động và dân cư hiện nay. Nhà nước phải có những chính sách thoả đáng để những người dân di cư đi xây dựng vùng kinh tế mới vững lòng ở lại và phát triển trên vùng đất mới.
Tăng cường sự chỉ đạo, quản lý của nhà nước trong toàn bộ quá trình chuyển dịch và nâng cao chất lượng cơ cấu lao động xã hội. Nhà nước cần kiên quyết hơn trong điều tiết quản lý và giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu tuyển sinh ở các nghành học, khối học, bậc học, có cơ chế khuyến khích học sinh theo học các nghành mà xã hội đang có nhu cầu và sẽ cần tới trong phát triển ở tương lai. Phải có chính sách tăng kinh phí cho giáo dục và đào tạo nhất là cho đào tạo nghề, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng ưu tiên phát triển CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tạo lập và quản lý tốt thị trường lao động.
Để giải quyết vấn đề dư thừa lao động trên thị trường lao động hiện nay vẫn cần có những chính sách về dân số nhằm giảm tỷ lệ sinh xuống bằng chính sách vận động tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình đến từng người dân tác động mạnh tới lứa tuổi trong độ tuổi sinh đẻ để giảm mức sinh xuống còn mức sinh thay thế. Nâng cao điều kiện sống cho người dân và nâng cao trình độ nhận thức xoá bỏ những thành kiến phong tục tập quán lạc hậu.
Chú trọng phát triển nghành nghề ở nông thôn để hạn chế luồng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị vừa giải quyết được việc làm, vừa giảm bớt được sức ép về lao động trong các thành phố.
Điều chỉnh mật độ dân cư ở các thành phố lớn sang các vùng còn ít người, thực hiện quá trình đô thị hoá với các vùng lân cận ngoại thành để thúc đẩy quá trình di dân từ nội thành sang ngoại thành.
Nghiên cứu triển khai thực hiện chương trình việc làm cho lao động thanh niên, lao động nữ, lao động là người tàn tật, lao động vị thành niên, lao động trí thức…
Thực hiện làm việc 40 giờ một tuần, giảm thời gian lao động cần tăng số lượng lao động cho phù hợp giải quyết dư thừa lao động trước mắt trong dài hạn phải cần có những chiến lược về tạo thêm việc làm.
Kết luận.
Bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của khoa học và công nghệ nhưng vẫn cần có nguồn lực con người để thực hiện những thành tựu của khoa học. Vấn đề dân số và thị trường lao động vẫn là điểm nóng cần quan tâm giải quyết. Chúng ta có giải quyết tốt vấn đề về dân số thì mới phát triển nâng cao được chất lượng về con người. Quá trình phát triển của đất nước tồn tại song song với sự phát triển của con người, và một đất nước phát triển toàn diện thì ở đó thị trường lao động không phải chịu sức ép của dư cung hay thiếu cầu lao động. Dân số phát triển ổn định và bền vững làm cho biến động trên thị trường lao động dần trở lại trạng thái cân bằng, ở đó sẽ không có sức ép của thất nghiệp. Giải quyết tốt những mâu thuẫn của thị trường lao động làm cho đất nước phát triển và đi lên.
Tóm lại dân số là nguồn lực chính để tạo nên cung lao động khi dân số đạt được ở mức độ phát triển ở tỷ lệ thay thế thì sẽ giải quyết được mọi tồn đọng và bất cập của xã hội chứ không riêng gì giải quyết sự mất cân bằng trên thị trường lao động, nhân tố tác động trực tiếp đến thị trường lao động là dân số và qua bài viết này phần nào đã làm rõ được ảnh hưởng lớn lao của dân số nên thị trường lao động. Tuy nhiên còn có nhiều nhân tố khác và những mâu thuẫn mà chưa được đề cập tới trong bài viết em mong nhận được sự góp ý của cô giáo.
Danh mục tài liệu tham khảo
Dân số và phát triển- NXB Nông nghiệp Hà nội 1997 (187 trang)
PGS.PTS. Nguyễn Đình Cử.
Dân số học - NXB Giáo dục 1997 (123 trang)
GS.PTS. Tống Văn Đường
Kinh tế lao động- NXB Giáo dục 1998 (295 trang)
PGS.PTS nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành
PTS. Mai Quốc Chánh
Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở VN - NXB UBKH Nhà nước 1991 (127 trang ). Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Kha
Bàn về phân công lại lao động ở Việt Nam - Hà nội sự thật 1991
(150 trang) - Chế Viết Tấn
6. Dân số – Lao động – Việc làm vấn đề và giải pháp - NXB Thông tin lí luận 1993 (112trang)
Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1998 - NXB Thống kê 1999 (657 trang)
Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1999 - NXB Thống kê 2000 (607 trang)
Thị trường lao động và việc làm tập I - Hà nội UBKH Nhà nước 1990 (102 trang)
Tạp chí:
Con số và sự kiện.
Nghiên cứu kinh tế.
Lao động xã hội.
Thị trường lao động.
Mục lục
Số trang
Lời mở đầu
1
I Biến động dân số và các nhân tố nh hưởng
2
1.Các khái niệm.
2
2. Quy mô dân số và cơ cấu dân số.
2
2.1 Quy mô dân số
2
2.2 Cơ cấu dân số
3
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động dân số
5
3.1Biến động tự nhiên dân số
5
3.1.1Mức sinh và các nhân tố tác động
5
1.1.2 Mức chết và các nhân tố tác động
8
1.2 Biến động cơ học dân số
9
II.Thị trường lao động
11
1.Cung lao động và các nhân tố tác động
11
1.1 Cung lao động
11
1.2 Các nhân tố tác động tới cung lao động
12
2.Cầu lao động và các nhân tố tác động
13
2.1 Cầu lao động
13
2.3 Các nhân tố tác động tới cầu lao động
14
3. Mối quan hệ cung cầu lao động
14
III Mối quan hệ giữu dân số và thị trường lao động
18
1.Lý luận chung
18
2 Mối quan hệ giữu dân số và thị trường lao động Việt nam
19
3 Tồn tại và giải pháp
23
Kết luận
28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29576.doc