Đề án Một số biện pháp để mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại

Để có thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường với những cạnh tranh gay gắt như hiện nay.Cũng như các doanh nghiệp khác.Các doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường phải có định hướng cho mình,thị trường của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Nó quyết định việc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không.Một doanh nghiệp có thị trường vững chắc và ngày càng mở rộng thì chắc chắn doanh nghiệp đó kinh doanh có hiệu quả,thực hiện các mục tiêu,tạo ra lợi nhuận nuôi sống doanh nghiệp góp phần vào xây dung nền kinh tế quốc dân.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp để mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g. Qua hành vi trao đổi hàng hoá và thị trường, thị trường điều tiết và kích thích sản xuất kinh doanh phát triển hoặc ngược lại.Đối với các doanh nghiệp,hàng hoá và dịch vụ bán nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh,tạo nguồn và mua hàng để cung ứng càng nhiều hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.Ngược lại nếu hàng hoá,dịch vụ không bán được.Doanh nghiệp sẽ hạn chế sản xuất,hạn chế mua hàng, phải tìm khách hàng mới,thị trường mới,kinh doanh mặt hàng mới,lĩnh vực kinh doanh khác đang và sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng này luôn điều tiết sự ra nhập ngành hoặc rút lui khỏi ngành của một số doanh nghiệp.Nó khuyến khích nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới có chất lượng cao, có khả năng bán được khối lượng lớn. * Chức năng thông tin của thị trường. Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế quan trọng đối với những nhà sản xuất kinh doanh, với người mua và người bán, với người cung ứng và người tiêu dùng, người quản lý và người nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói đó là những thông tin kinh tế quan trọng, không có thông tin thị trường thì không thể có quyết định đúng đắn trong sản xuất, kinh doanh cũng như các quyết định của cấp quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm các thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra các quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa lại thành công cũng như có thể đem đến sự thất bại bởi tính xác thực của thông tin được sử dụng. Nói tóm lại, chính nhờ các chức năng thông tin này mà những lực lượng tham gia thị trường có thể có được những thông tin cần thiết. Người kinh doanh có thể trả lời được ba câu hỏi. Kinh doanh cái gì? Cho ai? Kinh doanh như thế nào?. Người tiêu dùng biết được nên mua loại hàng nào,khối lượng bao nhiêu? Thời điểm và giá mua.Chức năng thông tin này cần thiết để thực hiện các chức năng khác của thị trường. 4. Các hình thái của thị trường. Trên thị trường có 3 mối quan hệ cơ bản: quan hệ giữa người bán với người mua, quan hệ giữa người bán với nhau, quan hệ giữa người mua với nhau.Tuỳ theo số lượng người mua,người bán trên thị trường,và mối quan hệ giữa họ mà có hình thái thị trường khác nhau.Với từng hình thái thị trường khác nhau.Có 3 hình thái thị trường phổ biến là:Thị trường cạnh tranh hoàn hảo,thị trường cạnh tranh có tính độc quyền và thị trường độc quyền. * Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó người tham gia vào thị trường tương đối lớn và không ai có thể cung ứng một khối lượng sản phẩm khả dĩ ảnh hưởng tới giá cả.Người mua và người bán đều không thể quyết định giá mà chỉ chấp nhận giá.Các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mua bán trên thị trường này là không đồng nhất,không có sự dị biệt.Điều kiện tham gia thị trường nói chung là dễ dàng. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có một cách là thích ứng với giá cả trên thị trường.Họ chỉ còn cách giảm thấp chi phí sản xuất và sản xuất một lượng sản phẩm đến giới hạn mà chi phí cân biên bằng doanh thu cận biên. Các doanh nghiệp người bán có thể tự do di chuyển dễ dàng từ ngành này sang ngành khác để tìm kiếm con đường làm ăn có lợi nhất. Nói chung thị trường cạnh tranh hoàn hảo khó có thể tìm kiếm trong điều kiện hiện nay.Tuy nhiên thị trường nông sản cũng có thể xem là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. * Thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền. Đây là thị trường bao gồm nhiều thị trường nhỏ dễ tham gia và cũng dễ rút lui,mỗi doanh nghiệp sản xuất ra một loại hàng hoá ít có sự khác nhau.Cùng một sản phẩm chia ra làm nhiều loại,thậm chí còn được chia nhỏ hơn có thể với các nhãn hiệu khác nhau.Các điều kiện mua bán hàng hoá rất khác nhau.Đường cầu của thị trường này phần nào bị dốc xuống vì lẽ hàng hoá không hoàn toàn giống nhau và cũng vì khả năng tăng giá mà không bị phá sản. Hai loại thị trường trên có mặt ưu thế đồng thời có những mặt hạn chế. * Thị trường độc quyền Thị trường độc quyền có nghĩa là một người bán một loại hàng hoá hay dịch vụ đặc thù mà những người bán khác không có hoặc không thể làm được.Họ kiểm soát hoàn toàn số lượng sản phẩm và dịch vụ bán ra trên thị trường.Đường cầu của xã hội là đường cầu của hãng.Tình trạng độc quyền chỉ có thể xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền. Điều kiện ra nhập hoặc rút lui khỏi thị trường độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền bí quyết,kỹ thuật,công nghệ. Thị trường này không cạnh tranh về giá mà người bán hoàn toàn quyết định giá.Nhà sản xuất độc quyền tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận ở điểm MR=MC.Độc quyền có ưu điểm là tập trung được vốn đầu tư,phát triển sản xuất ,phát triển khoa học kỹ thuật và cải tiến công nghệ.Song độc quyền cũng đem lại nhiều bất lợi cho người tiêu dùng và xã hội.Bởi vậy phải sử dụng và các công cụ khác để trống độc quyền. II. Thị trường của doanh nghiệp thương mại. 1. Thị trường của doanh nghiệp thương mại. Thị trường là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại.Nói thị trường của doanh nghiệp thương mại phải nói đến các yếu tố của thị trường bao gồm :cung cầu và giá cả thị trường. Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng(người mua ) tạo nên cầu hàng hoá.Tổng hợp các nguồn cung sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hoá.Sự tương tác giữa cung và cầu,tương tác giữa người mua và người bán hình thành giá cả thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại có quy mô toàn quốc,có hoạt động suet nhập khẩu chẳng những phải nghiên cứu tổng cung,tổng cầu trên quy mô quốc gia mà phải nghiên cứu cả trên quy mô quốc tế.