Ngoài các giải pháp trên chúng ta có thể bổ xung thêm một số giải pháp sau:
Một là, nghiên cứu viết giáo trình (xuất bản sách), hướng dẫn kế hoạch làm ăn cho hộ nông dân đói nghèo (gồm lập và thực hiên) nhằm mục đích:
+Để dạy cho hộ nông dân đoi nghèo hiểu và biết cách lập kế hoạch làm ăn để tự xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
+Để các tổ chức Đảng, nhà nước và các tổ chức kinh tế-xã hội các cấp có cơ sở giúp đỡ, kiểm tra theo kế hoạch làm ăn xoá đói giảm nghèo của hộ.
+Để có cơ sở kiến nghị hoàn thiện chính sáchvĩ mô và vi mô nhằm thực hiện có kết quả chương trìnhquốc gia xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đây là phương pháp tốt để từng nông hộ đói nghèo kết hợp việc cứu mình vầ sự giúp đỡ của chính quyền đoàn thẻ (vì thông qua kế hoạch làm ăn từng vụ, từng năm mà tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra uốn nắn giúp các hộ đói nghèo làm ăn có hiệu quả và bảo đảm hoàn trả vốn, lãi vay cho Nhà nước), bảo đảm xoá đói giảm nghèo bền vững. Thực chất nó là một dự án thực hiện chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan trọng nhất, có hiệu quả trực tiếp nhất. Nừu được Đảng và ban chủ nhiệm chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan tâm tạo điều kiên đúng mức. Hướng tới chúng ta có thể dưa những vấn đề nêu trên vào giảng dạy ở một số trường thích hợp như là một mmôn học hướng nghiệp để từ đó đồng thời giúp học sinh có theer giúp đỡ gia đình lập kế hoachj làm ăn nhày một tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Hai là, với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trình độ dân trí còn thấp, chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự nhiên, thường có diện đói nghèo lớn, và là những địa bàn xung yếu về quốc phòng do đó cần lập dự án: xây dựng khu dân cư kết hợp kinh tế xoá đói giảm nghèo bền vững với giữ vững an ninh quốc phòng.
Ba là, ở rộng hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo, nhất là phương pháp tiếp cận, chọn tìm những yếu tố, cách làm hiệu quả của từng dự án, từng chính sách, cơ chế và nguồn lực, kỹ thuật, thông tin. Thành tựu về xoá đói giảm nghèo góp phần thuyết phục và mở rộng hợp tác quốc tế theo chính sách đối ngoại của Đangr và Nhà nước ta
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện xoá đói giảm nghèo ở nước ta trong thời kỳ 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một lao động còn lớn, nên mặc dù sản lượng lương thực tăng (sau 10 năm tăng gấp 2 lần), song bình quân lương thực đầu người vẫn ở mức trên 300Kg là mức rất thấp (chưa vượt được ngưỡng nghèo khổ theo tiêu chuẩn của thế giới).
Đồng bào các dân tộc ít người, các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa còn quá nghèo, chưa biết tổ chức sắp xếp sản xuất, phương thức sản xuất lạc hậu, thô sơ, chưa có điều kiện tiếp cận với các phương thức sản xuất mới, đặc biệt là các dân tộc ít người thuộc các tỉnh miền núi cao phía Bắc và Tây nguyên.Tình trạng di dân tự do, sống du canh du cư còn nhiều, diện vận động định canh, định cư trong cả nước khoảng 3,1 triệu người ở rải rác 1913 xã, 206 huyện ,36 tỉnh trung du miền núi . Từ năm 1968 đến nay đã tuyên truyền vận động được 2 triệu người định canh định cư vững chắc (0,6 triệu người ở 3378 thôn, Bản; 1,4 triệu người đang được đầu tư theo dự án). Như vậy, còn trên một triệu người chưa được đầu tư theo dự án định canh định cư và đang gặp không ít khó khăn.
Cả nước hiện nay có khoảng 1300 xã (chiếm 15% trong tổng số 8730 xã của khu vực nông thôn), rất yếu kém về các công trình kết cấu hạ tầng, không có hoặc có nhưng đã xuống cấp nghiêm trọng về đường ô tô tới trung tâm xã, nước sạch, điện, trường học, trạm xá, chợ và các công trình văn hoá khác.
các yếu tố này chính là những nguyên nhân làm cho sự nghèo đói vẫn đang tồn tại ở cộng đồng dân cư miền núi phía bắc, Tây nguyên và các vùng nông thôn khác.
1.1.2. Chính sách của nhà nước còn những điểm chưa phù hợp.
Thể chế chính sách còn những mặt bất cập như: chinh sách đầu tư cơ sở hạ tầng (đường sá, điện, nước), chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo (chính sách thuế, tín dụng ưu đãi), chính sách trợ giúp đối với gia đình thuộc diện chính sách xã hội còn thiếu, chưa hoàn thiện chính sách hạn chế tệ nạn xã hội. Một số chính sách lại bị áp dụng cứng nhắc, không phù hợp.
Nhiều vùng ở nước ta hiện nay còn quá khó khăn nhưng trên thực tế chưa có nhiều chính sách hỗ trợ ngân sách kịp thời cho các vùng này. Mặt khác, việc hướng dẫn cách làm ăn cho thích ứng với cơ chế mới chưa được triển khai rộng khắp, việc chuyển giao công nghệ cho người nghèo còn gặp nhiều trở ngại lớn. cả nước có 1445 xã có tỷ lệ nghèo đói > 40%, trên 2,6 triệu nghèo trong đó 90% số hộ thiếu kiến thức làm ăn, thiếu kỹ thuật cơ bản, chưa biết cách tổ chức buôn bán, hoạt động dịch vụ. Đặc biệt nhiều hộ còn không biết chi tiêu, tổ chức lao động trong gia đìng mình. Do vậy, nhiều hộ dược vay tín dụng song cũng không biết sử dụng số vốn vay đó như thế nào. Điều quan trọng ở đây là người nghèo chưa được thường xuyên hỗ trợ trong suốt quá trình sản xuất. Chưa biết gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm, không có điều kiện học hỏi king nghiệm phát triển vốn, chính sách giải quyết ruộng đất và hỗ trợ công cụ sản xuất cho người nghèo còn chưa được trú trọng đúng mức. Hiện nay nước ta có khoảng 370.000 hộ nghèo đói không có hoặc thiếu ruộng đất và công cụ sản xuất chiếm 2% tổng số hộ trong cả nước và chiếm 10% số hộ nghèo đói tập trung nhiều ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống tín dụng cho người nghèo chưa phát triẻn và hoàn thiện. Hiện nay có khoảng 2,6 triệu hộ nghèo muốn vay vốn để sản xuất king doanh. Tỷ lệ số hộ nghèo được vay vốn rất thấp, mức vay cũng ít, cơ chế thế chấp và lãi suất còn lớn, nên vẫn gây khó khăn đối với người nghèo.
Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo cũng còn những mặt hạn chế, nhiều xã nghèo tuy được miến giảm học phí nhưng học sinh vẫn không có tiền mua vở, sách giáo khoa. Như vậy, chính sách đầu tư trong thời gian qua chưa đủ mạnh để làm bật lên một vùng tiềm năng. Đồng thời các chính sách khác như: dân số việc làm, giáo dục, y tế cũng chưa đồng bộ, chưa tác động cùng chiều hoặc còn chồng chất với chính sách xoá đói giảm nghèo.
