Đề án Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Mỗi Doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trên thương trường, dù ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào đều phải chấp nhận sự cạnh tranh như một yếu tố thúc đẩy phải cố gắng hết sức để tồn tại phát triển. Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và những chính sách khác của Nhà nước đã tạo điều kiện cho rất nhiều Doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại thị trường Việt Nam và cũng mở ra nhiều cơ hội để các Doanh nghiệp trong và ngoài nước đua tài. Chính vì vậy, sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ là những cuộc cạnh tranh gay gắt, ganh đua rất quyết liệt. Ngành hàng dệt may Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đã đề ra từ nay đến năm 2010, ngành dệt may còn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu của ngành đến những khó khăn của việc cạnh tranh trên thị trường thế giới.

doc26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho thấy được phần nào khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp : - Thị phần tuyệt đối của Doanh nghiệp tính theo doanh thu : Doanh thu của doanh nghiệp Thị phần của doanh nghiệp = Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trường - Thị phần tuyệt đối của Doanh nghiệp tính theo khối lượng hàng hoá bán ra : Lượng bán ra của Doanh nghiệp Thị phần của Doanh nghiệp = Tổng lượng tiêu thụ trên thị trường Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên quy mô thị trường của Doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thấy được mối quan hệ tương quan về quy mô thị trường giữa Doanh nghiệp và các đối thủ khác này ta phải dựa vào các chỉ tiêu thị phần tương đối. 312. Thị phần tương đối : Thị phần tương đối của một Doanh nghiệp là tỷ lệ về thị phần của Doanh nghiệp so với thị phần của đối thủ khác : Thị phần của Doanh nghiệp Thị phần tương đối của DN = Thị phần của đối thủ 32. Tỷ suất lợi nhuận : Chỉ tiêu này có thể được tính cho từng sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong từng giai đoạn cụ thể : Nếu tính cho từng đơn vị sản phẩm ta có : Giá bán – Giá thành Tỷ suất lợi nhuận = Giá bán Nếu tính cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ ta có : Tổng doanh thu – Giá vốn hàng bán Tỷ suất lợi nhuận = Tổng doanh thu ý nghĩa của chỉ tiêu : chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 33. Tỷ lệ giữa tốc độ tăng chi phí Marketing và tốc độ tăng doanh thu do tăng chi phí Marketing : Tốc độ tăng chi phí Marketing Tỷ lệ tăng chi phí Mar = và tăng doanh thu Tốc độ tăng doanh thu do tăng chi phí Marketing Chỉ tiêu này cao chứng tỏ là hoạt động Marketing của Doanh nghiệp đang được đầu tư một cách hiệu quả. 34. Các chỉ tiêu mang tính định tính : Các chỉ tiêu này bao gồm : khả năng phản ứng nhanh trước các tình huống bất ngờ : chỉ tiêu này có thể được tính bằng tỷ lệ giữa các lần phản ứng nhanh có hiệu quả trên tổng số lần phản ứng nhanh của công ty ; khả năng trả đũa ngay lập tức các đối thủ ; khả năng chịu đựng của công ty ; khả năng đưa ra các thông điệp có ý nghĩa tới các Doanh nghiệp khác trong ngành. 4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các Doanh nghiệp: Các Doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh thì điều đầu tiên cần phải quan tâm là xác định chính xác các đối thủ, tiến hành phân tích các đối thủ và lựa chọn cách thức cạnh tranh phù hợp, tiến hành xây dựng lợi thế cạnh tranh và tập chung cố gắng nỗ lực để giữ vững những lợi thế đó. Để cạnh tranh, thông thường, các Doanh nghiệp thường sử dụng một số công cụ chủ yếu sau : 41. Cạnh tranh bằng sản phẩm : Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ quyết định chữ tín của Doanh nghiệp và tạo ra lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh, do đó, cạnh tranh bằng sản phẩm đòi hỏi Doanh nghiệp phải chú trọng thích đáng đến các khâu, các qúa trình có tính quyết định đến chất lượng sản phẩm. Nội dung của cạnh tranh bằng sản phẩm bao gồm : Cạnh tranh về trình độ, chất lượng, bao bì, nhãn mác sản phẩm và khai thác tốt chu kỳ sống của sản phẩm. 42. Cạnh tranh bằng giá cả : Cạnh tranh bằng giá cả hiện nay vẫn được sử dụng nhiều do tính chưa ổn định trong hoạt động của các Doanh nghiệp cũng như trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Cạnh tranh về giá cả thường chỉ được sử dụng trong giai đoạn đầu khi Doanh nghiệp mới bước vào thị trường mới và trong giai đoạn cuối của chu kỳ sống của sản phẩm. Cạnh tranh về giá cả được thể hiện ở những nội dung như : kinh doanh với chi phí thấp, bán với mức giá hạ và với mức giá thấp,… 43. Cạnh tranh trong thiết lập mạng lưới kênh phân phối : Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác. Một Doanh nghiệp mà có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo được lòng tin, uy tín đối với khách hàng và sẽ được khách hàng lựa chọn. Thiết lập mạng lưới kênh phân phối phải căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá dịch vụ và yêu cầu của khách hàng. Lựa chọn hình thức bán cũng là một trong những vấn đề quyết định đến hiệu quả cạnh tranh của Doanh nghiệp vì nó tác động rất lớn đến tâm lý của khách hàng. Kinh nghiệm kinh doanh của nhiều nước đã cho thấy, bán hàng thông qua các hình thức như gọi điện thoại (bán hàng từ xa), bán hàng qua các nhân viên tiếp thị,... là những hình thức rất hiệu quả. 44. Cạnh tranh về thời cơ thị trường : Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ các Doanh nghiệp dự báo trước được những thay đổi của thị trường, từ đó đưa ra được các chính sách khai thác thị trường hợp lý và sớm hơn các đối thủ. Một trong những yêu cầu của việc cạnh tranh về thời cơ thị trường là khả năng phán đoán và khả năng thích ứng của Doanh nghiệp vơí các thay đổi của môi trường kinh doanh. 