Đề án Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹp Hải Châu

Những giá trị vô hình của doanh nghiệp trên thị trường, thực sự là một chỉ tiêu khó xác định, vì lượng hóa "giá trị vô hình" là một vấn đề khó khăn. Song nó có một vị trí hết sức quan trọng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Gía trị vô hình đó là những gì thuộc về uy tín, danh tiếng, hình ảnh Công ty, đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Như khi nói đến các sản phẩm Nhật Bản thì người ta nói ngay đến chất lượng sản phẩm. Nói đến Microsoft người ta nói ngay đến Bill Gate.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹp Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với hàng hoá nước ngoài sản xuất. a.3 Trình độ về khoa học công nghệ: Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh. Trình độ khoa học công nghệ tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ cao. - Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiêu đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. - Trình độ khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin. Ngày nay, thông tin cần được xử lý, truyền đạt một cách nhanh chóng, chính xác bằng những phương tiện hiện đại. Đó là một yêu cầu bức bách để bảo đảm cho các doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. - Trình độ khoa học công nghệ tác động đến việc tạo ra các thế hệ kỹ thuật mới, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa bảo vệ môi trường sinh thái và như vậy trong cạnh tranh chắc chắn chúng sẽ có lợi thế hơn so với những công nghệ cũ lạc hậu. a.4 Các nhân tố về văn hoá xã hội: Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng, tôn giáo... ảnh hưởng đến cơ cấu của nhu cầu thị trường, và do đó đến điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau với thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và tiêu thụ khác nhau. Chẳng hạn, đối với những khu vực theo tín ngưỡng, tôn giáo mà họ không tiêu dùng một mặt hàng nào đó thì doanh nghiệp sản xuất mặt hàng đó không thể thâm nhập vào được. a.5 Các nhân tố tự nhiên: Nhóm này bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa lý và việc phân bổ địa lý của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp (thậm chí cho sự phát triển kinh tế của đất nước). Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí (do tiết kiệm được nguyên vật liệu chi phí vận chuyển hàng hoá...) và do đó tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, vị trí địa lý thuận lợi cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp khuyếch trương sản phẩm mở rộng thị trường... Ngược lại, những nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh yếu hơn. b) Môi trường ngành: b.1. Theo Michael Porter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là 5 lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyết định lựa chọn phương hướng, nhiệm vụ phát triển của mình. 5 lực lượng đó là. Sơ đồ môi trường ngành Sức ép của những doanh nghiệp mới Sức ép của những các nhà cung ứng Sức ép của những DN hiện tại Sức ép của người tiêu dùng Sức ép của các sản phẩm thay thế b.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành. b.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ nhảy vào thị trường ngành. Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất và quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủe yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ... Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhâp thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó. b.3. Sức ép của nhà cung ứng: Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường họp sau: - Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một học vài công ty độc quyền cung cấp. - Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống màng lưới phân phối hoặc màng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng. b.4. Sức ép của khách hàng: Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng cao mua với khối lượng lớn, tính tập chung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành, sản xuất sẽ tăng lên. b.5. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế: Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nêm sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiết đến khae năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của các doanh nghiệp. 4. Một số kinh nghiệm của các doanh nghiệp nổi tiếng trong quá trình cạnh tranh. Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, các doanh nghiệp thường nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tăng cường các dịch vụ để thu hút khách hàng. - Công ty May Tag chuyên sản xuất máy giặt gia đình đã đề ra tiêu chuẩn về chất lượng máy giặt "mười năm không bị trục trặc". Nhờ trung thành với yêu cầu chất lượng đó mà hãng có thể tăng giá lên 15% mà vẫn giữ được tỉ lệ hàng bán ra lớn nhất trên thị trường, mặc dù sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng ngày càng tăng. - Đối với Công ty Máy tính điện tử HewleH - Packard, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được thực hiện bắt đầu từ cấp lãnh đạo. Giám đốc bộ phận sản xuất cứ tuần lễ thứ 4 trong tháng là đến kiểm tra trực tiếp chất lượng tại nơi sản xuất. Ông còn lợi dụng ngay cả lúc uống cà phê chú ý đến chương trình chất lượng nâng cao của công nhân. Nét cạnh tranh chất lượng độc đáo của Công ty này là hầu như Công ty không phải là nơi đầu tiên đưa sản phẩm mới ra thị trường. Công ty thường chỉ hành động sau khi các Công ty Xerox và IBM bán ra thị trường sản phẩm mới. Chiến lược cạnh tranh của Công ty là đưa các kỹ sư ra thị trường nghiên cứu sản phẩm mới của các hãng cạnh tranh. Họ phỏng vấn khách hàng thích hay không thích điểm nào của