1.1.3.Trình độ dân trí nhìn chung thấp
Trình độ dân trí còn hạn chế: phong tục tập quán nhiều nơi khá lạc hậu, tình trạng dân cư mù chữ khá nhiều (nhất là vùng dân tộc và mù cả chữ dân tộc chứ không riêng gì chữ phổ thông…)
Trình độ hoc vấn không những là chỉ số quan trọng về chất lượng cuộc sống mà còn là nhân tố quyết định đối với khả năng đạt tới cơ hội có thể tạo nên thu nhập khá lớn của những người nghèo. Thực tế cho thấy những hộ gia đình mà chủ hộ thất học có tỷ lệ nghèo đói cao hơn so với các hộ khác. Nếu tính theo tiêu chuẩn của ngân hành thế giới đối với Việt Nam nghĩa là chấp nhận tỷ lệ nghèo đói là 50% thì (WB) cũng đưa ra tỷ lệ nghèo khổ của hộ gia đình phân theo trình độ học vấn chủ hộ như sau:
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ tiểu học (cấp I) thì tỷ lệ nghèo khổ là 54%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ phổ thông cơ sở (cấp II) thì tỷ lệ nghèo khổ là 52%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ phổ thông trung học thì tỷ lệ nghèo khổ là 41%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ qua đào tạo dạy nghề thì tỷ lệ nghèo khổ là 33%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ đại hoc thì tỷ lệ nghèo khổ là 11%
1.2. Điều kiện tự nhiên
Nước ta có địa hình phức tạp, diện tích đất tự nhiên đã ít lại không màu mỡ, khô cằn, núi đá nhiều, dẫn đến diện tích canh tác nhỏ hẹp, năng suất cây trồng thấp. Các vùng hẻo lánh, chưa được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trường học, trạm y tế… Do đó, những vùng này thường có tỷ lệ đói nghèo cao hơn nhiều nơi khác. Bên cạnh đó, điều kiện thời tiết, khí hậu lại thường xuyên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: năng, mưa, nóng, lạnh thất thường; hạn hán, bão, lụt và đó là nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Có thể kết luận rằng nguyên nhân chính gây nên đói nghèo cấp tính là do hậu quả thiên tai.
1.3.Điều kiện lịch sử
Đói nghèo nước ta đã có trong xã hội phong kiến, xã hội thực dân phong kiến. Tình trạng đói nghèo ở nông thôn là một đặc trưng của đói nghèo ở Việt Nam trước đây. Hiện nay nét đặc trưng này vẫn còn tiếp tục hiện hữu, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế thực tế ở nước ta – một nước vẫn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp và nông dân là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu dân cư
2. Nghèo đói có xu hướng tăng do sự chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Việc xoá bỏ cơ chế kế hạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường ở nươc ta là đúng đắn và cần thiết, nhưng cơ chế, chính sách mới chưa được ban hành đầy đủ và kịp thời trong hoàn cảnh mới nên nhiều nơi đầu tư phúc lợi xã hội bị giảm, các vướng mắc về y tế, giáo dục… Đến nay tuy đã giải quyết nhưng chưa cơ bản. Đặc biệt đốivới người nghèo, mọi biện pháp cứu trợ đều chỉ có giá trị nhất thời không thể làm thay đổi hoàn cảnh nghèo đói kinh niên của họ. Điều quan trọng là phải tạo điều kiện cho họ để họ tự giải quyết đói nghèo thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra và tăng thêm thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, điều này nhiều khi không thực hiện được vì:
Một là, thiếu thị trường cung cấp vật tư nông nghiêp, nguyên liệu, vật liệu cho các hoạt động ngành nghề và đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm của người nông dân theo giá thoả thuận.
Hai là, thị trường có mức ổn định thấp, hiện nay nó được coi là nguyên nhân quan trọng làm cho người nghèo đói khó có thể tự xoá đói giảm nghèo.
Việc đầu tư dàn trải, chưa chú ý đến các vùng chưa phát triển hoặc chậm phát triển. Cơ cấu kinh tế cũng chậm được chuyển đổi, nhất là trong nông thôn, nên các ngành nghề mới trong nông nghiệp và nông thôn chưa phát triển; ruộng đất bình quân đầu người thấp, do đó quỹ thời gian lao động dôI ra rất lớn (khoảng 35%). Người nghèo đã ít ruộng đất lại không có nghề phụ nên không có cơ hội để thoát khỏi đói nghèo.
Giá cánh kéo giữa hàng nông sản và các mặt hàng công nghiệp thiết yếu, dịch vụ những năm gần đây chênh lệch khá xa. Mặt khác nông dân tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp qua các trung gian nên thường bị ép giá dẫn dến thiệt thòi khá lớn về vật chất, có khi sản phẩm làm ra không tiêu thụ được
3. Đói nghèo sinh ra do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ
3.1. gia đình đông con ít lao động
Dân số và nghèo đói có mối quan hệ hai chiều với nhau. Dân số đông sẽ dẫn đến nghèo đói và trong phạm vi gia đình thì đông con sẽ dẫn đến nghèo đói. số liệu điêu tra về giàu nghèo trong nông nghiệp cho thấy: trên 40%số hộ nghèo vì có nhiều con, nhiều lao động dư thừa không làm việc mà hàng ngày vẫn phải ăn tiêu. Kết quả điêu tra của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo cho thấy trong các hộ giàu, mỗi lao động một năm làm việc tới
270-300 ngày, ngoài ra còn phải thuê thêm lao động bên ngoài, trong khi đó, các hộ đói, nghèo chỉ làm việc chưa đến 90 ngày trong năm, trong đó gần 60 ngày làm cho gia đình mình và 30 ngày đi làm thuê. Điều này cho thấy không có việc làm là nguyên nhân trực tiếp của đói nghèo.
Nhiều hộ không thiếu lao động nhưng thực tế họ mới sử dụng được khoảng 1/3 số thời gian có khả năng lao động trong năm vì một phần do trình độ của chủ hộ và các thành viên trong hộ rất hạn chế bình quân 24,3%còn mù chữ, 53,6%có trình độ văn hoá cấp I, 20,3%có trình độ cấp II và chỉ có 1,7% có trình độ văn hoá cấp III. Nhiều hộ nghèo là do đông nhân khẩu,ít người làm. Hiện tại, một lao động trong độ tuổi lao động của hộ nông dân nghèo phảI nuôI khoảng 2 người. Trong số hộ nghèo có 11% số hộ thuộc diện chính sách, phần lớn là người già sức yếu, hộ mà người làm thì ít người ăn thì nhiều.
3.2. Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh
+ Về năng lực cạnh tranh: Qua điêu tra của Bộ lao động thương binh và xã hội. Nguyên nhân đói nghèo vì thiếu vốn chiếm 70 -90% tổng số hộ được điều tra. Nhiều hộ nghèo thiếu vốn muốn vay ngân hàng để sản xuất kinh doanh nhưng lạI không có tài sản thée chấp, nên lại phải vay tư nhân với lãi suất cao. Qua nghiên cứu có thể thấy rằng, thiếu vốn cũng như không có kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân ổn định, có trọng số cao dẫn đến đói nghèo.
+ về năng lực trí tuệ: Kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất kinh doanh của các hộ nghèo rất hạn chế có tới 45,7% số hộ nghèo không biết cách làm ăn. Tỷ lệ này ở Hà Nam và Bình Định chiếm 52-58%; ỏ Hoà Bình, Đắc Lắc lên tới 80%(theo kết quả điều tra của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo).
