Đề án Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Vịêt Nam sang thị trường Mỹ

Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt nam, đã có những bước tiến vượt bậc trong xuất khẩu thời gian qua. Năm 1999, xuất khẩu thuỷ sản được xếp thứ 19 về tổng sản lượng xuất khẩu, thứ 29 về kim ngạch và thứ nhất về tốc độ tăng trưởng thuỷ sản thế giới. Những năm đầu của thế kỷ XXI còn nhiều trở ngại và thách thức trong việc đưa ngành thuỷ sản Việt nam nhanh chóng hội nhập khu vực và thế giới. Thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại được ký kết. Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường Mỹ, tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩu Chỉ có như vậy, những cơ hội kinh doanh mở ra cho xuất khẩu Việt nam mới được nắm bắt kịp thời.

doc30 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Vịêt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỗ trợ về tài chính cho hoạt động thương mại. Tháng 12- 2002, Mỹ đã cấp khoản bảo lãnh tín dụng ngắn hạn cho nhập khẩu nông sản trị giá 25 triệu USD. c. Thực hiện hiệp định thương mại Việt_ Mỹ đã góp phần hoàn thiện bước đầu về tổ chức hoạt động kinh doanh, hoàn thiện môi trường pháp luật. Qua hơn một năm thực hiện nội dung bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã được chú ý cả ở các cơ quan quản lý lẫn doanh nghiệp, hoạt động của lực lượng quản lý thị trường kiểm tra chống sao chép lậu phần mềm, kiểu dáng công nghệ tăng lên, việc đăng ký sở hữu công nghiệp , nhất là thương hiệu năm 2002 tăng khoảng 30% so với năm 2001 cho thấy tác động và sức ép của thực tiễn buộc doanh nghiệp phải tiếp tục hoàn thiện các hoạt động này. Theo một quan chức của bộ tư pháp, để thi hành hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có 24 văn bản pháp quy phải sửa đổi, bổ sung hoàn thiện; huỷ bỏ 9 văn bản pháp quy; phải ban hành mới 39 văn bản pháp quy. Tuy khó, song đây là điều cần thiết đem lại lợi ích lâu dài cho việc thực hiện chủ trương hội nhập. III. Thị trường thuỷ sản Mỹ, cơ hội và thách thức đối với ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ 1. Thị trường thuỷ sản Mỹ: Mỹ là thị trường lớn gồm 50 tiểu bang riêng biệt, có cơ cấu địa lý, điều kiện tự nhiên khác nhau, có nhiều chủng tộc, màu da, sinh sống với những thói quen, tập quán khác nhau, được chia thành nhiều tầng lớp có địa vị xã hội và thu nhập khác biệt khá rõ. Với một cơ cấu thị trường phức tạp như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên nghiên cứu kỹ để khai thác hiệu quả, tránh hoạt động dàn trải. Các doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn thị trường, mặt hàng , ngành hàng có thế mạnh gia nhập nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và khả năng cạnh tranh, làm nền tảng cho các hoạt động sau này. Việc nghiên cứu thị trường không thể chỉ thực hiện trong vòng một hay hai tuần tham quan mà cần có những phân tích, nghiên cứu kỹ và sâu. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm kiếm thông tin qua các trung tâm xúc tiến thương mại hoặc tư vấn trên đất Mỹ. Tuy vậy, Mỹ là một thị trường còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nên khả năng rủi ro xảy đến với các doanh nghiệp khi xuất hàng sang Mỹ cũng lớn hơn so với các thị trường khác. Thách thức lớn nhất đang đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là hệ thống pháp luật vô cùng phức tạp của Mỹ. Những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng nhập khẩu là những trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam và nếu không có sự nỗ lực cao, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dễ vượt qua rào cản này. Việc tìm hiểu những quy định liên quan đến xuất nhập khẩu trong luật kinh doanh của Mỹ, cung cách làm ăn và tác phong của thương nhân Mỹ sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam tính toán, cân nhắc và có quyết định đúng đắn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ cũng như hợp tác kinh doanh với các công ty của Mỹ có hiệu quả cao và hạn chế rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro trên thị trường Mỹ,các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý một số vấn đề sau: - Tìm hiểu và nắm vững hệ thống pháp luật của Mỹ. - Xác định khả năng của đối tác. - Tìm hiểu tập quán kinh doanh của thương nhân Mỹ. - Chú ý các thủ tục xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Về thuỷ sản, với một lượng dân số lớn, lại có mức sống cao, nước Mỹ hàng năm tiêu thụ hàng triệu tấn thuỷ sản các loại. Theo số liệu của Viện Nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI), mức tiêu thụ thuỷ sản thành phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thuỷ sản, là một trong 10 nước có lượng thuỷ sản cao nhất thế giới, hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thuỷ sản. Bên cạnh đó, Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, với những thu nhâp rất khác nhau nên người tiêu dùng có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đắt tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Hơn nữa để bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, Mỹ chủ trương tăng nhập giảm xuất. Chính vì lẽ đó mà Mỹ là một thị trường để xuất khẩu thuỷ sản rất hấp dẫn. Nói tóm lại, phân tích thị trường thuỷ sản Mỹ cho thấy: - Đây là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 thế giới (chiếm 16,5% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản thế giới), nghiêng về các mặt hàng cao cấp giá đắt và giá trung bình, chủ yếu là tôm đông, cá hồi, cá ngừ, cua, tôm hùm, cá nước ngọt; - Nguồn nhập: Chủ yếu từ các nước Đông Nam A, Đông A, Canada và một số quốc gia Mỹ La Tinh (Mêhicô, Chilê, Equađo). Trong đó chỉ có khoảng 20 nước có giá trị xuất khẩu vào thị trường Mỹ từ 100 triệu USD trở lên, Canađa và Thái Lan chiếm tỷ trọng lớn nhất; - Tiêu thụ thuỷ sản ở Mỹ phụ thuộc nhiều vào tình trạng kinh tế, mức thu nhập của tiêu dùng Mỹ trong tương lai; - Hệ thống phân phối thuỷ sản của Mỹ gồm kênh bán sỉ (các công ty kinh doanh thuỷ sản hàng đầu) và bán lẻ (qua các hệ thống siêu thị, cho các nhà hàng, nhà ăn công cộng, phục vụ ăn nhanh và cho các tiệm ăn của cộng đồng nước ngoài). 