Đất đai có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, liên quan trực tiếp đến nhiều yếu tố chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội. Vì thế việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai là công việc hết sức quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền với toàn thể nhân dân, ngày càng hoàn thiện chính sách pháp luật, đưa pháp luật đất đai vào đời sống, kiện toàn bộ máy quản lý đảm bảo sự hài hoà trong phát triẻn kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động đi đôi với phát triển bền vững. Hà Nội là thành phố có tốc độ đô thị hoá cao, nơi thu hút nhiều vốn đầu tư, được sự quan tâm trực tiếp của Đảng và Nhà nước. Do đó trong thời gian hiện nay và trong thời gian sắp tới áp lực công tác quản lý sử dụng đất đai ở thành phố Hà Nội là rất lớn. Việc tăng cường công tác quản lý đất đai ở Hà Nội là hết sức phức tạp, đòi hỏi các biện pháp giải quyết thật khéo léo để phát triển toàn diện kinh tế – xã hội của toàn thành phố.
52 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất mạnh, giảm 3214 ha so với năm 1995 và giảm 3438 ha so với năm 1991. Nguyên nhân là do cuối năm 1995 có quyết định thành lập quận Tây Hồ, huyện Từ Liêm có 5 xã bị cắt chuyển sang (xã Phú Thượng, Quảng An, Nhật Tân, Xuân La, và Tứ Liên) và đến năm 1997 quận Thanh Xuân và Cầu Giấy ra đời, kết quả là 8 xã của huyện được chuyển sang (Nhân Chính, Nghĩa Đô, Trung Hoà, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Dịch Vọng, Mai Dịch và Yên Hoà). Ngoài nguyên nhân do cắt chuyển các xã còn có nguyên nhân khác như giải quyết tranh chấp địa giới hành chính các cấp theo chỉ thị 364/CT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
+ Đất nông nghiệp : nhìn chung giai đoạn 1991-2000 đất nông nghiệp giảm. Năm 1995 giảm 208 ha so với năm 1991 nhưng đến năm 2000 thì đất nông nghiệp giảm rất mạnh (giảm 1490 ha) so với năm 1995. Nguyên nhân chủ yếu là do 13 xã của Từ Liêm cắt chuyển sang 3 quận mới, trong đó quận Cầu Giấy là 7 xã, quận Tây Hồ là 5 xã và quận Thanh Xuân là 1 xã.
+ Đất lâm nghiệp : biến động không đáng kể từ năm 1995-2000. Huyện Sóc Sơn: đất lâm nghiệp giảm mạnh (năm 2000 giảm 602 ha so với năm1995). Nguyên nhân chính là do lấy đất mở đường giao thông và xây dựng.
+ Đất chuyên dùng : từ năm 1995 đến năm 2000, diện tích đất chuyên dùng của các huyện có tiến độ tăng lên tương đối đều, nguyên nhân chủ yếu là do đất xây dựng, đất giao thông, đất thuỷ lợi… tăng lên.
+ Đất ở : nhìn chung đất ở cũng tăng lên qua các năm, đặc biệt là từ năm 1995-2000 do tác động của quá trình phát triển đô thị. Nguyên nhân cơ bản là do sự chuyển đổi từ đất canh tác sang đất ở, do xây dựng các khu đô thị mới, do lấn chiếm.
Riêng huyện Từ Liêm, đất ở năm 2000 giảm đi 448 ha so với năm 1995. Nguyên nhân là do nhiều xã của Từ Liêm chuyển sang các quận mới.
+ Đất chưa sử dụng : Tổng diện tích đất chưa sử dụng ngày càng giảm so với năm 1990. Năm 2000 so với năm1995, đất chưa sử dụng của các huyện đều giảm, trong đó huyện Từ Liêm giảm mạnh nhất, giảm 681 ha (47,3%). Nguyên nhân là do thành phố đã khai thác, cải tạo đất để xây dựng và phát triển đô thị.
Nhận xét
Để phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung cũng như của thủ đô Hà Nội nói riêng, việc phát triển đô thị là điều tất yếu phải xảy ra. Trong quá trình phát triển đó, việc lấy đất để xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các khu công nghiệp và dịch vụ…đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng đất đai, đặc biệt là đối với vùng ngoại thành Hà Nội. Quá trình đô thị hoá đã ảnh hưởng tích cực lẫn cả tiêu cực đến việc sử dụng bất động sản của thành phố như sau :
• ảnh hưởng tích cực:
Quá trình đô thị hoá đã làm mất đi một khối lượng đất nông nghiệp đáng kể nhưng mục tiêu sử dụng rất đúng hướng và có hiệu quả: đất nông nghiệp đã được chuyển thành những vùng đất xây dựng các khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ…nhằm phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư.
Việc phát triển đô thị cũng đã khai thác triệt để được những loại đất chưa sử dụng như đất đồi núi, đất bằng chưa sử dụng hay đất có mặt nước chưa sử dụng. Toàn thành phố năm 2000 diện tích đồi núi chưa sử dụng giảm 135,81 ha (trong đó chủ yếu chuyển sang đất nông nghiệp là 72,79 ha và chuyển sang đất an ninh quốc phòng là 30,94 ha), ở khu vực ngoại thành, diện tích đất chưa sử dụng giảm đi 928 ha so với năm 1995. Đặc biệt là huyện Từ Liêm, nơi có tốc độ đô thị hoá lớn nhất trong 5 huyện ngoại thành có diện tích đất chưa sử dụng giảm đi 681 ha, sau đó đến huyện Đông Anh 231 ha, Gia Lâm 97 ha…
• ảnh hưởng tiêu cực
Việc mất đất nông nghiệp trong quá trình phát triển đô thị đã không những làm ảnh hưởng đến lao động sản xuất, thu nhập của người nông dân mà còn ảnh hưởng đến vấn đề lao động việc làm. Diện tích đất nông nghiệp toàn thành phố năm 2000 giảm 252,82 ha so với năm 1995 trong khi đó diện tích đất nông nghiệp vùng ngoại thành giảm 1490 ha so với năm 1995 và giảm 1699 ha đất so với năm 1991 (bảng 2).
Một bộ phận nông dân, những người có trình độ thấp, không có khả năng chuyển sang làm nghề phi nông nghiệp đã bị thiệt thòi và tình trạng phân hoá giàu nghèo ở những nơi có tốc độ đô thị hoá cao cũng đang gia tăng.
II. Thực trạng quản lý sử dụng đất đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội
1. Về điều tra, khảo sát, lập bản đồ địa chính
Năm 2001, sở địa chính – nhà đất Hà Nội đã trình UBND thành phố ban hành trên 40 văn bản về quản lý đất, nhà và đo đạc bản đồ; tháo gỡ giải quyết các khó khăn vướng mắc về cơ chế, về thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất - nhà; đặc biệt đã phối hợp với các ngành tham mưu UBND thành phố trình Thành uỷ, HĐND thành phố có Nghị quyết về công tác giải phóng mặt bằng; quản lý sử dụng đất có hiệu quả, góp phần đẩy nhanh tốc độ xây dựng phát triển Thủ đô.