Trên 90%hộ nghèo chưa được tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới về chăn nuôi và trồng trọt và hoạt động tiểu thủ công nghiệp, vì vậy hộ nghèo không tự nghĩ ra được cách làm ăn hiệu quả, chưa biết cách bắt chước hộ giàu làm ăn. Mặt khác, họ thiếu cả kiến thức sơ đẳng về phòng chống thiên tai, phòng trừ sâu bệnh, quản lý và sử dụngnguồn vốn, quản lý và sử dụng trong gia đình.
Bên cạnh số hộ nghèo không biết cách làm ăn, thì số người lao động, hay rượu chè, ăn tiêu lãng phí cũng không ít, chiếm tới 5-6%(theo điều của Bộ lao động thương binh và xã hội). Ngay cả khoản vốn được vay để xoá đói giảm nghèo cũng không dùng để sản xuất mà lại trông chờ vào sự may rủi cờ bạc, nên không những không xoá được đói giảm nghèo mà còn không thanh toán được khoản vốn vay.
3.3. Thiếu tư liệu sản xuất (ruộng đất, công cụ lao động) thiếu việc làm không có nghề phụ kèm theo.
ở nước ta, đất nông nghiệp bìng quân đầu người thấp, chỉ đạt 477 m2, chủ yếu độc canh cây lúa (chiếm 88,5% diện tích), hệ số sử dụng đất thấp ruộng đất thấp chỉ đạt 1,2 lần/năm. Bình quân ruộng đất đối với các hộ nghèỏ nhiều nơi còn thấp hơn mức bình quân của cả nước rất nhiều do các hộ nghèo vừa không có khả năng sản xuất hết ruộng, vừa nợ sản phẩm, nên nhiều hộ nghèo bị hợp tác xã thu lại đất để giao cho hộ khác. số liệu điều tra cho thấy 60% số hộ nghèo là do thiếu đất. các tư liệu sản xuất khác cũng vậy, bình quân 10 hộ nghèo có một con trâu, bò cày kéo, 3 chiếc cày bừa, và mỗi hộ có 4 công cụ cầm tay các loại, không có các loại máy móc, công trình hay tài sản khác phục vụ sản xuất, ít gia đình chăn nuôi gia súc sinh sản. Nói chung, hộ nghèo đều thiếu công cụ lao động.Hơn thế nữa, những người nghèo hầu hết là không có nghề phụ. Đây là tình trạng phổ biến ở tất cả các tỉnh, ngoài sản xuất trồng trọt nông dân nghèo không có vốn để phát triển chăn nuôi, làm ngành nghề. Trong cơ cấu thu nhập của hộ nghèo chỉ có 62% thu từ chăn nuôi; 5,4% thu từ ngành nghề (có nơi chỉ đạt 1-2%) Lao động dư thừa nghiêm trọng mặc dù có 43% số hộ chấp nhận đi làm thuê nhưng cũng không được nhiều.
Những nguyên nhân trực tiếp trên đây đã dẫn tới kết quả sản xuất và đời sống của các hộ nghèo rất thấp, và từ kết quả sản xuất và đời sống thấp kém lại dẫn đến tình trạng đẻ nhiều con, thiếu vốn, không có vốn để kinh doanh... Đó thực sự là cái vòng luẩn quẩn mà hiện nay chưa tìm được lối thoát hữu hiệu.
III. kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề xoá đói giảm nghèo
Mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước đông á được mô tả lúc đầu dựa vào phát triển nông nghiệp, sau đó là dựa vào xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, và đến nay tăng trưởng nhanh chủ yếu dựa vào các sản phẩm xuất khẩu, dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng nhiều lao động lành nghề. Như vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế, các nước này giảm dần tỷ lệ đói nghèo.
Ví dụ Inđônêxia đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 60% năm 1970 xuống còn 11% năm 1996, và cùng với giảm nghèo đói, chất lượng cuộc sốngcủa người dân Inđônêxia được cải thiện đáng kể: tuổi thọ trung bình tăng lên, giáo dục được phổ thông hoá ngày càng được nâng cao.
ở Hàn Quốc cũng có tình hình tương tự. Cùng với các biện pháp để thúc đảy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, Hàn Quốc đã có những biện pháp để giảm bớt nghèo khổ và thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân. Cũng như Inđônêxia, Hàn Quốc là một mô hình tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Sở dĩ các quốc gia và lãnh thổ Đông á giải quyết khá thành công mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vì các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã giải quyết tốt hai vấn đề sau:
1. Phát triển sản xuất nông nghiệp và cung cấp dịch vụ cho nông thôn.
Kinh nghiệm của các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Inđônêxia, malaixia đã khẳng định rằng khu vực nông thôn có khả năng biến đổi, từ chỗ sản xuất độc canh với năng suất thấp đến chỗ đa dạng hoá ngành nghề với năng suất cao hơn, do đó có cơ hội đẻ tăng thu nhập, có điều kiên để cải thiện về giáo dục, y tế, nước sạch, môi trường… và trên cơ sở đó đạt được công bằng xã hội hơn trước. Để thực hiện được điều này, Nhà nước có vai trò tiên quyết trong việc cung cấp dịch vụ cho nông thôn thể hiện ở các điểm sau:
-Nhà nước tài trợ nhiều cho việc phát triển các dịch vụ kinh tế ở nông thôn, trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng. Điều này có vai trò quan trọng trong việc biến đổi nông thôn, vì giao lưu kinh tế sẽ được mở rộng, năng suất lao động tăng lên, có cơ hội mở mang các ngành nghề nông nghiệp, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng và giảm bớt đói nghèo.
-Nhà nước cung cấp các dịch vụ xã hội ở nông thôn, đặc biệt là giáo dục và y tế
-Ngân sách nhà nước có vai trò chủ yếu đối với việc cung cấp hai loại dịch vụ nói trên. Nhờ vậy, khu vực nông thôn từng bước biến đổi và phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn vấn đề công bằng xã hội.
2. Đầu tư sứng đáng cho vấn đề giáo dục.
Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực Đông á và Đông Nam á. mặt khác, giáo dục phát triển tác đông rất lớn đến công bằng xã hội. Vì trình dộ của người lao động được nâng cao, năng suất lao động tăng nhanh, do đó thu nhập của hộ tăng lên nhanh, điều đó góp phần giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và giảm bớt tình trạng đói nghèo.
phần ba
những giải pháp cơ bản thực hiện
xoá đói giảm nghèo
I. Quan điểm và mục tiêu xoá đói giảm nghèo
1. Quan điểm
Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Để giảm bớt đói nghèo, mỗi quốc gia khác nhau có cách tiếp cận giải quyết khác nhau.ở ta để giảm bớt đói nghèo chúng ta cần phải xây dựng và thực hiện thành công chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được xây dựng dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau:
+ xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội, vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa mang tính thường xuyên, liên tục của các cấp các ngành
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo mang tính liên ngành cần phải được lồng ghép với các chương trình kinh tế xã hội khác. Sự lồng ghép đó phải hướng tới mục tiêu của xoá đói giảm nghèo
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo được thực hiện theo phương châm xã hội hoá cao; phát huy tính tự chủ, tự vươn lên và tính sáng tạo của địa phương, của chính các hộ nghèo và người nghèo; Lấy xã làm đơn vị cơ bản để xác định đối tượng mục tiêucủa chương trình và là địa bàn thực hiện các đề án và lồng ghép các chương trình khác với xoá đói giảm nghèo
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo cần tiến hành đồng bộ các chính sách và giải pháp tập trung và ưu tiên đầu tư vaò những nơi có tỷ lệ hộ nghèo đói cao.
