Cùng với sự phát triển của quá trình lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế, FDI trở thành một hoạt kinh tế đối ngoại ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành vào cuối năm 1987 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ), trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đây là một trong những nhiệm vụ chién lượcc trọng yếu nhất. Ở một góc độ nào đó có thể thấy rằng mức thực hiện tăng trưởng nhanh, Lâu bền mà Việt Nam đang theo đuổi, tại điểm xuất phát thấp, hiện tại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên.
Sau ngày thống nhất đất nước, trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế Viết Nam mới nhận thức được vai trò to lớn của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, lớn nhất là trở ngại về nhận thức, tháng 4/1977 Việt Nam đã cho ra đời một bản điều lệ về dầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng phải sau đó 10 năm, tháng 12/1987 Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành và đã mở ra một trang mới cho hoạt động đầu tq nước ngoài tại Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong suốt 10 năm qua.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong cũng như ngoài nước trong đó có vai trò của FDI. Để triển khai và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan có nhiều biện pháp hữu hiệu. Các chính sách của chính phủ được thể chế hoá trong luật khuyến khích đầu tư năm 1962 và đã được bổ sung năm 1977 và năm 1991. Tuy nhiên mọi hoạt động đầu tư đều do Uỷ Ban đầu tư quản lý. Sau đây chúng ta xem xét một cách ngắn gọn nhất các khuyến khích FDI được ghi trong luật khuyến khích đầu tư.
a - Bảo đảm của chính phủ: không quốc hữu hoá, cạnh tranh của các xí nghiệp mới thành lập của Nhà nước; sự độc của nhà nước đối với việc bán các sản phẩm cùng loại nhưng do các nhà sản xuất được nhận khuyến khích chế tạo ra; cho phép kiểm tra xuất khẩu và miễn thuế nhập khẩu cho các cơ quan Chính phủ và các xí nghiệp Nhà nước.
b - Các biện pháp bảo hộ: cấm nhập các mặt hàng có tính cạnh tranh mạnh; cho phép chủ tịch Uỷ Ban đầu tư có quyền quyết định các hoạt động trợ giúp hoặc các biện pháp giảm thuế lợi tức cho các dự án khuyến khích.
c - Cho phép kiều dân Thái: tiến hành các hoạt động nghiên cứu khảo sát đầu tư và các nhà kỹ thuật ngoại quốc làm trong các dự án được khuyến khích; được sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động được khuyến khích; nhận hoặc chuyển ngoại tệ nước ngoài.
d - Khuyến khích thuế: thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%. Giảm thu nhập thuế của bên đối tác nước ngoài trong thời hạn từ 3 đến 8 năm; và nhiều hình thức khuyến khích khác.
e - Các khuyến khích thêm cho xí nghiệp xuất khẩu: giảm thuế cho việc nhập khẩu các mặt hàng tái xuất, giảm thuế xuất khẩu...
Để thực thi các khuyến khích trên và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan đã dùng biện pháp tài trính và tiền tệ là chủ yếu và nhất quán. Thái Lan đã tạo ra một môi trường tài chính hấp dẫn đặc biệt có khả năng hỗ trợ mạnh mẽ các luồng đầu tư từ bên ngoài. Chính phủ Thái Lan cho rằng tiền tệ và tài chính là một công cụ hữu hiệu nhất.
Thứ nhất, phải ổn định tiền tệ, chống lạm phát đảm bảo cho sự phát triển và cán cân thanh toán. Điều đó vừa bảo đảm cho sự phát triển kinh tế vừa làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn ra. Chính phủ Thái Lan đã sử dụng bốn chính sách cơ bản để bảo đảm giá trị đồng Bạt: đồng Bạt có giá trị chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Giá trị đồng Bạt được kiểm soát rất chặt chẽ, có tính ổn định cao. Thiếu hụt nhân sách hàng năm của Chính phủ được luật pháp quy định; cuối cùng là luôn có sự điều chỉnh việc vay mượn của bộ phật kinh tế công cộng trách nhiệm quá dựa vào ngoại tệ và giảm mức nợ của dịch vụ.
Chính phủ Thái Lan tạo ra dự trữ ngoại tệ ở mức 22 tỷ đô la Mỹ bảo đảm chi trả đủ cho nhu cầu đầu tư thương mại trong vòng 6 tháng trong trường hợp bất trắc xảy ra. Ngoài ra Thái Lan còn một hệ thống tiền tệ nội địa tự do nhưng có mối liên kết chặt chẽ. Hệ thống ngân hàng tiền tệ rất nhạy bén với tính chất thị trường của nền kinh tế.
Thứ hai, đó là chính sách thuế. Chính phủ Thái Lan đã có chính sách thuế rất ưu đãi và mềm dẻo và nhanh chóng tham gia vào khu mậu dịch của ASEAN và tổ chức thuế quan đã điều chỉnh tốt thuận lợi của người đầu tư.
Dĩ nhiên Chính phủ Thái Lan thực hiện nhiều biện pháp trên nhiều lĩnh vực khá nữa nhằm thu hút FDI nhưng biện pháp tiền tệ và tài chính là quan trọng và hữu hiệu nhất. Nếu xét tổng thể thì nền kinh tế Thái Lan có sáu yếu tố đã đạt được tạo ra có tác dụng thu hút FDI mạnh mẽ nhất.
- Tính ổn định của nền kinh tế có vai trò quan trọng nhất.
- Với dân số 56 triệu, giá công nhân còn thấp và đang di chuyển mạnh sang bộ phận kinh tế công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư.
- Chính sách đối nội, đối ngoại ổn định kể cả khi chính phủ cầm quyền thay đổi đặc biệt là chính sách tư nhân hoá và ủng hộ kinh tế tư nhân và gần đây là việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Campuchia và Lào.
- Sự thay đổi nhanh chóng về chính trị và kinh tế trên bán đảo Đông Dương tạo ra cho Thái Lan một cơ hội mới và một vị trí đặc biệt như cửa ngõ khu vực.
- Xã hội Thái Lan mang đặc tính bình yên chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng phật giáo đã có sức hút mạnh các nhà đầu tư Nhật, Đài Loan, HK.