Đối doanh nghiệp thương mại có quy mô nhỏ,hoạt động trong phạm vi địa phương,có thể nghiên cứu các yếu tố thị trường địa phương tuy theo sự phát triển của doanh nghiệp mà từ nghiên cưu thị trường địa phương tiến lên nghiên cứu thị trường miền (vùng)toàn quốc. 2. Vai trò của việc mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng sản phẩm hàng hoá.Qua tiêu thụ,sản phẩm chuyển từ trạng thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn.Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến hành tái sản xuất ,mở rộng tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn,nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong quá trình kinh doanh một doanh nghiệp muốn tồn tại phải bán được sản phẩm của mình. Sản phẩm của doanh nghiệp bán được trên thị trường sẽ giả quyết một loạt các vấn đề: lương,nộp ngân sách,thuế,đồng thời hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng chứng tỏ doanh nghiệp đang tồn tại. Mở rộng thị trường sẽ tạo cho doanh nghiệp có vị trí ngày càng ổn định,nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp và trên cơ sở đó thị trường hiện có mang tính ổ định.Mặt khác trên thị trường lúc nào cũng có sự cạnh tranh quyết liệt của nhiều doanh nghiệp khác nhau cũng tiêu thụ một hay một hay một số mặt hàng.Lẽ dĩ nhiên doanh nghiệp nào cũng phải tìm cách giành được những điều kiện thuận lợi nhất cho sản xuất và tiêu thụ. Phát triển và mở rộng thị trường sẽ tạo ra động lực thúc đẩy chiến thắng trong cạnh tranh nâng cao số lượng sản phẩm bán ra. 3. Nội dung chủ yếu của việc phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại Để làm tốt công tác phát triển và mở rộng thị trường,các doanh nghiệp thương mại phải làm tốt các công việc sau: * Nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Nghiên cứu về hàng hoá, nhu cầu sản phẩm để giải đáp các vấn đề như đặc điểm của hàng hoá,nhu cầu thị trường,Khả năng và các nguồn cung cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh.Từ đó xác định được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường do nhiều yếu tố tạo nên:Trước hết là do trình độ kỹ thuật sản xuất ra hàng hoá đó,chất lượng cải tiến kỹ thuật sản xuất ,mức độ đổi mới phú hợp với thị hiếu.Giá cả các hàng hoá và dịch vụ bán hàng và sau khi bán hàng.Yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất là giá cả,nó được coi là yếu tố cổ điển.Ngày nay yếu tố cạnh tranh không bằng giá ngày càng được quan tâm hơn trong các vấn đề quan trọng là:Chất lượng và dịch vụ hàng hoá, dịch vụ sau bán hàng gồm cả mạng lưới dịch vụ,kỹ thuật cung cấp phụ tùng thiết bị.Đặc điểm của sản phẩm cần chú ý bề ngoài bao bì đóng gói,trang trí, thị hiếu người tiêu dùng.Cần xem xét, đánh giá và so sánh giá hàng hoá của công ty so với giá của công ty cạnh tranh khác.Thời hạn giao hàng phải đúng lúc. * Nghiên cứu về dung lượng thị trường: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá mà thị trường có thể giao dịch trong một thời gian nhất định.Dung lượng không cố định mà thay đổi tuỳ tình hình,nhất là thay đổi tình hình cung và cầu. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của thị trường tìm hiểu các công ty về bán hàng”ở thị trường khả năng sản xuấttại chỗ,triển vọng thay đổi dung lượng,khả năng cạnh tranh của hàng nội địa và hàng nhập khẩu. - Nghiên cứu các hình thức và biện pháp tiêu dùng hàng để biết các điều kiện chính trị thương mại của các nước khác,các mối quan hệ và các điều kiện về hiệp định thương mại của chính phủ nước đó với các nước khác,hệ thống luật pháp. - Nghiên cứu điều kiện vận tải để lựa chọn hình thức vận chuyển giá cước vận chuyển góp phần không nhỏ vào khả năng cạnh tranh. - Nghiên cứu tìm hiểu các công ty có khả năng ký kết hợp đồng, tìm hiểu tình hình tài chính của họ. - Nghiên cứu giá cả thị trường hàng hoá trong nước và quốc tế. Xác định các thị trường chủ yếu của mặt hàng và theo dõi diễn biến giá cả của thị trường đó.Dự đoán xu hướng biến động của giá cả bằng cách phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả. * Chiến lược mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Sau khi nghiên cứu và thăm dò thị trường,để phát triển thị trường của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần một chiến lược thích hợp.Phải nêu ra được nhu cầu của người tiêu dùng.Biến những nhu cầu đó thành lực lượng sản xuất của doanh nghiệp biến những kết quả tiếp thu được thành chất hữu dụng mà người tiêu dùng đòi hỏi,Và thông tin ngược lại người tiêu dùng. Lựa chọn thị trường mục tiêu,có thể tiếp cận thị trường bằng các cách như sau: +Tiếp cận thị trường trọng điểm đơn giản: +Tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp. +Tiếp cận thị trường trọng điểm hỗn tạp. Xây dựng chiến lược tiếp thị phù hợp để đạt đến các mục tiêu tiếp thị.Việc xác định có ý nghĩa là cách lựa chọn đúng đắn phối hợp của sản phẩm, giá cả,phân phối để đáp ứng nhu cầu,lợi ích và giá trị những đặc trưng khác nhau của thị trường mục tiêu đã chọn. * Bảo vệ thị trường. Bảo vệ và phát triển thị trường phải đổi mới thông qua sự nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm vì thực chất của phát triển thị trường là việc đưa các sản phẩm hiện tại vào bán trong các thị trường mới.Chu ký sống của sản phẩm là khoảng thời gian tồn tại của sản phẩm trên thị trường kể từ thời điểm nó xuất hiện cho tới khi không bán được nữa.Người ta chia chu kỳ sống của sản phẩm thành 4 pha,dựa vào những đặc điểm từng pha mà có giải pháp thích hợp để đổi mới sản phẩm,Doanh thu cao gián tiếp bảo vệ và phát triển thị trường thông qua các cách sau: Bảo vệ thị trường bằng hàng dào ngăn cản.Các yếu tố cấu thành hàng rào ngăn cản bao gồm:Kỹ thuật,chất lượng,giá cả sản phẩm. Muốn bảo vệ thị trường các doanh nghiệp cần chú ý các yếu tốt trên.Tăng cường nghiên cứu khoa học kỹ thuật,không ngừng nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm. Bảo vệ thị trường thông hệ thống dịch vụ. Dịch vụ là yếu tố quan trọng để bán được hàng hoá,tăng doanh thu.Thực hiện tốt các dịch vụ (bảo hành,sửa chữa,vận tải..)là phương thức tốt nhất để duy trì và phát triển thị trường. Bảo vệ thị trường bằng cách tạo niềm tin của khách hàng chỉ cóđược khi trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp luôn coi chữ tín làm đầu.