45. Cạnh tranh về không gian và thời gian : Trong trường hợp mà giá cả sản phẩm của các Doanh nghiệp trên thị trường chênh lệch không lớn, chất lượng sản phẩm tương đối đồng đều và ổn định thì yếu tố không gian và thời gian đóng vai trò quan trọng quyết định đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm hàng hoá. Những Doanh nghiệp nào có qúa trình buôn bán trao đổi nhanh, thuận tiện sẽ giành thắng lợi trong cạnh tranh. CHƯƠNG 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam I. Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt May Việt Nam: 1. Vai trò của ngành dệt may : Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hướng xuất khẩu của đất nước, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế. Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong giai đoạn đầu phát triển của các nước, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có tính thâm căn cố đế trong nước và sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng. Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển dệt may thường đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này. Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, đáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng. 2. Đặc điểm : Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay. Theo một số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được thành lập. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, các Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bắt đầu. Công nghiệp dệt may có những đặc điểm cơ bản sau : - Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Một số đặc trưng đó là : + Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng - người tiêu dùng khác nhau sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. + Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. + Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình, đó thường là sự chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất. + Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ, phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp. - Về sản xuất : Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Như vậy, không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. - Về thị trường : Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới. II. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam : Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 có thể đạt 1650 – 1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1999. Với tốc độ phát triển của ngành dệt may như hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 2000 – 2150 triệu USD vào năm 2002 là có thể trở thành hiện thực. Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới. Trong đó, xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị trường có hạn ngạch. Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành dệt may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm. Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%),… Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua ngững vấn đề sau : 1. Về sản lượng : Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dệt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%). Ngoài ra, số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993, sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu. 2. Về loại hình sở hữu : Đối với ngành dệt, Doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 60% tổng sản lượng của ngành năm 1996, trong khi đó Doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 24% và đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16%. Ngành may, đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ tương tự là 15 %, trong khi đó Doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 36%. Nét đặc trưng không bình thường của tỷ trọng chia theo loại hình sở hữu đó là khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt Nam. Như vậy, việc cải cách Doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay. 3. Đầu tư nước ngoài : Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may. Sau 10 năm ban hành Luật đầu tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD. Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi. Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2 triệu USD,... 4. Về thiết bị : Phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi, phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường,… Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp, dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hàng như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không,... 5. Về lương : Đầu những năm 1990, mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong những mức lương thấp nhất ở các nước Châu á. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ lương ở Việt Nam đã tăng (lương TB là 58USD/ tháng ), cao hơn Trung Quốc. Gần đây, sự giảm giá của một số đồng tiền tại Đông Nam á làm cho mức lương của một số nước trở nên thấp hơn mức lương của Việt Nam, đặc biệt năm 1998, mức lương của Inđônêxia thấp hơn một nửa mức lương của Việt Nam. 6. Về năng suất : Năng suất trong ngành dệt may Việt Nam được tính bằng giá trị gia tăng theo lao động là rất thấp trong đầu những năm 1990 so với các nước trong nghiên cứu, đặc biệt so với Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Trong những năm gần đây, giá trị gia tăng theo lao động của nước ta đã đuổi kịp Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính làm thay đổi giá trị gia tăng tính theo USD trong năm 1997 và 1998, đặc biệt đối với Inđônêxia, năng suất lao động được tính giá trị gia tăng theo lao động bằng USD đã giảm đột ngột . Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể được xem như là đại diện cạnh tranh quốc tế về chi phí. Chỉ số này của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc, Iđônêxia, Malaixia và Hàn Quốc, nó chỉ ra rằng ngành dệt của Việt Nam cạnh tranh thấp hơn so với các nước đã nói trên. 7. Về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu : Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may vẫn tăng lên mạnh mẽ, điều này một lần nữa lại cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa cải cách kinh tế với kết quả xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 43 triệu USD trong năm 1988 lên 1,3 tỷ USD vào năm 1996. Tuy điểm khởi đầu của ngành là rất nhỏ bé nhưng những thành tích đạt được là rất ấn tượng. Dệt may là ngành chế tác có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam do lợi nhuận lớn, trong thời kỳ đầu xuất khẩu, nó tạo nên 60% tổng giá trị xuất khẩu. Như đã dự báo, tỷ lệ này giảm dần xuống khi quá trình đa dạng hoá xuất khẩu bắt đầu có kết quả. Tuy vậy ngành dệt may vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 1996, ngành chiếm 1/5 tổng kim ngạch. Với những thành tựu đã đạt được cũng cần lưu ý một thực tế là từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã phải chuyển quan hệ thương mại từ khối các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây (COMECOM) sang hướng khác. Đây là điều quan trọng cần tính đến trong ngành dệt may với quy định chặt chẽ trên thị trường quốc tế hiện nay. Trong thời kỳ hậu COMECOM, vào tháng 12 năm 1992, Việt Nam đã đàm phán Hiệp định về buôn bán hàng dệt đầu tiên và đã ký một khuôn khổ về buôn bán hàng dệt với EU, cho phép lần đầu tiên Việt Nam được hưởng hạn ngạch MFA ( Hiệp định đa sợi ). Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được với thị trường Mỹ rộng lớn, và là một nhà xuất khẩu non trẻ, nên ngành dệt Việt Nam buộc phải tiến vào các thị trường phi hạn ngạch có tính cạnh tranh rất cao, chủ yếu là ở Đông á. III. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam : 1. Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam : 11. Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành dệt may : Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4.9.1998, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là : Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu trong nước về số lượng, chất lượng, giá cả và chủng loại, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước. Quan điểm chung về phát triển ngành dệt may Việt Nam là : + Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình CNH-HĐH đất nước. + Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu nội địa, thay thế nhập khẩu kết hợp với hướng ra xuất khẩu, hoà nhập vào sự phát triển thị trường khu vực và thế giới. + Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng sở hữu và tập trung vào các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiến hành cổ phần hóa các Doanh nghiệp may và một số Doanh nghiệp dệt. +Phát triển công nghiệp dệt may gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế khác: Trồng bông, dâu tơ tằm, ngành hoá chất, cơ khí,… Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu phát triển chung, các mục tiêu cụ thể đặt ra cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 như sau : Bảng 1 : Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 Đơn vị Năm 2000 2005 2010 +Sản xuất Vải lụa Triệu mét 800 1330 2000 Sản phẩm dệt kim Triệu sản phẩm 70 150 210 Sản phẩm may(quy chuẩn) Triệu sản phẩm 580 780 1200 +Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 2000 3000 4000 Hàng dệt Triệu USD 370 800 1000 Hàng may Triệu USD 1630 2200 3000 Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, Bộ công nghiệp. Để đạt được những mục tiêu này, từ nay tới năm 2005, ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, từ năm 2005 đến 2010 tăng trưởng 14%/năm. Trên cơ sở hiện trạng củng cố và phát triển các trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng và vùng duyên hải Miền Trung, các cơ sở may dự kiến được phân bổ rộng rãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại những vùng gần bến cảng, sân bay, trục giao thông chính thuận lợi cho xuất khẩu. 12.Về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may : Ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố sau : + Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ : có thể nói đây là lợi thế nổi bật của ngành dệt may Việt Nam. Tính đến năm 1997, dân số Việt Nam đã lên tới 73,355 triệu người trong đó có trên 42 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay ở Việt Nam vẫn còn ở mức khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực. Lao động dồi dào và tiềm năng lương thấp là lợi thế mạnh cơ bản của Việt Nam trong giai đoạn này để tiếp nhận sự chuyển dịch của ngành dệt may của các nước phát