2. Mục tiêu về xoá đói giảm nghèo :
2.1 Mục tiêu tổng quát
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương nhằm xoá nhanh các hộ đói giảm giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng nguồn vốn xoá đói giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng phục vụ người nghèo sản xuất kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm, mở rộng nghề phụ nhằm tăng thu nhập cho các hộ nông dân.
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến năm 2010 cơ bản không còn hộ nghèo, đại bộ phận người nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội; hoàn thành cơ bản các mục tiêu trợ giũp xã đặc biệt khó khăn, mở rộng cơ hội cho người nghèo thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2001-2005
Phấn đâu trong năm tới về cơ bản xoá được nạn đói kinh niên, giảm tỷ lệ đói nghèo xuống còn 10%. Riêng ở miền núi cố gắng giảm tỷ lệ đói xuống dưới 30%. Đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa (chiếm 85% diện tích tự nhiên và 60% dân số miền núi), là những nơi khó có cơ hội để thoát khỏi cảnh đói nghèo thì mục tiêu đặt ra là: 100% dân sống định cư, đưa tỷ lệ nghèo từ khoảng 70% hiện nay xuống còn 40%. Nếu như các hộ ở miền xuôi chủ yếu nghèo vì các nguyên nhân như thiếu tư liệu sản xuất, thiếu vốn, thiếu kiến thức làm ăn, thì các hộ nghèo ở miền núi ngoài các nguyên nhân đó, còn bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên khắc nhiệt, địa hình phức tạp, cản trở, cơ sở hạ tầngthấp kém, môi trường bị suy thoái… Do vậy, ởvùng cao, vùng sâu, vùng xa cần phải có những chương trình và mục tiêu toàn diện, lâu dài hơn, đặc biệt tập trung vào các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao, nơi có tỷ lệ nghèo cao nhất, nơi tập trung nhiều khó khăn nhất. Đến nay, sơ bộ đã xác định được 1700 xã thuộc diện này với 1,190 triệu hộ tương đương với 6,6 triệu dân. ỏ các xã này, hiện nay tỷ lệ nghèo còn rất cao.
Đến năm 2005 tất cả các xã có đủ các công trình kết cấu hạ tầng: diện, đường giao thông, trạm y tế, trường học cấp cơ sở, chợ và nước sạch, giảm tỷ lệ xã có tỷ lệ đói nghèo cao (trên 40%) từ 15% xuống còn 10%.
II. Những giảI pháp cơ bản xoá đói giảm nghèo
Để đạt được mục tiêu đề ra về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005 chúng ta cần phải áp dụng nhiều giải pháp khác nhau nhằm giải quyết căn bản vấn đề đói nghèo. Trong đó có một số giải pháp cơ bản sau đây:
1. Trước hết cần phải xác định rõ đối tượng thuộc diện nghèo đói từ đó làm cơ sở cho việc lập chương trình cụ thê trong cả thời kỳ trước mắt và lâu dài.
Công tác điều tra, khảo sát, phân tích đúng nguyên nhân, lập danh sách hộ đói nghèo trở thành phương pháp, công cụ quan trọng cho công tác quản lý nhà nước và bảo đảm tính thưc tế căn cứ để thực hiên xoá đói giảm nghèo; xay dựng kế hoạch biện pháp cụ thể; thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Dựa vào các số liệu điều tra chính xác, tiến hành lập dự án, quy hoạch chi tiết đến từng xã nghèo với sự tham gia của các ngành, các cơ quan khoa học và địa phương. Quy hoạch cần được xây dựng từ hai phương án trở lên để cân nhắc, lựa chọn trước khi quyết định. Để từ đó từng xã có thể xác định được khả năng tự giải quyết nhằm thực hiện mục tiêu của chương trình.
2. Trung ương tiếp tục đầu tư cho chương trình với mức ngày càng cao hơn.
Một trong những vấn đề mà nhà nước cần quan tâm là tạo vốn cho người nghèo nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập cho người nghèo.
-Hướng đầu tư của trung ương nên tập trung vào xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống.
-Phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo nhằm tạo nguồn vay ổn định và tăng quy mô phạm vi cho vay. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cho vay vốn. Huy động tối đa các nguồn lưc trong nước, những tiềm năng trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội đồng thời tranh thủ các nguồn viên trợ chính phủ, phi chính phủ, kiều bào ở nước ngoài tham gia đóng góp cho quỹ này.
3. Đổi mới chính sách đối với người nghèo:
-Nghiên cứu miễn giảm thuế nông nghiệp cho người nghèo.
-Sửa đổi các chính sách giao đất, giao rừng và xây dựng để địa phương thu hút, khai thác các nguồn vốn đầu tư liên doanh của các thành phần kinh tế tại chỗ, từ các vùng khác và từ nước ngoài.
-Tiến hành điều tra, kê khai, đánh giá lại hiện trạng đất đai, điều chỉnh lại ruộng đất cho nông dân nghèo chưa có và chưa đủ đất canh tác, thu hồi phần diện tích đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách, đất không có hiệu quả. Tổ chức khai hoang, phục hoá mở rộng quỹ đất sản xuất, đảm bảo cho các hộ nghèo thực sự có nhu cầu và có khả năng sản xuất nhưng chưa được giao đất, hoặc giao đất chưa đủ thì được đất để sản xuất. Những vùng có ít ruộng đất, nhà nước hỗ trợ điều kiện và phương tiện sản xuất để phát triển ngành nghề dịch vụ hoặc vận động họ đến vùng kinh tế mới. Đối với đồng bào nghèo ở khu vực thành thị, có thể giúp đỡ họ về mặt bằng để sản xuất hoặc cho vay vốn để mua tư liệu sản xuất tạo việc làm.
4. Đặc biệt coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý cán bộ các tỉnh, huyện miền núi và cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo
-Tổ chức những điểm tập huấn với các hình thức tập huấn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chôt các cấp tỉnh, huyện, xã về công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế thị trường, kinh tế đối ngoại, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và các công trình, dự án thực hiện chế độ thông tin thường xuyên và theo chuyên đề cho cán bộ miền núi.
-Mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị tỉnh, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt, đương chức và kế cận ở cơ sở, cán bộ người dân tộc, củng cố các trường dân tộc nội trú của tỉnh, huyện miền núi, trường dự bị đại học dân tộc, trường dân tộc vừa học, vừa làm …
-Tăng cường cán bộ cho cơ sở vùng sâu, vùng xa và vùng cao biên giới hải đảo. Cải tiến và ban hành các chíng sách, chế độ khuyến khích cán bộ lên công tác ở vùng sâu, vùng xa, cán bộ người dân tộc. Coi đây là khoản đầu tư qoan trọng đặc biệt chứ không phải chỉ lo đầu tư tài chính, vật chất.
-Tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo các cấp và đội ngũ cộng tác viên làm công tác xoá đói giảm nghèo, ở cơ sở.