Đó là sự tín nhiệm sản phẩm tác phong và sự phục vụ trong kinh doanh. Với các cách trên doanh nghiệp có thể được thị trường của mình.Nhưng một doanh nghiệp mạnh không chỉ bảo vệ riêng thị trường của mình mà còn phải đảm bảo phát triển thị trường.Việc phát triển thị trường được thể hiện qua ba phương thức sau: - Mở rộng thị trường thông qua chuỗi sản phẩm.Việc cải tiến sản Phẩm,phát triển đường dây sản phẩm và tung sản phẩm vào thị trường ít nhất cũng cho thấy một phương diện hay,một tính chất của thị trường là đang trên đà phát triển.Đối phương luôn tìm điểm yếu của mình trên thị trường nên nếu đứng im tại chỗ có nghĩa là tự giết mình.Doanh nghiệp nào cũng vậy muốn thành công lâu dài thì phải cải tiến sản phẩm và thu hút thị trường hiện tại cũng như thị trường mới trong tương lai. - Mở rộng thị trường thông qua mạng lưới bán hàng. Tăng số lượng các cửa hàng,Nâng cao hiệu quả hoạt động tại các cửa hàng để chiếm lĩnh thị trường bằng cách. + Nâng cao trình độ nhân viên bán hàng về chuyên môn lẫn thái độ phục vụ khách hàng.Nhân viên không những bán được hàng mà còn bán được thông tin về công ty cho khách hàng. + Phân bố các địa điểm phục vụ khách hàng sao cho thuận tiện nhất nhằm thoả mãn nhu cầu của họ. + Các phương tiện máy móc phục vụ cho việc bán hàng được thuận tiện kịp thời. - Mở rộng thị trường bằng cách tấn công vào thị trường và sản phẩm của đối phương. Muốn tấn công vào thị trường của đối thủ. Doanh nghiệp phải ý thức được điểm mạnh của mình về phương diện thị trường hàng hoá từ đó củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong cuộc cạnh tranh đã và đang diễn ra trong tương lai với một nguyên tắc không lùi bước hoặc dừng lại ở bất kỳ thời điểm nào.Bên cạnh đó còn xúc tiến kế hoạch phát triển sản phẩm và thị trường hàng hoá của mình tận dụng điểm yếu và ngăn chặn thời cơ của đối thủ. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường của doanh nghiệp thương mại. Xét ở góc độ tổng doanh nghiệp thị trường là môi trường tồn tại trực tiếp của doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, mọi hoạt động của doanh nghiệp phải gắn chặt với thị trường. Chính vì vậy mà mọi hoạt động của quá trình lập kế hoạch trên các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đều phải bắt đầu từ thị trường do đó thị trướng là:” - Nơi doanh nghiệp xác định lĩnh vực kinh doanh về mặt địa lý, khách hàng, mặt hàng… - Cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh qua hệ thống thông tin thị trường. - Thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi được thị trường chấp nhận các yếu tố đầu ra của mình. - Thị trường là nơi sát hạch khả năng cạnh tranh thực tế của doanh nghiệp, quyết định xem doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được không. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến thị trường của doanh nghiệp. 1. Các nhân tố vi mô . Đó là các nhân tố nội tại của công ty, các kênh điều phối, thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, người cung cấp, các tổ chức kinh doanh.. Trong chừng mực nhất định, doanh nghiệp có thể tác động để cải thiện thị trường của mình. *Các yếu tố và lực lượng bên trong của doanh nghiệp.Chúng là những nhân tố thể hiện khả năng và thế lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể kiểm soát được các nhân tố này, tạo ra và duy trì những điểm tích cực, có lợi cho việc duy trì và mở rộng thị trường đồng thời hạn chế loại bỏ những yếu tố tiêu cực, không có lợi. Các nhân tố đó bao gồm: - Khả năng tài chính của các doanh nghiệp - Trình độ quản lý và các chính sách, chiến lược biện pháp trong quản lý, điều hành doanh nghiệp. - Hệ thống thông tin - Công nghệ máy móc thiết bị - Lực lượng lao động Trước hết xét về khả năng tài chính của doanh nghiệp.Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu cần tính đến khi ra các quyết định về thị trường, ngành hàng, khu vực kinh doanh các hình thức cạnh tranh…Chi tiết hơn nữa các yếu tố này tạo ra khả năng để thực hiện các hoạt động marketing: Quá trình thu thập thông tin, tìm hiểu thị trường, xác định thị trưòng, mục tiêu của… doanh nghiệp, xác định các chiến lược cạnh tranh, khuếch trương đặc biệt là cạnh tranh bằng giá. Khả năng tài chính đảm bảo cho các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra cho đầu ra đáp ứng nhu cầu của thị trường. Với các chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp dựa vào khả năng tài chính của mình để ra các quyết định về mọi vấn đề. Yếu tố trình độ hiện nay đang trở thành vấn đề quan trọng và tập trung sự chú ý rất lớn trình độ quản lý thể hiện ở quá trình hoạh định chiến lược, chính sách, các biện pháp quản lý và quá trình thực thi các quyết định trong quản lý kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh, các vấn đề thị trường cần được giải quyết dựa theo chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Những yếu ấy quyết định khả năng phản ứng của doanh nghiệp trước những thay đối của thị trường và do đó quyết định tới việc duy trì mở rộng hoặc thu hẹp thị trường của doanh nghiệp. * Những người cung ứng Là các doanh nghiệp hoặc cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể kinh doanh các loại hàng hoá dịch vụ nhất định. Bất kì một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp đều gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay hoạt động mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp. *Các trung gian môi giới Là các tổ chức dịch vụ các doanh nghiệp và cá nhân giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ của mình tới người tiêu dùng cuối cùng. *Khách hàng Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ đồng thời là yếu tố quýet định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, quy mô khách hàng quyết định quy mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, bản thân nhu cầu sẽ không giống nhau giữa các nhóm khách hàng và thường xuyên biến đổi. Nhu cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố đồng thời nhu cầu và sự biến đổi của nó lại có ảnh hưởng đến toàn bộ quyết định của doanh nghiệp cũng như quyết định duy trì mở rộng hoặc hạn chế thị trường của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên có mối quan hệ với khách hàng và nắm bắt được những biến đổi về nhu cầu của hộ. Để có được thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thương tập trung vào 5 loại thị trường sau: - Thị trường người tiêu dùng - Thị trường khách hàng là các doanh nghiệp - Thị trường mua bán trung gian - Thị trướng các cơ quan đảng và nhà nước - Thị trường quốc tế. *Đối thủ cạnh tranh Nhìn chung mọi doanh nghiệp đều phải đối đầu với những đối thủ cạnh tranh khác nhau. Nó bao gồm đối thủ cạnh tranh sơ cấp (cùng tiêu thụ các sản phẩm đồng nhất), Các đối thủ cạnh tranh thứ cấp (sản xuất và kinh doanh những sản phẩm có khả năng thay thế) mọi hoạt động của đối thủ cạnh tranh đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quyết định của doanh nghiệp về việc phát triển thị trường, đố là quy mô, thị phần kiểm soát, tiềm lực tài chính, kỹ thuật công nghệ, tổ chức quản lý, lợi thế cạnh tranh, nhãn hiệu hàng hoá của đối thủ cạnh tranh đều có thể ảnh hưởng đến thị trường của doanh nghiệp. 