Đã hoàn thành công tác đo vẽ bản đồ địa chính và bàn giao bản đồ địa chính cho UBND quận, huyện, phường, xã, thị trấn để phục vụ công tác quản lý đất - nhà. Đã hoàn thành công tác bàn giao hồ sơ đất công và đất chưa sử dụng cho 101 phường trên địa bàn 7 quận để quản lý chống lấn chiếm; hoàn thành công tác thống kê đất đai hàng năm, tổng kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng trên địa bàn thành phố năm 2000.
Như vậy sau nhiều năm thành phố không có hồ sơ quản lý đất đai, đến nay từng bước về cơ bản chính quyền các cấp đã có hồ sơ quản lý đến từng thửa đất, từng chủ sử dụng và hệ thống hồ sơ này ngày càng được hoàn thiện về chất lượng, góp phần đưa công tác quản lý đất đai có cơ sở khoa học.
2. Về quy hoạch xây dựng đô thị và lập kế hoạch sử dụng đất đô thị
Từ năm 1996 đến nay, kế hoạch sử dụng đất hàng năm của thành phố đều được xây dựng báo cáo HĐND thành phố thông qua và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quy hoạch sử dụng đất thành phố đến năm 2010 đã được HĐND thành phố, Hội đồng xét duyệt các Bộ, Ngành Trung ương thông qua và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Theo Quyết định 1447/QĐ-TTg ngày 9/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố Hà Nội đến năm 2010 thì đất nông nghiệp là 33.446 ha giảm 13.166 ha so với năm 2000; đất chuyên dùng 2.977 ha tăng 9,246 ha; đất ở nông thôn 7.909 ha giảm 908 ha; đất ở đô thị 5.875 ha tăng 3003 ha. Theo quy hoạch quy mô đô thị của Hà Nội được mở rộng theo hướng phát triển tổng thể không gian gồm 3 vùng chủ yếu: vùng hạn chế phát triển, vùng phát triển mở rộng và vùng phát triển mới.
Vùng hạn chế phát triển được giới hạn chủ yếu trong vành đai 2 bởi các tuyến đường La Thành, Láng, Trường Chinh, Đại La, Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Đây là vùng đất đô thị có chức năng khu phố cổ “36 phố phường”, khu trung tâm văn hoá - xã hội và thương nghiệp – dịch vụ Hoàn Kiếm, trung tâm chính trị, lịch sử và văn hoá Ba Đình, với nhiều trụ cơ quan chủ yếu của Đảng và Chính phủ. Đây cũng là nơi có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, nhiều trung tâm dịch vụ lớn về bưu điện, ngân hàng, nhiều tổ chức kinh tế-xã hội quan trọng trong cả nước và quốc tế.
Vùng phát triển mở rộng nằm dọc theo hữu ngạn sông Hồng, đây là nơi để phát triển nhiều khu đô thị mới nhằm mở rộng nội thành trong những năm tới. Hiện trạng đất đô thị các khu vực này có diện tích 4.818 ha và dân số 342 nghìn người, bình quân đạt gần 123 m2/người. Trong những năm tới đất đô thị khu vực này sẽ có khoảng 11.146 ha và dân số khoảng 675 ngàn người, trong đó khu vực mở rộng phát triển thuộc huyện Từ Liêm 4.016 ha, huuện Thanh Trì 2.615 ha.
Vùng phát triển mới (Bắc sông Hồng): hiện tại đất đô thị khu vực này là 1.254 ha, dân số đô thị hiện có 105.500 người, dự báo đến năm 2020, diện tích đất đai quy hoạch cho khu đô thị mới tăng lên 16.229 ha, dân số khoảng 1.032 ngàn người. Trong khu đô thị mới, quỹ đất được tập trung đầu tư cho các khu vực lớn như:
Khu Gia Lâm-Sài Đồng-Yên Viên sẽ quy hoạch thành khu công nghiệp tập trung lớn và các trung tâm nghiên cứu động vật, thực vật, một số trung tâm thương mại, dịch vụ và nhiều công trình đầu mối khác gồm khu công nghiệp Sài Đồng A, Sài Đồng B, khu công nghiệp Đức Giang, cụm công nghiệp Gia Lâm, Cầu Đuống, Yên Viên, diện tích khu vực này khoảng 4.583 ha.
Khu Bắc Thăng Long có đầm Vân Trì xây dựng thành khu đô thị mới, hiện đại, có khu công nghiệp tập trung, trung tâm phân phối hàng, ngoài ra có sân gol Vân Trì, khu thể dục, thể thao Bắc Thăng Long, đất đô thị khu vực này khoảng 4.034 ha.
Khu thị trấn Đông Anh được quy hoạch thành khu công nghiệp, khu trung tâm tài chính thương mại, dịch vụ lớn của thành phố Hà Nội, diện tích 1.862 ha.
Khu Cổ Loa quy hoạch thành trung tâm di tích lịch sử văn hoá kết hợp quy hoạch xây dựng các trung tâm thương mại, du lịch, văn hoá, thể dục- thể thao với quy mô diện tích 3.093 ha. Ngoài ra còn phát triển thêm các khu đô thị Sóc Sơn, Trâu Quỳ.
Quy hoạch sử dụng đất đai thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010 là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các vùng trong thành phố vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên, vừa đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo nền kinh tế của thành phố phát triển tương xứng với vị thế là Thủ đô của nước Việt Nam.
Ước tính đến hết tháng 12/2004, kế hoạch sử dụng đất thực hiện được 2.092 ha, đạt 61,8% kế hoạch năm. Cụ thể: đất ở nông thôn giao 10 ha, đạt 50%; đất ở đô thị giao 655,5 ha, đạt 50,8%; đất đấu giá quyền sử dụng đất giao 87 ha, đạt 29,6%; đất chuyên dùng giao 1.339,8 ha, đạt 75%. Nhiều dự án đầu tư có quy mô diện tích lớn, đã đăng ký kế hoạch sử dụng đất năm 2004, nhưng đến nay chưa đủ điều kiện để được giao đất, như: khu công nghiệp Cầu Bươu 30 ha, khu công nghiệp Cổ Nhuế 40 ha, khu công nghiệp Đông Anh mở rộng 60 ha, khu công nghiệp Sóc Sơn 50 ha, khu đô thị Kim Trung 62 ha, khu đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì 86 ha, khu đô thị dọc 2 bên sông Nhuệ 20 ha, khu dô thị tây nam Kim Giang 60 ha, khu đô thị Cự Khối 10 ha…
Theo đánh giá của UBND thành phố, kế hoạch sử dụng đất năm 2004 đạt thấp. Nguyên nhân do các chủ đầu tư thiếu khẩn trương đôn đốc hoàn thành dự án, mặc dù thành phố đã có chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính như ở các khâu về thủ tục giao đất, cho thuê đất, GPMB, đầu tư xây dựng cơ bản…Quy hoạch chi tiết và lập dự án đầu tư của các dự án đã được ghi trong kế hoạch sử dụng đất thực hiện chậm, sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị và lập kế hoạch chi tiết phục vụ phát triển đô thị dẫn đến lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm thiếu tính khả thi. Đồng thời, chưa gắn trách nhiệm của các chủ dự án với việc không thực hiện được kế hoạch sử dụng đất, chưa có những biện pháp sử lý vấn đề này.