sản phẩm mới và theo khách hàng thì cần phải có thêm những đặc tính, công dụng nào nữa. Chẳng bao lâu, Công ty đã có ngay sản phẩm cùng loại để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng với chất lượng hoàn hảo hơn... - Một ví dụ điển hình cho việc lôi kéo thêm khách hàng mới của mình một cách thành công là sản phẩm dầu gội đầu Johnson & Johnson (J & J) của Mỹ - một hãng trước đây chủ yếu sản xuất dầu hội đầu cho trẻ con. Khi tỉ lệ sinh đẻ ở Mỹ giảm xuống thì hãng bắt đầu lo lắng cho tương lại sản phẩm của mình và trị trí đứng đầu của hãng. Các nhà nghiên cứu thị trường của J & J đã phát hiện thấy rằng, ở nhiều gia đình, người lớn cũng ưa dùng dầu gội đầu của trẻ con. Từ những thông tin đó, hãng quyết định mở chiến dịch quảng cáo dầu gội đầu J & J cho mọi lứa tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, nó đã đứng vị trí đầu bảng trong các dầu gội đầu trên thị trường. - Công ty sữa Việt Nam với sản phẩm sữa Vinamilk trong suốt mấy năm qua đã được người tiêu dùng lựa chọn vào TOPTE hàng tiêu dùng Việt Nam. Năm 1996, chiếm 80% thị phần toàn quốc. Sở dĩ sản phẩm của Công ty luôn giữ được vị trí xứng đáng trên thị trường là do Công ty đã giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng mở rộng thị trường. lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải chấp nhận, tuân thủ và biết cách khai thác, tận dụng các quy luật kinh tế. Cạnh tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường. Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội, thuộc Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc - là một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vì vậy Công ty cũng đang đứng trước những thử thách gay gắt, Công ty chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh với các công ty khác. Trong những năm qua với sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty, sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc, Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội đã đứng vững được trên thị trường và đang chiếm một tỷ trọng thị phần lớn trên địa bàn kinh doanh. Song Công ty không tự hài lòng với kết quả, mà phải biết những đe doạ trước mắt trên lĩnh vực kinh doanh đối với Công ty trong thời gian tới. Qua thời gian thực tập, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh ở Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội”. Kết cấu của bài luận văn như sau: Chương I: Lý luận chung về nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh trên thị trường của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Chương I Lý luận chung về nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp I - Khái niệm và vai trò của năng lực cạnh tranh 1. Khái niệm: Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua của các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, và mục tiêu xác định. Theo Các Mác: “Cạnh tranh Tư bản Chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu hút được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã phát hiện ra quy luật của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch của giá cả, chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt và khốc liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hoá với quy luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhưng mặt khác, những ai biết nắm lấy vũ khí cạnh tranh, dám chấp nhận luật chơi phát triển thì sẽ chiến thắng. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là cơ chế vận động của kinh tế thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh là việc nâng cao khả năng, năng lực vị thế của mình trên thị trường nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn các đối thủ cạnh tranh. 2. Phân loại Cạnh tranh trên thị trường có thể phân ra nhiều loại khác nhau, tuỳ thuộc vào các tiêu thức phân loại mà ta có thể chia các loại cạnh tranh như sau: Theo “sách giáo khoa” về phân tích kinh tế xác định nhiều “kiểu lí tưởng” của cấu trúc thị trường có thể phân thành các loại sau: + Cạnh tranh hoàn hảo +Độc quyền. +Độc quyền tập đoàn. + Cạnh tranh độc quyền. - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại sau: + Cạnh tranh giữa người bán và người mua. + Cạnh tranh giữa người mua với người mua. + Cạnh tranh giữa người bán với người bán. Trong đó: Cạnh tranh giữa người bán với nhau hay là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để giành lấy khách hàng và thị trường. Trong cuộc chiến này doanh nghiệp nào thắng lợi thì sẽ tạo được đà phát triển còn doanh nghiệp nào thất bại thì sẽ bị gạt khỏi thị trường. Vì vậy đây là cuộc cạnh tranh mang tính sống còn của doanh nghiệp. - Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế. + Cạnh tranh nội bộ ngành Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá, sản phẩm nhằm thu được lợi hơn so với đối thủ khác để đạt được lợi nhuận siêu ngạch. + Cạnh tranh giữa các ngành Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh, giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao. 3. Tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường cung - cầu được ví như “trung tâm”, giá cả được coi như “hạt nhân” thì cạnh tranh là “linh hồn” của nền kinh tế. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa doanh nghiệp chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh mà “thương trường là chiến trường”, “cạnh tranh là chiến tranh”. Mà “Chiến tranh là việc quốc gia đại sự, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong, không thể không nghiên cứu kỹ”. Đối với doanh nghiệp cũng vậy cạnh tranh được coi là việc lớn quan trọng, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong và phát triển. Vì vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết. Mặt khác, sự vật hiện tượng tồn tại không phải là bất di, bất dịch mà luôn luôn vận động không ngừng tuân theo quy luật đào thải và phát triển. Cạnh tranh trên thị trường cũng thế, không phải một doanh nghiệp nào trên thị trường với vị thế nhất định mà nó thường xuyên biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đảm bảo và duy trì sức mạnh trên thị trường. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải nhận thức được rằng: hiện tại mình có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không ? Về lâu dài hoạt động bán hàng đó có mang lại nhiều lợi nhuận cho mình không. Doanh nghiệp phải chủ động thường xuyên xem xét những yếu tố hình thành chất cạnh tranh, tìm ra được những lợi thế cạnh tranh, những gì mà doanh nghiệp có thể làm tốt hơn so với các đối thủ khác. Mục tiêu phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào, một mặt phải đảm bảo tính lâu dài mặt khác phải lấy chỉ số tổng hợp về thị phần chiếm lĩnh và qua đó thu được lợi nhuận cao, làm chủ đích cần đạt được. Những năm qua, nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, điều đó càng thúc đẩy một cách mạnh mẽ, tích cực việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp, đặc biệt trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế. Chính sách mở cửa, hướng mạnh vào xuất khẩu, tham gia AFTA, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết,...đang mở ra cho các doanh nghiệp nước ta những thời cơ và thách thức rất lớn. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh được các doanh nghiệp đang hết sức quan tâm. Bởi các doanh nghiệp nước ta không còn sự trợ giúp của Nhà nước bằng việc đánh thếu quan vào các mặt hàng nhập khẩu như trước đây nữa. Không những thế mà doanh nghiệp nước ta còn phải biết tận dụng cơ hội đem sản phẩm của mình xâm nhập vào thị trường thế giới trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế toàn cầu. Một vấn đề hiện nay đang được quan tâm, cũng là nỗi băn khoăn của bao nhà quản lý, đó là sự yếu kém, chậm chạm, ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước. Dưới chiếc ô doanh nghiệp Nhà nước một số doanh nghiệp đã làm cho nền kinh tế mất đi tính năng động đích thực vốn có của nó. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng thực hiện một cách triệt để có hiệu qủa việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Tiến trình hội nhập AFTA đã cận kề, việc nâng cao năng lực cạnh tranh hiện nay của các doanh nghiệp là rất cần thiết, tất yếu, là tiền đề thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. 4. Vai trò của cạnh tranh và việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Cạnh tranh như chúng ta đả biết là “linh hồn” của nền kinh tế là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với nền kinh tế. 4.1. Đối với doanh nghiệp - Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được coi như mảnh đất sinh tử đối với mỗi doanh nghiệp, mà doanh nghiệp nào cũng muốn tồn tại và phát triển. Vì vậy cạnh tranh tác động đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. - Cạnh tranh là động lực của sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm tòi đến những cái mới, đổi mới trang thiết bị máy móc, công nghệ quản lý,... - Cạnh tranh đem lại cho các doanh nghiệp vị thế, danh tiếng thông qua những gì họ thể hiện được trong quá trình cạnh tranh. Cạnh tranh tạo dựng một môi trường làm việc đoàn kết, hữu nghị,.. Năng cao năng lực cạnh tranh giúp cho công ty tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. -Năng cao năng lực cạnh tranh giúp cho công ty chóng đỡ lại những đòn tấn công từ các đối thủ cạnh tranh và có khả năng để tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh nhằm mở rộng thị trường. -Năng cao năng lực cạnh tranh cũng có nghĩa công ty năng cao năng lực của một số bộ phận của công ty như: Tài chính, Nhân lực... 4.2. Đối với người tiêu dùng: - Cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng những hàng hoá dịch vụ tốt hơn, rẻ hơn, đẹp hơn. - Cạnh tranh mang lại hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng những nhu cầu của người mua. 4.3. Đối với nền kinh tế quốc dân: - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Cạnh tranh là “cái nôi” sản sinh ra những nhà kinh doanh đại tài. Năng cao năng lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế quốc dân vững mạnh, các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ phục vụ tốt cung cấp hàng hoá-dịch vụ trong nước mà còn có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài. Năng cao năng lực cạnh tranh còn giúp cho nền kinh tế có những cách nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị trường, rút được những bài học thực tiễn bổ sung vào lí luận kinh tế thị trường của nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò to lớn của cạnh tranh và việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp mang lại cho xã hội. Song cũng phải thừa nhận rằng: Vì cuốn hút bởi mục tiêu cạnh tranh mà doanh nghiệp không chịu chi phí cho hoạt động môi trường, các vấn đề xã hội và đôi khi gây ra lãng phí cho xã hội. II - Phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Đánh giá cơ cấu cạnh tranh của ngành Phân tích cơ cấu ngành do GS Michael Porter ở trường kinh doanh Harvard đưa ra. Còn gọi là phương pháp 5 lực lượng cấu trúc cạnh tranh trong một ngành. Sơ đồ 1:Mô hình 5 lực lượng của Micheal Porter Những người gia nhập tiềm năng Người cung ứng Người mua Các đối thủ cạnh tranh trong ngành Sự cạnh tranh giữa các DN đang tồn tại Các SP thay thế gia nhập Mối đe doạ Sức mạnh Sức mạnh của người người mua cung ứng Mối đe doạ thay thế 1.1. Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các đối thủ Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh không phải ngành nào cũng giống nhau. Trong một số ngành thì cạnh tranh diễn ra gay gắt, tìm cách để tiêu diệt lẫn nhau, nhưng cũng có ngành các doanh nghiệp hợp tác với nhau cùng nhau phát triển. Mức độ đó được xác định bởi những yếu tố sau: Tăng trưởng của ngành Tăng trưởng của ngành đang tăng nhanh thì các doanh nghiệp có thể tăng trưởng mà không cần phải chiếm thị phần của các đối thủ, do đó thời gian quản lí sẽ được dành cho việc duy trì sự tăng trưởng cùng với tăng trưởng nhanh của ngành chứ không dùng để tấn công đối thủ. Vì vậy trong những ngành đang tăng trưởng thì mức độ căng thẳng trong cạnh tranh ít hơn. Ngược lại những ngành phát triển chậm hoặc đang suy giảm thì cạnh tranh diễn ra gay gắt. Chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho Chi phí cố định hoặc lưu kho cao thì nếu không duy trì được lượng bán thì sẽ dẫn đến tăng chi phí và giảm lợi nhuận. Vì vậy nếu chi phí này cao dẫn đến mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cao. Sự vượt công suất không liên tục Nếu ngành trải qua thời kỳ vượt công suất và do cầu lao động hay tính kinh tế của qui mô đòi hỏi những bổ sung cho công suất là rất lớn thì sự cạnh tranh gay gắt hơn. Số các doanh nghiệp và qui mô tương đối của chúng Nếu số doanh nghiệp sản xuất hàng hóa thay thế lớn thì sự cạnh tranh sẽ có xu hướng căng thẳng. Số doanh nghiệp nhỏ thì sự cạnh tranh sẽ ít hơn. nhưng nếu các doanh nghiệp trong cùng một ngành có cùng qui mô thì sẽ tăng cạnh tranh. Như vậy mức độ cạnh tranh sẽ là thấp nếu trong ngành có tương đối ít doanh nghiệp và trong các doanh nghiệp đó có 1 doanh nghiệp thực sự mạnh hơn hẳn. Sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh Nếu như các đối thủ cạnh tranh có mục đích giống nhau, có văn hóa Công ty và có các mối quan hệ khác với Công ty mẹ tương đối giống nhau thì sự cạnh tranh diễn ra ít căng thẳng hơn. Lợi ích của doanh nghiệp Sự cạnh tranh đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp, đóng góp của thành công cho lợi nhuận hay vì một giá trị chiến lược nào đó thì sự cạnh tranh diễn ra cực kỳ gay gắt. Hàng rào rút khỏi cao Doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành mà chi phí rút khỏi cao thì các doanh nghiệp thận trọng ở lại ngành và sự cạnh tranh đó diễn ra gay gắt. Chi phí rút khỏi ngành có thể bao gồm chi phí tài chính, hoặc mất mát về giá trị của các tài sản chuyên môn cao và cũng có thể là giá trị tâm lí như cán bộ quản lí không từ bỏ chức vụ, mất chức vụ, uy tín. 1.2. Mối đe doạ từ những người gia nhập mới Mối đe doạ những người gia nhập mới, nó được xác định bằng "độ cao của các hàng rào gia nhập". Nếu hàng rào gia nhập cao thì các doanh nghiệp ở trong ngành không quan tâm đến sự cạnh tranh từ phía những người mới gia nhập, nhưng nếu hàng rào gia nhập thấp thì sự gia nhập dễ dàng diễn ra, dẫn đến cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong ngành với các doanh nghiệp mới gia nhập. Hàng rào gia nhập được quyết định bởi các yếu tố sau: - Tính kinh tế của qui mô. - Sự khác biệt của sản phẩm và lòng trung thành với nhãn hàng. - Đòi hỏi về vốn - Chi phí chuyển đổi với người mua. - Các kênh phân phối. - Lợi thế về chi phí tuyệt đối. - Sự trả đũa dự kiến. - Chính sách của chính phủ. 1.3. Mối đe doạ từ các sản phẩm thay thế Nếu sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách hàng có thể mua các sản phẩm thay thế vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp cạnh tranh sản phẩm của mình với sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế còn phụ thuộc vào: - Giá và công dụng tương đối của các sản phẩm thay thế. - Chi phí chuyển đổi khách hàng. - Khuynh hướng thay thế của người mua. 1.4. Sức mạnh của người mua Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp phụ thuộc vào sức mạnh của người mua. Sức mạnh người mua phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là mức độ nhạy cảm về giá và việc mặc cả nợ của họ. 1.5. Sức mạnh của người cung ứng Sức mạnh của người cung ứng là lực lượng thứ 5 tác động đến mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp theo phương pháp "5 lực lượng" của Meachel Porter. Lực lượng này phụ thuộc vào các yếu tố. - Sự khác biệt của đầu vào. - Chi phí của việc chuyển sang người cung ứng khác. - Sự sẵn có của các đầu vào thay thế. - Sự tập trung của người cung ứng. - Chi phí tương đối so với tổng chi phí mua. -Anh hưởng của đầu vào đến chi phí hoặc sự khác biệt sản phẩm. - Mối đe doạ của việc liên kết xuôi của những người cung ứng. Sự phân tích cơ cấu cạnh tranh ngành đòi hỏi phân tích một loạt các yếu tố (hơn 30 yếu tố).Nhưng khi phân tích ta có thể tập trung vào một số yếu tố quan trọng, từ đó đánh giá được mức độ cạnh tranh của ngành. 2. Phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2.1. Nguồn nhân lực Nhân lực là yếu tố quyết định đến sản xuất kinh doanh, bao gồm: - Ban giám đốc doanh nghiệp - Cán bộ quản lý ở doanh nghiệp - Cán bộ quản lý ở cấp trung gian, đốc công và công nhân a. Ban giám đốc doanh nghiệp Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Là những người vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Các Công ty cổ phần, những Tổng Công ty lớn, ngoài Ban giám đốc còn có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp, quyết định mọi phương hướng, vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Các thành viên trong ban giám đốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên của ban giám đốc có trình độ kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối liên hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những chỉ lợi ích trước mắt như: tăng doanh thu, lợi nhuận mà còn cả uy tín của doanh nghiệp - lợi ích lâu dài và đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trường hợp lý tưởng là các thành viên của ban giám đốc là các chủ sở hữu khác nhau: người cho vay, khách hàng... khi các thành viên ban giám đốc sở hữu một bộ phận cổ phần đáng kể của doanh nghiệp thì khi đó sự an toàn của doanh nghiệp là cao. Việc sở hữu một phần đáng kể cổ phiếu có thể làm tăng trách nhiệm của ban giám đốc đối với các doanh nghiệp và đối với các chủ sở hữu khác, và như vậy họ sẽ quan tâm tới việc giữ gìn và nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp. b. Đội ngũ cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp Những người quản lý chủ chốt mà có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng ê kíp quản lý và sự hiểu biết về doanh nghiệp thì sẽ là một lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp. Bởi vì họ là những người quản lý, theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có thuận lợi khi đội ngũ có cán bộ quản lý có đầy nhiệt huyết, mặt khác các cán bộ quản lý với những trình độ hiểu biết khác nhau có thể tạo ra nhiều ý tưởng sáng tạo trong chiến lược kinh doanh, phù hợp với sự phát triển và khả năng của doanh nghiệp. c. Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân Nguồn cán bộ của doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp là từ những nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất. Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động rất mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi vì khi tay nghề cao lại nhiệt tình lao động thì nhất định chất lượng sản phẩm sẽ được bảo đảm, năng suất lao động sẽ cao. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn có được điều này các doanh nghiệp phải được tổ chức đào tạo lại đội ngũ công nhân, phân chia bậc thợ, có khen thưởng thích đáng để khuyến khích người lao động hăng say hơn nữa trong công việc. 2.2. Nguồn lực vật chất của doanh nghiệp Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và do đó ảnh hưởng tới giá bán của sản phẩm. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại công nghệ sản xuất tiên tiến thì sản phẩm của doanh nghiệp đó nhất định có chất lượng cao và với các ưu thế khác nữa thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp là cao. Ngược lại không một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là một hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu, thì khi đó chất lượng sản phẩm không đảm bảo, chi phí sản xuất lớn do sực lạc hậu của máy móc. 2.3. Tiềm lực tài chính doanh nghiệp Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu tăng lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường. 2.4. Tiềm lực khoa học kỹ thuật nắm bắt công nghệ thông tin Ngày nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp trở thành chiến tranh trí trệ, khoa học kỹ thuật và công nghệ, doanh nghiệp có được tiềm lực về khoa học công nghệ thực sự là một điểm mạnh nhằm đảm bảo năng suất chất lượng, giá thành hạ... 3. Các chính sách nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3.1. Chính sách cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm tổng thể những chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong điều kiện xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường, bởi nó thể hiện sự thoả mãn của nhu cầu khách hàng, của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là mức độ thoả mãn nhu cầu càng lớn, dẫn đến kích thích tiêu thụ sản phẩm từ phía khách hàng tăng lên, từ đó làm tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thế sự cạnh tranh bằng giá cả có xu hướng nhường vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng. Điều đó giải thích tại sao hàng hoá Nhật Bản đắt hơn nhiều so với hàng hoá sản xuất trong nước mà người ta vẫn yêu thích hàng Nhật. Chất lượng sản phẩm còn là các đặc tính về nhãn hiệu bao bì, mẫu mã và tính hữu dụng. Trước đây chúng ta thường xem nhẹ các yếu tố mang tính hình thức “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà quên rằng “nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Kiểu dáng, bao bì, hình ảnh, tiếng tăm,...tất cả tạo nên một tâm lý rất quan trọng cho người sử dụng. Đặc biệt trong cạnh tranh với vô số hàng hoá thì yếu tố này càng trở lên vô cùng quan trọng, là vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp. Cụ thể việc khách hàng quyết định mua một sản phẩm nào họ thường bắt đầu bằng tâm lý tri giác. Những khách hàng quen dùng một sản phẩm với nhãn hiệu, bao bì rồi thì lần sau họ tiếp tục mua lại loại sản phẩm đó. Nhưng nếu mẫu mã sản phẩm đẹp hơn, hấp dẫn hơn, độc đáo hơn thì càng cuốn hút khách hàng. Chất lượng còn thể hiện ở tính hữu dụng cao, tức là phải thuận tiện, đa năng trong sư dụng thì khả năng thắng thế trong cạnh tranh càng cao. Chất lượng sản phẩm còn là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau như tính chất lý hoá, các quy định, hình dáng và màu sắc...Với mỗi loại hàng hoá sản phẩm khác nhau thì chỉ tiêu về chất lượng cũng khác nhau. Vấn đề chính là chất lượng sản phẩm cùng loại với nhau ở các doanh nghiệp khác nhau là phải làm sao cho sản phẩm của doanh nghiệp mình luôn giữ vững và nâng cao hơn, cũng như doanh nghiệp phải biết vượt lên chính chất lượng của mình. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh đều là những doanh nghiệp có thái độ tích cực trong quản lý chất lượng sản phẩm. Những năm trở lại đây các doanh nghiệp luôn quảng cáo rầm rộ hệ thống quản lý chất lượng ISO và luôn hướng doanh nghiệp của mình đạt được các chỉ tiêu của tiêu chuẩn ISO mới. Chất lượng sản phẩm là chính sách cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực trên thị trường. Một khi chất lượng không còn đảm bảo, không còn thoả mãn được nhu cầu khách hàng thì khách hàng tự rời bỏ doanh nghiệp. Do đó để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm. 3.2. Chính sách cạnh tranh bằng giá cả Giá cả có thể hiểu là số tiền của người mua trả cho người bán về mặt cung ứng một hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Hay giá cả sản phẩm biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp dự định có thể nhận được từ người mua thông qua trao đổi trên thị trường. Giá bán của sản phẩm phụ thuộc vào những yếu tố sau: - Các yếu tố kiểm soát được: Chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng; chi phí lưu thông và chi phí yểm trợ xúc tiến bán hàng. - Các yếu tố không thể kiểm soát được: như quan hệ cung - cầu trên thị trường, những biến động chính trị hay những điều tiết Chính phủ. Chính sách giá cả mà doanh nghiệp áp dụng trên thị trường thông qua chính sách định giá. Định giá cả trong kinh doanh là vấn đề phức tạp đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng tỉ mỉ các yếu tố để có thể quyết định giá cả thích hợp cho sản phẩm của mình. Việc định giá của doanh nghiệp căn cứ vào các mặt sau: + Lượng cầu đối với sản phẩm: Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án, ứng với mỗi loại giá khác nhau thì có lượng cầu khác nhau, từ đó chọn lựa, chọn phương án nào tốt nhất đem lại tối đa hoá lợi nhuận dựa trên quy luật cung - cầu. Tuy nhiên việc định giá dựa trên quy luật cung - cầu nó chỉ đúng với những hàng hoá có nhu cầu co giãn. + Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không phải khi nào giá bán cũng cao hơn giá thành mà đôi khi ta dùng chính sách bán phá giá để đánh bại đối thủ cạnh tranh hay để tồn tại. + Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh, tuỳ vào loại thị trường khác nhau mà ta có phương pháp định giá khác nhau. Theo lý thuyết cổ điển, thị trường có thêt chia làm các loại sau: * Thị trường cạnh tranh hoàn hảo Trong cạnh tranh hoàn hảo doanh nghiệp không phải ra các quyết định đặt giá. Doanh nghiệp chấp nhận mức giá do thị trường đặt ra và doanh nghiệp quyết định mức sản lượng bao nhiêu để tối đa hoá lợi nhuận với giá thị trường đó MC = MR = P. * Thị trường cạnh tranh độc quyền Trong độc quyền thì doanh nghiệp có quyền đặt giá và đặt giá sao cho lợi nhuận tối đa. Doanh nghiệp đặt giá tại mức sản lượng. MR = MC ; và P > MC * Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo Thị trường cạnh tranh độc quyền chứa đựng cả những yếu tố của cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Mỗi một doanh nghiệp có một đường cầu dốc xuống vì các sản phẩm khác nhau, vì thế trong ngắn hạn vị trí của mỗi doanh nghiệp rất giống nhà độc quyền, doanh nghiệp là người đặt giá cho sản phẩm của mình chứ không phải là người chấp nhận giá. Trong dài hạn sự tồn tại của siêu lợi nhuận sẽ cuốn hút các doanh nghiệp gia nhập mới, điều đó làm giảm cầu về hàng hoá của mỗi doanh nghiệp và loại trừ lợi nhuận cao bằng việc buộc mỗi doanh nghiệp phải đặt giá bằng chi phí sản xuất trung bình ở tiếp điểm giữa đường cầu của doanh nghiệp và đường ATC của nó. Định giá trong cạnh tranh tập đoàn còn tuân theo các quy tắc như: Swecze, lý thuyết trò chơi, Cartel, chỉ đạo giá... Còn theo giáo sư Michael Porter ở trường kinh doanh Harvard dựa trên phân tích ở cầu ngành theo phương pháp “5 lực lượng”: - Mức độ căng thẳng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang tồn tại. - Mối đe doạ gia nhập. - Mối đe doạ thay thế. - Sức mạnh của người mua. - Sức mạnh của người cung ứng. Theo cách đánh giá này thị trường được chia thành hàng chục loại khác nhau. Có hơn 30 yếu tố phải tính đến trong quá trình phân chia thị trường, tuy nhiên trong từng trường hợp khác nhau thì mức độ quan trọng của các nhân tố đó cũng khác nhau. Vì vậy việc định giá cũng phải dựa trên phân tích một cách thích hợp. Các chính sách định giá: a. Chính sách định giá thấp Chính sách định giá thấp là chính sách mà doanh nghiệp đặt giá thâp hơn giá trị thị trường nhằm thu hút khách hàng về mình. Chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực về vốn lớn, phải tính toán đầy đủ và chắc chắn các tình huống có thể xảy ra. Chính sách này giúp cho doanh nghiệp xâm nhập vào thị trường mới và bán được khối lượng lớn sản phẩm. b. Chính sách định giá ngang bằng Đây là hình thức định giá phổ biến, tức là định giá với sản phẩm xoay quanh mức giá bán sản phẩm cùng loại trên thị trường. c. Chính sách định giá cao Là chính sách mà giá bán sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn giá thống trị trên thị trường. Chính sách định giá này còn gọi chính sách định giá “hớt váng sữa”. Chính sách này thường áp dụng cho các doanh nghiệp có sản phẩm hay dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh. d. Chính sách đặt giá phân biệt Nếu chúng ta có chính sách phân biệt giá để trước các đối thủ cạnh tranh thì sẽ là một vũ khí hết sức lơị hại. Chính sách phân biệt giá được thể hiện cùng với một loại sản phẩm nhưng có nhiều mức giá khác nhau. - Phân biệt theo lương mua: Thường thì người mua nhiều được ưu đãi về giá hơn là người mua ít. - Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm loại 1 chất lượng loại 2 ... - Phân biệt theo phương thức thanh toán: Những người mua trả ngay thì được ưu tiên hơn so với những khách hàng trả chậm. - Phân biệt giá theo thời gian: Mức giá tại những thời điểm khác nhau thì khác nhau. e. Chính sách bán phá giá Đây là chính sách mà giá bán của sản phẩm thấp hơn hẳn so với giá chung của thị trường, đôi khi thấp hơn cả giá thành sản xuất ra của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường dùng chính sách này để đánh bại các đối thủ, loại đối thủ ra khỏi thị trường, song chính sách này như là “con dao hai lưỡi”. Sử dụng được chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực lớn về mọi mặt, đặc biệt là khả năng về tài chính. Việc bán phá giá chỉ sử dụng trong một thời gian nhất định và trong một số trường hợp đặc biệt. Thường thì các doanh nghiệp bán phá giá để loại khỏi thị trường những doanh nghiệp có tiềm lực cạnh tranh yếu. Trong nhiều trường hợp chính sách bán phá giá khó lòng mà thực hiện được do bởi những qui định của pháp luật, một số nước nghiêm cấm việc bán phá giá. Chính sách cạnh tranh bằng giá cả là vũ khí quan trọng nhằm nâng cao năng lực các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, song tuỳ vào những điều kiện khác nhau mà vai trò và cách áp dụng khác nhau. Đặc biệt khi đời sống cao, nhu cầu con người cũng tăng lên thì con người mua sản phẩm hàng hoá để dùng mà còn thể hiện một giá trị “vô hình” nào đó. 3.3. Chính sách cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là một khâu vô cùng quan trọng của doanh nghiệp. Sở dĩ thế vì doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm để bán chứ không phải để dùng. Doanh nghiệp phải lựa chọn kênh phân phối, lựa chọn thị trường, nghiên cứu thị trường để từ đó có những chính sách tiêu thụ sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thông thường doanh nghiệp có các kênh phân phối sau: Sơ đồ 2: Các kênh phân phối Người sản xuất Người tiêu dùng Người bán lẻ đại lý Bán lẻ đại lý Bánbuôn Bán lẻ Mỗi một hình thức lựa chọn kênh phân phối đều có những mặt ưu điểm và khuyết điểm riêng. Việc lựa chọn kênh phân phối phù hợp sẽ là một vũ khí cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp. Bên cạnhviệc lựa chọn kênh phân phối thì nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm nó còn thể hiện việc đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng để thu hút khách hàng. Đó là các hoạt động như: Chào hàng: Là một phương pháp tiêu thụ sản phẩm thông qua các nhân viên của doanh nghiệp để tìm khách hàng và bán hàng. Việc chào hàng cần nêu rõ được ưu điểm của sản phẩm của mình sản xuất hơn đối thủ cạnh tranh khác. Quảng cáo: Phương pháp sử dụng các công cụ truyền tin để giới thiệu sản phẩm của mình. Khuyến mãi: Cũng là một biện pháp doanh nghiệp thường sử dụng để giới thiệu sản phẩm. Các hình thức khuyến mãi như: tặng quà, trưng bày hàng hoá... Ngoài ra còn có gửi mẫu hàng, bán với giá đặc biệt. Hội chợ cũng là hình thức để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hội chợ là nơi trưng bầy các giới thiệu những sản phẩm của doanh nghiệp, là nơi tìm các đối tác kinh doanh và mở rộng mạng lưới tiêu thụ. Ngoài ra nghệ thuật tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển như vũ bão. 3.4. Chính sách cạnh tranh bằng tốc độ và mạo hiểm trong kinh doanh Yếu tố quyết định trong chiến lược cạnh tranh hiện đại chính là tốc độ chứ không phải là yếu tố cổ truyền như nguyên liệu, hay là lao động. Trong thời đại ngày nay tốc độ cạnh tranh không phải là một khái niệm chung mà là tốc độ tức khắc. Người coi tốc độ tức khắc mới là tốc độ chiến thắng, tốc độ cạnh tranh. Người nào biết nắm chắc cơ hội một cách nhanh hơn người khác thì sẽ là người chiến thắng “Sống còn cho ai nhanh nhất” Sử dụng tốc độ làm vũ khí cạnh tranh các doanh nghiệp cần chú ý đến những khâu cơ bản sau: - Lựa chọn thời gian ra quyết định. - Tốc độ đề ra những phát minh sáng chế và áp dụng vào sản xuất trước người khác. - Tốc độ giao dịch liên kết. - Tốc độ lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên tốc độ cạnh tranh luôn đi kề với mạo hiểm. Là một doanh nghiệp thì phải biết chấp nhận mạo hiểu “Lợi nhuận được trả cho những ai biết chấp nhận mạo hiểm”. Trong nền kinh tế thị trường với đầy rẫy những mưu mô, toan tính kẻ thù muốn tiêu diệt chúng ta bất kì khi nào, vì vậy nếu doanh nghiệp chần chừ do dự thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đối thủ cạnh tranh tiêu diệt chính bản thân chúng ta. Song mạo hiểm không phải là liều lĩnh, hay chỉ đơn giản là dám chấp nhận rủi ro. Mà chấp nhận mạo hiểm một khi ta đã phân tích, tổng hợp, phán đoán đúng thời cơ trên thị trường và tự tin vào chính hoạt động của chúng ta. 3.5. Chính sách cạnh tranh bằng nguồn lực nhân sự trong doanh nghiệp Nhân sự trong doanh nghiệp một yếu tố không kém phần quan trọng ở trong doanh nghiệp. Tất cả những việc làm trong doanh nghiệp đều thực chất từ con người mà ra. Hình ảnh đội ngũ cán bộ công nhân viên, cán bộ lãnh đạo đã tạo nên một sự tin tưởng cho khách hàng. Sự trung thành và làm việc hết mình của cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp, triết lí kinh doanh và đạo đức kinh doanh cũng tạo nên danh tiếng cho doanh nghiệp, dẫn đến việc nâng cao sức cạnh tranh. 3.6. Các công cụ cạnh tranh khác + Dịch vụ sau bán hàng Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp không dừng lại sau lúc giao hàng, thu tiền của khách hàng. Để nâng cao uy tín và thể hiện trách nhiệm đến cùng đối với người tiêu dùng về sản phẩm của mình doanh nghiệp phải làm tốt các dịch vụ sau bán hàng. Dịch vụ sau bán hàng thường đòi hỏi đối với các trường hợp sau: - Sản phẩm mang tính kỹ thuật cao. - Đơn giá sản phẩm cao. - Sản phẩm được bán đơn chiếc - Người mua không am hiểu tính năng, cách sử dụng sản phẩm. - Sản phẩm chưa chiếm lĩnh thị trường nhiều. Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: - Hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm và lắp đặt tại gia đình người tiêu dùng... - Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hoặc đổi hàng cho khách nếu sản phẩm không làm khách thoả mãn. - Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định. - Bảo đảm phụ kiện, phụ tùng thay thế cho khách hàng. Như vậy, qua dịch vụ sau bán hàng doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm của mình có đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng không. + Chính sách cạnh tranh phương thức thanh toán Phương thức thanh toán cũng là một chính sách cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Phương thức thanh tóan gọn nhẹ, hay rườm rà, trả nhanh trả chậm sẽ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp gọn nhẹ như đối với các khách hàng ở xa có thể trả tiền qua ngân hàng, vừa nhanh, vừa đảm bảo an toàn cho cả khách hàng, cho cả doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có vốn lớn có thể cho khách hàng trả chậm sau một thời gian nhất định. Các doanh nghiệp có thể áp dụng chế độ thưởng đối với các khách hàng trả tiền ngay hay mua với khối lượng lớn. Tất cả những việc làm trên đều có tác dụng kích thích đối với khách hàng, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 4. Các chỉ tiêu để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường Mọi sự so sánh, đánh giá chỉ mang tính tương đối. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp, chúng ta phải đặt nó trong một không gian và thời gian nhất định. ở đây chúng ta chỉ đánh giá những chỉ tiêu mang tính cơ bản, phù hợp với mục đích nghiên cứu, đó là những chỉ tiêu sau: 4.1. Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường Đây là một chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Thông thường có các chỉ tiêu về thị phần sau: - Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đây là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp so với toàn ngành. - Thị phần của doanh nghiệp trên phân đoạn thị trường mà doanh nghiệp mình phục vụ: Thường thì mỗi một doanh nghiệp bị hạn chế bởi các nguồn lực chính vì vậy doanh nghiệp hoạt động trong một phân đoạn thị trường nhất định. Trong một số trường hợp thì đoạn thị trường nó phân chia bởi cơ quan chức năng. - Thị phần tương đối: Là thị phần của một hãng so với đối thủ lớn nhất trong ngành. Cùng với tốc độ tăng trưởng, thị phần tương đối là yếu tố mà nhóm tư vấn BCG (Boston Consulting Group) để đưa ra ma trận BCG nhằm giúp cho doanh nghiệp xây dựng danh mục đầu tư. Thông qua những chỉ tiêu về thị phần trên mà doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào trên thị trường. ở vị trí đó có những thuận lợi - khó khăn gì nhằm giúp cho doanh nghiệp đưa ra những chính sách kinh doanh phù hợp. Ưu điểm của chỉ tiêu này là: đơn giản, dễ tính. Nhược điểm: Phương pháp này khó đảm bảo tính chính xác do khó lựa chọn xem doanh nghiệp nào là doanh nghiệp mạnh nhất, vì mỗi một doanh nghiệp có một điểm mạnh riêng của nó. 4.2. Một số chỉ tiêu về tài chính Phân tích tổng hợp tài chính của doanh nghiệp nhằm đề cập đến nhiều vấn đề khả năng doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh. Có những nhóm chỉ tiêu như: - Cơ cấu tài sản và nguồn vốn. - Khả năng thanh toán. - Chỉ số hiệu quả kinh doanh. ở đây đặc biệt chú ý đến các chỉ tiêu hiệu quả, nếu như các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tốt sẽ là vũ khí cạnh tranh lợi hại trên thương trường. Một số chỉ tiêu như: + Doanh lợi trên doanh thu = Lợi nhuận/ doanh thu + Doanh lợi trên vốn = Lợi nhuận/ vốn + Tỉ lệ tổng nợ = Tổng nợ/ tổng tài sản... 4.3. Chi phí Marketing Đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Rõ ràng những doanh nghiệp có tiềm lực càng lớn thì chi phí cho hoạt động Marketing càng lớn. Song nếu xem xét một cách kĩ lưỡng thì chỉ tiêu trên cao quá mà không làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần nên xem xét lại. 4.4. Những giá trị vô hình của Công ty trên thị trường Những giá trị vô hình của doanh nghiệp trên thị trường, thực sự là một chỉ tiêu khó xác định, vì lượng hóa "giá trị vô hình" là một vấn đề khó khăn. Song nó có một vị trí hết sức quan trọng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Gía trị vô hình đó là những gì thuộc về uy tín, danh tiếng, hình ảnh Công ty, đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp... Như khi nói đến các sản phẩm Nhật Bản thì người ta nói ngay đến chất lượng sản phẩm. Nói đến Microsoft người ta nói ngay đến Bill Gate. Danh mục các tài liệu tham khảo. Vũ khí cạnh tranh thị trường (TRầN HOàNG KIM-LÊ THụ-NXB THốNG KÊ 1992) 2. Tiếp thị và quản trị hoạt động thương mại. (TRầN Sỹ HảI –NXB TPHCM 1994) 3. Quản ly chất lượng đồng bộ của nhật bản (NXB THốNG KÊ) 4. Chiến lược cạnh tranh thị trường (UB VậT GIá MIềN NAM 1992) 5. Niên giám thống kê -1997 6. Cạnh tranh bằng giảm tối đa phí tổn thương mại (Jeanguioli-NXB_TPHCM) 7. Tìm hiểu thị trường trong sản xuất kinh doanh (NXB-TP-HCM) 8. Marketing công nghiệp (Roberthaos-NXBthống kê) 9. Quản lý doanh nghiệp công nghiệp 10. Kinh tế và tổ chức sản xuât trong doanh nghiệp 11. Quản trị doanh nghiệp những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam 12. Các tạp chí: - Tạp chí nghiên cứu kinh tế(Số tháng 6/1994) - Tạp chí công nghiệp (số 12, 14/1996) Danh mục tài liệu tham khảo Trần Hoàng Kim- Lê Thụ:Vũ khí cạnh tranh trên thị trường.Tạp chí Thống Kê-Hà Nội 1992. Micheal Porter: Chiến lược cạnh tranh. 25 năm xây dựng và trưởng thànhcủa Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Đới Kiến Bình(chủ biên): Thương chiến binh pháp. Nhà xuất bản Thanh niên 1996. Vương Minh ( Biên dịch Ngọc Minh): Mẹo cạnh tranh trong kinh doanh. Nhà xuất bản Lao Động Giáo trình Quản trị Kinh Doanh Tổng hợp. Tập bài giảng Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp Ngô Đình Giao (chủ biên): Giáo trình Môi trường và Đạo đức Kinh doanh . Ngô Đình Giao (chủ biên): Kinh tế quản lí WB: Bảo đảm năng lượng cho sự phát triển của Việt Nam: Những thử thách đối với nghành năng lượng. Tạp chí than. Tuần tin tức.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33500.doc
Tài liệu liên quan