2. Các nhân tố vĩ mô Sự tác động của các nhân tố này nên thị trường của doanh nghiệp không phụ thuộc vào doanh nghịep.Doanh nghiệp có thể phản ứng lại các tác động này bằng cách lợi dụng chúng để duy trì và mở rộng thị trường kinh doanh của mình. Các nhân tố của mình có thể chia thành các nhóm sáu: * Đương nối phát triển kinh tế của nhà nước, các luật các chính sách các chế độ có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. *Đường lối phát triển kinh tế của nhà nước khi yêu tiên nhằm phát triển vào ngành hàng hoá nào thì các doanh nghiệp trong ngành hàng hoá đó sẽ có cơ hội phát triển kinh doanh của mình. Ngược lại nhưng ngành bị hạn chế sẽ có cơ hội đứng vững,duy trì vị trí của mình.Sự tác động này có thể diễn ra trên một vùng, một khu vực hay một phạm vi nào đó trong một quốc gia.Thậm chí tư tưởng này còn được thấy trong quan hệ kinh tế giữa các quốc gia,khi mà các quốc gia này ưu tiên cho nhau những cơ hội để gia nhập thị trường. Những yếu tố thấp hơn như các luật,các quy định,chính sách của nhà nước cũng có tác động tương tự nhưng chúng trực tiếp và cụ thể hơn.Đó là những công cụ để nhà nước can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh,sự phát triển của thị trường. * Bối cảnh chung của nền kinh tế. Bối cảnh chung của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường kinh doanh của doanh nghiệp.Các quan hệ kinh tế giữa các ngành,các doanh nghiệp với các lực lượng khác sẽ bị thay đổi khi mà chính các lực lượng đó bị thay đổi.Trong thời kỳ suy thoái kinh tế các doanh nghiệp hầu hết bị giảm hoạt động sản xuất kinh doanh thị trường bị co lại.Còn thời kỳ phát triển hoàn cảnh thuận lợi môi trường kinh tế sẽ khiến các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh,mở rộng thị trường. * Nhân tố khoa học kỹ thuật. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật tạo ra những khả năng đáp ứng nhu cầu ngáy cành cao.Tốc độ phát triển đó ngày càng nhanh làm cho việc ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng mạnh mẽ vào hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý.Điều này trước hết tạo ra những cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp nhưng cũng chính nó đẩy cường độ cạnh tranh ngày càng cao.Sự phát triển đó cũng đưa doanh nghiệp đến vấn đề là lựa chọn đầu tư cho có hiệu quả nhất định vì sự áp dụng khoa học kỹ thuật đã làm phát sinh chi phí mà chưa thể chắc chắn về hiệu quả của nó.Những biến đổi về sản xuất kinh doanh do nhân tố này có ảnh hưởng lớn tới thị trường của doanh nghiệp khiến cho hiện nay nó trở thành những vấn đề quan trọng nhất. *Nhân tố văn hoá xã hội. Yếu tố cầu trên thị trường luôn gắn liền với chuẩn mực xã hội.ở những khía cạnh như quan niệm,các lối sống, phong tục tập quán…. Thông thường thì những yếu tố này có tính ổn định tương đối.Doanh nghiệp muốn duy trì và phát triển thị trường thì không thể trái với những chuẩn mực đó. Chương II: Thực trạng thị trường của doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam. I- Khái quát về thị trường của doanh nghiệp thương mại. Trong công cuộc đổi mới toàn diện về nền kinh tế – xã hội ở nước ta mở đầu từ đại hội VI (1986) Trải qua hơn 10 năm.Từ đó tới nay nước ta có những thay đổi lớn và sâu sắc.Đại hội VI đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế nói chung, thị trường và thương mại, dịch vụ nói riêng. Thực hiện nền kinh tế mở cửa, thị trường được mở rộng quan hệ thương mại cũng được mở rộng,theo hướng đa dạng hoá,đa phương hoá, hàng hoá Việt Nam có mặt ở 150 nước trên thế giới.Và có hiệp định thương mại với 65 nước trên thế giới.Đặc biệt hiện nay tham gia vào AFTA là bước đi đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nó đặt nền móng cho quá trình hội nhập APEC và chuẩn bị cho sự gia nhập WTO một cách hiệu quả.Trong quá trình hội nhập AFTA thì lĩnh vực thương mại là lĩnh vực chịu sự cạnh tranh gay gắt nhất trong khu vực điều đó vừa tạo thuận lợi đồng thời cũng gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp thương mại Việt Nam,ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.Sức cạnh tranh thương mại được hiểu là khả năng mở rộng các quan hệ thương mại,nhằm mở rộng thị trường. Thập kỷ 90 thay vì cung giữ vai trò quyết định nhịp độ phát triển kinh tế trong nửa đầu thập kỷ,thì trong nửa cuối thập kỷ cầu đã vươn lên giữ vai trò đó.Và sự tăng lên của sức mua ở các thị trường đó là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thương mại.Tuy nhiên ở thị trường trong nước khả năng tăng trưởng nhanh có lẽ còn khó do vẫn còn nhiều yếu tố trở ngại ngoài những yếu tố thuận lợi. II Thực trạng thị trường của doanh nghiệp thương mại. Năm 2000 đã qua đi với những kết quả đáng phấn khởi về tăng trưởng kinh tế của cả nước.Trong đó hoạt động thương mại đống góp một phần không nhỏ.Về thị trường : 1. Thị trường trong nước. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Năm 2000 so với năm 1999 tăng 6,7% so với 4,8%.Nhu cấu tiêu thụ nhiên liệu,nguyên vật liệu xây dựng của ngành tăng vững.Trong khi giá xăng dầu nguyên vật liệu trên thị trường thế giới tăng mạnh cáng tác động làm giá cả nhiều loại vật tư tăng vững.Ngược lại so với giá của nhiều loại hàng nông sản của Việt Nam như gạo cà phê,đường năm 2000 giảm mạnh do cung dư thừa,sản lượng tăng cao giá xuất khẩu giảm mạnh cùng xu thế giá của thị trường thế giới.Đối với thị trường của một số mặt hàng trong nước. - Giá gạo trong nước giảm mạnh :Theo đánh giá của tổng cục thống kê,mặc dù phải đối phó với hạn hán cục bộ ở các tỉnh phía Bắc,mưa bão ở các tỉnh Trung Bộ,lũ lụt sớm và kéo dài ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nhưng sản xuất nông nghiệp năm 2000 vẫn đặt khá dẫn đến giá bị giảm mạnh làm tăng sức cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường gạo.Điều đó đặt ra những yêu cầu đòi hỏi có các chính sách sao cho có thể tiêu thụ hết lượng lúa gạo hàng hoá đồng thời bảo vệ lợi ích cho người nông dân. -Bên cạnh gạo còn có hai mặt hàng nông sản khác cũng trong tình trạng tương tự là đường và cà phê.Nguồn cung dư thừa giá đường giảm mạnh.Còn giá cà phê thì giảm kỷ lục.