- Các công ty hoạt động ở Thái Lan luôn được hỗ trợ ở các địa phương và các ngành công nghiệp khác.
2 - Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước NICs châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singarpore và Hồng Kông
Vào những năm 1950 - 1960 nền kinh tế của các nước NICs châu á rất lạc hậu, phát triển mất cân đối. GNP bình quân đầu người thấp 90 - 150USD/người/năm. Cả 4 nước trên đều nghèo về tài nguyên, đất hẹp, người đông, khí hậu kém thuận lợi. Lợi thế hầu như chỉ dựa vào biển và nguồn lao động rẻ tiền. Đến nay cả 4 nước NICs châu á đều trở thành các nước công nghiệp mới (Newly Industrial Countries) với tốc độ phát triển kinh tế cao. Một trong những nguyên nhân thành công là do mỗi nước tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mình mà có chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế thích hợp.
2.1 – Những tác động tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước NICs châu á đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, đồng thời thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp hoá (CNH) về hướng xuất khẩu được thực hiện trên cơ sở thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài làm chuyển biến cơ cấu công nghiệp từ sự tồn tại phổ biến các ngành công nghiệp kỹ thuật thấp, thu hút nhiều lao động sang sự phổ biến của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn. Thập kỷ 60, ở NICs châu á chưa xuất hiện CNH dầu, đóng tàu, công nghiệp chế tạo, công nghệ sinh học, điện tử cao cấp, laze, chế tạo ô tô... mà chủ yếu là các ngành dệt da và các sản phẩm da, quần áo may sẵn, lắp ráp đồ điện, dày dép, tóc giả... Hiện nay các ngành sử dụng nhiều lao động một bộ phận được di chuyển sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn NICs, phần còn lại nước sở tại được nâng cấp bằng cách áp dụng công nghệ mới để chế tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn về cả chất lượng và chủng loại.. Một tỷ lệ lớn những công nghệ mới này vẫn trông cậy trực tiếp vào FDI. FDI vẫn được các nước chủ nhà khuyến khích đi vào các ngành kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn mà các công ty địa phương không thể đảm nhiệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Một thực tế hiển nhiên là các nước áp dụng CNH hướng về xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các quốc gia thi hành chiến lược CNH thay thế nhập khẩu. Điều dễ hiểu là chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua chế độ thuế quan và quota đã gây tâm lý ỷ lại và đẫn đến tình trạng kém hiệu quả kinh tế của các hãng công nghiệp, khả năng cạnh tranh của hãng thấp. Ngược lại, dưới tác động của chiến lược khuyến khích xuất khẩu, các hãng đều bình đẳng trong khuôn khổ chế độ pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, họ phải đương đầu với thách thức cạnh tranh trên quy mô thế giới, vì vậy vấn đề hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Một điều tra cho thấy chỉ số hiệu quả của hàng thay thế nhập khẩu trong công nghiệp điện tử Đài Loan là 60,4%, trong khi chỉ số phi hiệu quả hàng xuất khẩu (0,3292) thấp hơn chỉ số này ở các hãng thay thế nhấp khẩu (0,5042). Nhờ vậy mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế với đầu ra tiềm năng thu hẹp lại mà về nguyên tắc, số chênh lệch này càng nhỏ, hiệu quả càng cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Những kỹ năng quản lý và các bí quyết kỹ thuật vào các nước sở tại. Trên thực tế, đây là vấn đề gây nên tranh cãi rất nhiều trong các nước đang phát triên. Vì rằng, khi nhìn vào nền kinh tế Thái Lan, người ta nhận thấy các công nghệ của Thái gần như sao chép công nghệ phương Tây, mức độ chuyển giao công nghệ của các hãng nước ngoài cho người địa phương (Thái) rất thấp và tiến hành chậm chạp (dường như có ý trì hoãn).
Ngoài những tác động tích cực nổi bật trên, FDI còn tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước sở tại và cải thiện thu nhập. FDI ở Hồng Kông đem lại gần 100.000 việc làm năm 1993. Các hãng công nghiệp có vốn FDI ở Singapore thu hút tới gần 50% số lượng công nhân, Điều đáng kể hơn nữa là nếu số lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài, nếu tỏ ra có triển vong, họ tiếp tục được đào tạo hoặc nâng cao nghiệp vụ nhờ vào những thu xếp của công ty khi cần thiết.
2.2 – Những ảnh hưởng tiêu cực
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Phần II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua
I – Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Qua hơn mười năm thực hiện Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam (1989 – 1999), chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: số lượng vốn FDI ngày càng tăng, tốc độ trung bình hàng năm tăng 50%, quy mô các dự án FDI ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước lớn như Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Những kết quả trên đã phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và chính sách thu hút, sử dụng vốn FDI của Việt Nam là đúng và phù hợp. Sự gia tăng nhanh dòng vốn FDI có tác dụng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế trên tất cả các phương diện: ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà và thế cho những bước tiến lớn hơn của giai đoạn tiếp theo.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 366 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế.
Cuối năm 1995 có 1064 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký 18834 triệu USD. Trong quá trình thực hiện đã có 222 dự án được bổ sung thêm 2098 triệu USD vốn đầu tư nâng tổng số vốn đầu tư được cấp giấy phép lên 20932 triệu USD. Đến hết tháng 6 năm 1998 đã có hơn 2000 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký là 33,5 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện hơn 13,2 tỷ USD (không tính liên doanh dầu khí Việt-Xô). Như vậy tính trung bình mỗi năm Việt Nam thu hút được 2617 triệu USD. Nếu so sánh với một số nước: Malaysia giai đoạn 1970 – 1980 thu hút được trung bình 400 triệu USD/năm, giai đoạn 1981 – 1987 trung bình một năm thu hút được 840 triệu USD. Indonesia giai đoạn 1967 – 1990, tổng số vỗn FDI là 29,5 tỷ USD, trung bình thu hút được 1229 triệu USD thì mức độ thu hút FDI ở Việt Nam thời kỳ đầu như vậy là cao nhưng nếu số dòng vốn FDI đổ vào các nước khác trong khu vực trong những năm gần đây thì thấy rầng số vốn mà Việt Nam thu hút được là quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của một nước đi sau – cần tăng trưởng nhanh để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước.