triển và các nước NICs , thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của ngành. + Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá : Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, khu vực trong những năm đầu thập kỷ 90 có tốc tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6-8%/năm, trong những năm qua và cũng là khu vực có dân số đông nhất thế giới. Nền kinh tế phát triển nhanh dẫn đến mức tiêu thụ hàng tiêu dùng trong đó hàng dệt may tăng với tốc độ vượt xa tốc độ tăng tiêu thụ của các nước Châu Mỹ hay Châu Âu. Vị trí của Việt Nam cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài, có nhiều hải cảng nước sâu và có khí hậu tốt cũng như có điều kiện phát triển đường bộ và đường sắt theo dự án xây dựng đường sắt xuyên Âu - á theo dự án của ADB. + Khả năng cung cấp nguyên liệu : Việt Nam có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển cây bông. Chương trình phát triển cây bông đến năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã được đưa vào thực hiện và có kết quả bước đầu. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa truyền thống của Việt Nam đã được phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao, được ưu chuộng trên thế giới tuy sản lượng còn thấp. Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất sợi tổng hợp và vải không dệt với triển vọng hình thành và phát triển các cơ sở hoá dầu. +Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ : Theo đánh giá của UNDP, trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam mới chỉ ở mức 2/7, rất lạc hậu so với thiết bị ngành dệt thế giới. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài nên khó có khả năng đổi mới nhanh thiết bị công nghệ, đòi hỏi phải có những chương trình đầu tư lớn, đổi mới trang thiết bị về cơ bản. Tuy nhiên, trong những năm qua, trang thiết bị ngành may đã có những thay đổi đáng kể với các thiết bị công nghệ mới của các nước tiên tiến, có thể sản xuất những mặt hàng chất lượng quốc tế. Phần lớn các Doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị , công nghệ theo điều kiện biến động của thị trường. + Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ : Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, được xếp vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư phát triển. Nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành trong thời gian qua đã có tác dụng thiết thực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn của Doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Những quy định mới của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ phần nào những khó khăn về tài chính của Doanh nghiệp cũng như khuyến khích về đầu tư vào ngành dệt may, giải quyết được những khó khăn trong tổ chức kinh doanh xuất khẩu và khuyến khích các Doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu. + Khả năng cạnh tranh : Xuất phát từ những lợi thế trên, mặc dù sản phẩm dệt may của Việt Nam hầu như chưa được biết đến trên thị trường thế giới nhưng sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam được đánh gía cao về nhiều phương diện. Chất lượng sản phẩm tốt và ổn định, thời gian giao hàng được xem vào loại khá tốt so với các nước Châu á. 2. Những vấn đề tồn tại : Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dệt may Việt Nam đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức từ nhiều phía : - Ngành dệt có tốc độ tăng trưởng thấp, không theo kịp tốc độ tăng trưởng của ngành may. Chất lượng và chủng loại vải không đáp ứng được yêu cầu may hàng năm, ngành may phải nhập khẩu 80% vải nguyên liệu. Trang thiết bị lạc hậu, trên 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm lại thiếu vốn đổi mới thiết bị công nghệ, không đáp ứng được yêu cầu của ngành may về chất lượng cũng như chủng loại sản phẩm. Nguyên liệu cho ngành dệt vừa thiếu vừa không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, sản phẩm dệt Việt Nam vừa đơn điệu về chủng loại, chất lượng thấp, giá thành cao, kém sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. - Những bất ổn trong nền kinh tế của nhiều nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia,... những nước đứng đầu trong đầu tư vào ngành dệt Việt Nam do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực khiến các nước này giãn tiến độ đầu tư, chậm chễ trong cung cấp nguyên phụ liệu,... cũng gây khó khăn đáng kể cho các Doanh nghiệp dệt có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. - Không chỉ phải nhập nguyên liệu do ngành dệt nội địa không đủ khả năng cung cấp, hầu hết các phụ liệu khác ngành may xuất khẩu cũng phải nhập ngoại, một phần do sản xuất phụ liệu trong nước chưa được chú trọng đúng mức, hiện mới chỉ cung được một số loại như chỉ của Coats-Tootal, dây kéo của Phong Phú, nhãn mác của Việt Tiến,… với số lượng hạn chế, một phần do khách hàng nước ngoài yêu cầu phải sử dụng phụ liệu do bên họ cung cấp. Vì vậy, các Doanh nghiệp thường rơi vào thế bị động do nguồn cung cấp nguyên phụ liệu chậm chễ, thiếu đồng bộ hay không đảm bảo quy cách phẩm chất. - Trình độ thiết kế kiểu mẫu còn rất yếu kém. Trong khi đó, khâu thiết kế mẫu đem lại giá trị gia tăng cao, xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm khoảng 20% hạn ngạch xuất khẩu. Do đó, kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng phần ngoại tệ thực tế thu được lại nhỏ. Bên cạnh việc thực hiện các hợp đồng gia công lại không ổn định, phụ thuộc vào giá nhân công và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu. - Mặc dù gia công cho nước ngoài hiệu quả thấp, thường bị thua thiệt nhưng hiện nay khoảng 90 % các Doanh nghiệp may vẫn tiếp tục gia công cho nước ngoài. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này : + Các Doanh nghiệp không có đơn đặt hàng, không có tên tuổi và uy tín trên thị trường. Hầu hết các hạn ngạch được sử dụng để làm gia công cho nước ngoài, về thực chất là chuyển nhượng hạn ngạch. Ngay cả mặt hàng Việt Nam xuất theo hình thức FOB cũng mang nhãn hiệu của các nước khác : Pierne Cardin, Youth, Polo, Hangsin,... + Gia công xuất khẩu ít rủi ro cả về sản xuất lẫn tiêu thụ sản phẩm, lại không đòi hỏi phải có nhiều vốn. + Các chính sách quản lý ( thuế, thủ tục hải quan,…) chưa thực sự có tác dụng khuyến khích xuất khẩu trực tiếp. - Về thị trường xuất khẩu, hàng dệt may cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, cả thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch. Từ năm 1993, sau khi hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU được ký kết, nhiều Doanh nghiệp, tỉnh, thành phố đã đầu tư mới để sản xuất hàng xuất khẩu sang EU. Tuy nhiên, hầu hết năng lực thiết bị mới đầu tư của ngành may là dây chuyền sản xuất “Cat” nóng, dẫn đến tình trạng hạn ngạch cho các mặt hàng này thì thiếu trong khi các “cat” lạnh, các mặt hàng đã được bỏ hạn ngạch cũng như sản phẩm xuất sang thị trường phi hạn ngạch không được đầu tư đúng mức. Xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam sang EU thường chịu điều kiện ràng buộc về nhập khẩu nguyên phụ liệu từ thị trường này với mức giá cao hơn giá các sản phẩm tương đương của các nước trong khu vực, làm ảnh hưởng đến khả năng về giá của sản phẩm Việt Nam. Xuất khẩu theo hạn ngạch của Việt Nam sang một số thị trường hạn ngạch khác như Canada, Thổ Nhĩ Kỳ,… còn rất thấp trong khi xuất khẩu sang hầu hết các thị trường không hạn ngạch đã giảm trong năm 1998 và còn nhiều khó khăn trong năm 1999 và thời gian tiếp theo. - Về cơ chế quản lý nhập khẩu : Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may được xác định là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư phát triển với nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, về tín dụng, về thuế doanh thu cũng như thuế nhập khẩu, có tác dụng thiết thực trong khuyến khích xuất khẩu và gia công xuất khẩu, tháo gỡ các khó khăn cho Doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi đáng kể trong công tác quản lý XNK, nhiều chính sách biện pháp vẫn còn bất cập, gây khó khăn cho các Doanh nghiệp sản xuất – XNK hàng dệt may. Nhiều quy định trở nên không còn hợp lý trong điều kiện sản xuất kinh doanh đã thay đổi như quy định về tỷ lệ xuất khẩu theo giấy phép đầu tư, chính sách phân bổ hạn ngạch,...Trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn, những quy định này trở thành trở ngại lớn đối với các Doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định mới được ban hành thường không được thông tin đầy đủ, kịp thời đến các Doanh nghiệp hoặc không có một thời gian đệm hợp lý cho các nhà đầu tư chuẩn bị trước khi các quy định mới có hiệu lực. Có thể nói, sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn kém cạnh tranh hơn nhiều nước trong khu vực về nhiều mặt : a. Về giá : giá hàng dệt kim của Việt Nam tương đối có sức cạnh tranh do Việt Nam chủ động được từ sản xuất sợi đến may thành phẩm nhưng giá hàng dệt thoi của Việt Nam được đánh giá là quá đắt. Một mặt do từ nguyên phụ liệu đến công nghệ, thiết bị hầu hết phải nhập khẩu , một mặt do Việt Nam chỉ làm những khâu cắt, ráp , đóng góp … có giá trị gia tăng thấp. Bảng 2 : Bảng so sánh hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản (Yên / sản phẩm ) Tên nước Hàng dệt Hàng dệt thoi Các loại khác Việt Nam 390 1185,2 1345 Trung Quốc 436 867 1030 Inđônêsia 534 574 839,4 Thái Lan 397 1274,8 1438,6 Hàn Quốc 452 1376,4 1616 b. Về cơ cấu sản phẩm : sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đơn điệu. Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt là với các trang phục cao cấp. c. Về thị trường : Việt Nam đang tham gia vào thị trường thế giới khi thị trường đã khá định hình, phải cạnh tranh với các nước có cùng loại sản xuất xuất khẩu nhưng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trường, lại được ưu đãi hơn trong các hiệp định song phương hay đa phương về hàng dệt may với các nước nhập khẩu. d. Về môi trường kinh doanh : Theo đánh giá của các nhà đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài. Thời gian cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiều cấp quản lý. Khó khăn trong việc chuyển đổi ngoại tệ để mua vật liệu từ nước thứ ba trong khi nguồn cung cấp trong nước hạn chế và chất lượng không đảm bảo. Bên cạnh các chính sách khuyến khích đầu tư, so với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện : Các dịch vụ tài chính, ngân hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu kém, chi phí điện nước, liên lạc viến thông cao,…Với mặt hàng dệt may, khối lượng nguyên liệu nhập khẩu cũng như xuất khẩu thành phẩm cần phải chuyển tải lớn thì các yếu tố trên càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang cố gắng khắc phục dần những yếu điểm của mình để đi lên hoà nhập cùng nhịp với thế giới và ngành dệt may Việt Nam cũng như hàng dệt may của Việt Nam cũng đang từng bước chuyển đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Trên cơ sở các yếu tố về triển vọng và khả năng cạnh tranh cũng như những mặt tồn tại của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, từ đó dự báo triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ nay đến năm 2010, về tiềm năng mở rộng thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm như sau : Bảng 3 : Dự báo triển vọng xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Thị trường hạn ngạch Thị trường không hạn ngạch 1998 Kim ngạch xuất khẩu 1350 650 700 % tăng trưởng– triệu USD 101 144,4 77,86 1999 Kim ngạch xuất khẩu 1150 - 1500 690 – 710 760 –800 % tăng trưởng– triệu USD 107 – 111 106 –110 108 -114 2000 Kim ngạch xuất khẩu 1600 -1720 740 - 760 860 - 960 % tăng trưởng– triệu USD 110 - 115 106 - 107 113 - 120 2005 Kim ngạch xuất khẩu 2550 - 2560 1260 - 1270 1290 - 1300 % tăng trưởng– triệu USD 107,7 111 107,5 2010 Kim ngạch xuất khẩu 3750– 3760 % tăng trưởng– triệu USD 108 Để thực hiện các mục tiêu cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010, cần thực hiện một số hệ thống các chính sách, giải pháp đồng bộ về đầu tư phát triển, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất cũng như sức mạnh của sản phẩm kết hợp với khai thác mở rộng thị trường tiêu thụ, tiếp cận và từng bước hội nhập với thị trường thế giới. Chương 3 : Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 1. Một số biện pháp chung : Ngày nay, các cơ sở kinh tế vĩ mô và chính trị cho việc phát triển và khả năng cạnh tranh kinh tế đã được nhận thức một cách khá rõ. Một môi trường chính trị và một chính sách kinh tế vĩ mô ổn định kéo theo nền tài chính vững mạnh, có sự tăng trưởng hợp lý về tiền tệ và tín dụng, một mức nợ có thể kiểm soát được, lạm phát tương đối thấp, giới hạn vai trò thích hợp cuả Chính phủ trong nền kinh tế cùng với sự mở cửa với các thị trường quốc tế là yếu tố để thúc đẩy tăng trưởng. Thêm vào đó, lý thuyết tăng trưởng nhấn mạnh tầm quan trong của tích luỹ trong nước và một tỷ lệ đầu tư quốc gia cao vào vốn vật chất và con người. Vai trò chính của các biến số kinh tế vĩ mô là hình thành ra bối cảnh những khả năng cạnh tranh ở các ngành và các Doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, các chính sách hợp lý ở tầm vĩ mô là những điều kiện tiền đề cần thiết đối với tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh. Trong khi các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý tạo ra được tiềm năng để cải thiện cạnh tranh thì năng suất chỉ có thể tăng được khi Việt Nam tăng cường những năng lực của mình ở cấp Doanh nghiệp và các ngành tương ứng. Một trong những cơ sở chính của năng suất và khả năng cạnh tranh chính là chất lượng của các hoạt động và chiến lược của Doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả khi các Doanh nghiệp Việt Nam có thể cải tiến được thực tiễn hoạt động và chiến lược của mình thì điều đó vẫn chưa đủ để đảm bảo tăng năng suất và khả năng cạnh tranh. Vì quan trọng là các chính sách, các thể chế và cơ sở hạ tầng phải tạo nên môi trường kinh doanh để các Doanh nghiệp cạnh tranh. Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là : Hướng vào xuất khẩu, nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, từng bước đưa công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước. 11. Đầu tư phát triển : Đầu tư phải được tính toán trên phạm vi toàn ngành, tập trung cho ngành dệt và ngành sản xuất phụ liệu may, đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đặc biệt là khâu nhuộm và khâu hoàn tất. Ưu tiên các công trình đầu tư 100% vốn nước ngoài trong ngành dệt. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may đối với đầu tư nước ngoài vào ngành may. Ưu tiên các dự án sản xuất các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được và sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường phi hạn ngạch. Đầu tư của Nhà nước tập trung cho các công trình trọng điểm, các xí nghiệp dệt, nhuộm, hoàn tất có quy mô lớn, sản xuất các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa ngành may nhằm tự túc nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu quy mô đầu tư thích hợp với đặc thù hoạt động của Doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh. 12. Chính sách về thị trường xuất khẩu : Với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá, bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản,… sớm khôi phục lại các thị trường như SNG và Đông Âu, phát triển các thị trường mới như Mỹ, Canada, Trung Đông, giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Đông Nam á. Tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước, hỗ trợ Doanh nghiệp trong công tác Marketing. Bên cạnh việc tìm hiểu, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, các đặc điểm về kinh tế văn hoá xã hội cũng như bản sắc, truyền thống dân tộc của các quốc gia, cần phải có những chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển với từng thị trường cụ thể, trước hết là các thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng như đã nêu ở trên. 13. Về nguyên liệu và phát triển sản phẩm : Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đâù tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt, để từ đó nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công, tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trường thế giới, đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Nhằm đáp ứng và đón đầu yêu cầu ngày càng cao về môi trường, an toàn sản xuất, ngay từ bây giờ phải có chính sách khuyến khích đầu tư cho sản xuất dệt “ Xanh – Sạch” theo tiêu chuẩn ISO9000 và ISO14000. 