ở khu vực nông thôn do giá của nhiều loại nông sản giảm sút kéo theo sức mua của nông dân giảm làm cho nhu cầu tiêu thụ của một số mặt hàng khác giảm theo.Nhu cầu tiêu thụ thịt lợn cũng khó tăng lên.Còn nhu cầu tiêu thụ thịt lợn ở các thành phố lớn đã bão hoà.Giá thịt lợn năm qua giảm đáng kể ở cả hai miền Nam- Bắc. Ngược lại còn những mặt hàng có xu hướng phát triển khả quan giá cả tăng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường. - Giá xăng dầu trong nước tăng mạnh theo giá thế giới. Năm 2000 giá xăng dấu trên thế giới đã liên tục tăng với tốc độ cao.Giá vồn nhập khẩu xăng dầu cũng tăng kỷ lục.Trước tình hình này,để đảm bảo các hoạt động của các ngành kinh tế trong nước diễn ra bình thường không bị tác động đột ngột của giá xăng dầu thế giới tăng cao.Năm 2000 thủ tướng chính phủ cho phép 4 lần điều chỉnh giá bán tối đa xăng dầu theo nguyên tắc:Nhà nước gánh chịu một phần(giảm thuế thu nhập đối với xăng dầu,bù lỗ cho doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh xăng dầu) doanh nghiệp chịu một phần và người tiêu dùng cùng chia sẻ tăng giá có mức độ. Cho đến cuối năm 2000 giá bán xăng dâu tăng 800 đồng /lít (tăng 18,6%) lên 5100 dồng/1lít.Dầu do tăng 400đ/l (11,1%) lên 4000 đ/l dầu hoả tăng 100 đ/l (2,7%) lên 3800 đ/l,dầu ma dút tăng 700 đ/kg (38,9%) lên 2500 đ/kg. -Nhu cầu tăng mạnh nhưng giá xi măng vẫn ổn định.Theo tổng công ty xi măng Việt Nam,Năm 2000 nhu cầu xi măng đã tăng khá mạnh,đạt tới 13,7 triệu tấn,cao hơn 1,2 triệu tấn so với dự đoán đầu năm.Nhu cầu tiêu thụ clinker của các trạm nghiền của địa phương tăng nhanh.9 tháng đầu năm 2000 toàn ngành xi măng hầu như đã tiêu thụ hết xi măng tồn kho từ năm 1999.Quý IV năm 2000 ước tính lên tới 3,8-:- 4 triệu tấn,vượt khả năng sản xuất 0,3 -:- 0,5 triệu tấn.Trong bôi cảnh này chính phủ đã cho phép nhập khẩu dinker cho các trạm nghiền nhằm cân đối cung cầu.Ước tính sản lượng xi măng năm 2000 tăng lên 30% so với năm 1999 lên 13,5 triệu tấn.Cùng với tồn kho năm 2000 lớn,nguồn cung xi măng đáp ứng được nhu cầu,làm cho giá cả ổn định.Hiện nay đối với xi măng.Nhà nước vẫn quy định giá giới hạn tối đa ở một số thị trường chính là Hà Nội,Đà Nẵng và TPHCM giá bán lẻ xi măng PC30 năm 2000 là 770 đ/kg 900-:- 940 đ/kg,vẫn thấp hơn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của cả nước (ước tính năm 2000). Ước tính tổng mức năm 2000(tỉ đồng) Cơ cấu (%) Ước tính năm 2000 so với năm 1999 (%) Tổng số A.Phân theo khu vực và thành phần kinh tế Khu vực kinh tế trong nước Nhà nước Tập thể Tư nhân Cá thể Hỗn hợp Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài B.Phân theo ngành hoạt động Thương nghiệp Hàng lương thực –thực phẩm Hàng phi lương thực –thực phẩm Khách sạn-Nhà hàng Khách sạn Nhà hàng Dịch vụ Du lịch Cớ sở trực tiếp bán lẻ 219400 216300 40000 1580 16000 146920 11800 3100 155200 46300 108900 26730 3730 23000 10700 1850 24920 100,0 98,6 18,2 0,7 7,3 67,0 5,4 1,4 70,7 21,1 49,6 12,2 1,7 10,5 4,9 0,8 11,4 109,1 107,3 115,6 117,5 108,0 108,9 117,5 118,7 108,9 109,3 107,0 109,9 109,2 110,1 110,8 118,1 106,4 Số liệu trích trong :Tạp chí con số-sự kiện Số 28/2000 Giá bán lẻ tối đa 200 – 500 đ/kg -Thị trường vàng trầm lặng giá tiếp tục giảm: Chỉ số vàng giảm 1,7% năm 2000.C0s hai nguyên nhân làm cho giá vàng trong nước tiếp tục giảm.Một là giá vàng thế giới tiếp tục giảm và duy trì ở mức thấp.Hai là tình trạng thiểu phát tiếp tục diễn ra.Năm 2000 mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục tăng nhanh hơn.Nhưng chỉ số giá tiêu dùng cả năm vẫn tiếp tục giảm 0,5% sau khi đã giảm 0,1% năm 1999.Trong khi đó giá đô la Mỹ năm 2000 đã tăng 3,4% không chỉ làm nhu cầu mua vàng của dân cư hầu như không còn mà người dân còn tăng bán vàng thỏi ra để chuyển sang vốn đô la Mỹ hoặc VNĐ điều này càng làm cho thị trường vàng trầm lặng hơn. 2. Thị trường quốc tế. Năm qua hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của cả nước.Tổng kim nghạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,3 tỷ USD,nhập khẩu đạt 15,2 tỷ USD vượt xa chỉ tiêu năm 2000.Mặc dù chưa xuất hiện thêm thị trường mới nhưng kim ngạch xuất khẩu với nhiều nước đã tăng nhanh.Trong số các thị trường đã có thì châu á vẫn là khu vực có nhiều bạn hàng lớn của nước ta như Nhật Bản (kim nghạch xuất nhập đều khoảng 2 tỷ USD) Trung Quốc, Singapo, Thái Lan Hồng kông, Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Inđônêxia…Đây vừa là lợi thế vừa là khó khăn. Lợi thế là bạn hàng trong khu vực dễ hiểu, buôn bán đường gần,nhanh quay vòng,giảm chi phí vận chuyển, cùng chung nhiều chính sách trong hội nhập khu vực.Song do lợi thế này là không phải của bất cứ quốc gia nào mà là chung của tất cả các quốc gia trong khu vực nên nó lại trở thành khó khăn và thách thức. Với thị trường Châu Âu chúng ta ngày càng có quan hệ mở rộng hơn với các mặt hàng lớn như là:Dệt may, giày dép,hải sản.Kim nghạch hai chiều với nhiều nước gia tăng nhanh chóng như :Pháp, Hà Lan,Đan Mạch,Italia,ucraina… Nhưng với các bạn hàng truyền thống của những năm trước như Nga,Ba Lan,Hungari,Bungari..Thì quan hệ thương mại mới chỉ là bước đầu khôi phục. Nước ta cũng có quan hệ buôn bán với nhiều nước Châu Phi,Châu Mỹ nhưng giá trị các giao dịch còn nhỏ và chưa ổn định.Riêng Mỹ có thể còn xem là tiến bộ đáng kể trong hai năm 1999-2000 (Theo số liệu 10 tháng năm 2000 kim nghạch hai chiều với Mỹ 939 triệu USD.Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được quốc hội hai nước phê chuẩn năm 2000 sẽ tạo ra những cơ hội lớn trong quan hệ buôn bán giữa hai nước,chúng cũng đòi hỏi sự vươn lên nhanh chóng của hàng hoá Việt Nam trong cạnh tranh thâm nhập thị trường.Cụ thể đối với một số mặt hàng chủ lực của nước ta. Giá gạo trên thị trường thế giới giảm,thị trường gạo thế giới trì trệ,giá trào bán gạo của Việt Nam năm qua giảm 19-20% đến thang 12 chỉ còn 147 USD/tấn.FOB(5% tấn);153 USD/tấn FOB (25% tấn) giảm 22,4% so với năm 1999. -Cà phê: Sự giảm giá cà phê thế giới làm cho kim nghạch xuất khẩu cà phê năm 2000 ước tính chỉ đạt 489 triệu USD giảm 17% mặc dù vậy thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn được duy trì và phát triển,Cà phê Việt Nam hiện được xuất khẩu sang 50 nước và khu vực trên thế giới.Đặc biệt xuất khẩu của cà phê Việt Nam vào thị trường Mỹ đã tăng kỷ lục đua Mỹ thành nước nhập khẩu cà phê lớn thứ hai của Việt Nam sau Thuỵ sĩ (khoảng 24% tổng lượng cà phê xuất khẩu),Đức 10%,Singapo 9%,Anh 8%,Hà Lan7%... Nhìn chung năm 2000 kim nghạch xuất khẩu ngoài hai mặt hàng chính là gạo và cà phê giảm mạnh thì các mặt hàng khác đều có xu hướng tăng.