Tính đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được 2937 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 29 dự án hết hạn (289 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
từ 01/01/2000 đến 31/05/2000
(Phân chia theo ngành)
Đ.vị tính: USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Công nghiệp
88
176.255.702
92.607.174
2
GDĐT-y tế-VHTT
6
56.450.000
20.610.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Dịch vụ
11
14.261.428
3.915.714
5
Tài chính, Nghân hàng
1
10.000.000
5.000.000
6
KS, VP, DL Lữ hành
1
7.800.000
7.681.632
7
GTVT và XD
1
4.994.500
2.520.000
8
Nông, Lâm nghiệp
3
2.550.583
1.857.976
9
Ngư nghiệp
1
500.000
600.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
(Phân theo địa phương)
Đ.vị tính: USD
STT
Địa điểm thực hiện
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Bình Dương
39
106.115.621
48.127.093
2
TP.Hồ Chí Minh
30
84.448.000
44.031.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Hà Nội
13
20.820.000
11.889.000
5
Đồng Nai
6
19.580.000
13.590.000
6
Khánh Hoà
2
8.550.000
8.131.632
7
Quang Nam
2
5.065.928
2.555.714
8
Bình Phước
1
5.000.000
3.300.000
9
Nghệ An
1
4.511.626
3.961.626
10
Cần Thơ
1
2.700.000
1.120.000
11
Vĩnh Phúc
2
2.650.000
2.150.000
12
Bà Rịa-Vũng Tàu
2
2.545.455
2.545.455
13
Hải Phòng
1
1.500.000
1.200.000
14
Long An
1
1.500.000
1.000.000
15
Tây Ninh
2
1.325.000
418.000
16
Yên Bái
1
1.240.583
847.976
17
Đà Nẵng
1
1.000.000
365.000
18
Lao Cai
1
1.000.000
1.000.000
19
Thái Bình
1
900.000
700.000
20
Thanh Hoá
1
600.000
450.000
21
Lâm Đồng
1
560.000
560.000
22
Hoà Bình
1
500.000
150.000
23
Quảng Ninh
1
500.000
500.000
24
Thái Nguyên
1
200.000
100.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
Cơ cấu đầu tư
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Cơ cấu ngành nghề:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1988-1999
Năm
Chỉ tiêu
1988-1990
1991-1995
1996-1999
CN và XD
41,47 %
52,74 %
49,66 %
N-L-N Nghiệp
21,64 %
4,13 %
2,14 %
Dịch vụ
36,899 %
43,13 %
48,2 %
Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng hướng mục tiêu ban đầu: tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và số vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án và 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, trong đó nhỏ nhất là ngành thuỷ sản, chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô đầu tư trung bình là 12 triệu USD/dự án trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất, hơn 25 triệu USD/dự án tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê...
Cơ cấu lãnh thổ:
Phân tích trên cơ sở thống kê số liệu cho thấy cơ cấu FDI theo vùng lãnh thỗ không những không thực hiện được ý muốn chủ quan của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ và tộc độ phát triển giữa các vùng mà trái lại còn bị doãng xa hơn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi giao thông thuỷ bộ, hàng không, sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo lực hấp dẫn FDI mạnh nhất: chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN trong cả nước có xu hướng tăng, từ 48,5% (năm 96) lên 66,6% năm 99, đặc biệt giá trị xuất khẩu chiếm tới 84%. Tp.HCM hiện vẫn đứng đầu trong vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (gồm Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án (chiếm 20,5% vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực hiện 3,8 tỷ USD (chiếm 25%). Tỷ lệ giải ngân trong vùng là 35%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (42%), nếu không tính đến 2 dự án đầu tư xây dựng đô thị mới (2,3 tỷ USD) thì tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên, từ năm 96 đóng góp của khu vực FDI ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước có xu hướng giảm cả về tỷ trọng (từ 33% xuống 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ USD xuống 814,7 triệu USD).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi), tuy đứng thứ ba về thu hút FDI nhưng so với hai vùng trên lại quá thấp, chỉ chiếm 3% về số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu không tính đến dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD), thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút FDI còn ít hơn nhiều so với vùng ĐBSCL (113 dự án và 1 tỷ USD vốn đăng ký).
Miền núi, trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên là 2 trong số 6 vùng kinh tế có sức hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu là điều kiện cơ sở hạ tầng quá yếu kém, thiếu nguồn nhân lực có trình độ, khả năng đầu tư sinh lợi thấp, hoàn vốn chậm... nên các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều đắn đo, e ngại, trong khi chính sách khuyến khích của Nhà nước lại chưa rõ ràng và hấp dẫn.
Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
3-1 Hình thức đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có ba hình thức chủ yếu là: Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, là hình thức ký hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Trong đó hình thức đầu tư được chính phủ khuyến khích nhất là hình thức Liên doanh. Đến năm 1996 hình thức này chiếm khoảng 3/4 FDI, quy mô được khá lớn 17 triệu USD. Tiếp đến là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài (18%). Hiện nay hình thức BOT đang có hiệu quả đầu tư cao, được nhận nhiều sự khuyến khích của chính phủ. Mặc dù chỉ chiếm 7% song hứa hẹn có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực có sở hạ tầng vốn là một trong những yếu tố còn lạc hậu dẫn đến suy giảm FDI trong những năm qua.
3-2 Đối tác đầu tư:
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Tính đến năm 1998, 10 nước đầu tư vào Việt Nam bao gồm: Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông, Malaysia, Pháp, Thái Lan và Mỹ.