5. Phát triển nông nghiệp nông thôn.
Chương trình phát triển nông và nông thônlà một giải pháp qoan trọng trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Điều đó xuất phát từ hai lý do:
Một là, nước ta là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do đó, thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực lao động ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho người nghèo ở nước ta có được việc làm và tăng thu nhập. Phát triển nông thôn sẽ là một trọng tâm của chiến lược tăng trưởng. Đây là một quyết sách nhất thiết phải có để vừa mang lợi choquá trình tăng trưởng vừa là đièu kiện để thực hiện xoá đói giảm nghèo .
Hai là, đại đa số dân số nước ta, lực lượng lao động và người nghèo là ở nông thôn. Hiện nay, khoảng 90% người nghèo sống ở nông thôn, trong đó tình trạng đói nghèo phổ biến là 50%cao gấp đôi ở thành thị. Đặc biệt, vùng nông thôn miền Trung và vùng miền núi phía Bắc: Hà Giang,Tuyên Quang, Sơn La… có tỷ lệ đói nghèo rất cao nhưng lại rất ít cơ hội thoát khỏi cảnh nghèo túng. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của chính phủ càn tập trung chủ yếu vào tăng thu nhập ở khu vực nông thôn.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ phức tạp, gồm nhiều nội dung, Đại hội IX của Đảng đã xác định: Trong những năm tới vẫn coi cônh nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thônlà một trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành côngcủa sự nghiệp công nghiệp hoá, niện đại hoá đất nước. Tiép tục phát triển và đưa nông nghieepj, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, quy hoáchủ dụng đất hợp lý, đổi mới cơ câúu cây trồng, vật nuôi, tăng gia trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuển một bộ phận quan trọng lao động nông thôn sang khu vực cônh nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nhân dân và dân cư ở nông thôn.
Nội dung của chính sách phat triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm rất nhiều vấn đề nhưng ở đây chỉ tập trung vào hai vấn đề chính là tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp tức là tăng năng suâts cây trồng và đa dạng hoá các nguồn thu nhập cả từ nông nghiệp và phi nông nghiệp của khu vực nông thôn.
5.1.Các biện pháp tăng năng suất đát canh tác nông nghiệp
Hiên nay có khoảng 75% dân số nông thôn và 75% hộ gia đình nông thôn chủ yếu dựa vào nông-lâm-ngư nghiệp. Do đó, khu vực nông thôn cũng là khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vì vậy, biện pháp tăng thu nhạp từ sản xuất nông nghiệp sẽ có tác dụng tăng khả năng xoá đói giảm nghèo ở toàn bộ khu vực nông thôn. Trong đó, tăng năng suất cây trồng là một giải pháp hữu hiệu nhất ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Nội dung của giải pháp tăng năng suất cây trồng hiện nay ở nước ta tập trung vào các điểm mấu chốt sau đây:
-Thứ nhất là, đất đai và thuỷ lợi là hai yếu tố có thể xem là ảnh hưởng lớn nhất đến sản lượng nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Vì thế, vấn đề cần phải khẩn trương hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân sử dụng và phải phân bổ đều các cơ hội sử dụng các yếu tố này giữa các nhóm thu nhập, giúp điều hoà thu nhập gia đình từ sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là:
-Giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân dưới nhiều hình thức thích hợp.
-Khuyến khích nông dân tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống kênh mương và giao thông nông thôn. Khuýen khích quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý thông qua việc thực hiện quyền chuyển đổi và chuyển nhượng ruộng đất.
Thứ hai là, trang bị công nghệ, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông nghiệp, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố đầu vào(phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi…), cải tiến giống và phương thức canh tác.
Thứ ba là, vấn đề khuyến nông có tác động quan trọng đến tắngản lượng nông nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá, người nông dân rất cần có các thông tin về giá cả, dung lượng thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng, các thông tin về giống, cây trồng, phân bónvà hệ thống phương pháp gieo trồng. Khuyến nông sẽ giúp cho người nông dân có các quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất.
Vấn đề khuyến nông cần tập trung vàocác nội dung quan trọng sau:
-Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất có hiệu quả với từng loại cây troòng khác nhau nhằm giúp nông dân lựa chọn.
-Nghiên cứu thuần dưỡng và phổ biến các loại giống cây tròng và vật nuôi có năng suất, chất lượng cao cho các hộ gia đình.
-Triển khai các dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y tới từng thôn xóm.
-Hướng dẫn tiếp thị.
Ba nội dung trên có tác dụng rất tích cực trong việc nâng cao năng suất cây trồng trong nông nghiệp nhưng nó đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn trong cơ chế quản lý, trong phương pháp tổ chức, đặc biệt là đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn. Do đó, trước mắt, tuỳ theo đặc điểm của từng vùng nông thôn ở nước ta để xác định các điểm nút quan trọng nhất của từng vùng để giải quyết, cụ thể là:
+Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng hiện nay là hiệu quả sử dụngcác yếu tố đầu vào của sản xuất còn rất thấp do thiếu vốn. Vì vậy, chính sách tín dụng là quan trọng nhất để giúp nông dân nghèo vùng này có khả năng đầu tư tăng naưng suất cây trồng trên phần diện tích hạn hẹp của mình.
+Nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có thuận lợi hơngười nông dân vùng đồng bằng sông Hồng là ruộng đất nhiều hơn, có nhiều cơ hội để tăng thu nhập. Do vậy, đối với vùng này điểm nut cần quan tâm là: đa dạng hoa nghề nông và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp.
+Đối với nông dân các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung thì vấn đề khuyến nông là cần thiết nhất; vùng duyên hải miền Trung, tiềm năng tăng thu nhập ở đây là nhờ vào cải tiến hệ thống thuỷ nông và cách sử dụng phân bón nhằm sản xuất được nhiều vụ trong một năm. Do khí hậu khắc nhiệt nên đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp cũng là chìa khoá để phòng chống rủi ro của hộ gia đình và tránh thiên tai bất ngờ.
Đối với nông dân các dân tôc thiểu số, vì họ thường sống tập trung ở vùng đồi núi, sử dụng nhiều phương thức sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp, do đó phát triển cây lâu năm là thích hợp nhất, đồng thời cải thiện được điều kiện môi trường. Việc tăng thu nhập cho người dân các dân tộc thiểu số cần có sự quan tâm đặc biệt tới điều kiện tự nhiên và tập quán địa phương.
5.2. Đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn
Nếu chỉ dừng lại ở phát triển nông nghiệp thì mới chỉ có thể đảm bảo cho dân cư nông thôn một nguồn thu nhập hạn chế nhưng khó có khả năng đưa nông thôn trở lên giàu có. Do vậy, phải thực hiện cá bước đa dạng hoá thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp. Điều đó sẽ có tác dụng:
-Tạo việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là trong lúc nguồn lao động nông thôn ngày càng dư thừa nhiều. giải quyết việc làm ở nông thôn thông qua mạng lưới ngành nghề phi nông nghiệp la một phương thức thích hợp và trên thực tế đã đem lại hiệu quả thiết thực ở nhiều nước đang phát triển. Nó không những làm tăng thu nhập cho nông dân mà còn tạo điều kiện dể đầu tư lại nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Nếu như lao động nông thôn vừa làm ruộng vừa làm các nghề khác trong lĩnh vưc công nghiệp và dịch vụ nông thôn, thì sẽ là hình thức tốt nhất để tăng thu nhập cho người nông dân mà không cần phải sử dụng đến các giải pháp di dân.