Một số chủ đầu tư đã được giao đất chậm triển khai phương án GPMB tái định cư, làm chậm tiến độ thực hiện dự án hoặc không nắm được các quy định về đầu tư, trình tự thủ tục xin sử dụng đất nên hồ sơ phải bổ xung nhiều lần, dẫn đến việc giao đất cho các dự án bị kéo dài. Một số dự án có diện tích lớn chậm triển khai lập quy hoạch chi tiết và trình duyệt dự án đầu tư cũng là mguyên nhân dẫn đến kế hoạch sử dụng đất năm 2004 đạt tthấp.
Kế hoạch sử dụng đất năm 2005 của thành phố Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 2.139 ha. Trong đó, đất chuyên dùng 1.819 ha, đất ở đô thị 265 ha…
Tuy nhiên, do năm 2004, thành phố thực hiện chậm tiến độ sử dụng đất nên năm 2005, thành phố có đề nghị điều chỉnh lên 2.569 ha, tăng thêm 430 ha so với kế hoạch sử dụng đất mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cụ thể : đất ở nông thôn 10 ha, đất ở đô thị 861 ha, đấu giá quyền sử dụng đất 286 ha và đất chuyên dùng 1.412 ha.
Dự kiến, năm 2005, các nguồn thu từ đất đạt 2.855 tỷ đồng, trong đó thu từ đấu giá quyền sử dụng đất 2000 tỷ đồng.
Theo phó chủ tịch UBND thành phố Lê Quý Đôn, một trong những giải pháp để thực hiện được kế hoạch sử dụng đất năm 2005, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính về giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận. Đặc biệt cần có giải pháp khả thi đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch chi tiết phục vụ cho các dự án. Từng bước chuyển hướng việc giao đất, cho thuê đất để phát triển kinh tế, nhà ở, các công trình phúc lợi có tính chất kinh doanh thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, hoặc đấu thầu dự án. Các trường hợp giao đất theo hình thức lựa chọn đầu tư thì Nhà nước chọn chủ đầu tư thực hiện, đánh giá đất sát thị trường hoặc theo khung giá quy định; ban hành khung giá các loại đất theo quy định của Luật đất đai năm 2003, để ban hành thực hiện từ ngày 1/1/2005. Thành lập Tổ chức phát triển quỹ đất để thực hiện thu hồi đất, bồi thường, GPMB theo quy hoạch sử dụng đất và trực tiếp quản lý quỹ đất đã thu hồi đối với trường hợp sau khi quy hoạch được công bố mà chưa có dự án đầu tư. Và tổ chức này chủ yếu thực hiện việc giao đất, cho thuê đất để phát triển kinh tế.
3. Về giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất
Sở Tài nguyên môi trường và nhà đất Hà Nội cho biết, từ đầu năm đến tháng 7/2004, sở thụ lý gần 100 hồ sơ và trình cấp có thẩm quyền giao và cho thuê gần 500 ha đất, đạt khoảng 20% kế hoạch năm. Trong đó đất ở đô thị 182,2 ha; đất xây dựng 229,28 ha, đất giãn dân nông thôn 3,48 ha…
Theo đánh giá của sở này, tiến độ thực hiện công tác giao đất, cho thuê đất chậm, chưa đạt so với kế hoạch. Ngoài nguyên nhân do trình độ hạn chế của một số đơn vị tư vấn, thì việc chủ đầu tư các dự án lớn chưa triển khai xong công tác chuẩn bị đầu tư, khâu lập kế hoạch chi tiết gặp nhiều vướng mắc là nguyên nhân chú yếu làm cho tiến độ công việc bị chậm trễ.
Đầu năm 2004, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất (QSDĐ) 18 dự án (8 dự án chuyển tiếp từ năm 2003), với tổng diện tích 251 ha, dự kiến đấu giá 91,57 ha. Song, đến tháng 6, hạ xuống còn 50 ha. Nhưng đến tháng 8, theo báo cáo của sở tài nguyên môi trường và nhà đất, diện tích đấu giá QSDĐ trên địa bàn mới đạt 9,1% so với kế hoạch năm.
7 tháng đầu năm 2004, mặc dầu thành phố mới đấu giá QSDĐ được 5 trong tổng số 18 dự án, với diện tích 4,5476 ha, nhưng đã thu được 773 tỷ đồng, đạt 51% chỉ tiêu kế hoạch năm là 1.500 tỷ đồng.
Rào cản lớn nhất làm chậm tiến độ đáu giá QSDĐ là khâu lập kế hoạch chi tiết, lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán của các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật phải chỉnh sửa nhiều lần, kéo dài thời gian. 10 dự án thuộc chỉ tiêu năm 2004 mới có 1 dự án tại xã Trâu Quỳ (huyện Gia Lâm) được phê duyệt quy hoạch chi tiết.
Mặc dù thủ tục đầu tư được cải tiến như, UBND thành phố cho phép chủ đầu tư tách dự án thành 2 là: dự án tạo mặt bằng và dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để chủ đầu tư hạn chế “đợi việc”. Song các quận, huyện chưa phát huy được tính chủ động. Việc thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, phê duyệt kế hoạch đấu thầu, mở thầu, phê duyệt kết quả trúng thầu còn qua nhiều thủ tục. Nguyên ngân nữa là, một số quận, huyện chưa thấy hết tính chất phức tạp của công việc, có nơi “khoán trắng” cho đơn vị tư vấn, nhưng năng lực của các đơn vị này rất hạn chế, không đáp ứng yêu cầu công việc. Một số quận, huyện ban đầu đăng ký số dự án lớn, khi nào việc thấy khó khăn, nảy sinh tư tưởng “dễ làm khó bỏ”, kế hoạch bóp “teo” lại…
Theo đánh giá của UBND thành phố, quận Tây Hồ và huyện Từ Liêm là hai đơn vị thực hiện tốt công tác đấu giá QSDĐ, rút ra kinh nghiệm tham khảo. Tuy gặp khó khăn trong GPMB như quận, huyện khác, nhưng lãnh đạo địa phương đã lập tức chỉ đạo, phối hợp với các sở, ban ngành cùng tháo gỡ.
4. Về đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị
Theo số liệu thống kê của Phòng Đăng ký – Thống kê thuộc Sở Địa chính – Nhà đất Hà Nội, tính đến cuối tháng 8/2003, toàn thành phố đã cấp được 20.715 GCN QSH nhà ở & QSD đất ở, theo Nghị định 60/CP, đạt 51,79% kế hoạch năm 2003 nâng tổng số giấy đã cấp lên 130.489, đạt 68,21% tổng số giấy cần cấp; cấp được 5.075 GCN QSH nhà ở & QSD đất ở theo nghị định 61/CP nâng tổng số giấy đả cấp lên 53.100. Trong đó các quận, huyện theo sự uỷ quyền cấp giấy chứng nhận của UBND Thành phố đã cấp được 14.703 GCN QSH nhà ỏ & QSD đất ở. Quận Hai Bà Trưng có số lượng giấy chứng nhận được cấp cao nhất của thành phố với 4.037 / 8.500.