Đầu tư vào Việt Nam theo chủ đầu tư
từ ngày 01/01/2000 đến 28/09/2000
Đơn vị tính: 1000 USD
STT
Nước
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Taiwan
76
145819
69507
2
British Virgin Island
11
85690
35988
3
Japan
15
55215
27834
4
Australia
2
53500
28600
5
Republic of Korea
22
46417
36516
6
France
5
26292
2543
7
United State
6
19270
13535
8
Singapore
9
13455
8663
9
China
10
10782
8322
10
Holand
2
10450
3135
11
Bermuda
1
10000
5000
12
Thailand
3
6600
5550
13
Britain
2
5160
2050
14
Belgium
1
4995
2520
15
Malaysia
7
3615
2063
16
Canada
2
2900
1620
17
Hong Kong
6
2374
1024
18
Israel
1
2200
2200
19
Bahamas
1
1000
500
20
Germany
2
700
380
21
Federation of Russia
1
509
0
22
Swizerland
1
150
50
23
Sweden
1
147
147
24
Denmark
1
100
100
Tổng số
188
507339
257846
II - Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Những thành tựu
Để đánh giá những thàh tựu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh các chỉ tiêu quan trọng là số vốn đăng ký của các dự án cấp mới và tăng vốn còn có các chỉ tiêu khác cũng không kém phần quan trọng. Đó là số vốn thực hiện và kết quả về các mặt khác của những dự án đã đi vào hoạt động, như: doanh thu, xuất nhập khẩu, nộp ngân sách, thu hút lao động, tạo thêm công ăn việc làm....
Trước tiên, FDI bù đắp sự thiếu hụt về tài chính cho ngân sách Nhà nước. Nhìn lại thực tiễn thu hút đầu tư nước ngoài 10 năm qua cho thấy cùng với việc gia tăng số dự án và vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư thực hiện, hoạt động đầu tư nước ngoài đang tạo ra những tiền đề cho việc tăng nguồn thu cho ngân sách. FDI đóng góp phần quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP của các năm từ 1991 – 1997 bình quân là 8,5%/năm, tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách từ 128 triệu USD năm 1994 lên 315 triệu USD năm 1997, chiếm gần 7% tổng thu ngân sách hàng năm (không kể nguồn thu từ dầu khí). Trong 8 tháng đầu năm 2000, nộp ngân sách của khu vực này đạt 180 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm 1999. FDI thực sự là một nguồn vốn lớn trong đầu tư phát triển ở Việt Nam. Trong những năm qua, trong tổng số vốn đầu tư thì nguồn vốn từ bên ngoài chiếm gần một nửa, riêng nguồn FDI chiếm trên dưới 30% trong tổng vốn đầu tư cả nước.
FDI góp phần đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Mặc dù quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam chưa được như mong muốn song hầu hết đều hiện đại hơn những gì mà Việt Nam hiện nay đang có. Nhờ đó FDI nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tạo ra các sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ đã kích thích được các doanh nghiệp trong nước phải vươn lên cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ở trong nước và cả ở nước ngoài.
Hiện nay các dạng chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là nhập khẩu máy mọc thiết bị, mua patent, license, các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhãn hiệu hàng hoá và các hợp đồng chìa khoá trao tay... Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, FDI là một kênh chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hiện nay các dạng chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là nhập khẩu máy mọc thiết bị, mua patent, license, các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhãn hiệu hàng hoá và các hợp đồng chìa khoá trao tay... Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, FDI là một kênh chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Qua hợp đồng kinh tế với nước ngoài thời gian qua Việt Nam đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí: nếu không có sự tham gia của bên nước ngoài, Việt Nam không thể hoặc khó có thể tiến hành được các dự án thăm dò và khai thác đàu khí, xây dựng trạm vệ tinh viễn thông. Cụ thể trong ngành dầu khí, nhiều thiết bị công nghệ tiên tiến của các hãng nổi tiếng tren thế giới như Mobil của Mỹ, BHP Pertelium, CKA của Austraylia và các công ty khác của Hà Lan, Italia, Pháp, Anh, Nga, ấn Độ đã được đưa vào Việt Nam để thực hiện thăm dò và khai thác dầu khí cũng như xây dựng nhà máy lọc dầu. Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, các thiết bị hiện đại của công ty OCTVT đã được đưa vào Việt Nam để lắp đặt đài thông tin viễn thông đầu tiên.
FDI đóng góp đáng kể cho xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán: Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá nhanh. Năm 1991 mới đạt 52 triệu USD, năm 1996 đã đạt 786 triệu, năm 1998 đạt gần 2 tỷ USD và riêng trong 7 tháng đầu năm 2000 xuất khẩu của khu vực có vốn FDI là 3 tỷ 586 triệu USD ( kẻ cả dầu thô) tăng 55,6% so với cùng kỳ năm 1999. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của khu vực này là hàng tiêu dùng như dệt may, may mặc, da giầy, điện tử, nông lâm thuỷ sản. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu kể trên, các mặt hàng công nghiệp nhẹ chiếm khoảng 49%, nông lâm thuỷ sản chiếm 24% và công nghiệp năng chiếm 6%. Có một điều đáng mừng là đầu tư nước ngoài đang chuyển dần theo hướng sản xuất để xuất khẩu chứ không phải sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu.
Nhờ hoạt động FDI, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới quan trọng như dầu khí, lắp ráp ôtô. xe máy, điện tử viễn thông, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sợi và kéo sợi.... góp phần giải quyết công ăn việc làm, thu hút khoảng 30 vạn lao động trực tiếp với thu nhập hàng năm trên 30 triệu USD. Ngoài ra còn có hàng vạn lao động gián tiếp như xây dựng, ứng dụng dịch vụ...
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lao động Việt Nam đã có việc làm, nâng cao thu nhập và trình độ của người lao động.
Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều điểm hạn chế.
Thứ nhất, quá trình triển khai dự án và thực hiện vốn FDI tại Việt Nam thời gian qua diễn ra tương đối chậm chạp. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp. Thủ tục đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Đối với Việt Nam, thủ tục đầu tư đã và đang là vấn đề trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư. Có thể đơn cử như về thời gian chuẩn bị dự án kéo dai thường là 6 tháng đến 1 năm thậm chí dài hơn. Cơ quan nào cũng có quyền buộc chủ đàu tư phải trình dự án để họ xem xét góp ý. Một dự án trung bình trải qua 12 cửa, thậm chí 16 cửa. Thêm vào đó việc chuẩn bị dự án của bên Việt Nam tham gia liên doanh thường sơ sài nên khi đàm phán phải bổ sung nhiều lần. Theo các nhà đầu tư Đài Loan đánh giá, thủ tục đầu tư Việt Nam ”quá rườm rà, gây lãng phí thời gian” mà đối với bất kỳ nhà đầu tư nào bao giờ ”thời gian cũng là vàng bạc”.
Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư còn xảy ra trường hợp nhiều dự án bị rút giấy phép trước thời hạn. Nguyên nhân chủ yếu là do phia đối tác nước ngoài không đủ năng lực tài chính để tiếp tục thực hiện đầu tư hoặc do họ có những hoạt động sản xuất kinh doanh trái với pháp luật hoặc không phù hợp với quy định của chính sách quản lý tại Việt Nam.
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn đưa lại nhiều thua thiệt cho người lao động Việt Nam nói riêng và cho bên Việt Nam nói chung. Tình trạng này là do không đủ thông tin để xem xét kỹ tư cách và năng lực tài chính của các đối tác , quá dễ dãi trong việc bố trí cán bộ Việt Nam tham gia liên doanh. Số cán bộ này nhìn chung còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. ở các doanh nghiệp liên doanh có một tình trạng phổ biến là các cán bộ không hiểu rõ pháp luật nhưng lại được cử vào hội đồng quản trị hoặc phó hay tổng giám đốc liên doanh. Do trình độ ngôn ngữ và nghiệp vụ hạn chế, công việc lại mới mẻ, phải làm việc với các nhà doanh nghiệp nước ngoài lọc lõi nên nhiều cán bộ Việt Nam chưa đấu tranh bảo vệ được quyền lực của phía ta và người lao động dẫn đến những thiệt hại cho bên Việt Nam. Công tác đào tạo lao động đã được chú ý nhưng nhìn chung còn dừng ở mức áp dụng các biện pháp cấp bách, có tính chất ”chữa cháy” chất lượng đào tạo chưa cao. Ngoài ra, sự phối hợp giữa Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư với các bộ ngành liên quan và các tỉnh chưa chặt chẽ, chứa hợp lý nên chưa giải quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của các địa phương và lợi ích chung của đất nước.
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém: Do xuất phát điểm thấp nên cơ sở hạ tầng yếu kém của Viêt Nam đã tòn tại qua nhiều thập kỷ, gây ra những ấn tượng không tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài và gây khó khăn nhiều cho việc triển khai và hoạt động của các dự án FDI. Sự quá tải và lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc cung cấp điện, nước là những đặc điểm nổi bật của cơ sở hạ tầng Việt Nam cụ thể:
Giao thông vận tải: Hệ thống này cả về đường sắt, đường không, đường bộ đều rất lạc hậu, không đồng bộ. So với yêu cầu của nền kinh tế thì sự phát triển của giao thông vận tải còn chậm chạp, và là trở nhại lớn đối với khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhất là các vùng sâu, xa. Có thể nói, đầu tư cho giao thông vận tải của Việt Nam chưa chú trọng tới đầu tư chiều sâu, thiên về mua sắm thiết bị mới, coi nhẹ sửa chữa và đồng bộ hoá phương tiện sẵn có. Chú trọng phương tiện kỹ thuật nhưng lại xemnhẹ việc đổi mới công nghệ và hoàn thiện các công trình vật chất. Hệ thống giao thông vận tải xét về trình độ kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu, xét về cơ cấu mất cân đối, xét về mặt phân bố lãnh thổ còn chưa hợp lý.
Dịch vụ thông tin liên lạc: Việt Nam tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong những năm gần đây. Tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa đầy đủ về số lượng và chất lượng chưa thật tốt để phục vụ các hoạt động kinh tế hiện thời nhất thu hút vốn FDI. Đặc biệt hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin nên mọi thông tin phải được cập nhật một cách chính xác để chủ đầu tư có thể xử lý một cách linh hoạt các thông tin đó nhằm đưa ra quyết định đúng vàkịp thời. Hơn nữa phí bưu chính viễn thông hiện nay còn đang ở mức quá cao so với khu vựcvà trên thế giới, đồng thời khu vực FDI hiện còn phải chịu mức giá cao hơn khu vực trong nước. Điều này gây bất bình đối với các nhà đầu tư và làm cho chi phí hoạt động tăng cao gây khó khăn rất nhiều cho các dự án FDI.
Hệ thống thoát nước và hệ thống cung cấp điện: Đã được xây dựng từ lâu tuy ngành chủ quan đã cố gắng cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hoạt động FDI.
Môi trường Luật pháp còn nhiều bất cập: Hệ thống luật pháp của Việt Nam đang trong quá trình hoàn chỉnh nên còn thiếu tính đồng bồ, chưa đủ mức cụ thể, chưa đảm bảo được tính rõ ràng và dự đoán trước được. Sau 10 năm kể từ ngày ban hành, Luật Đầu Tư Nước Ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi 3 lần. Các văn bản pháp lý liên quan đến FDI rất nhiều (lên tới hàng trăm) nhưng việc hệ thống hoá còn yếu, việc tuyên truyền phổ biến còn hạn chế, việc hiểu và tận dụng không nhất quán, tuỳ tiện tạo nêm tình trạng ”trên thoáng dưới chặt”.
Thiếu sự quản lý về vấn đề công nghệ và môi trường: Trong thời gian qua đặc biệt là giai đoạn đầu mới thu hút FDI đã thường xảy ra việc nhập khẩu các máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu và tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế: Các nhà đầu tư thường lợi dụng sự thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, quản lý và chuyên môn yếu, hoặc chính sách lỏng lẻo của nước nhận đầu tư để tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các những nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị công nghệ mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư và Viêt Nam cũng không tránh khỏi được điều này.
Về vấn đề môi trường: Chính việc chuyển giao công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị không đồng bộ đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động.