2. Ngành thuỷ sản Việt Nam, cơ hội và thách thức: 2.1. Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu: Quán triệt đường lối phát triển kinh tế -xã hội của Đảng trên tinh thần tiếp tục đẩy nhanh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế –xã hội đề ra, đảm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập được với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng ngành thuỷ sản Việt nam đã lấy xuất khẩu làm động lực phát triển , coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường các nước có nền kinh tế phát triển cao (Bắc Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc và Mỹ ) là các thị trường chính. Chủ trương này được thể hiện cụ thể trong các vấn đề sau: - Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước bằng việc tằng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. - Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá và hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển thuỷ sản và áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại tiên tiến và thích hợp, nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát triển những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Nguồn lợi hải sản tự nhiên của Việt nam đã bị khai thác quá mức đối với vùng ven biển và gần bờ, phần gia tăng sản lượng khai thác chỉ có thể trông cậy vào việc khai thác xa bờ, nhưng sự khai thác này cũng chỉ có giới hạn do tính hiệu quả không cao. Do vậy phương án được lựa chọn là chỉ giữ sản lượng khai thác của nước ta ổn định ở mức 1.200.000 á 1.400.000 tấn, với việc giảm sản lượng khai thác vùng ven biển và gần bờ đồng thời tăng dần sản lượng khai thác ở các vùng biển xa bờ để bù đắp số sản lượng bị suy giảm do hạn chế dần việc khai thác gần bờ. Nuôi trồng thuỷ sản sẽ trở thành ngành sản xuất nguyên liệu chủ yếu và sản lượng của ngành nuôi trồng phải vươn lên chiếm khoảng 60% tổng sản lượng thuỷ hải sản trong tương lai. Những chỉ tiêu định hướng của ngành thuỷ sản đến năm 2010 được hoạch định như sau: Không tăng sản lượng khai thác trong các thời kỳ 2003- 2010, giữ mức dao động xung quanh 1.400.000 tấn/ năm( ở đây chỉ tính riêng cho cá mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10%-15%. Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10%-15%/ năm , trong giai đoạn 2000 – 2005 tăng khoảng 12%-15%, giai đoạn 2005-2010 tăng khoảng 10%-12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0-3,5 tỷ USD( năm 2005) và 4,5 –5 tỷ USD năm 2010. Thể hiện ở bảng 1: Bảng 1 Năm Đề mục 2003 2005 2010 I.Tổng sản lượng (tấn) Trong đó: Sản lượng nuôi ( tấn) Thuỷ sản nước ngọt Tôm Cá biển Nhuyễn thể Thuỷ sản khác sản lượng khai thác( tấn) Khai thác gần bờ. Khai thác xa bờ. Bao gồm: Sản lượng cá. Sản lượng mực. Sản lượng tôm II. Kim ngạch xuất khẩu( nghìn USD) 2.490.000 1.090.000 568.720 213.270 53.057 175.355 79.598 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 2.300 2.550.000 1.150.000 600.000 225.000 56.000 185.000 84.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 3.000 3.400.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 4.500 Để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển tăng khả năg phục hồi tự nhiên của các nguồn lợi biển nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển cao, phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu cần tiến hành các hoạt động sau: - Đánh bắt thuỷ sản: để phát triển lâu dài và ổn định nguồn nguyên liệu đánh bắt, Việt nam cần tăng cường đầu tư vào điều tra có hệ thống các nguồn lợi thuỷ sản, xây dựng bản đồ phân bố biến động các đàn cá trên các ngư trùng, phát triển các đội tàu công suất lớn, trnag thiết bị và đào tạo kx thuật đánh bắt cá đại dương làm cơ sở cho đánh xa bờ, kỹ thuật bảo quản, mở rộng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đánh bắt. - Nuôi trồng thuỷ sản:phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản nước lợ với việc ưu tiên chiến lược cho nuôi phục vụ xuất khẩu, nhất là nuôi tôm, cá biển và nhuyễn thể. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, tăng giá trị xuất khẩu. Cần chú ý xây ựng các trại giống thuỷ sản,nhà máy sản xuất thức ăn, cải tạo và hiện đại hoá các vùng nuôi trồng quảng canh và bán thâm canh, phát triển cacs vùng nuôi trồng công nghiệp, phát triển công nghệ và đa dạng hoá nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn , nước lợ, phòng chống sẽ là những trọng điểm mà ngành thuỷ sản cần quan tâm trong vài năm tới. - Chế biến thuỷ sản xuất khẩu: Đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho xuất khẩu, đồng thời phải đầu tư cho chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế (HACCP). Việc xây dựng các nhà máy chế biến hiện đại phải theo kịp tốc độ phát triển sản lượng thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, phải giảm dần tỷ lệ xuất khẩu thuỷ sản thô tránh hiện tượng lãng phí nguồn lợi thuỷ sản do yếu kém trong khâu này. - Mở rộng thị trường xuất khẩu: Việt nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hợp tác giup đỡ về vốn, công nghệ, trong các lĩnh vực khai thác, chế biến thuỷ sản,đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm quản lý và phát triển thị trường Công tác Marketing quốc tế cho lĩnh vực thuỷ sản luôn càn có sự tham gia tích cực của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ thương mại như tổ chức và tham gia các hội chợ thương mại về thuỷ sản tại Việt nam hay tại các thị trường tiềm năng (EU, Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc) nhằm giới thiệu các sản phẩm thuỷ sản Việt nam. - Các chính sách của Chính phủ: Chính phủ cần sớm hoàn thiện các luật và chính sách bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển lĩnh vực thuỷ sản; các chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm xuất khẩu Với lợi thế tự nhiên to lớn và sự quan tâm của chính phủ cùng sự năng động chung của toàn bộ nền kinh tế, ngành thuỷ sản Việt nam có đủ khả năng để đứng trong hàng ngũ 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới vào năm 2010 2.2. Khái quát ngành thuỷ sản Việt Nam: Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lạch và 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo vịnh đảm bảo cho nguồn tài nguyên thuỷ hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam có khả năng tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển tương đối sạch. Do đó, hải sản Việt Nam được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ – một ưu điểm hàng đầu trên thị trường thuỷ sản thế giới hiện nay. Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng lớn khoảng 1 triệu km, tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu, trong đó có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết... 2.2.1. Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản: Tổng sản lượng thuỷ Việt Nam tăng 2,2 lần giai đoạn 1985 – 1999, trong đó hải sản đánh bắt tăng hơn 2 lần và thuỷ sản nuôi trồng tăng 2,6 lần. (Bảng 2) Bảng 2: Sản lượng thuỷ sản Việt Nam Đơn vị: 1000 tấn 1985 1990 1995 1999 Đánh bắt 580 710 930 1200 Nuôi trồng 230 310 415 610 Tổng sản lượng 810 1020 1345 1810 Nguồn: Bộ Thuỷ sản Trong năm qua tổng thu nhập ngành thuỷ sản tăng với tốc độ trung bình 8%, giải quyết việc làm cho hơn 3,5 triệu lao động trong đó có 650 nghìn ngư dân. Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có 385 ngàn ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì đến năm 1999 đã tăng lên 630 ngàn ha trong đó 340 ngàn ha mặt nước ngọt và 290 ngàn ha mặt nước lợ, mặn với nhiều loại thuỷ sản phong phú: tôm,cá, nhuyễn thể, cua, rong biển... và với nhiều hình thức nuôi đa dạng: nuôi ao, hồ, ruộng trũng, lồng trên sông, trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn...Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển Nam Bộ (gần 80%). Kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 1999 đạt 985 triệu đô la (chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam hay gần 2% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới) tăng gần 10 lần so với năm 1986. Bảng 3: Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1986 – 2000 1986 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch (tr. USD) 102 205 262 305 368 458 550 670 780 858 985 1000 Tốc độ tăng trưởng (%) 101 28 16 20 24 20 21 15 10 14 Nguồn: Bộ thuỷ sản. Năm 1999, tổ chức lương thực thế giới đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ 4 trong các nước ASEAN về xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới 64 nước trên thế giới. Ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng và cạnh tranh mạnh mẽ với Thái Lan,Inđônêxia và Malayxia tại hầu hết các thị trường truyền thống của những nước này nhờ những ưu thế về sản phẩm sạch ít bị ô nhiễm, giá cả thấp... 2.2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu: Nhật Bản – thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới – là thị trường số 1 của ngành thuỷ sản Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản trong 10 tháng đầu năm 2000 đã tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm 1999, đưa thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản chiếm 45% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trưòng châu A khác như Trung Quốc (Hồng Kông), Hàn Quốc, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm gần 21% thị phần xuất khẩu. Thi trqờng xuất khẩu đứng thứ 3 là Mỹ tiếp tục Tăng trưởng nhanh chóng trong 3 năm qua và chiếm hơn 14% tổng kim ngạch vào năm 1999. Trong những tháng đầu năm 2000, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào EU đã giảm khoảng 8% giá trị so với cùng kỳ năm 1999 và chỉ chiếm gần 6% tổng kim ngạch. Tuy nhiên, với việc được công nhận trong danh sách một trong các nước xuất khẩu vào EU, buôn bán thuỷ sản Việt Nam sang thị trường này sẽ có những thuận lợi lớn trong thời gian tới. Biểu 1: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2000 2.2.3. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu: Mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tôm các loại như: tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 80 ngìn tấn tôm các loại đạt 520 triệu đô la). Mực và cá chiếm 17% và 15,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Biểu 2: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 1999 Sự gia tăng mức sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua là nhờ sự năng động của khu vực tư nhân và những chính sách khuyến khích rất có hiệu quả của chính phủ Việt Nam. 2.3. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ: Qua việc phân tích những đặc điểm thị trường Mỹ và ngành thuỷ sản Vịêt Nam cho ta thấy ngành XKTS Việt Nam sang Mỹ đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp XKTS Việt Nam phải hết sức cố gắng để phát huy lợi thế, vượt qua khó khăn cho một thời kỳ phát triển. Thứ nhất, khi hiệp định thực thi có hiệu lực, Việt nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường. Chúng ta đều biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự qua tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương mại chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá Việt nam xâm nhập thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ, đặc biệt là hàng hoá Việt nam phải chịu mức thuế rất cao. Khi Hiệp định có hiệu lực, các trở ngại trên bị rỡ bỏ,các doanh nghiệp Việt nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ bởi lẽ Việt nam có được đối xử Tối huệ quốc (được hưởng điều kiện thương mại bình thường) từ phía Mỹ trong đó quan trọng là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể . Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Singapo, Thái Lansẽ tăng cường đầu tư vào Việt nam vì hàng hóa sản xuất tại Việt nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bản thân các nhà đầu tư Mỹ cũng sẽ vào Việt nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá rồi xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ và các nước khác. Thứ ba, tạo điều kiện tiền đề cho Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đặc biệt là hiệp định thương mại có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế . Thứ tư, thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước đặc biệt là đổi mới cơ chế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt nam theo lộ trình của Hiệp định đã ký sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như các nguyên tắc, quy định của Mỹ. Bên cạnh những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt- Mỹ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất, việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển nhưng Việt nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%. Thứ hai, tiêu chuẩn chất lượng các mặt hàng Việt nam xuất vào các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức ,Nhật, Hoa Kỳ, đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng thuỷ sản Việt nam không những thế hàng hoá Việt nam sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Indonesia và Canada, trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam về cả ba phương diện: chất lượng, giá cả và mẫu mã hầu như còn rất yếu. Thứ ba, khi thực hiện NTR (quan hệ thương mại bình thường), các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt nam, được hưởng các ưu đãi về nhập khẩu những nguyên liệu để sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khi đó các doanh nghiệp Mỹ và hàng hoá do Mỹ sản xuất ra sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá do Việt nam sản xuất ra bởi Mỹ có vốn lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến... Thứ tư, để doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt nam phải làm quen với các tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Mỹ. Đây là một quốc gia có hệ thống pháp luật, chích sách thương mại khá rắc rối và phức tạp . Bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994, với những cơ hội và thách thức như vậy, trải qua môt thời gian dài, ngành thuỷ sản Việt Nam thực tế đã đạt được những thành tựu nhất định và cũng gặp một số vướng mắc cần giải quyết. Ta hãy xem xét tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ thời gian qua để thấy rõ điều này. Chương II Thực trạng xuất khẩu của thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian qua I - Đánh giá chung tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào một số thị trường lớn: Ngành thuỷ sản Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển và phát triển mạnh từ năm 1995 trở lại đây. Sản lượng khai thác được ngày càng tăng, nhịp độ phát triển trung bình giai đoạn 1996 - 2000 là 12,3% với sự xuất hiện của nhiều nhà máy chế biến có năng lực đủ khả năng xuất khẩu sang các nước trên Thế giới. Đến nay, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có mặt trên 60 nước trên Thế giới. Trước đây thị trường Nhật Bản thường chiếm 50 - 60% xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, nay chỉ còn dưới 30% và Hoa kỳ vươn lên thay thế Nhật Bản, trở thành thị trường thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. Thị trường Trung Quốc nổi lên là thị trường thứ ba đầy hứa hẹn đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Năm 1999 thị trường Trung Quốc chiếm 12,4% xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, năm 2000 tăng lên 15% và 2001 đạt 18%). Thị trường EU là khu vực thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất Thế giới hiện nay, nhưng là thị trường khó tính nên mặc dù những nỗ lực xúc tiến xuất khẩu rất lớn từ cả phía Nhà Nước và Doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đến nay mới chỉ có 68 doanh nghiệp đủ điều kiện để xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Trong số các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, Tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản hàng năm của Việt nam nhưng đang có xu hướng giảm và tăng các sản phẩm thuỷ sản khác lên. Ngoài ra, Cá Tra, Cá BaSa.... của Việt Nam đã giành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu sang Mỹ. Đây là một lợi thế lớn. Nhìn chung, thời gian qua xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất khả quan: Tăng trung bính 20% từ năm 1990 đến nay, là một trong số 20 nước đánh bắt thuỷ sản lớn nhất Thế giới và đứng thứ 25 trong hàng ngũ các nước xuất khẩu thuỷ sản trên Thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam còn bộc lộ một số tồn tại như: Thị trường xuất khẩu ( tiều tụy, tuy có khả năng nhưng không ổn định), mặt hàng chủ yếu ở dạng sơ chế, giá cả mạng lưới phân phối... II – Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ: 1 - Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ: Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, những lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam đẫ có mặt trên thị trường Mỹ với kim ngạch 6 triệu USD. Từ đó trở đi cho đến tháng 7/2000, mặc dù chưa ký kết được hiệp định Thương maị Việt - Mỹ, nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn tăng đều đặn qua các năm và tăng đột biến vào những năm 1995, 2000. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu lên tới 80 triệu USD (tăng gấp 14 lần so với năm 1994) và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập từ Việt Nam 130 triệu USD thuỷ sản các loại. Sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường Mỹ rất mạnh. Năm 2000 giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ đạt 298,22 triệu USD (tăng gấp 2,32 lần năm 1999). Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vào Mỹ là 523,6 triệu USD (gấp 3,62 lần năm 1999 và tăng 35,66% so với năm 2000). Năm 2001 Mỹ đã vượt Nhật Bản và trở thành nước nhập khẩu hàng thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. Cho đến năm 2002 xuất khẩu thuỷ sản của chúng ta đã trải qua một cuộc bứt phá ngoạn mục với kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản ra Thế giới là 2 tỷ USD trong đó xuất khẩu sang Mỹ là 631,2 triệu USD. Tóm lại, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm từ trước Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến nay. Điều đó được thể hiện ở bảng sau: Bảng 4: Năm Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng Kim ngạch XK Tỷ lê (%) 1994 5,78 - - 1995 19,498 13,71 237,2 1996 33,988 14,49 74,3 1997 39,83 5,85 17,2 1998 80,20 40,39 101,3 1999 129,50 49,30 61,5 2000 298,22 168,72 130,2 2001 523,6 225,58 75,6 2002 631,2 107,6 20,5 (Nguồn: Bộ thuỷ sản) 2 - Về cơ cấu: Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhiều loại thuỷ sản khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú về mặt hàng thủy sản ở Mỹ. Trong đó Tôm vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Theo số liệu thông báo của Hải quan Mỹ thì năm 2001 Việt Nam chỉ đứng thứ nhì sau Thái Lan với khối lượng trên 32.000 tấn và đạt giá trị là 417,8 triệu USD. Kế đến là mặt hàng cá BaSa, cá Tra, đứng thứ ba là cá Ngừ và thứ tư là các "sản phẩm khác",bao gồm cá PhiLê đông, Cua tươi, Cá biển đông, cá nước ngọt...Cơ cấu giá trị xuất khẩu bốn loại thuỷ sản trên đây của Việt Nam vào Mỹ năm 2001 tương ứng như sau: Tôm: 79,8%; Cá Tra, cá Ba Sa: 4,5%; Cá Ngừ: 4,1%; Các sản phẩm khác: 11,6%; Theo thống kê của Mỹ, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại sản phẩm khác nhau và những mặt hàng trên là những thế mạnh của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ. Mặt hàng Tôm của Việt Nam đang xuất khấu vào Mỹ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao, nó có ưu thế so với một số nước về kích cỡ sản phẩm, có uy tín về chất lượng đối với người tiêu dùng. Hiện nay, nhu cầu xuất khẩu Tôm vào Mỹ còn rất lớn, nước ta có thể tăng xuất khẩu vào Mỹ bằng cách: Các cơ sở chế biến trong nước không ngừng nâng cao năng lực chế biến phục vụ xuất khẩu. Chuyển dịch khối lượng đang xuất khẩu vào những thị trường có giá trị xuất khẩu bình quân thấp hơn sang thị trường Mỹ, nơi có giá trị xuất khẩu cao hơn. Cá Tra và cá ba sa đã dành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng xuất khẩu loại cá này vào Mỹ. cùng với chất lượng cá chắc chắn lượng cá Tra, cá Ba Sa của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Việt Nam có vùng đồng bằng Sông Cửu Long có điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho sự phát triển của cá Ba Sa. Theo Bộ thủy sản, mặc dù xảy ra tranh chấp thương hiệu cá Ba sa giữa Mỹ và Việt Nam nhưng năm 2001 sản lượng cá xuất khẩu vào Mỹ vẫn tăng gấp đôi so với năm 2000, từ 14.000 tấn (trị giá 42 triệu USD) lên 31.000 tấn (trị giá 78 triệu USD). Đây là một con số rất đáng mừng của của xuất khẩu cá Ba sa trên thị trường Thế giới của nước ta. Tuy nhiên ta cũng nhận thấy một thực trạng là cơ cấu hàng thủy sản Vịêt Nam xuất khẩu vào Mỹ đang vẫn tồn tại tình trạng mất cân đối. Mỹ là thị trường có nhu cầu lớn các mặt hàng cao cấp tinh tế (Tôm luộc, Tôm bao bột, Tôm Hùm, cá Phi Lê đóng hộp...), trong khi hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế tỷ lệ giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm 30% giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Ngay cả Tôm là mặt hàng quan trong nhất thì vẫn có đến 80% xuất khẩu dưới dạng sơ chế. Bên cạnh đó, thủy sản mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là thủy sản thực phẩm, còn các loại thủy sản phi thực phẩm như: Thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá... còn rất ít trong khi nhu cầu những sản phẩm này trên thị trường Mỹ là rất lớn. 3 - Về chất lượng và giá cả: Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thủy sản của ta là có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị Tôm ngọt tự nhiên ngon hơn Tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Inđônêsia, nên thường được bán với giá cao hơn. Thí dụ năm 2000, mặc dù Việt Nam chỉ xuất khẩu 15.000 tấn Tôm nhưng giá trị rất cao 224 triệu USD. Trong khi đó Ân Độ xuất khẩu những 26.000 tấn mà chỉ thu được 223 triệu USD. Tính ra thì 1kg Tôm của Việt Nam được bán với giá: 14,935 USD. Của Mêhicô là: 13,961 USD. Của Thái Lan là: 11,895 USD. Của ấn Độ là: 8,076 USD. 4 - Về phương thức xuất khẩu: Các lô hàng thủy sản của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu bán cho các nhà thương mại bán buôn của Mỹ (giá FOB). Sau đó mới được cung cấp cho các nhà chế biến và hệ thống kinh doanh bán lẻ của Mỹ. 5 - Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc đặc biệt là năm 2001. Tuy nhiên thị trường tiềm năng này cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Thứ nhất, các mặt hàng thuỷ sản của ta xuất khẩu vào Mỹ chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao trong khi với hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu Mỹ có nhu cầu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá philê, hộp thuỷ sản ). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (chiếm 90% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể ( 5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản (thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá ), ngọc trai, cá cảnh(giá trị nhập khẩu của Mỹ năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta chỉ mới chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói là chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thứ hai, tuy hàng hoá Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường, nhưng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức đối với nhiềi địch thủ trên thị trường Mỹ. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như: Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản) Trung Quốc ( tôm đông, cá rô phi), Canada ( tôm hùm, cua), Indonesia (cua,cá ngừ, cá rô phi), Philippin (hộp cá ngừ, cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển) nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam còn rất yếu, theo phòng thông tin và công nghiệp Việt nam thi trong hai ngành mà Việt nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ là thấp: chỉ có khoảng 50 trong tổng 3000 thành viên của hiệp hội dệt may và 60 –70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực cạnh tranh này. Không những thế các sản phẩm về cá của thuỷ Việt nam lại gặp phải sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt đó là các loại cá nheo hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt xuất khẩu của ta. Hơn nữa thị trường Mỹ qúa xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên trở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh từ Mỹ sang Việt nam tăng lên, không những thế thời gian vận chuyển đã làm cho hàng tươi sống giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng lên, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ so với các nước Châu Mỹ la tinh. Điều đó đã làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam bị giảm sút nhiều và không đạt được hiệu quả như mong muốn vì giá thấp. Thứ ba, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đã đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Mỹ khắt khe hơn so với nhiều thị trường khác, từ sau 18-12-1997 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. Theo quy định này hàng nhập vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập chung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống quy phạm sản xuất ( GMP ) và các yếu tố vệ sinh (SSOP). Luật quy định về nhãn hiệu lực từ 8-05-1994 áp dụng các quy định về dán nhãn đồ hộp cá, các sản phẩm tôm và các yếu tố thông báo về chất lượng và các tiêu chuẩn khác. Bên cạnh đó, lấy lý do là bảo về nguồn lợi thiên nhiên và môi trường thế giới nói chung nên Mỹ còn đưa ta các rào cản kỹ thuật nhằm gây ra khoa khăn cho các nhà xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Thí dụ, với một số nước như Thái Lan, ấn Độmuốn xuất khẩu được thuỷ sản vào Mỹ doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận công nghệ đánh bắt không mang tính huỷ diệt các hải sản quý hiếm hoặc quy trình nuôi không gây ô nhiễm môi trường xung quanhĐây chính là những vấn đề mà Việt nam cần phải nghiên cứu vì trước sau Mỹ cũng sẽ áp dụng những quy định này đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam . Thứ tư, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam về thị trường Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Với 50 tiểu bang riêng biệt với hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại: luật liên bang và luật của từng bang sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính vì vậy, nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì doanh nghiệp Việt nam sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: luật chống độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh sẽ phạt tiền đền 1 triệu USD hoặc tù 3 năm đối với tư nhân. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. Các doanh nghiệp Việt nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng , xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ sản , yếu về công tác Marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay chỉ có một số doanh nghiệp là tham gia hội chợ thuỷ sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt nam có văn phòng đại diện tại Mỹ . Trong khi đó các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Mỹ đều đã thiết lập các văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, hàng hoá của nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thông thuế của Mỹ (gọi tắt là HTS) hiện không được thi hành ở Mỹ mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng. Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế xuất biến động từ 1%-40% trong đó mức thông thường từ 2%-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng hoá phải chịu thuế gộp tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng Thứ sáu, mặc dù đã có những cố gắng và đạt kết quả tương đối tốt hiện nay ngành thuỷ sản Việt nam vẫn còn vấn đề cần giải quyết như: khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống, thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến vẫn còn 2/3 số doanh nghiệp co quy mô vưa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm. Công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu do đó không đảm bảo được chất lượng phục vụ cho xuất khẩu . Như vậy chúng ta phải có công nghệ tiên tiến có lượng vốn lớn. Giải quyết vấn đề vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia đặc biệt là những nước nghèo và những nước đang phát triển như Việt nam hiện nay. Tóm lại, Mỹ là một thị trường đầy triển vọng, đồng thời các mặt hàngthủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có khả năng cạnh tranh tương đối cao ở các khía cạnh chủ yếu như: Chất lượng sản phẩm, quy cách sản phẩm, giá cả xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều đột phá đáng kể vào thị trường này. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những khó khăn và yếu kém như: Các mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu dưới dạng sơ chế, một số chưa đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, kinh nghiệm làm ăn với Mỹ thấp, tính cạnh tranh kém nguyên nhân là do: - Nguyên nhân khách quan: + Thị trường Mỹ quá xa, quá rộng lớn, hệ thống pháp luật của Mỹ qua phức tạp đặc biệt là những quy định khắt khe về chất lượng, vệ sinh an toán thực phẩm; + Tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao; + Việt Nam vào thị trường Mỹ chậm hơn các đối thủ khi thị trường đã ổn định. - Nguyên nhân chủ quan. + Sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đưa vào Mỹ chủ yếu là hàng sơ chế dạng thô, không đa dạng về hình thức chủng loại; + Trình độ công nghệ trong chế biến, bảo quản hạn chế; + Khả năng cung cấp chưa lớn; + Kênh phân phối chưa nhiều và chưa đồng bộ; + Các yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển ổn định và lâu dài còn nhiều hạn chế. Chương III Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ I – Dự báo một số khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm tới: Thị trường thuỷ sản thế giới nếu mở rộng 