Những vấn đề quan trọng của việc thực hiện giải pháp đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn là:
5.2.1. Chọn các ngành nghề phù hợp cho từng vùng.
Việc chọn ngành nghề và phát triển nó là một vấn đề phức tạp. Một mặt, việc lựa chọn đó phải không ảnh hưởng đến nông nghiệp và thu nhập từ nông nghiệp; mặt khác, ngành nghề được lựa chọn phải có khả năng phát triển ổn định, mà các ngành nghề muốn phát triển ổn định phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường.
Để phát triển những ngành nghề phi nông nghiệp ta cần phải:
Thứ nhất, cần thiết phải khôi phục lại các làng nghề truyền thống. Đó là các làng nghề có quá trình phát triển từ lâu đời, nên nếu khôi phục lại sẽ có điều kiện phát huy các lợi thế về tay nghề của các nghệ nhân, nhãn hiệu truyền thống cũng như các thị trường tiêu thụ truyền thống. Bên cạnh đó cần phải mở rộng địa bàn, chủng loại mẫu mã sản phẩm phong phú, đa dạng nhằm tăng giá trị sản phẩm và hiệu quả hoạt động cao.
Thứ hai, các ngành có khả năng tạo việc làm tại chỗ những lao động dư thừa ở nông thôn trong điều kiện vốn ít và công nghệ lạc hậu, sử dụng được các loại lao động trai, gái, già, trẻ…, như các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất phục vụ cho nông nghiệp …
Thứ ba, phát triển mạng lưới dịch vụ trong nông nghiệp từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị, cung cấp hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, đến các dịch vụ mua bán, chế biến lương thực, thực phẩm, thuỷ sản để cung cấp trong nước và xuất khẩu kể cả các dịch vụ bảo vệ thực vật, giao thông vận tải ở nông thôn, xây dựng, sửa chữa nhà cửa.
5.2.2. Về hình thức tổ chức
Hình thức tổ chức để thực hiện đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn phải đảm bảo tính chất linh hoạt tuỳ theo khả năng và trình độ tổ chức của nông dân.
cần thường xuyên phải tham khảo và nghiên cứu các hình thức tổ chức linh hoạt của nước ngoài như Đài Loan, Trung Quốc… để tìm ra mô hình tốt cho mình, như xúc tiến việc làm, xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là các quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế, xã hội ở các vùng nông thôn. Tổ chức các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu – sản xuất – chế biến và tiêu thụ.
5.2.3. Nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng ở nông thôn:
Đầu tư vào co sở hạ tầng nông thôn và các dịch vụ hỗ trợ sẽ giúp tăng năng xuất lao động nông nghiệp, hoà nhập vào thị trường, hố trợ thương mại và công nghiệp hoá nông thôn. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất cần thiết để tăng thu nhập và giảm nghèo đói, đặc biệt là đối với các khu vực ở nông thônvà có thể là tiềm năng, nó có quan hệ lớn nhất đối với người nghèo.
Để có thể nâng cao năng lực cơ sở hạ tầngở nông thôn, cần phải thực hiệh tốt các định hướng sau đây:
-Quan trọng nhất là phải năng tỷ trọng đầu tư xây dựng cơ bản vào nông thôn, phải tăng tỷ trọng đầu tư vào hệ thống đường sá, giao thông, thuỷ lợi, vkho tàng, bến bãi và cho nông thôn trong tổng vốn đầu tư.
-Cần tập trung sức xây dựng cơ sở hạ tầng ở các tỉnh miền núi phía bắc, như hệ thống đường giao thông đến trung tâm xã, điện, trường hoc, trạm y tế…
-Điện khí hoá nông thôn là một nội dung quan trọng để tạo điều kiện phát triển sản xuất, dịch vụ thu mua, chế biến nông sản cũng như chuyển giao văn minh công nghiệp cho nông dân. Phấn đấu đến năm 2005 phải đưa điện lưới quốc gia về cho 100% số xã và tăng dần số số hộ nông thôn được dùng điện.
Để tăng khả năng tiếp cận với cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại, cần phải cải tiến các cơ chế tài trợ của chính quyền địa phươn, cụ thể như:
Các công trình có quy mô nhỏ cần địa phương tài trợ và trông giữ, còn các hệ thống quy mô lớn hơn vượt ra ngoài ranh giới của tỉnh thì cần được quốc gia tài trợ. Các đường nội tỉnh, huyện, xã cần được sự tài trợ, bảo dưỡng và nâng cấp bởi chính quyền được hưởng lợi từ công trình đó. Tuy vậy, hiện nay chính quyền địa phương có ít khả nănh tăng nguồn thu nhập hoặc không linh hoạt trong vieec xây dựng các khoản thu được để có thể giải quyết vấn đề này. Cần phải có những sửa đổi trong hệ thống các qoan hệ tài chính giữa chính quyền các địa phương hiện nay để đia phương ó thể tự giải quyết được các vấn đề phát sinh tạ địa phương.
6. Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới tài trợ xã hội cho người nghèo
Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội tăng thu nhập mới cho người nghèo ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong số đó vẫn có một số người nghèo không tận dụng được các cơ hội này do mù chữ, thiếu kỹ năng, kém sức khoẻ và dinh dưỡng. Vì vậy, việc bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã họi đặc biệt là về giáo dục, chăm sóc y tế và kế hoạch hoá gia đình, có tầm quan trọng gấp bội. Viêc bảo đảm này sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt của sự nghèo đói đồng thời cũng loại bỏ nguồn gốc của sự nghèo đói.
6.1.Nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo với vấn đề giáo dục
Để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với giáo dục, cần phải giải quyết hai vấn đềlà giảm chi phí cho việc đi học của người nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, tức là tạo ra những hiệu quả thiết thực nhận được từ giáo dục của người nghèo. Và để đạt được hai vấn đề này cần phải tiến hành các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng trường học để giảm khoảng cách từ nhà đến trường.
Thứ hai, giảm chi phí đến trường cho mỗi cá nhân của các gia đình, như xoá bỏ học phí cho các học sinh thuộc diện gia đình nghèo đói. Cung cấp miến phí các khoản đóng góp xây dựng trường sở, sách giáo khoa.
Thứ ba, năng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo. Cần phải có quy hoạch tổng thể, toàn diện phát triển giáo dục giáo dục nói chung và giáo dục cho người nghèo nói riêng.
Có nhiều hình thức liên quan đến nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo, trong đó cần phải nhấn mạnh các yếu tố cơ bản là những yếu tố đầu vào của việc nâng cao chất lượng giáo dục như: sách giáo khoa, xây dựng cơ sở trường hoc và bồi dưỡng cán bộ giáo viên.
6.2.tăng cường các dịch vụ y tế cho người nghèo
Mục tiêu cơ bản của việc tăng cường các dịch vụ y tế cho người nghèo là ưu tiên phân phối các nguồn lực coong cộng cho những chương trình y tế mà người nghèo có khả năng sử dụng được môt phần lớn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tăng sự tiếp cận của người nghèo với các chương trình chăm sóc sức khoẻ càn thiết phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề sau:
-Giảm cản trở đối với việc sử dụng các dịch vụ y tế do quãng đường đi lại xa xôi bằng cách mở rộng mạng lưới dịch vụ y tế.