Việc lập hồ sơ xét duyệt cấp giấy chứng nhận phần đa mất thời gian thẩm định, kiểm tra bổ sung do hồ sơ nhân dân kê khai đã lâu, biến động nhiều cả về đất và nhà xây dựng trên đất. Trong khi đó, việc cấp giấy chứng nhận phải đảm bảo chặt chẽ, đúng pháp luật, đúng trình tự, đảm bảo không có tranh chấp khiếu kiện, ổn định ở địa phương. Vì vậy, UBND thành phố Hà Nội đang tập trung chỉ đạo các cấp, quận ,huyện tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân tiếp tục kê khai, kê khai lại, kê khai bổ sung để lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận cho nhân dân. Về mặt quản lý nhà nước, công tác cấp giấy chứng nhận uyền sử dụng đất chưa thực sự được các cấp chính quyền và cấp ủy Đảng quan tâm và nhận thức tầm quan trọng cũng như vai trò của công tác này nên thiếu kiểm tra, đôn đốc, bố trí lực lượng để thực hiện. Trên thực tế, đây là một công cụ cơ bản để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản theo luật và đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Trong quá trình cấp GCN QSH nhà ở và QSD đất ở, những hồ sơ còn lại chưa được cấp phần lớn là những hồ sơ khó khăn, phức tạp về nguồn gốc. Chính quyền và cán bộ địa chính cấp phường thường chưa được ổn định nên chưa nắm chắc nguồn gốc đất, không theo dõi được biến động dẫn đến việc xem xét nguồn gốc để cấp giấy chừng nhận gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó hạn chế về nhận thức của nhân dân cũng là một trong những nguyên nhân chính làm chậm lại tiến độ cấp giấy chứng nhận. Một số người chưa thực sự quan tâm đến việc giúp chính quyền và cộng tác với chính quyền như việc xác định ranh giới thửa đất giữa các gia đình, thực hiện kê khai bổ sung hồ sơ khó khăn hoặc phối hợp với chính quyền cơ sở để giải quyết những vướng mắc trong quá trình cấp giấy chứng nhận. Một số cán bộ cơ sở khi giải quyết công việc còn quá cứng nhắc, vận dụng không linh hoạt, đôi khi có tâm lý chờ đợi.
Ngoài ra công tác cấp giấy chứng nhận của thành phố Hà Nội gặp phải những khó khăn do các quận Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Thanh Xuân mới được phân cấp đầu năm 2003. Thời gian đầu năm, các quận này hầu hết đều phải giành cho việc thực hiện công tác chuẩn bị như: lập kế hoạch thực hiện và giao nhiệm vụ, quy định trách nhiệm của cán bộ mỗi cấp trong từng khâu công việc, chuẩn bị trang thiết bị và tập huấn chuyên môn để hiện nội dung và sơ đồ thửa đất trên giấy chứng nhận. Các quận còn lúng túng trong việc thực hiện dẫn đến kết quả những tháng đầu năm thấp, tiến độ thực hiện chậm. Riêng chỉ có quận Đống Đa và Cầu Giấy tập trung chỉ đạo từ đầu năm nên kết quả thực hiện cao hơn và nhanh hơn các quận khác. Đặc biệt, quận Cầu Giấy đã có phường Nghĩa Tân cơ bản hoàn thành xong công tác cấp giấy chứng nhận. Hiện phường Nghĩa Tân đã hoàn chỉnh xong hồ sơ, đạt 98%, số lượng sổ đỏ đã được cấp trên địa bàn phường Nghĩa Tân đạt tỷ lệ 80%.
5. Về thu hồi đất
Theo báo cáo của Sở Địa chính – Nhà đất Hà Nội, thực hiện chỉ thị 15/2001/CT-UB, toàn thành phố đã kiểm tra sử dụng đất của 5.983 tổ chức với tổng diện tích 6.865 ha. Qua đây, phát hiện 1.412 trường hợp vi phạm về quản lý, sử dụng đất với diện tích gần 473 ha và 1.774 trường hợp hộ gia đình, cá nhân lấn chiếm đất công với diện tích 21,88ha, trong đó số tổ chức để hoang hóa hoặc chưa sử dụng lên tới129,8 ha, chiếm 27,5% diện tích đất vi phạm. Phân tích số liệu về vi phạm cho thấy: trong số 1.412 trường hợp vi phạm quản lý sử dụng đất, đa số đã có hồ sơ kê khai đăng ký thực hiện chỉ thị 245/TTg nhưng phần lớn các dạng vi phạm chưa được sử lý có mấy dạng sau: Dạng tổ chức được giao đất còn để hoang hóa hoặc chưa sử dụng là 129,8 ha đất (chiếm 27,45%diện tích đất vi phạm); dạng các tổ chức để làm trụ sở, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo ngành nghề đã tự chia đất làm nhà ở với tổng diện tích là 172,55 ha đất, chiếm 36,49% diện tích đất vi phạm; tổ chức thực hiện sai mục đích với tổng diện tích 152,38 ha, chiếm 32,23% diện tích đất vi phạm; tổ chức lấn chiếm đất, phần lớn là đất công với tổng diện tích 5,2 ha đất, chiếm 3,83% số tổ chức sử dụng đất có vi phạm; kiểm tra hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phát hiện 1.774 hộ gia đình, cá nhân lấn chiếm đất công với diện tích 21,88 ha. Sau khi có kết quả kiểm tra, Sở Địa chính-Nhà đất đã chủ đọng phối hợp với UBND các quận, huyện lập các hồ sơ thu hồi đất trình UBND thành phố quyết định. Qua 2 năm chỉ thị 15/2001/CT-UB, toàn thành phố đã có 60 hồ sơ thu hồi đất được lập. Trong đó, UBND thành phố ra quyết định thu hồi đất 31 tổ chức, thông báo thu hồi đất 5 tổ chức, còn lại 24 hồ sơ chưa có quyết định thu hồi. Trong 31 tổ chức UBND thành phố ra quyết định thu hồi, có 5 tổ chức đã thực hiện quyết định chuyển giao đất cho quận, huyện quản lý, 7 tổ chức có kiến nghị xem xét, 1 tổ chức chống đói quyết định thu hồi đất, 18 quyết định được UBND quận, huyện lập dự án sử dụng đất và thành lập hội đồng GPMB
Rút kinh nghiệm việc triển khai thực hiện các quyết định của UBND thành phố 2 năm trước, được đánh giá là chậm và thiếu kiên quyết, nhất là những trường hợp bị thu hồi đất có thái độ trây ỳ, chống đối quyết định. Ngay từ đầu năm 2003, Sở Địa chính- Nhà đất đã cùng Đoàn công tác liên ngành của thành phố về làm việc với quận, huyện để kiểm tra, rà soát và tìm biện pháp thực hiện nghiêm quyết định thu hồi đất. Trên tinh thần đó, tính từ đầu năm đến 9/2003, toàn thành phố đã thực hện xong 31 quyết định thu hồi đất với tổng diện tích trên 201.000 m2 (trong đó có 6 quyết định UBND thành phố cho phép chủ sử dụng đất được lập dự án sử dụng đất có hiệu quả trong vòng 6 tháng). Một số quận, huyện tập trung làm tốt là: Hai Bà Trưng thực hiện xong 4/5 quyết định thu hồi đất với diện tích trên 12.000 m2, quận Hoàn Kiếm thực hiện xong 2/2 quyết định thu hồi đất với diện tích 5840 m2, huyện Từ Liêm thực hiện xong 3/3 quyết định thu hồi đất với diện tích 40.850 m2, quận Ba Đình thực hiện 3/4 quyết định thu hồi đất với diện tích 5185 m2...