Đặc biệt là rau quả tăng 95,2%,dầu thô 71,2%,hải sản 51,9%. Tình hình xuất nhập khẩu của nước ta được thể hiện ở bảng sau: Xuất nhập khẩu của cả nước (Triệu USD) Ước tính T12/2000 Ước tính Năm 2000 Ước tính năm 2000/1999 (%) Tổng giá trị xuất khẩu Khu vực kinh tế trong nước, Khu vực có vốn đầu tư NN. + Dầu thô + Các sản phẩm khác Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Dầu thô Dệt may Hải sản Dày dép Điện tử,máy tính Gạo Cà phê Thủ công mỹ nghệ. Rau quả Cao su Hạt tiêu Hạt điều Than đá Chè Lạc Tổng giá trị nhập khẩu Khu vực kinh tế trong nước Khu vực có vốn đầu tư NN Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu Máy móc TB,Dụng cụ phụ tung Xăng dầu Nguyên phụ liệu Dệt,may,da Điện tử,máy tính và linh kiện Sắt thép Trong đó:Phôi thép Xe máy Phân bón Trong đó:urê Chất dẻo Vải Hoá chất Tân dược Sợi dệt Ôtô Thuốc trù sâu Bông 1300 648 652 345 307 345 170 150 120 66 52 36 18 20 20 1 14 7 7 2 1408 1008 400 200 143 130 85 62 19 77 43 30 36 27 28 30 19 20 10 7 14308 7406 6902 3582 3320 3582 1815 1475 1402 790 668 485 235 205 170 142 130 88 53,4 42 15200 10856 4344 2482 2016 1334 869 788 192 706 509 266 477 316 307 301 229 219 112 99 124,0 108,0 147,4 171,2 128,2 171,2 103,9 151,9 100,7 135,0 65,2 82,9 139,9 195,2 115,8 103,6 118,2 91,6 118,7 128,7 130,8 131,7 128,4 123,8 191,3 121,7 137,9 130,9 114,4 176,9 109,7 140,5 138,0 62,6 119,0 112,7 118,2 172,3 84,2 108,7 3. Thông tin về thị trường. Trong quá trình hội nhập AFTA và tiến tới Việt Nam sẽ ra nhập OPEC và WTO sẽ tạo điều kiện để cho mở rộng thị trường buôn bán với các nước khu vực và trên thế giới. Hàng hoá Việt Nam sẽ có điều kiện để thâm nhập thị trường mới.Dự kiến trong thời gian tới giá của một số mặt hàng của Việt Nam sẽ có khả năng tăng đối với những mặt hàng chủ lực của Việt Nam như:Xăng Dầu để đảm bảo điều kiện hoạt động bình thường cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đồng thới giảm bớt khó khăn cho ngân sách nhà nước trong điều kiện giá nhập khẩu duy trì ở mức cao,thì năm 2001 nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh giá xăng dầu khoảng 15% so với cuối năm 2000.Dự đoán lượng dầu thô xuất khẩu năm 2001 sẽ tăng 10% so với năm 2000. Năm 2001 giá điện sẽ tăng.Dự kiến năm 2001 tổng sản lượng điện sẽ tăng 11,5% so với năm 2000 lên đến 29,57 tỷ KWh và sản lượng điện mua ngoài giảm 2,1% còn 1,9 tỷ KWh và giá sẽ được điếu chỉnh tăng lên mức bình quân tối đa tương đương 5,8 US cent /KWh so với mức hiện nay tương đương khoảng 5,39 US cent/KWh.Cùng với giá điện giá than sẽ tăng lên 10-15% so với năm 2000.Dự kiến năm 2001 sẽ sản xuất than sạch ở mức 10 triệu tấn. Theo bộ NN & PTNN,năm 2001 nhu cầu tiêu thụ phân u rê khoảng 2,1 triệu tấn,các yếu tố đầu vào của sản xuất phân lân như giá điện quạng Apatit,giá lưu huỳnh có khả năng tăng lên làm chi phí sản xuất tăng,giá bán trong nước tăng 5-7% so với năm 2000 Năm 2001 chính phủ sẽ duy trì điều hành như năm 2000 đối với ngành phân bón và xi măng cùng thị trường cung cầu được cân đối. Đối với những mặt hàng năm 2000 giá giảm mạnh như cà phê, đường thì đến năm 2001 vẫn chưa có xu hướng khả quan để tăng do sản lượng vẫn tăng.Cà phê dự đoán sản lượng vẫn tăng lên 3%,đường sẽ tăng từ 6-8% so với vụ trước.Điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp thích hợp để khuyến khích doanh nghiệp suất khẩu khoảng 150000 tấn đường trong năm 2001. IV- Đánh giá chung về thị trường doanh nghiệp thương mại. 1. Những ngành tiêu thụ đã đạt được. Trong những năm qua với rất nhiều nỗ lực và cố gắng của các doanh nghiệp,kết hợp với những điều kiện thuận lợi về chính sách,đường lối mở rộng kinh tế của nhà nước.Đặc biệt việc gia nhập ASEAN là yếu tố quan trọng trên lĩnh vực thương mại dịch vụ.Đây là một thị trường rộng lớn khoảng 500 triệu dân. Thị trường của nước ta đã mở rộng sang hầu hết các châu lục. Hàng hoá Việt Nam đã xâm nhập được vào cả các thị trường khó tính như thị trường của các nước EU, Châu mỹ. Các doanh nghiệp đã biết khai thác tốt các lợi thế của nước ta đó là điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu.Chúng ta đã vươn lên đứng thứ hai trên thế giới về suet khẩu gạo sau Thái Lan,thứ ba thế giới về xuất khẩu cà phê và một số mặt hàng khác tổng kim nghạch năm sau tăng hơn năm trước rất nhiều như hải sản,thủ công mỹ nghệ,dầu thô … và thị phần trên các mặt này ngày càng được củng cố và phát triển. Đối với thị trường trong nước hàng hoá nội địa hầu như đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân ngày càng đa \dạng và phong phú,mở rộng thị trường trên tất cả các miền vùng,làm chủ thị trường trong nước.Nối liền thị trường nông thôn với thị trường thành thị,các khu công nghiệp và với thị trường ngoài nước.Thực hiện tốt vai trò của mình với tư cách là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. 2. Những mặt tồn tại và khó khăn. Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ như đã nói ở trên.Vẫn còn những khó khăn cần được tháo gỡ để các doanh nghiệp thương mại làm tốt công tác phát triển và mở rộng thị trường Vì thách thức lớn nhất lá cạnh tranh của thương mại Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước.Bởi vì,một trong những chương trình lớn của AFTA là chương trình CEPT.Thực chất là cắt giảm thuế quan chung xuống 0-5% khi các nước thành viên buôn bán với nhau.Như vậy sự cạnh tranh lại càng gay gắt.Điều này lại càng khó đối với hàng hoá Việt Nam,vì trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực đã đi trước Việt Nam từ 20-30 năm mà đây lại là thị trường rộng lớn đối với nước ta. Một vấn đề nữa là chất lượng hàng hoá :Cùng một loại hàng hoá nhưng giá hàng của Việt Nam lại thấp hơn của các nước khác.Và đa số chúng ta con suat khẩu sản phẩm thô chưa qua chế biến.Một khía cạnh khác của hàng Việt Nam hiện nay khi thâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới là phải qua thị trường trung gian để tái sản xuất . Tính chủ động,khả năng khai thác các cơ hội trên thị trường của thương mại Việt Nam còn hạn chế do đó nó làm sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam còn thấp.Khả năng mở rộng thị trường đã được cải thiện,song tốc độ tăng thiếu ổn định.Tính cạnh tranh thương mại đang ở mức cầm chừng duy trì thị phần đã có,chưa có sự đột phá để thay đổi cục diện thương mại,chưa tận dụng hết được các thế mạnh của mình,hơn nữa các doanh nghiệp của ta còn một số yếu điểm nữa là :Năng lực tài chính yếu,công nghệ, kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý và một số thể chế.