-Giảm các chi phí về dịch vụ và thuốc chữa bệnh bằng cách thông qua các chương trình trợ cấp.
-Nâng cao chất lượng chăm sóc cho người đã tiếp cận với dịch vụ y tế.
7. Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ tăng dan số
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói là do sinh đẻ quá nhiều, đặc biệt là khu vực nông thôn. Việc sinh đẻ quá nhiều khiến cho những hộ gia đình không có khả năng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanhvà không có khả năng thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, lam lũ. Tỷ lệ tăng dân số cao ở nước ta đã dẫn đến một hậu quả là: tốc độ tăng của lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của việc làm, do đó, lượng lao độngthất nghiệp rất lớn, đặc biệt là khu vực nông nghiệp. Hiện nay khu vực nông nghiệp chỉ cần một số lượng lao động khoảng 18 triệu người, trong khi số lao động hiện có lên tới con số 25 triệu người. Thất nghiệp là nguyên nhân của sự nghèo đói và những những người thất nghiệp thật khó có thể tìm được lối thoát ra khỏi cảnh sống cơ cực. Vì vậy, chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình là một chương trình lồng ghép quan trọng nhằm xoá đói giảmnghèo. Nói cách khác, đó là một nội dung của chương trình xoá đói giảm nghèo.
Thời gian vừa qua, do chưa thấy hết được tính phức tạp của vấn đề dân số, cho nên đôi khi chúng ta chỉ tập chung vào những biện pháp kỹ thuật y tế và chỉ số áp dụng các biện pháp tránh thai làm tiêu chuẩn để đánh giá kết quả của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch và giảm tỷ lệ tăng dân số. Do vạy, chương trình kế hoạch hoá gia đình chưa đạt dược kết quả như mong muốn. Những nguyên nhân của tình trạng nàylà do không tính hết được những động lực và nhân tố cơ bản đằng sau sự phát triển của đối tượng vận động của chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Mà đối tượng vận động của chương trình bao gồm hàng triệu gia đình thuộc các nhóm xã hội khác nhau, sống trong một xã hội kém phát triển với lối suy nghĩ và lối sống đã hằn sâu trong mỗi con người và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nên rất khó thay đổi.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục đặt ra nhiệm vụ đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá gia đình, hướng vào mục tiêu mối cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, và tiến tới ổn định quy mô dân số.
Để đạt được mục tiêu trên, chính sách kế hoach hoá gia đình khônh nên chỉ tập chung vào các tác động trực tiếp thông qua cacs biện pháp kỹ thuật y tế đơn thuần, mà cần chú trọng hơn đến các giải pháp có tính chất căn bản của vấn đề.Cụ thểlà:
-Để giảm tỷ lệ tăng dân số, phải tìm cách tăng chi phí cơ hội của việc sinh con lên.
-Phải nâng cao trình độ giáo dục và mức sống vật chất cho người dân; xay dựng nếp sống văn minh, tuyên truyền và xoá bỏ các tư tưởng lạc hậu, trọng nam khinh nữ và các tư tưởng phong kiến lối thời khác.
-Phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp hành chính, các nội quy, quy chế về tuổi sinh đẻ, về khoảng cách giữa các lần sinh, có các hình thức khuyến khích, khen thưởng, đồng thời có các biện pháp xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm quy chế của chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.
8. Vai trò của ngân hàng và việc huy động vốn cho xoá đói giảm nghèo
Một trong những lý do quan trọng làm cho các hộ gia đình nghèo không có đất khó có thể tự mình vươn lên là thiếu vốn, thiếu các điều kiện sản xuất tối thiểu cùng với các điều kiện sống hết sức khó khăn. Nhìn chung người nông dân bị hạn chế về vốn, do không được vay tín dụng để có thể đầu tư cho nông nghiệp. Thực tế trong những năm vừa qua nông dân nghèo rất ít tiếp cận được với tín dụngchính quy và phần lớn chỉ có được tín dụng phi chính quy vói lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất của khu vực chính quy mà họ không được tiếp cận. Vì vậy hướng cơ bản cần phải áp dụng ở nước ta với hy vọng tạo vốn tín dụng hỗ trợ cho người nghèo là:
-Đa dạng hoá các hình thức tín dụng, nhận gửi và cho vay là một giải pháp quan trọng. Tín dụng cho vay ngắn hạn, là hình thức tài trợ chủ yếu nhất của các ngân hàng nông thôn và người cho vay phi chính thức.
-Để tăng nguồn quỹ cho vay, Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập các lãi suất cho vay tối đa là giá trần tiền vay và giá sàn tiền gửi, điều đó sẽ khuyến khích các hộ gia đình gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, khuyến khích các tổ chức tài chính nông thôn cho vay vốn.
-Khuyến khích các tổ chức như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quỹ tín dụng nông thôn tham gia huy động tiết kiệm ở địa phương và cho vay.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải vừa mang tính kinh doanh, vừa mang tính chất hỗ trợ phát triển. Thống nhất các kênh rót vốn đầu tư trong và ngoài nước vào Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phân bổ vốn vay vào các vùng nông thôn và theo các vùng được ưu đãi một cách hợp lý.
Khuyến khích mở rộng nhiều hình thức tín dụng nông dân và các ngân hàng tư nhân ở nông thôn trên cơ sở có đăng ký và hoạt động theo luậtvà quy chế kiểm tra tài chính tín dụng của Nhà nước.
Xây dựng chế độ cho vay trung và dài hạn đối với sản xuất nông- lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Cụ thể là, cho vay vốn cới điều kiện ưu đãi (lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, tín chấp, thời gian cho vay từ 18-36 táng) từ nguồn tín dụng của Ngân hàng Phục vụ người nghèo, từ quỹ xoá đói giảm nghèo,…
Hiện nay ở nước ta cùng với ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động như một ngân hàng chính sách, hệ thống kho bạc nhà nước cũng thực hiện một số loại tín dụng chính sách trong đó có mục tiêu phục vụ đối tượng đói nghèo, hoạt động tín dụng cho các thành viên nghèo của các tổ chức chính trị-xã hội…Ngoài ra còn có các chương trình cho vay do các ngân hàng khác thực hiện. Ngân hành phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long thực hiện chính sách cho vay vốn phát triển nhà ở trong vùng. Ngân hàng công thươngViệt Nam thực hiện chính sách cho sinh viên vay vốn học tập. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện chính sách cho vay vốn làm nhà, cho vay vốn khắc phục bão lụt, đánh bắt cá xa bờ…
9. Phát triển kinh tế gia đình, định canh, định cư và di đân kinh tế mới.
Trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá, cần đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế gia đình, vì đây không chỉ là lực lượng cấu thành quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, mà còn là một con đường nhanh chóng xoá đói giảm nghèo, thực hiện chiến lược tấc đất tấc vàng, nhà nhà triệu phú. Kinh tế gia đìng ở nông thôn đang phát triển theo hướng sản xuất lớn và kinh tế hàng hoá, đa dạng và phong phú. ở nhiều nơi, sản phẩm hàng hoá đã chiếm 40-50% sản phẩm của kinh tế gia đìng. ở vùng Tây nguyên có nhiều gia đình đã đầu tư hàng chục triệu đồng vào làm vườn cà phê, vườn hồ tiêu, vườn rừng. Nhiều gia đình vùng trung du miền núi thấp đã đầu tư công của, cải tạo đất đồi hoang, xoá đói giảm nghèoây dựng các vườn thâm canh trên đất dốc kết hợp với đào ao thả cá. ở vùng đồng bằng bắc bộ, trên mmỗi mảnh vườn, nông đân thường trồng cây ăn quả kết hợp với cây dược liệu, rău màu, dưới là ao thả cá. Các tỉnh miền núi, trung du làm vườn rừng, trại rừng lấy gỗ, củi và trồng cây công nghiệp. Các tỉnh ven biển làm vườn kết hợp trồng cây chắn cát, trồng dừa, nuôi tôm, cá nước lợ. Các tỉnh nam bộ trồng cây ăn quả, nuôi ong, nuôi tôm xuất khẩu.