Hiện còn một số quyết định của UBND thành phố, các quận, huyện đang tiếp tục triển khai thực hiện, xong đang gặp khó khăn do các chủ sử dụng đất bị thu hồi không hợp tác, còn khiếu nại. Tiêu biểu là: Xí nghiệp Dược phẩm TƯ II tại quận Hai Bà Trưng, Công ty Vật liệu xây dựng và XNK Hồng Hà tại quận Ba Đình... Sở Địa chính-Nhà đất đang phối hợp cùng các quận, huyện tiếp tục kiểm tra xem xét để báo cáo thành phố sớm thực hiện.
Để công tác thu hồi đất theo đúng kế hoạch, việc lập hồ sơ thu hồi đất đã được Sở Địa chính-Nhà đất tập trung triển khai khẩn trương, nghiêm túc. Sở đã cử cán bộ trực tiếp về làm việc với phòng địa chính và đô thị các quận , huyện kiểm tra, rà soát, lập biên bản, lập hồ sơ các trường hợp vi phạm. Với tinh thần làm việc kỹ lưỡng, chặt chẽ, yếu tố công khai, dân chủ được đề cao nên tạo điều kiện cho việc thực hiện quyết định thu hồi đất sau này. Kết quả là 9 tháng đầu năm 2003, toàn thành phố đã lập hồ sơ thu hồi đất của gần 40 tổ chức vi phạm, trong đó có 22 hồ sơ đã hoàn chỉnh được Sở Địa chính-Nhà đất phẩm định, trình thành phố ra quyết định.
Có thể nói rằng chỉ thị 15/2001/CT-UB của UBND thành phố Hà Nội sau gần 3 năm thực hiện đã thể hiện một chủ trương đúng đắn và kịp thời nhằm chấn chỉnh và đưa công tác quản lý sử dụng đất đai đi vào nề nếp. Sau gần 3 năm, đã có hàng chục quyết định thu hồi đất được thực hiện với diện tích được thu hồi đất lên tới hàng chục vạn m2. Diện tích đã thu hồi được thành phố giao cho các quận, huyện sử dụng vào các mục đích phát triển kinh tế – xã hội, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Kết quả bước đầu đã củng cố niềm tin của nhân dân vào sự kiên quyết của thành phố xử lý những vi phạm chấm dứt việc buông lỏng trong quản lý và sử dụng đất đai.
Tuy vậy cho đến nay, việc thực hiện thu hồi đất theo chỉ thị 15/CT-UB của thành phố Hà Nội được đánh giá là chưa đạt được mục tiêu đề ra. Tốc độ vi phạm và xử lý vi phạm còn chậm, tỷ lệ các chỉ tiêu đạt kết quả thấp; chưa có biện pháp mạnh buộc các tổ chức đang sử dụng đất có vi phạm phải thực hiện xử lý vi phạm. Tình trạng này, nguyên nhân trực tiếp phải kể đến đó là: công tác kiểm tra, thanh tra, rà soát đã phát hiện nhiều nhưng việc xử lý vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết. Trong đó việc các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được giao đất không sử dụng, để hoang hóa, sử dụng kém hiệu quả, nhưng không bị xử lý gây dư luận bức xúc trong từng địa phương, có lúc phát triển thành điểm nóng.
ở một số địa phương chưa có sự chỉ đạo đồng bộ, thiếu kiên quyết, còn tồn tại tư tưởng nể nang, né tránh trong việc xử lý vi phạm quản lý, sử dụng đất đai tạo tiền lệ xấu, không có lợi cho xử lý thu hồi đất trên phạm vi thành phố. Còn có sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp bộ, ngành tạo chỗ dựa để các tổ chức, cá nhân thi hành quyết định.
Các tổ chức sử dụng đất chưa gương mẫu, chưa tự giác trong việc kê khai. Có nơi, có lúc còn gây khó khăn, tìm cách đối phó, thậm chí chống đói quyết liệt điển hình là Xí nghiệp SX dụng cụ TDTT thuộc Công ty Thể thao Việt Nam không sử dụng 8349 m2 để hoang hóa nhiều năm tại phường Nhân Chính. Nhiều đơn vị đã có thông báo thu hồi đất có dấu hiệu chạy dự án để giữ đất.
Để hoàn thành chỉ tiêu xử lý thu hồi đất theo kế hoạch năm 2003, thời gian còn lại trong năm, Sở Địa chính-Nhà đất đã khẩn trương kiểm tra, rà soát lập 39 hồ sơ thu hồi đất của các đơn vị có vi phạm trình UBND thành phố ra quyết định. Trước mắt, cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về đất đai bằng cách tổ chức thực hiện hoàn thiện đồng thời gắn với cải cách hành chính trong việc thực hiện 7 nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môm cho cácn bộ địa chính cơ sở cá về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng kịp thời của công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục người sử dụng đất tự giác thi hành quyền và nghĩa vụ của mình. Kịp thời phát hiện và có biện pháp ngăn chặn ngay những vi phạm mới phát sinh. Lập hồ sơ vi phạm đã phát sinh tạo điều kiện lập hồ sơ ban đầu một cách nhanh chóng hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu, đề xuất các quy trình quy phạm trong xử lý thu hồi đất như việc tổ chức cưỡng chế thu hồi đất; lập dự án sử dụng đất thu hồi trước khi thành phố ra quyết định...để việc thi hành quyết định thu hồi đất kịp thời và có hiệu quả, tạo niềm tin và sự đồng tình của dư luận.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, chính sách đất đai trong quần chúng nhân dân phải được đi trước một bước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thành công chỉ thị.
Cần có biện pháp xử lý nghiêm, kịp thời đối với người đứng đầu tổ chức có hành vi chống đối thi hành quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền; đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hành vi chống đối không thi hành đề nghị chuyển cơ quan pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự. Tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm các vi phạm còn tồn đọng của kháng nghị 712,01 của Viện kiểm sát tối cao.
Đẩy mạnh công tác đăng ký, cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân theo Nghị định 60/CP, 61/CP, 65/UB, Nghị định 02/CP về đất lâm nghiệp và các công tác khác.
Thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm tra việc quản lý sử dụng đất định kỳ và xử lý kịp thời các vi phạm về quản lý sử dụng đất theo pháp luật.
6. Thanh tra, giải quyết các tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về đất đai
Từ năm 1994 đến năm 2000, bình quân mỗi năm chỉ riêng thanh tra địa chính tiếp nhận 167 đơn khiếu nại, tố cáo và đề nghị giải quyết tranh chấp, trong đó có 140 đơn thuộc thẩm quyền, chiếm 83,7%. Tỷ lệ giải quyết đơn bình quân đạt 90%, năm cao nhất đạt 100%, năm thấp nhất đạt 67%. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các vi phạm trong quản lý sử dụng đất đai từ 1994-2000 được thể hiện trong bảng sau:
Đơn vị
1994
1995
1996
1997
2000
1. Đơn khiếu tố
- Khiếu nại
- Tố cáo
- Tranh chấp
2. Đơn thuộc thẩm quyền
3. Đơn đã giải quyết
Đơn
Đơn
Đơn
Đơn
Đơn
Đơn
122
85
37
110
95
171
86
50
13
92
62
100
40
28
10
78
64
128
73
33
5
104
94
315
217
98
315
315
Nguồn: Sở Địa chính Hà Nội
Từ kết quả trên ta thấy: Từ năm 1994-2000 số đơn khiếu tố tăng lên rõ rệt, tổng số đơn năm 2000 tăng lên 2,582 lần so với năm 1994. Nó thể hiện quan hệ đất đai ngày càng trở lên phức tạp. Tuy nhiên tỷ lệ giải quyết đơn từ năm 1994-2000 cũng tăng theo chiều hướng tốt, năm 2000 có 100% số đơn được giải quyết, gấp 1,1574 lần so với năm 1994.