Phần III
NHữNG BIệN PHáP CHủ YếU ĐẩY MạNH THU HúT FDI TạI VIệT NAM
I – Những phương hướng và triển vọng thu hút FDI trong thời gian tới
1 - Bối cảnh thu hút FDI
Đầu tư FDI chịu ảnh hưởng trực tiếp của diễn biến kinh tế-xã hội của các nước trong khu vực và trên thế gới. Trong năm 2000 tình hình kinh tế châu á đã phục hồi và triển vọng kinh tế khu vực là sáng sủa. Theo dự án đầu tư ở Việt Nam đã khôi phục mức tăng trưởng trung bình từ 4% đến 6%; trong đó Hàn Quốc: 6,7%, Singapore: 5,7%, Malaysia: 5,3%, Thái Lan: 4% và Hồng Kông: 3,2%. Tuy nhiên chưa có khả năng tăng mạnh đầu tư ra nước ngoài và mở rộng thị trường, đồng thời sự cạnh tranh về thương mại và đầu tư sau khủng hoảng sẽ gia tăng mạnh mẽ.
Các chính sách, biện pháp của chính phủ ban hành năm 1998 và 1999 nhằm cải thiện môi trường đầu tư sẽ từng bước có những tác động tích cực tháo gỡ khó khăn của các nhà đầu tư. Đặc biệt chủ trương đa dạng hoá hình thức đầu tư, cung như mở rộng các lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài có khả năng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên năm nay Việt Nam cũng đứng trước những thách thức lớn là làm sao phải thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và đưa mức tăng trưởng kinh tế đi lên. Đồng thời những điểm yếu về môi trường đầu tư như thủ tục hành chính phức tạp, các loại chí phí cao hơn so với dự kiến cũng sẽ vẫn làm cho các nhà đầu tư nước ngoài quan ngại.
2 - Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2001 – 2005
Thứ nhất, để thu hút ĐTNN có hiệu quả thật sự, bảo đảm quản lý thuận lợi, khai thác cơ sở hạ tầng hiện có, trước mắt vẫn cần tập trung thu hút đầu tư vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Có thể phải chấp nhận phương án "phát triển mất cân đối" trong thời gian đầu tư để tạo sự cân đối sau nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời gian ngắn hạn. Ba vùng kinh tế trọng điểm làm "đầu tàu" cho cả nền kinh tế, nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác thông qua các thị trường hàng hoá, lao động, nguyên liệu...từ đó thúc đẩy và "kéo" các vùng này cùng phát triển.
Thứ hai, khuyến khích mạnh mẽ đầu tư vào lĩnh vực chế biến khoáng sản, nông-lâm sản, gắn với vùng nguyên liệu, trồng rừng và trồng cây công nghiệp lâu năm, nhằm khai thác tiềm năng, khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ.
Thứ ba, thu hút hơn nữa đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có và coi khu công nghiệp là hạt nhân trong các chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai, với kết cấu hạ tầng có chất lượng cao, gắn với các khu dân cư, khu thương mại và các loại hình dịch vụ khác.
II – Một số kiến nghị đối với Nhà Nước và các cơ quan liên quan
- Đơn giản hoá các thủ tục đầu tư
Đơn giản hoá các thủ tục, giảm phiền hà và tháo gỡ các khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài như cải tiến thủ tục hành chính, lập đường giây nóng, thành lập các tổ công tác chuyên ngành để giải quyết nhanh hơn, dứt điểm hơn các kiến nghị của nhà đầu tư. Đây được coi là một giải pháp mở đường cho hoạt động FDI. Chỉ có tinh giảm bộ máy hành chính, phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn ta mới giảm bớt được ách tắc, nâng cao được hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước nói chung và đối với hoạt động FDI nói riêng.
Cụ thể chúng ta cần đơn giản hoá quá trình xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư theo định hướng tiến đến quy trình một cửa và rút ngắn thời hãnét duyệt. Cần rà soát lại các quy định rườm rà bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các ké hở cho tiêu cực đặc biệt là trong ngành xây dựng, xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, cư trú và bảo vệ môi trường.
- Cải thiện cơ sở hạ tầng
Việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng là công việc không dễ thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Vì vậy, một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của mình, mặt khác cung cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nước thông qua nguòn vốn ODA. Cần tập trung nỗ lực để xây dựng các dự án khả thi có hiệu quả kinh tế để có thể rải ngân vốn ODA đạt yêu cầu đề ra. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung rứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế.
3 - Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư
Nhìn chung, cộng đồng các nhà dầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều đánh giá cao chính sách cũng như hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Đặc biệt vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, khoá X Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam cũng đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với một số nội dung chính sau đây:
Một là, luật sửa đổi một số quy định hiện hành để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghệp có vốn FDI theo hướng: cho phép doanh nghiệp có vốn FDI được mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại và bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng; cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và được mở tài khoản ở nước ngoài; xác định rõ hơn trách nhiệm trong đền bù, giải phóng mặt bằng để triển khai nhanh dự án; áp dụng biện pháp bảo lãnh, bảo đảm đầu tư đối với các dơ án quan trọng và cho phép áp dụng luật nước ngoài phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hai là, luật đã mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của daonh nghiệp có vốn FDI để xích gần hơn với quy định của luật Doanh nghiệp theo hướng: thu hẹp nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh; cho phép nhà đầu tư chủ động lựa chọn hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp, chủ động lập các quỹ doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn; quy định rõ cơ chế liên quan đến giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp.
Ba là, để nâng cao hiệu lực pháp lý của các chính sách đã ban hành, Luật đã bổ sung quy định về miễn giảm thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất; giảm thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; cho phép các dự án dầu tư nước ngoài được chuyển lỗ trong 5 năm; áp dụng các biện pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi luật pháp Việt Nam thay đổi gây thiệt hại lợi ích của họ.