Để khắc phục những yếu kém và giải quyết những tồn tại cần phải có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề này. Chương III: Một số biện pháp mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại. I- Triển vọng về thị trường của doanh nghiệp thương mại. Trong những năm tới thị trường trong nước vẫn giữ vai trò quan trọng,cùng với sản lượng hàng hoá tăng lên thì nhu cầu tiêu dung của nhân dân cũng tăng lên.Thị trường trong nước luôn là cở sở để các doanh nghiệp mở rộng thị trường ra thị trường nước ngoài.Triển vọng thị trường nước ngoài của Việt Nam đến năm 2010 thị trường chính rộng lớn nhất vẫn là thị trường Châu á ở trong thị trường này hàng năm kim nghạch suất nhập khẩu hai chiều vào một số nước là rất lớn như Nhật Bản,thị trường EU là rất lớn,khó tính nhưng cũng có nhu cầu về một số mặt hàng đặc biệt của Việt Nam như thủ công mỹ nghệ,dệt may. Thị trường Châu Mỹ tương tự thị trường EU thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn và có thu lợi ích xuất khẩu cao,nhưng chế độ mậu dịch hết sức chặt chẽ và khả năng tiếp cận thị trường bị hạn chế.Do đó triển vọng suất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ phụ thuộc vào chính sách mậu dịch của Mỹ Các sản phẩm nông nghiệp có triển vọng nhất đến năm 2010 hiện nay là lương thực,đay tơ.Các thị trường các nước Châu Mỹ La Tinh cũng là khu vực thị trường suất khẩu sản phẩm nông sản trên thị trường thế giới,nhất là các nhóm sản phẩm nhiệt đới.Do điều kiện địa lý không thuận tiện,tiển vọng suất khẩu các sản phẩm nông sản của Việt Nam sang thị trường này không lớn nếu chỉ với nhóm hàng ngũ cốc nhưng khối lượng sẽ không nhiều. Thị trường Châu Phi:Các nước Châu Phi là một trong những khu vực thị trường có xu hướng chuyển từ xuất siêu sang nhập siêu.Các sản phẩm nông nghiệp chính trong giai đoạn tới trong đó nhập khẩu hàng ngũ cốc và các sản phẩm sữa sẽ tăng rất lớn.Tuy nhiên đây là một Châu lục nghèo, chiến tranh liên miên do đó tính rủi do thương mại cao,trong khi lợi ích xuất khẩu thu được thấp và thường phải qua các tổ chức quốc gia trung gian.Vì vậy triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang khu vực này không lớn và chỉ dừng lại ở nhóm hàng ngũ cốc nên thị trường các nước Châu Phi vân được xem là thị trường tiềm năng cho triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Các thị trường khác:Ngoài ra các nước như úc, Niu-di-lan cũng là các thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam tuy nhiên số lượng chưa nhiều và mới chủ yếu là sang úc,Khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị trường này cũng không lớn do dung lượng thị trường nhỏ và nhu cầu nhập khẩu thấp. Tóm lại triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn từ nay tới năm 2010 là rất lớn với khả năng thực hiện cao trên cả hai thị trường là xuất khẩu và nhập khẩu.Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra là triển vọng và khả nâng thực hiện trong việc nâng cao giá trị xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp VN trên thị trường thế giới.Đây là vấn đề lớn,trong chừng mực nào đó,phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định phát triển chế biến công nghiệp của Việt Nam mà không phụ thuộc váo su hướng của thị trường hàng nông sản thế giới,bởi vì cơ hội xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến và có hàm lượng chế biến sâu trong giai đoạn này đối với Việt Nam là hoàn toàn có thực như các sản phẩm dầu mỡ,dầu khô,thịt lợn,thịt gia cầm. II- Phương hướng phát triển của thị trường doanh nghiệp thương mại. Muốn phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại phải có những phương hướng cụ thể,hiệu quả cao. -Trước hết đó là phải tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước và trên thị trường thế giới, cạnh tranh về giá cả mẫu mã,chất lượng hàng hoá. - Đa dạng hoá và mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước cho phép làm tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu. => Có các triến lược củng cố và giữ khách hàng trên thị trường truyền thống vừa có cơ hội mở rộng thị trường có nhièu triển vọng. - Củng cố giữ vũng và phát triển thị phần ở các thị trường có triển vọng trong thời gian tới. - Tổ chức lại thị trường trong nước. III- Biện pháp phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại. 1. Về phía các doanh nghiệp thương mại. Đối các doanh nghiệp trước hết phải nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về những cơ hội,những thách thức trong quá trình hội nhập,đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ trong quá trình đó,tránh tình trạng thờ ơ của các doanh nghiệp như hiện nay,hình như họ coi việc hội nhập là việc của nhà nước,còn với họ chỉ là những “phi vụ” làm ăn “đánh quả “ thiếu sự chuẩn bị cho hội nhập. Để tăng cường sức cạnh tranh, phát triển và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập thì các doanh nghiệp phải chủ động xây dưng chiến lược kinh doanh về mặt hàng, thị trường và các giải pháp thâm nhập vào các thị trường và phát triển nó trong tương lai.Chiến lực kinh doanh phải được xây dung trên cơ sở chiến lực chung của ngành,tiềm lực của doanh nghiệp trong nền kinh tế mở và sự nghiên cứu,dự báo phát triển thị trường trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp Hoàn thiện bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thương mại. Hoàn thiện bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp cơ cấu tổ chức phải vừa đảm bảo ổn định lâu dài,vừa đảm bảo tính năng động,điều chỉnh cho phù hợp với hoạt động kinh doanh trong thời kỳ.Đối với cán bộ chủ chốt cần có chế độ khuyến khích đặc biệt gắn liền với hiệu quả kinh doanh. Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động maketting trong doanh nghiệp nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp trong những năm vừa qua cho thấy: Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ và coi hệ thống lý thuyết marketing như là một công cụ để thích nghi với môi trường kinh doanh mới,vì vậy các doanh nghiệp thường lúng túng bị động trước những thay đổi của thị trường,khách hàng.Để nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới các doanh nghiệp cần xây dung và tổ chức thức hiện tốt 3 chiến lược marketing chiến lược hướng tời khách hàng,chiến lược cạnh tranh,chiến lược thích nghi thông qua tiến bộ của khoa học công nghệ.Trong đó chiến lược hướng tới khách hàng là cơ sở của mọi chiến lược. Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi do trong kinh doanh thâm nhập tong bước vào thị trường nhằm đánh giá được phản ứng của thị trường để từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp.Đa dạng hoá các sản phẩm ngành kinh doanh để hỗ trợ lẫn nhau.Nâng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh củng cố thị phần. Mặt khác các doanh nghiệp cần tăng cường sự hợp tác,liên kết với các cơ sở để sản xuất ra các hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về mẫu mã và chủng loại,chất lượng và giá cả.Trong sự hợp tác này cần phải chú ý những hàng hoá có tính độc đáo,những thị trường nghách. Trong điều kiện phát triển kinh tế thế giới ngày nay để đảm bảo hoà nhập vào thị trường.Các doanh nghiệp phải đổi mới phương thức hoạt động theo hướng hiện đại hoá từ khâu tiếp thị,quảng cáo, mua bán hàng hoá,thanh toán với các dịch vụ sau bán hàng để tạo nên sức hấp dẫn đối với khách hàng. 2. Về phía chính phủ. Cần có sự cải tiến về chính sách thương mại và các chính sách có liên quan đến hoạt động thương mại (Chính sách về thuế,hải quan..)để tạo môi trường kinh tế cạnh tranh,một sự thông thoáng trong hoạt động thương mại.Đặc biệt phải tạo ra sự phân biệt đối xử trong chính sách thương mại.Bởi vì sự phân biệt đối xử sẽ giảm sức cạnh tranh nội sinh,chỉ nên bảo hộ nếu có điều kiện,có thời gian có lựa chọn để đảm bảo “độ trưởng thành” của nền kinh tế một cách chủ động. Bên cạnh các chính sách thương mại.Các chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh thương mại như: Phát triển cơ sở hạ tầng(giao thông vận tải,thông tin..) Chính sách đào tạo cán bộ đổi mới cơ chế quản lý và xếp loại các doanh nghiệp thương mại cần được chú ý giải quyết.Cần tạo một hệ thống giao thông vận tải hợp lý để tiết kiệm chi phí lưu thông,tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá và đảm bảo chất lượng hàng hoá trong quá trình vận chuyển.Đồng thời tạo một mạng lưới thông tin quốc gia mạnh để đáp ứng cung cấp kịp thời đầy đủ các thông tin về thị trường thương mại,các chính sách và thể chế trong và ngoài nước giúp cho thương mại Việt Nam bắt kịp với thương mại khu vực,thương mại thế giới,chủ động thâm nhập thị trường và nâng cao sức cạnh tranh.Đổi mới cỏ chế quản lý sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp thương mại phải hướng tới tạo ra một phương thức quản lý có hiệu quả,tránh tình trạng “buông lỏng “ hoặc “giẫm chân” lên nhau trên thị trường dẫn đến tranh mua,tranh bán, triệt tiêu lẫn nhau.Hướng chung là nên có một đầu mối quản lý tập trung trong lĩnh vực thương mại ( Xoá bỏ tình trạng hiện nay quá nhiều đầu mối quả lý thương mại,cần xây dựng một số tập đoàn thượng mại mạnh,các tập đoàn này có thể là liên hiệp theo ngành hàng, theo lãnh thổ chuyên doanh và kinh doanh tổng hợp làm trụ cột cho nền thương mại Việt Nam. Để thực hiện được các vấn đề đặt ra có tính quyết định là việc đào tạo một lược lượng lao động trong lĩnh vực thương mại vừa có trình độ khoa học quản lý,trong nghiệp vụ kinh doanh trong việc tiếp cận với khoa học công nghệ mới đế có thể nghiên cứu, khai thác xử lý các tình huống thị trường,có nghệ thuật kinh doanh hiện đại,vừa có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng. 3. Một số kiến nghị - Phải phát triển nhằm vào thị trường nội địa. Đây là một thị trường rộng lớn với gần 80 triệu dân,tổ chức lại thị trường trong Nước. - Cần làm sâu,làm mạnh hơn để nâng cao nhận thức của các nghành, các cấp, các Doanh nghiệp với công tác thị trường ngoài nước, trên cơ sở đó có những quyết sách mạnh mẽ đối với công tác này cả về mặt tổ chức,cán bộ,tài chính. - Về xúc tiến thương mại cần lập một tổ chức phát triển thị trường nước ngoài thuộc bộ thương mại,trong đó có sự hỗ trợ của Nhà nước, triển khai thêm một tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài do nhà nước cấp kinh phí. Nghiên cứu cho phép mở rộng công ty của Việt Nam ở nước ngoài vốn do nhà nước cấp. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin báo chí thương mại. - Tổ chức thu thêm và xử lý các thông tin,nghiên cứu tìm hiểu khả năng, yêu cầu đối với hàng hoá của ta thâm nhập vào sở tại và có kiến nghị những biện pháp tổ chức thực hiện ,tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh,đề xuất các biện pháp khắc phục đối với hàng hoá của Việt Nam.Chủ động cung cấp về bộ các thông tin thương mại. Trên đây là một số biện pháp chủ yếu mà nhà nước và bản thân các doanh nghiệp thương mại phải thực hiện trong thời gian tới để đạt được mục tiêu đề ra nhằm củng cố và mở rộng phát triển thị trường của các doanh nghiệp thương mại. Kết luận Để có thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường với những cạnh tranh gay gắt như hiện nay.Cũng như các doanh nghiệp khác.Các doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường phải có định hướng cho mình,thị trường của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Nó quyết định việc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không.Một doanh nghiệp có thị trường vững chắc và ngày càng mở rộng thì chắc chắn doanh nghiệp đó kinh doanh có hiệu quả,thực hiện các mục tiêu,tạo ra lợi nhuận nuôi sống doanh nghiệp góp phần vào xây dung nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên công phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại Việt Nam vẫn còn đang đứng trước những thách thức lớn.Chủ yếu là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam,thị trường mới chỉ là thị trường nghách …Đứng trước những khó khăn này các doanh nghiệp thương mại Việt Nam vẫn đang tìm cách vươn lên để vượt qua tiến tới phát triển mạnh vào các thị trường lớn trên thế giới.Và vẫn là một ngành có đóng góp không nhỏ vào GDP hàng năm của nước ta. DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo. 1. Giáo trình kinh tế thương mại. PGS.TS Nguyễn duy Bột. PGS.TS Đặng Đình Đào. NXB Giáo dục – 1997. 2. Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại. PGS.TS Hoàn Minh Đường. TS Nguyễn Thừa Lộc. NXB Giáo dục – 1998. 3. Giáo trình Maketting thương mại. TS Nguyễn Xuân Quang. NXB Thống Kê - 1999. 4. Maketting căn bản - Philip kotler. 5. Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số: 5/1999; 1, 5, 6, 11 Năm 2000. Số 4, 11, 20 Năm 2001. 6. Tạp chí thương mại số: 10,17,19,20,21 năm 2001. 7. Tạp chí Con số và Sự kiện số:10/2000. 8. Tạp chí Thời báo Kinh tế Việt Nam. 9. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000-2001. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35156.doc
Tài liệu liên quan