Chương III : Giải pháp về công tác quản lý sử dụng đất đô thị
I. Cơ sở của các giải pháp
1. Cơ sở lý luận
Đất đô thị là phần diện tích đất có giới hạn được sử dụng để xây dựng các công trình đô thị, như nhà ở, trụ sở các cơ quan hành chính, kinh tế, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị như đường giao thông, mạng lưới điện chiếu sáng, lưới điện sinh hoạt, điện sản xuất, thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước…phục vụ các nhu cầu lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh và các mục đích đa dạng khác. Phần diện tích đất có giới hạn đó theo các quy mô khác nhau kết hợp với một số yếu tố cơ cấu dân số và cơ cấu kinh tế được nhà nước quy định phân loại thành đô thị từ loại I đến loại V và loại đặc biệt.
Quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhu cầu sử dụng đất đô thị ngày càng tăng trong khi khả năng cung diện tích đất đô thị là hữu hạn. Chính vì vậy việc khai thác sử dụng đất đô thị cho hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao là yêu cầu rất quan trọng. Nó đòi hỏi công tác quản lý sử dụng đất đô thị cũng phải đồng bộ và phù hợp. Vì lý do đó nên cần phải có các giải pháp về quản lý sử dụng đất đô thị.
2. Cơ sở pháp lý
Hiến pháp và Luật Đất đai nước ta khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý thống nhất về đất đai theo quy hoạch và kế hoạch. Tuy nhiên Luật đất đai của chúng ta ra đời vẫn còn có những bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện và bổ xung. Do đó chúng ta cần phải có các giải pháp về quản lý sử dụng đất để ngày càng nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai.
3. Cơ sở thực tiễn của thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Trong 10 năm tới phải gắn liền với 1000 năm Thăng Long Hà Nội, thành phố phải đảm bảo ổn định, vững chắc an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội toàn diện, nhanh, hiệu quả, bền vững. Đất đai là một trong những nguồn lực quan trọng cho quá trình phát triển của Hà Nội. Chính vì vậy, công tác quản lý đất đai ở Hà Nội phải có các mục tiêu và định hướng phù hợp với sự phát triển của Thủ đô trong thời gian tới. Các mục tiêu và định hướng đó là:
- Xây dựng và phát triển thị trường đất đai chính thức tiến tới hạn chế thị trường không chính thức, ngăn chặn thị trường đầu cơ, đấu tranh nghiêm cấm các hiện tượng tiêu cực, tham ô hối lộ trong công tác quản lý nhằm xử lý tốt các yêu cầu trước mắt và đảm bảo mục tiêu lâu dài là phục vụ sự nghiệp phát triển Thủ đô, cải thiện và nâng cao đời sống cho các tầng lớp dân cư. Quán triệt quan điểm đất đai là công thổ quốc gia, do Nhà nước thống nhất quản lý, kết hợp hài hoà với việc tạo mọi diều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân chuyển quyền sử dụng đất và các quyền khác (thế chấp, thừa kế, cho thuê…) theo luật định. Mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh, mở rộng các hình thức kinh doanh đất đai. Đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia thị trường đất đai thông qua các cơ chế về huy động nguồn vốn. Phát triển thị trường đất đai ở Hà Nội cần quán triệt đầy đủ các yếu tố kinh tế cũng như yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý, bảo đảm tính công khai và nhanh chóng áp dụng phương thức quản lý hiện đại theo quy luật cung cầu có sự quản lý, điều tiết đồng bộ và thống nhất của Nhà nước và thành phố.
- Phối hợp đồng bộ việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tăng cường quản lý của các ngành chức năng và vai trò của chính quyền cơ sở với việc lựa chọn một số biện pháp mang tính đột phá để điều chỉnh hữu hiệu quan hệ cung cầu trên thị trường đất đai.
- Đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị và khu vực nông thôn, quyền sở hữu nhà và công trình xây dựng cho các tổ chức để các chủ thể có thể đủ chứng cứ pháp lý khi tham gia giao dịch chính thức trên thị trường nhà đất. Hoàn thiện các công cụ thuế và tài chính phù hợp yêu cầu của quy luật thị trường để thúc đẩy sự vận hành của thị trường bất động sản. Xây dựng hệ thống thông tin về đất đai nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết cho tổ chức, cá nhân nhằm hạn chế tiến tới xoá bỏ hoạt động đầu cơ.
- Công tác quy hoạch chung và chi tiết phải phục vụ cho việc chủ động tạo quỹ đất đảm bảo phục vụ tốt cho công tác giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư góp phần cải tạo và xây dựng đô thị theo hướng đồng bộ, văn minh, hiện đại.
Định hướng trên chính là cơ sở cho các giải pháp về quản lý sử dụng đất đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội.
II. Giải pháp về quản lý sử dụng đất đô thị
1. Về quy hoạch đô thị và quản lý sử dụng đất
Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Công tác xây dựng quy hoạch đô thị và quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội phải đi trước nhưng không tách rời quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất làm cơ sở để thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Cần sớm hoàn chỉnh và cụ thể hoá phương án quy hoạch Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ bằng các quy hoạch chi tiết các khu vực phát triển đô thị, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch không gian đô thị, quy hoạch phát triển công nghiệp đô thị…Công bố, công khai các quy hoạch làm cơ sở cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân thực hiện. Có quy chế quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện quy hoạch để phát hiện những mâu thuẫn, bất hợp lý, có phương án điều chỉnh kịp thời tránh những thiệt hại do quy hoạch không sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Trong đó , việc chỉ đạo lập và triển khai thực hiện quy hoạch cần phải đảm bảo thống nhất về thời gian, về căn cứ, về nội dung, về chỉ tiêu, về phương pháp để các ngành, các cấp cùng thực hiện đồng bộ. Có sự phân công rõ ràng và có quy chế phối hợp, xử lý liên ngành để nâng cao hiệu quả. Việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không chạy theo hình thức mà cần phải tập trung, chú trọng vào chất lượng quy hoạch, phù hợp với tình hình thực tế để có thể triển khai và hoàn thành đúng thời hạn. Trong khi lập các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần có một số phương án và so sánh hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường của các phương án.
Quy hoạch sử dụng đất thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010 thể hiện chiến lược sử dụng đất của thành phố trong 10 năm tới và định hướng sử dụng đất cho 20 năm sau. Nó có ý nghĩa quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cả trước mắt và lâu dài. Để quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của thành phố đến năm 2010 được thực thi, đạt hiệu quả cao, Hà Nội đã đưa ra mốt số giải pháp cơ bản.