Bốn là, Luật bổ sung các quy định cải tiến thủ tục đầu tư, nâng hiệu lực quản lý nhà nước đối với Đầu Tư Nước Ngoài theo hướng áp dụng từ bước chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư và giảm thời gian xét duyệt dự án; quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra và quyền khiếu nại của doanh nghiệp; áp dụng chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp có vốn FDI. Việc bổ sung và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của các nhà dầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút vốn FDI; xích gần hơn các Luật trong nước như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Chúng ta cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo lợi ích phía Việt Nam vừa đảo bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
4 – Một số kiến nghị khác
Chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có như: Công bố công khai quy hoạch phát triển các sản phẩm công nghiệp cần hạn chế công suất hoặc ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư; Thực hiện cơ chế đăng ký tăng vốn nếu chủ đầu tư hoàn thành việc thực hiện vốn đầu tư ban đầu đã cam kết; Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn FDI xuất khẩu bằng biện pháp kinh tế và ưu đãi tài chính (giảm thuế, thưởng xuất khẩu, sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu...) nhằm thay thế các biện pháp hành chính hiện nay. Trước mắt, cần điều chỉnh danh mục sản phẩm phải xuất khẩu ít nhất 80% theo hướng chỉ áp dụng với một số ít sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu và cần thiết phải bảo hộ. Đồng thời, xử lý linh hoạt tỷ lệ xuất khẩu như không bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện đúng tỷ lệ quy định ngay từ năm đầu, mà có thể cho phép sâu 3-5 năm.
Xử lý linh hoạt hơn nữa các quy định về hình thức đầu tư theo hướng: khuyến khích hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận thấp. Mở rộng việc cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với một số lĩnh vực đòi hỏi phải liên doanh (quy định tại Nghị định 10/1998/CP) như kinh doanh xây dựng, hạ tầng khu công nghiệp, sản xuất xi măng, xây dựng khu thể thao, khu vui chơi giải trí, trồng rừng hoặc trồng cây công nghiệp lâu năm, các dự án dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật... Cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành 100% vốn nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, các đối tác liên doanh mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ, hoặc trong trường hợp liên doanh hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn để đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Song việc chuyển đổi phải bảo đảm điều kiện giữ được việc làm cho người lao động, bên Việt Nam bảo toàn được vốn hoặc chịu rủi ro ở mức thấp nhất.
IV – một số biện pháp từ phía các doanh nghiệp
Nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả của việc sở dụng vốn FDi, tháo gỡ những khó khăn, bế tắc trong các doanh ghiệp có vốn FDI thì bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp này cũng cần có những biện pháp để tự tháo gỡ khó khăn cho mình. Xin kiến nghị ở đây một số biện pháp như sau:
1 - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
- Rà soát, sàng lọc nâng cao chất lượng cán bộ trong các liên doanh đảm bảo lợi ích của Việt Nam, hiệu quả của dự án. Kiên quyết thay thế những trường hợp không đủ năng lực và phẩm chất.
- Chấm dứt tình trạng hễ có đất góp thì mặc nhiên được cử người của mình vào Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc, không cần chuyên môn, hoặc cử người để “giải quyết chế độ”.
- Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ về luật pháp chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với cán bộ quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp trong khu vực FDI. Có chương trình quốc gia về đạo tạo nghề cho người lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích mạnh dạn các dự án đào tạo nghề.
- Cần áp dụng cơ chế thi tuyển để chọn ra các cán bộ đủ phẩm chất, năng lực đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong liên doanh. Có định hướng chỉ đạo cán bộ trong việc học tập kinh nghiệm quản lý, bí quyết công nghệ và kỹ thuật trong các doanh nghiệp FDI.
- Xây dựng cơ chế quản lý, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm việc trong các liên doanh FDI. Đẩy mạnh việc thành lập tổ chức công đoàn ở các xí nghiệp này đồng thời củng cố hoạt động để cho công đoàn phát huy được đúng vai trò chức năng của nó.
2. Cải tiến và tiếp nhận công nghệ hiện đại để tăng khả năng cạnh tranh
Một xã hội càng văn minh, thì vai trò của công nghệ càng trở nên quan trọng, đòi hỏi con người phải không ngừng hiện đại chúng để phục vụ ngày càng tốt hơn ngày càng cao của mình, mà làm được việc đó là một điều không dễ. Với một nước đi sau như Việt Nam, vấn đề đặt lên hàng đầu là để có được công nghệ phù hợp, chúng ta phải tiếp nhận công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ đối với nước ngoài; đồng thời phải chuyển đổi, cải tiến công nghệ đó cho phù hợp riêng có của Viẹt Nam.
Mua công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ là rất khó khăn và rất phức tạp. Nhưng không phải vì thế mà doanh nghiệp không đổi mới mà cứ sử dụng cộng nghệ đã lạc hậu của mình. Nếu vậy doanh nghiệp sẽ dần đi đến bờ vực của sự phá sản do không đáp ứng được nhưng đòi hỏi khách quan của thị trường. Để khắc phục những nhượng điểm trên doanh nghiệp buộc phải sử dụng các biện pháp sau:
- Nghiên cứu kỹ nội dung kỹ thuật và thị trường và sản phẩm mà công nghệ có sản xuất ra.
- Chủ động tìm các nguồn cung cấp công nghệ: Nắm được các thông tin liên quan đến công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ.
- Đánh giá được mức độ tiên tiến của công nghệ.
- Đánh giá việc đáp ứng các yêu cầu của chuyển giao công nghệ, công nghệ vào nước Việt Nam.
- Đánh giá được mức độ phù hợp của công nghệ dự kiến tiếp nhận, tìm hiểu và đánh giá công nghệ, so sánh các phương án về công nghệ để lựa chọn được công nghệ phù hợp nhất.
- Mặc dù vấn đề làm thế nào để có được công nghệ phù hợp với giá cả hợp lý là rất quan trọng, nhưng vấn đề cải tiến công nghệ đó cho phù hợp với điều kiện riêng của Việt Nam, cũng như phù hợp với vùng địa lý cụ thể mà doanh nghiệp dự kiến sử dụng công nghệ đó là quan trọng hơn. Mỗi một công nghệ đều có những đặc điểm riêng biệt của nó và nó chỉ phát huy tối đa tác dụng chỉ trong một vùng địa lý nhất định với các điều kiện về khí hậu cụ thể, cho nên để công nghệ nhập phát huy hiệu quả tốt ở Việt Nam thì chúng ta phải nghiên cứu và cải tiến nó theo ý đồ và mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.
Đây không phải là một công việc đơn giản nhưng rất cấp thiết hiện nay.
3. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và cạnh tranh lại càng găy gắt hơn khi trên thị trường trong nước xuất hiện ngày càng nhiều các nhà kinh doanh nước ngoài nhiều hơn ( nhà đầu tư nước ngoài ) bên cạnh những tác động tích cực mà chúng ta đều đã biết, cạnh tranh cũng gây ra nhiều tác động tích cực, nó đặt nhà sản xuất kinh doanh trong nước phải vươn lên để tồn tại nếu không muốn phá sản. Để đảm bảo có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp còn phải thiết lập và tăng cường quan hệ liên kết với các doanh nghiệp hữa quan. Như vậy, liên kết ra đời từ cạnh tranh và nó cũng tạo điều kiện để tăng cường khả năng cạnh tranh của mỗi chủ thể trên thị trường. Liên kết kinh tế là biện pháp quan trọng góp phàn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhờ liên kết, năng lực thừa của doanh nghiệp được tận dụng đầy đủ hơn, Năng lực thiếu được khắc phục bằng sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trong nước khác, vốn đầu tư được tiết kiệm hơn.
4. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật lao động
Các doanh nghiệp FDI cũng cần phải chú trọng hơn nữa tới việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật lao động như vấn đề hợp đồng lao động, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên... Việc tuân thủ đúng các quy định này không chỉ là vấn đề bắt buộc mà còn tác dụng rất tốt để khuyến khích động viên người lao động để họ có thể làm việc hết mình, với một năng xuất và chất lượng cao hơn.
5. Xem xét lại chiến lược kinh doanh
Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng cần xem xét lại chiến lược kinh doanh của họ. Ví dụ như một số doanh nghiệp đã có những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường và kết cục là dẫn đến thua lỗ nặng nề. Điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu tới doanh nghiệp và đặc biệt là nếu nó là một liên doanh thì đối tác Việt Nam trong liên doanh sẽ không gánh nổi sự thua lỗ do vốn góp của Việt Nam rất hạn chế. Vấn đề chí phí quảng cáo và tính hiệu quả của nó cũng cần được lưu tâm. tình hình quảng cáo trong thời gian qua đã cho thấy, một số doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất mỹ phẩm, đã quảng cáo một cách quá mức và do đó giá thành sản phẩm bị đội lên cao. Một số mặt hàng do các doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc lắp ráp tại Việt Nam cũng đã bị đặt giá quá cao so với thu nhập của người Việt Nam và làm cho việc tiêu thụ gặp nhiều khó khăn (như mặt hàng ô tô, xe máy, máy giặt...).
6. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá
Thị trường Việt Nam là một thị trường khá lớn với số dân hơn 70 triệu. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay sức mua còn rất hạn chế do thu nhập chưa cao. Do vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một mặt chú trọng thị trường nội địa nhưng mặt khác cần phải biết khai thác những lợi thế so sánh của Việt Nam đặc biệt là đội ngũ lao động dồi dào và chí phí nhân công thấp để phát triển các mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Hơn nữa cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực hiện nay đã qua thời kỳ tồi tệ nhất và nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc cũng như các nước ASEAN đều đã tăng trưởng trở lại. Đây là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp mở rộng các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế nhằm tìm kiếm những bạn hàng, những thị trường mới để mở rộng xuất khẩu.
Kết luận
Cùng với sự phát triển của quá trình lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế, FDI trở thành một hoạt kinh tế đối ngoại ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành vào cuối năm 1987 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ), trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đây là một trong những nhiệm vụ chién lượcc trọng yếu nhất. ở một góc độ nào đó có thể thấy rằng mức thực hiện tăng trưởng nhanh, Lâu bền mà Việt Nam đang theo đuổi, tại điểm xuất phát thấp, hiện tại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên.
Sau ngày thống nhất đất nước, trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế Viết Nam mới nhận thức được vai trò to lớn của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, lớn nhất là trở ngại về nhận thức, tháng 4/1977 Việt Nam đã cho ra đời một bản điều lệ về dầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng phải sau đó 10 năm, tháng 12/1987 Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành và đã mở ra một trang mới cho hoạt động đầu tq nước ngoài tại Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong suốt 10 năm qua.
Thực tế trong 10 năm đổi mới, tính từ mốc Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) chứng tỏ tính chính xác của đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chọn. Tại thời điểm mất ổn định và khủng hoảng trẩm trọng của nền kinh tế, viậc kịp thời thay đôi tư duy, đổi mới phương hướng phát triển đã không chỉ đưa đất nước Việt Nam khỏi khủng hoảng mà còn tạo đà và thế vững chắp cho sự nghiệp tăng trưởng lâu bền.
Khi thực hiện hợp tác đầu tư nước ngoài, chúng ta cũng khó tránh khỏi những vấp váp, sai lầm đặc biệt khi mới bắt đầu. cái giá lơn ”mượn sức người” có thể rất lớn, nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại Việt Nam có thể hạn được nhưng mặt tiêu cực của FDI và đi đến thành công nếu chúng ta biệt xử lý vấn đề một cách đúng đắn.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến đất nước Việt Nam thành một nước CNH vào năm 2020, thì việc thu hút và sử dụng vốn FDI có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng ta coi đó là công việc vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài.
Những thành tựu không nhỏ và nhanh chóng đạt được trong thời gian 10 năm qua còn cho thấy rằng Việt Nam có nhiều điều kiện khách quan cơ bản thuận lợi để xử lý tốt nhiệm vụ đã nêu, đặc biệt là công tác thu hút nguồn vốn FDI.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân
I- Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm
2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
II- Các xu hưởng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Xu hướng tự do hoá đầu tư
2. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư quốc tế
3. Địa bàn thu hút đầu tư
4. Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư mới trên thế giới
5. Lĩnh vực đầu tư
6. Đầu tư với hiệu quả xã hội
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua
I- Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư
2. Cơ cấu đầu tư
3. Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
II- Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1. Những thành tựu
2. Những hạn chế và nguyên nhân
Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút FDI tại Việt Nam
I- Những phương hướng và triển vọng thu hút FDI trong thời gian tới
1. Bối cảnh thu hút FDI
2. Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2001-2005
II- Một số kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan liên quan
III- Một số biện pháp từ phía các doanh nghiệp
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35020.doc