14. Phát triển sản phẩm : Hiện nay, mặt hàng may mặc xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công nên giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, về ý nghĩa xã hội của ngành dệt may lại rất lớn, vì hơn 40.000 lao động được thu hút vào lĩnh vực này. Do vậy, việc phát triển sản xuất hàng dệt may, trong đó có hàng gia công cần được chú trọng. Bên cạnh đó, chất lượng hàng dệt may cần phải được nâng cấp lên một bước, đáp ứng những thay đổi về thời trang ở các nước, đó cũng là một trong những chiến lược để nâng cao cạnh tranh của sản phẩm này trên thị trường thế giới. 15. Về phát triển khoa học, kỹ thuật, và chuyển giao công nghệ : Kết hợp hài hoà giữa công nghệ hiên đại và thiết bị công nghệ đã trải qua sử dụng, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản phẩm, vừa cân đối được vốn đầu tư cho trang thiết bị và đảm bảo tính cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở tính hiệu quả kinh tế. Ưu tiên đầu tư cho công nghệ thiết kế trên máy vi tính, nhằm nâng cao năng lực sáng tác mẫu mã. Có chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án sản xuất sản phẩm mới theo tiêu chuẩn TMQ, ISO14000, ISO9000. Đẩy mạnh cạnh tranh trong nước và quốc tế, đó cũng chính là giành khuyến khích mạnh nhất đối với việc nâng cấp công nghệ. Cần đẩy mạnh việc chuyển giao một cánh đầy đủ bí quyết công nghệ từ các nhà cung ứng nước ngoài. Khuyến khích việc nâng cấp công nghệ ở các Doanh nghiệp thông qua việc cung cấp và khuyến khích như vốn miễn thuế dành cho dự trữ phát triển công nghệ. 16. Về tổ chức quản lý : Đảm bảo phải có một sự thay đổi trong thực tiễn quản lý hiện nay, như việc thiếu trách nhiệm và thiếu các động lực khuyến khích nâng cao nghề nghiệp dẫn đến kết qủa hoạt động yếu kém ở nhiều Doanh nghiệp. Nâng cao năng lực của các nhà quản lý Doanh nghiệp bằng cách nâng cao chất lượng của việc dạy lý thuyết và bằng cách tăng những cơ hội cho các nhà quản lý hiện có nâng cao các kỹ thuật kinh doanh. Tổ chức sắp xếp lại các Doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu 17. Chính sách về lao động, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực : Chất lượng của nguồn nhân lực có những ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất, xuất khẩu, FDI, kết quả quản lý và công nghệ. Việc tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam là một yếu tố quyết định then chốt đối với tăng trưởng kinh tế và công nghiệp cũng như đối với tăng khả năng cạnh tranh. Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học ngành dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây truyền hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt Nam. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao trong ngành dệt may. 2. Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh : 21. Phương hướng : Trong thời gian tới mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam là sẽ cạnh tranh trên các mặt : - Cạnh tranh về chất lượng. - Chí phí cho nguyên vật liệu. - Mạng lưới cung cấp hàng dệt may trên thị trường. - Cạnh tranh bằng uy tín của các Doanh nghiệp,… Tất cả các mục tiêu trên đều nhằm mục tiêu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường trong nước và cả trên thế giới. Để thực hiện được những mục tiêu đó thì phải có những biện pháp cụ thể và phải được thực hiện đồng bộ. 22. Biện pháp : Trước hết phải xây dựng chiến lược kinh doanh trong đó đặc biệt quan tâm đến chiến lược cạnh tranh. Chiến lược cạnh tranh phải được xây dựng trên cơ sở : - Tiềm năng của các Doanh nghiệp. - Nhu cầu của khách hàng. - Tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh, mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh. Trong chiến lược cạnh tranh phải nêu lên được những biện pháp có tính chiến lược - đó là những biện pháp để cạnh tranh lâu dài như chất lượng sản phẩm, uy tín,… đồng thời cũng cần có những biện pháp cạnh tranh trước mắt như giá cả, mẫu mã, kiểu dáng, thiết kế... 221. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá các loại sản phẩm - biện pháp có tính chiến lược : Trước hết, các Doanh nghiệp phải quản lý chất lượng của sản phẩm dệt may theo một hệ thống ở các chi nhánh, từ đó đề ra các giải pháp để khắc phục, sửa chữa những chỗ còn yếu kém, đồng thời phát huy những điểm mạnh. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng của sản phẩm là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Do đó, các Doanh nghiệp cần phải đầu tư trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng dệt may, đồng thời, lập kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực cán bộ. Cùng với việc nâng cao chất lượng hàng dệt may, thì cũng cần phải đa dạng hoá các loại sản phẩm nhằm mục đích mở rộng thị trường và thu hút khách hàng. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá loại hình hàng dệt may là một trong những biện pháp quan trọng để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, tạo ra uy thế so với các đối thủ cạnh tranh và dần chiếm được những thị phần quan trọng. 