Một là tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai theo Hiến pháp, pháp luật. Nhanh chóng khắc phục những vướng mắt, tồn tại về quản lý đất đai trên toàn thành phố. Cải tiến phương thức lập hồ sơ địa chính làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cấp GCNQSĐ trong toàn thành phố.
Hai là xây dựng các văn bản pháp quy và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc hình thành thị trường bất động sản để hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường hiện nay, nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đánh giá đầy đủ các chi phí cần thiết khi lập dự án đầu tư và yên tâm đầu tư thực hiện việc khai thác sử dụng đất có hiệu quả, ổn định lâu dài.
Ba là thực hiện tốt chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đồng thời có kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất sản xuất, từng bước giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu theo hướng dịch vụ – công nghệp – nông nghiệp.
Bốn là tăng cường sự phối hợp giữa thành phố với các bộ, ngành trung ương trong việc thực hiện pháp luật đất đai. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ những ách tắc trong quản lý đất đai. Phối hợp với các tỉnh lân cận để thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hình thành và phát triển mạng lưới đô thị vệ tinh Thủ đô theo quy hoạch thống nhất.
Năm là áp dụng các biện pháp kích cầu sử dụng đất thông qua các chính sách như hỗ trợ phát triển hạ tầng ngoài hàng rào, ưu tiên hoặc giảm giá thuê đất, phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ.
2. Về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Để đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trên địa bàn thành phố thời gian tới UBND thành phố Hà Nội đã có một số giải pháp thực hiện. Cụ thể, về cơ chế chính sách, quán triệt mục tiêu quản lý Nhà nước về đất đai, Sở Địa chính-Nhà đất Hà Nội đã nghiên cứu và trình UBND thành phố cải cách hành chính mạnh hơn nữa nhằm giảm bớt thủ tục trong quá trình xét cấp giấy chứng nhận, như đề nghị giảm bớt số lượng người ở Hội đồng xét cấp quận; hoặc trên cơ sở giải quyết cho chậm nộp, đề nghị chưa xét đến thời gian sử dụng đất để tạo điều kiện cho cấp phường phân loại nhanh hồ sơ, đảm bảo đủ hồ sơ xét cấp giấy chứng nhận. Về tổ chức thực hiện, UBND quận, huyện có kế hoạch chi tiết về công tác cấp giấy chứng nhận, giao chỉ tiêu kế hoạch cụ thể cho các phường, xã, thị trấn. Tăng cường cán bộ xuống cấp phường kiểm tra, đôn đốc việc phân loại hồ sơ, tháo gỡ vướng mắc ngay tại cơ sở để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Ban chỉ đạo của quận, huyện giao trách nhiệm cho các phòng, ban và các thành viên của ban chỉ đạo chịu trách nhiệm về tiến độ thưc hiện tại địa bàn được phân công; đồng thời thường xuyên bám sát địa bàn để nắm tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và đôn đốc công việc. Trước mắt, thành phố Hà Nội tập trung làm trước những trường hợp đã đầy đủ hồ sơ, như những trường hợp nhà, đất tái định cư đã được cấp có thẩm quyền giao đất. Hội đồng cấp phường, quận xét mà cán bộ phường, xã, thị trấn chịu trách nhiệm trực tiếp trình UBND phường, xã, thị trấn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt cấp giấy chứng nhận. Tập trung chỉ đạo xuyên suốt từ thành phố đến quận, huyện và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giao ban, kịp thời tháo gỡ khó khăn của từng trường hợp và từng địa bàn cụ thể để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận. Đẩy mạnh dịch vụ hành chính công nhằm phục vụ tốt hơn nữa các yêu cầu của nhân dân. Tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện cung cấp thông tin đại chúng đến các tầng lớp nhân dân và các tổ chức để mọi chủ sử dụng đất đều tham gia thực hiện với tinh thần trách nhiện cao, phối hợp tích cực với chính quyền cơ sở trong quá trình thực hiện để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận. Mặt khác, hy vọng với các chính sách quy định ( đặc biệt là quy định về tài chính) của Luật đất đai mới đang trình quốc hội ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn, khuyến khích cho công tác cấp giấy chứng nhận được nhanh hơn.
Quản lý chặt chẽ và ổn định tình hình đất đai là một trong những vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, nhất là ở những thành phố lớn. Thành phố Hà Nội bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. Việc đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trên địa bàn thành phố Hà Nội là một việc làm cấp thiết và mang tính lâu dài mà UBND thành phố Hà Nội đang nỗ lực thực hiện nhằm từng bước đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp và pháp luật.
3. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật đất đai
Quản lý xã hội bằng pháp luật là yêu cầu khách quan , là phương pháp chủ yếu nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước. Đất đai có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, do vậy quản lý đất đai bằng pháp luật là hết sức cần thiết. Tuy nhiên Luật đất đai của chúng ta còn nhiều bất cập đã làm ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai, cho nên việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai cũng như hệ thống pháp luật về đất đai là một yêu cầu khách quan và cấp bách. Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý đất đai là căn cứ để quản lý, sử dụng đất đai theo pháp luật và đảm bảo hiêụ lực quản lý Nhà nước về đất đai. Chúng ta cần tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các quy phạm pháp luật về đất đai. Cải tiến hình thức ban hành văn bản, cố gắng đảm bảo mỗi nội dung quản lý Nhà nước được tập trung trong một văn bản, giảm tối đa các văn bản thứ cấp. Nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính khoa học, tính thực thi cao và ổn định trong thời gian dài.
Hà Nội cần có những chính sách và quy chế cụ thể hoá Luật đất đai nhằm ổn định tình hình sử dụng đất ở và các khu vực đô thị hoá trong tương lai. Cần phải có chính sách nhất quán, ổn định trong đền bù giải phóng mặt bằng, có chế độ đền bù thoả đáng và đào tạo nghề, giải quyết lao động dư thừa khi bị thu hồi đất phục vụ cho các mục đích khác nhau đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
4. Hoàn thiện bộ máy quản lý và nâng cao chất lượng trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai
Cần tiếp tục rà soát lại các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai để đảm bảo yêu cầu tinh giản bộ máy gọn nhẹ, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành theo hướng không chồng chéo, tăng cường phân cấp cho cơ sở. Đặc biệt là nâng cao quyền hạn và trách nhiệm giải quyết công việc cho chính quyền cấp phường, quận trong hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai. Quy định rõ chế độ trách nhiệm của từng tổ chức và người đứng đầu tổ chức trong việc giải quyết công việc với tổ chức và cá nhân khác trong quan hệ đất đai. Các công việc có liên quan đến nhiều cơ quan thì phân định rõ cơ quan nào chủ trì giải quyết, phải chịu trách nhiệm về thời gian và kết quả. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai, cần có bộ phận nghiên cứu , theo dõi, đánh giá giá trị đất để đề xuất các phương án sử dụng đất có hiệu quả và hợp lý.
Hình thành hệ thống thông tin đất đai bao gồm thông tin bản đồ, thông tin thuộc tính đất đai phục vụ cho cải cách, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai và phục vụ điều hành thị trường bất động sản. Đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh, các nhiệm vụ, các quyết định về quản lý đất đai được ban hành kịp thời, hiệu quả. Tích cực áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào lĩnh vực quản lý đất đai.