Bên cạnh những thành tựu cơ bản nói trên, viêc phát triển kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn và tồn tại như: quan niệm về kinh tế gia đình còn chưa đầy đủ và thống nhất, phong trào kinh tế gia đình phát triển chưa đều, dịch vụ về đầu vào và đầu ra cho kinh tế gia đình, nhất là việc tiêu thụ sản phẩm chưa tốt, nhiều nơi còn thiếu đất, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật để làm kinh tế gia đình. Hiện nay mới có khoảng 15-20% gia đình làm vườn có hiệu quả cao.
Do vậy để góp phần phát triển mạnh kinh tế hàng hoá, xoá đói giảm nghèo, phải phát triển mạnh kinh tế gia đình, muốn vậy cần chú ý đến các vân đề như: hướng dẫn các gia đình bố trí mặt bằng nhà cửa, bếp lúc, vườn, ao, chuồng, các công trình vệ sinh…sao cho hợp lý, vừa thuận tiện cho việc sinh hoật, vừa dành được nhiều đất để làm kinh tế vườn. Mặt khác từ kinh nghiệm thực tiễn, hướng dẫn nhân dân xây dựng và phát triển một cơ cấu kinh tế gia đình thích hợp. Mô hình của kinh tế gia đình không chỉ là VAC mà còn là VACRT nghĩa là gồm vườn-ao-chuồng-rừng-tiểu, thủ công nghiệp; cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, đổi mới một số chính sách đối với kinh tế gia đình như chính sách đất cho nông dân làm kinh tế gia đình, chính sách cho các gia đình vay vốn, chính sách thuế, chính sách cung ứng vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, chính sách bảo hiểm sản xuất…Các vấn đề như đầu tư khoa học kỹ thuật cho kinh tế gia đình, đào tạo nghề nghiệp (nghề làm vườn, nghề làm tiểu, thủ công nghiệp gia đình…), trao đổi kinh nghiệm về phát triển kinh tế gia đình v.v cũng cần được đặt ra một cách nghiêm túc phù hợp.
10. Một số giải pháp khác.
Ngoài các giải pháp trên chúng ta có thể bổ xung thêm một số giải pháp sau:
Một là, nghiên cứu viết giáo trình (xuất bản sách), hướng dẫn kế hoạch làm ăn cho hộ nông dân đói nghèo (gồm lập và thực hiên) nhằm mục đích:
+Để dạy cho hộ nông dân đoi nghèo hiểu và biết cách lập kế hoạch làm ăn để tự xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
+Để các tổ chức Đảng, nhà nước và các tổ chức kinh tế-xã hội các cấp có cơ sở giúp đỡ, kiểm tra theo kế hoạch làm ăn xoá đói giảm nghèo của hộ.
+Để có cơ sở kiến nghị hoàn thiện chính sáchvĩ mô và vi mô nhằm thực hiện có kết quả chương trìnhquốc gia xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đây là phương pháp tốt để từng nông hộ đói nghèo kết hợp việc cứu mình vầ sự giúp đỡ của chính quyền đoàn thẻ (vì thông qua kế hoạch làm ăn từng vụ, từng năm mà tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra uốn nắn giúp các hộ đói nghèo làm ăn có hiệu quả và bảo đảm hoàn trả vốn, lãi vay cho Nhà nước), bảo đảm xoá đói giảm nghèo bền vững. Thực chất nó là một dự án thực hiện chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan trọng nhất, có hiệu quả trực tiếp nhất. Nừu được Đảng và ban chủ nhiệm chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan tâm tạo điều kiên đúng mức. Hướng tới chúng ta có thể dưa những vấn đề nêu trên vào giảng dạy ở một số trường thích hợp như là một mmôn học hướng nghiệp để từ đó đồng thời giúp học sinh có theer giúp đỡ gia đình lập kế hoachj làm ăn nhày một tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Hai là, với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trình độ dân trí còn thấp, chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự nhiên, thường có diện đói nghèo lớn, và là những địa bàn xung yếu về quốc phòng do đó cần lập dự án: xây dựng khu dân cư kết hợp kinh tế xoá đói giảm nghèo bền vững với giữ vững an ninh quốc phòng.
Ba là, ở rộng hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo, nhất là phương pháp tiếp cận, chọn tìm những yếu tố, cách làm hiệu quả của từng dự án, từng chính sách, cơ chế và nguồn lực, kỹ thuật, thông tin. Thành tựu về xoá đói giảm nghèo góp phần thuyết phục và mở rộng hợp tác quốc tế theo chính sách đối ngoại của Đangr và Nhà nước ta
kết luận
Trong đầu thập kỷ tới, nền kinh tế Việt Nam phải phấn đấu để đạt được mục tiêu đề ra về tăng trưởng, về GDP bình quân đầu người như văn kiện đại hội Đảng IX đã đề ra. Song vấn đề xoá đói giảm nghèo chắc chắn vẫn được coi là chương trình lớn của quốc gia. Qua kinh nghiệm thực tế các nước trên thế giới cho thấy, nếu Việt Nam đạt được các mục tiêu về phát triển kinh tế-xã hội, thì giảm bớt dần tình trạng nghèo đói và bản thân việc giải quyết tốt vấn đề nghèo đói cũng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội một cách vững chắc. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả chiến lược trên chúng ta cần phải có những phương hướng và giải pháp thích hợp nhất là những giải pháp về xoá đói giảm nghèo và phải được tiến hành đồng bộ, kết hợp các giải pháp với nhau, nhằm thực hiện muc tiêu
'' dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
danh mục tài liệu tham khảo
+Giáo trình Kinh tế phát triển tập I
- Nhà xuất bản thống kê-1999
+Giáo trìng Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội
- Nhà xuất bản thống kê-1999
+Văn kiện Đại hội Đảng IX
+Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo
ở Việt Nam
- Nhà xuất bản chính trị quốc gia-1999
+Một số báo và tạp chí khác.
Mục lục
-Lời nói đầu………………………………………………………………… 1
-Phần một: Lý luận chung……………..………………………………….. 2
I. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề đói nghèo………….……2
II. Thước đo đánh giá sự nghèo đói …………………………………………3
-Phần hai: Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam………………………………5
I.Thực trạng………………………………………………………………… 5
II.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói ……………………………... 9
III. Kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hơp giữa tăng trưởng
kinh tế với vấn đề xoá đói giảm nghèo……………………………………..16
-Phần ba: Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo ..…….. 17
I.Quan điểm và mục tiêu xoá đói giảm nghèo …………………….……….17
II.Những giải pháp cơ bản xoá đói giảm nghèo…………………………….19
Kết luận……………………………………………………………………. 32
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………… 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28865.doc