222. Thiết lập chính sách giá cả thích hợp : Giá cả là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng. Để thu hút được khách hàng, chính sách giá cả phải mền dẻo, linh hoạt phù hợp với thị trường trên cơ sở giữ vững 2 nguyên tắc : kinh doanh có lãi và đảm bảo được sự cân xứng tương đối giữa các sản phẩm và sự tương đương của giá trị đồng tiền ở các thị trường khác nhau trên thế giới. Đối với những khách hàng khác nhau thì áp dụng những mức giá khác nhau và dùng chính sách giá để tạo cơ hội cho khách hàng mới có khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam. Cũng như chất lượng của sản phẩm dệt may giá cả của hàng dệt may cũng là một trong những yếu tố để khách hàng lựa chọn. Nếu Doanh nghiệp nào có sản phẩm tốt, giá rẻ thì sẽ có nhiều cơ hội thành công trên thương trường, đẩy lùi được các đối thủ cạnh tranh. Đối với hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì chính sách giá cả là một công cụ của Marketing hữu hiệu để thu hút thêm nhiều khách hàng mới. 223. Hoàn thiện mạng lưói kênh phân phối : Đây là việc làm rất quan trọng và cần thiết đối với ngành dệt may Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, khi cạnh tranh là một yếu tố không thể tránh khỏi thì việc hoàn thiện, củng cố mạng lưới kênh phân phối là điều kiện tất yếu để Doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh. 224. Không ngừng nâng cao uy tín đối với khách hàng : Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối với một Doanh nghiệp. Chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả, dịch vụ,… đối với khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cho nên cần phải được coi trọng, từng bước cải thiện được hình ảnh tốt đẹp của Doanh nghiệp trong mắt khách hàng. Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Để xuất khẩu trực tiếp sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy, các Doanh nghiệp Việt Nam khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để thâm nhập thị trường, trong giai đoạn đầu, là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của công ty nước ngoài để làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới sự thiết kế mẫu mã, tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may, khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Mỗi Doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trên thương trường, dù ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào đều phải chấp nhận sự cạnh tranh như một yếu tố thúc đẩy phải cố gắng hết sức để tồn tại phát triển. Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và những chính sách khác của Nhà nước đã tạo điều kiện cho rất nhiều Doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại thị trường Việt Nam và cũng mở ra nhiều cơ hội để các Doanh nghiệp trong và ngoài nước đua tài. Chính vì vậy, sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ là những cuộc cạnh tranh gay gắt, ganh đua rất quyết liệt. Ngành hàng dệt may Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đã đề ra từ nay đến năm 2010, ngành dệt may còn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu của ngành đến những khó khăn của việc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việc nghiên cứu về biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi cạnh tranh là một yếu tố tồn tại khách quan trong nền kinh tế. Với những lý do trên, hy vọng rằng bài viết sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc tìm ra biện pháp cạnh tranh hiệu quả cho các Doanh nghiệp nói chung và cho ngành hàng dệt may Việt Nam nói riêng. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thày giáo hướng dẫn Vũ Phán cùng một số bạn đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này ! Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí công nghiệp các số trong năm 1999, 2000, 2001. 2. Tạp chí thương mại, số 1-12 năm 1999. 3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 1-12 năm 2000, 2001. 4. Thời báo kinh tế Việt Nam các số 8,9 năm 2000. 5. Luật thương mại. 6. Michael E.Porter- Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa học kỹ thuật, 1996. 7. John Shaw - Chiến lược thị trường, NXB Thế giới 1995. 8. Đào DuyHuân - Chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, NXB Thống kê, 1996. 9. Philip Koler – Markrting cơ bản, NXB Thông kê, 1994. 10. Bộ KH&ĐT – Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1999. 11. Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp. Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương1- Tổng quang về cạnh tranh 2 I- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 2 1. Khái niệm và đặc điểm vận động của thị trường 2 2. Quan niệm về cạnh tranh 2 3. Phân loại cạnh tranh 3 II- Doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh 3 1. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3 2. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3 3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 5 4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp 6 Chương 2 - Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam 8 I- Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 8 1. Vai trò của ngành dệt may 8 2. Đặc điểm 8 II- Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam 9 III- Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam 12 1. Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 12 2. Những vấn đề tồn tại 15 Chương 3- Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 19 1. Một số biện pháp chung 19 2. Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh 21 Kết luận 24 Tài liệu tham khảo 25

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35278.doc
Tài liệu liên quan