Cán bộ là yếu tố quyết định sự thành công cho mỗi tổ chức, vì vậy phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước ổn định, chuyên môn hoá, có cơ cấu hợp lý, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phải có quy hoạch cán bộ dài hạn, ngắn hạn, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán bộ công chức hàng năm, đồng thời với chế độ tuyển dụng công chức theo tiêu chẩn quy định. Đặc biệt cần tập trung đào tạo cán bộ địa chính cấp xã, phường có trình độ Trung cấp chuyên ngành địa chính trở lên. Đi đôi với việc đào tạo là chính sách sắp xếp, sử dụng cán bộ hợp lý, phù hợp với năng lực và vị trí. Cần có chính sách đãi ngộ theo năng lực, chất lượng công vịêc, đảm bảo điều kiện sinh hoạt đời sống của cán bộ công chức để họ yên tâm công tác.
5. Nâng cao vai trò của cộng đồng trong quản lý Nhà nước về đất đai
Việc tổ chức thực hiện thành công các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như pháp luật về đất đai không chỉ phụ thuộc vào cơ quan quản lý Nhà nước mà phần lớn nó phụ thuộc vào ý thức, sự tham gia, sự thực hiện, sự giám sát của cộng đồng. Trong bất kỳ một công tác quản lý nào của cơ quan quản lý Nhà nước đều có sự tham gia của quần chúng. Cho nên cần phải công khai hoá, tăng cường sự tuyên truyền chủ chương, chính sách pháp luật đất đai cho người dân; có các hình thức khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách về đất đai, đặc biệt là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đấu tranh, tố giác các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai và tham gia tích cực hoà giải trong các vụ tranh chấp đất đai. Không những thế cần tổ chức các buổi học tuyên truyền về chính sách, văn bản pháp luật đất đai nhằm nâng cao khả năng hiểu biết các kiến thức cơ bản về đất đai cho người dân ý thức chấp hành luật. Những nhận thức về chính sách đất đai của người dân trong cơ chế thị trường không đầy đủ, không tuân thủ theo quy định của pháp luật, nên đã gây phức tạp trong công tác quản lý. Do đó công tác tuyên truyền sâu rộng pháp luật đất đai đến với người dân là tất yếu và cần thiết.
Cụ thể là cộng đồng tham gia vào công tác quy hoạch và giám sát quy hoạch. Công tác này từ trước tới giờ luôn do Nhà nước và các cấp chính quyền có liên quan thực hiện mà không có sự tham gia của cộng đồng, điều này làm xảy ra tình trạng khi công bố quy hoạch thì đã lạc hậu so với thực tế hoặc quy hoạch, kế hoạch được công bố gây nên bất bình trong lòng dân. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp như vậy, cho nên cần có sự tham gia của cộng đồng dưới nhiều hình thức như góp ý, nêu ý tưởng…
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức Nhà nước và chấp hành pháp luật của công dân. Công tác kiểm tra, kiểm soát là nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực thi công việc của công chức Nhà nước, nhưng đồng thời cũng nâng cao ý thức, trách nhiệm của công dân. Kiểm tra cần đi liền với khen thưởng và xử lý vi phạm.
Tăng cường biện pháp tuyên truyền, thuyết phục nhưng cũng phải kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai. Đối với những tổ chức, cá nhân cố tình không chấp hành và vi phạm thì cần áp dụng những biện pháp cưỡng chế thực hiện.
III. Kiến nghị
Thành phố đề xuất với Chính phủ sớm ban hành các Nghị định, vừa cụ thể hoá Luật Đất đai sửa đổi, vừa góp phần giải quyết một số vấn đề quan trọng về đất đai hiện nay như bồi thường thiệt hại cho các đối tượng khi Nhà nước thu hồi đất đai cho các mục tiêu khác nhau, định giá đất.
Thành phố đề xuất với Chính phủ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các chính sách đảm bảo phát triển đồng bộ thị trường bất động sản trong đó có thị trường nhà ở, thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất… góp phần khuyến khích phát triển các loại thị trường này.
Thành phố tiếp tục hoàn thiện củng cố các văn bản pháp lý, cơ chế chính sách về đất đai, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng đất đai
Thành phố nên có những biện pháp để đảm bảo tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai ở các cấp cơ sở, đặc biệt là phường, xã.
Thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được coi là một công cụ quản lý Nhà nước về đất đai, phải được tính toán cụ thể, gắn với phảt triển kinh tế-xã hội, đất đai phải được coi là tài nguyên, tư liệu sản xuất đặc biệt, nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của quốc gia nói chung và thành phố nói riêng.
Thành phố thực hiện đổi mới về quy trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy định những chế tài cụ thể trong công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (về phân công trách nhiệm người giám sát, các chỉ tiêu quản lý, giám sát, quy trình kiểm tra…) và sử phạt đối với việc vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải được công bố công khai để nhân dân biết, thực hiện và kiểm tra theo dõi việc thực hiện, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu và khả năng sử dụng đất thực tế, khắc phục tình trạng quy hoạch treo.
Thành phố có chiến lược và chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Kết luận
Đất đai có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, liên quan trực tiếp đến nhiều yếu tố chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội. Vì thế việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai là công việc hết sức quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền với toàn thể nhân dân, ngày càng hoàn thiện chính sách pháp luật, đưa pháp luật đất đai vào đời sống, kiện toàn bộ máy quản lý đảm bảo sự hài hoà trong phát triẻn kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động đi đôi với phát triển bền vững. Hà Nội là thành phố có tốc độ đô thị hoá cao, nơi thu hút nhiều vốn đầu tư, được sự quan tâm trực tiếp của Đảng và Nhà nước. Do đó trong thời gian hiện nay và trong thời gian sắp tới áp lực công tác quản lý sử dụng đất đai ở thành phố Hà Nội là rất lớn. Việc tăng cường công tác quản lý đất đai ở Hà Nội là hết sức phức tạp, đòi hỏi các biện pháp giải quyết thật khéo léo để phát triển toàn diện kinh tế – xã hội của toàn thành phố.
Trong thời gian hiện nay, tình hình biến động đất đai của thành phố Hà Nội đã có một số thay đổi khác nữa như sự thành lập thêm 2 quận mới là Long Biên và Hoàng Mai, nhưng vì nguồn số liệu chưa đầy đủ nên trong đề án này em chưa phân tích theo xu hướng mới này được. Do đó mặc dù đã rất cố gắng nhưng đề án của em vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng cảm ơn đối với cô giáo Thạc sĩ Trần Thị Dương Ngân đã giúp đỡ em hoàn thành bài đề án môn học này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình quản lý đô thị – NXB thống kê, năm 2003, chủ biên: GS.TS. Nguyễn Đình Hương – THS. Nguyễn Hữu Đoàn
Giáo trình kinh tế đô thị – NXB giáo dục, năm 2002, chủ biên: GS.TS. Nguyễn Đình Hương – THS. Nguyễn Hữu Đoàn
Tạp chí địa chính
Tạp chí quản lý nhà nước
Tạp chí xây dựng
Luật Đất đai 1993
Luật Đất đai 2003
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33654.doc