5%/năm có khả năng đạt trên 83 tỷ USD vào năm 2005 và trên 1000 tỷ USD vào năm 2010 nếu khi đó thị phần của Việt nam vẫn duy trì là 1,5% xuất khẩu của thế giới thì chúng ta có khả năng cung cấp cho thị trường thế giới 3 tỷ USD vào năm 2005 và khoảng 5 tỷ USD vào năm 2010. Theo kế hoạch năm 2003 ta phấn đấu đạt 2,3 tỷ USD. Với thị trường Mỹ trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt nam là việc đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn hàng thuỷ sản theo điều kiện HACCP. Được biết trong số 320 cơ sở chế biến thuỷ sản quy mô công nghiệp chỉ có 124 cơ sở (38,75%) đạt an toàn thực phẩm, 68 cơ sở (21,25%) được phép xuất khẩu sang Mỹ, 128 cơ sở(40%) áp dụng trương trình HACCP. Mặt khác ở nhiều cơ sở việc áp dụng HACCP vẫn mang tính hình thức, chính vì vậy vẫn tiếp tục tái diễn tình trạng hàng bị thị trường Mỹ trả về và bị cảnh báo do nhiễm khuẩn, vi sai nhãn, chứa kháng sinh bị cấm Ba tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 434,5 triệu USD đạt gần 19% kế hoạch. Khó khăn hiện nay mà ngành thuỷ sản gặp phải là sức mua của thị trường Mỹ giảm do la ngại vụ kiện tôm dễ xảy ra, các nhà nhập khẩu Mỹ đã mua một lượng khá lớn vào những tháng cuối năm 2002. Trước cuộc trao đổi vớiVNNet thị trưởng bộ thuỷ sản bà Nguyễn Thị Hồng Minh nhận định, chiến tranh Irac xảy sẽ ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vì người dân Mỹ sẽ mua lương thực dự trữ và tiêu dùng ít thuỷ hải sản đồng thời việc vận chuyển hàng sang thị trường Mỹ cũng có nhiều biến động. II - Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Với phương pháp tiếp cận khoa học, đi từ cái tổng thể đến cái chi tiết, các giải pháp được đưa ra trên cơ sở kết hợp giữa một số dự báo khả năng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ thời gian tới với những phân tích đánh giá tình hình xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ thời gian qua: 1. Giải pháp mang tầm vĩ mô . Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nề kinh tế tới nay chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được đề ra trong các văn kiện của đảng, mục tiêu của Đảng. Mục tiêu của đảng , chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế trong đó đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu và ngành thuỷ sản được quan tâm với thị trường tiềm năng là Mỹ. Để đạt được mục tiêu mở rộng thị phần, đem lại nguồn thu lớn hơn nữa trong việc xuất khẩu thuỷ sản, chính sách vĩ mô ở đây là: - Bảo vệ và mở rộng nguồn nguyên liệu thuỷ sản: Nhà nước và Bộ thuỷ sản cần có chính sách giải pháp kịp thời, hiệu quả để tăng nguồn lợi thuỷ sản. Trước hết phải ban hành luật bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hỗ trợ vốn và kỹ thuật nuôi trồng cho nhân dân, phát triển lực lượng khai thác xa bờ. Tập chung vốn vào các khoản viện trợ ODA để nâng cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt ở những vùng cung cấp nguyên liệu chủ yếu. - Quy hoạch, quản lý thông nhất hệ thống chế biến thuỷ sản : giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là Bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư cho lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản . - Thực hiện chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp thuỷ sản mở rộng quy mô sản xuất mở rộng thị trường kinh doanh. Thực hiện chế độ ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để khuyến khích tái đầu tư, cho trích một phần thuế xuất khẩu để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm với giá trị ngày càng tăng. Thành lập cơ quan thông tin tiếp thị thuỷ sản, cho phép ngành thuỷ sản trích một phần nào đó trong thuế xuất khẩu để thành lập quỹ xuất khẩu thuỷ sản . - Để ổn định và tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới trong đó đặc biệt là thị trường Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1999-2010 và chương trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn . 2. Giải pháp cấp doanh nghiệp . Khi chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thực hiện tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hướng xuất khẩu. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần, còn chủ yếu là sự vận động linh hoạt của các tổ chức, các doanh nghiệp trong chiến lược kinh doanh của đơn vị. Thực tế cho thấy tuy Việt nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng nhưng trình độ tay nghề kỹ năng kỹ sảo chưa cao. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này thì cần thiết phải thực hiện thật tốt chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn ngày, mở các cuộc thảo luận, hội thảo về các chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Trong khâu tuyển dụng, tuyển chọn phải đảm bảo tuyển đượch những nhân viên tốt nhất là về kỹ thuật, có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm cao. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu nó phải được coi là yếu tố đầu tiên quyết định thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp . Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và gia tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp Việt nam phải tìm hiểu kỹ thị trường Mỹ để nắm bắt được các nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần mở rộng các hình thức liên doanh hợp tác với các nhà đầu tư Mỹ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường Mỹ như thành công mà chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản trong những năm qua. Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ. Trước hết, phải giảm giá thành bằng cách giảm lượng nuôi trồng chết, giảp thất thoát sau thu hoạch, tận dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ để sản xuất các sản phẩm thuỷ sản phi thực phẩm, từng bước xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, phải tìm mọi cách để tiết kiệm chi phí đầu vào như : điện, nước, thông tin vận tảiđồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đầu tư ngay ở khâu đánh bắt, đảm bảo giống tốt và công nghệ nuôi trồng tiên tiến để đạt tiêu chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải đạt được tiêu chuẩn HACCP, khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn ISO9000đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào Mỹ. Cần chú ý rằng quan trọng nhất vẫn là an toàn vệ sinh thực phẩm bởi vì nếu chỉ chú tâm đến việc tìm mọi cách để giảm chi phí đầu vào tạo giá cạnh tranh trên thị trường Mỹ có thể lại dẫn đến tác dụng ngược tức bị mang tiếng là bán phá giá như các vụ kiện cá Basa gần đây/ Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản. Vai trò của tiếp thị là rất quan trọng nhất là với mội thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiêm cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại diện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản của Việt nam, từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới . Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua các vụ kiện trong thời gian vừa qua như: hiệp hội cá nheo Mỹ kiện không cho doanh nghiệp Việt nam sử dụng tên gọi Catfish đối với cá tra và cá Basa xuất khẩu vào Mỹ, vụ kiện Việt nam bán phá giá mặt hàng này và gần đây nhất là vụ kiện Việt nam bán phá giá cả tôm vào thị trường Mỹ cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật am hiểu về luật pháp của thị trường Mỹ cũng như luật thương mại quốc tế, mặt khác phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được các thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Bên cạnh đó, một sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. Kết luận Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt nam, đã có những bước tiến vượt bậc trong xuất khẩu thời gian qua. Năm 1999, xuất khẩu thuỷ sản được xếp thứ 19 về tổng sản lượng xuất khẩu, thứ 29 về kim ngạch và thứ nhất về tốc độ tăng trưởng thuỷ sản thế giới. Những năm đầu của thế kỷ XXI còn nhiều trở ngại và thách thức trong việc đưa ngành thuỷ sản Việt nam nhanh chóng hội nhập khu vực và thế giới. Thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại được ký kết. Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường Mỹ, tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩuChỉ có như vậy, những cơ hội kinh doanh mở ra cho xuất khẩu Việt nam mới được nắm bắt kịp thời. Với bề dày phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam trong thời gian qua, cùng với sự quan tâm của Chính phủ Việt nam đã luôn hoàn thiện những chính sách kinh tế nói chung và chính sách thương mại xuất nhập khẩu nói riêng theo hướng mở cửa thị trường, cộng với nỗ lực của Bộ, ngành và các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản mấy năm gần đây, trong tương lai chúng ta có quyền tin tưởng rằng ngành thuỷ sản Việt nam sẽ là mũi nhọn, thực sự vững vàng trong mọi sự cạnh tranh, đồng thời là ngành tiên phong của đất nước trong quá trình hội nhập, giao lưu theo xu hướng “ toàn cầu hoá” nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo 1.Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản, Hà Xuân Thông-Viện kinh tế và quy hoạch thuỷ sản Hà Nội. 2.Chương trình xuất khẩu thuỷ sản năm 2005, Bộ thuỷ sản ,Hà Nội 1998. 3.Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến năm2010, Bộ thuỷ sản Hà Nội 1999. 4.Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản . 5.Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào Mỹ- những vấn đề đang được đặt ra và các giải pháp, PGS.TS Hoàng Thị Chỉnh(ĐHKTQD)- Tạp chí kinh tế phát triển số 67/2003. 6.Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào thị trường Mỹ-cơ hội và thách thức. Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương (tạp chí thương mại số 8/1999). 7.Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu của Việt nam – Hải Yến- tạp chí thương mại số 7/2003. 8.Về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt nam trong thời gian tới. Tiến sĩ Lê Thị Anh Vân (ĐHKTQD)- tạp chí kinh tế và phát triển số 67/2003. 9.Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam trong quá trình hội nhập, PGS.TS Đặng Đình Đào (ĐHKTQD) và MBA. Đinh Văn Thắng (ĐH Công Đoàn)- Tạp chí kinh tế và phát triển . 10.Hoạt động thương mại Việt-Mỹ và tác động đế hoạt động xuất khẩu của Việt nam, Ngô Tất Thắng-tạp chí thương mại số 02/2002. mục lục Trang Phần 1: Lời mở đầu 1 Phần 2: Nội dung 3 Chương I: Những nét khái quát về xuất khẩu, thị trường thuỷ sản Mỹ, vị trí ngành thuỷ sản Việt Nam trong chiến lược hướng về xuất khẩu. 3 I – Những nét khái quát và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 3 II – Hiệp định thương mại Việt Mỹ trong tiến trình nhập kinh tế quốc tế: 5 III - Thị trường thuỷ sản Mỹ, cơ hội và thách thức đối với ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ 6 1. Thị trường thuỷ sản Mỹ 6 2. Ngành thuỷ sản Việt Nam, cơ hội và thách thức 8 2.1. Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu 8 2.2. Khái quát ngành thuỷ sản Việt Nam 11 2.2.1. Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản 11 2.2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 12 2.2.3. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 13 2.3. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 13 Chương II: Thực trạng xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ thời gian qua 16 I - Đánh giá chung tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào một số thị trường lớn 16 II – Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản củaViệt Nam vào Mỹ 17 1. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ 17 2. Về cơ cấu 18 3. Về chất lượng và giá cả 19 4. Về phương thức xuất khẩu 19 5. Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ 19 Chương III: - Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 23 I - Dự báo một số khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm tới 23 II - Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 23 1. Giải pháp mang tầm vĩ mô 23 2. Giải pháp cấp doanh nghiệp 24 Phần 3: Kết luận 27

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV073.doc
Tài liệu liên quan